Giáo dục Đức tin cho người Trẻ trong bối cảnh Đa tôn giáo

Nguyên tác: Educating Youth to the Faith in a multi religious context

LỜI TẠ ƠN

Tôi chân thành cám ơn mẹ Têrêsa vì những lời giới thiệu của mẹ cho quyển sách này và cũng cám ơn cha Luciane  Colussi vì sự quan tâm của Ngài trong việc xuất bản cuốn sách này. Đặc biệt tôi cám ơn cha J. Saldanha, S,J, cha D. Veliath, SDB và bà Chatterjee vì sự giúp đỡ của các ngài. Tôi cũng gởi lời cám ơn cách đặc biệt tới tỉnh Dòng Bombay, cách riêng cha Giám tỉnh khả ái Loddy Pires Sdb vì sự khích lệ của ngài!

GIỚI THIỆU

Cách tiếp cận trước tiên của chúng ta với giới trẻ ngoài Công giáo là cầu nguyện, dạy họ cầu nguyện. Kết quả của sự thinh lặng là cầu nguyện, kết quả của cầu nguyện là đức tin, kết quả của đức tin là tình yêu, kết quả của tình yêu là phục vụ và kết quả của phục vụ là bình an. Đây chính là việc giáo dục đức tin.

Qua trường học, nguyện xá và các việc tông đồ, chúng ta dạy cho giới trẻ ngoại giáo biết cách thức cầu nguyện. phải dạy cho chúng biết 10 điều răn và những quy luật luân lý tổng quát dựa trên 10 điều răn ấy.

Đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban. Chúng ta đã lãnh nhận đức tin qua gia đình, tức khi sinh ra chúng ta đã được rửa tội. Nhưng cuộc sống của mỗi người có thể thay đổi và chọn lựa những tôn giáo khác, niềm tin khác. Vì thế nếu những người ngoại giáo muốn trở thành người Công giáo, chúng ta hãy tiếp nhận họ

Chúng ta hãy nghiên cứu những tôn giáo khác, tôn trọng tất cả những gì là tốt và thánh thiện trong những tôn giáo khác. Chúng ta có thể học hỏi sự kiên trì cầu nguyện của họ. Chúng ta nỗ lực học hỏi ngôn ngữ của những người ngoại giáo, thích nghi với cách ăn mặc của họ và hãy tỏ sự cởi mở đối với họ. Cuộc đối thoại của chúng ta đối với người ngoại giáo, cách riêng giới trẻ phải là một “cuộc đối thoại bằng hành động”. giới trẻ không muốn nghe nhưng muốn thấy những hành động, việc cầu nguyện, tình yêu và đức tin của chúng ta. Họ đã nghe đủ rồi bây giờ họ muốn thấy. vì thế “đối thoại bằng hành động” nghĩa là trước hết cho phép chúng nhìn thấy đời sống chứng nhân, đức tin và việc làm của bạn. Thứ đến đối thoại bằng hành động tức là cho chúng cơ hội để làm việc. hãy để chúng làm việc với chúng ta. Thiên Chúa quyết định ai được cứu rỗi và ai không được cứu vì ơn cứu độ, sự cứu rỗi các linh hồn là việc của Ngài. Về phần chúng ta những người Kitô hữu, chúng ta phải nêu gương tốt, biểu lộ tình yêu Thiên Chúa và trao cho họ một “chiếc vé vào Thiên đàng”. Thiên Chúa vẫn quan tâm đến họ và sẵn sàng ban cho họ chiếc vé ấy.

Cách thức tốt nhất của việc giáo dục đức tin là trở nên đời sống đức tin. Chúng ta không thể cho điều chúng ta không có. Một đức tin sống động, một đức Kitô sống động, một cuộc sống gương mẫu là những cách thức hữu hiệu để giáo dục đức tin. Nếu những người ngoại giáo, đặc biệt giới trẻ không thấy nơi chúng ta một đức tin sống động thì làm sao chúng có thể tin tưởng công việc giáo dục đức tin của chúng ta?

Các tu sĩ và linh mục tỏ cho thấy họ thuộc về đức Kitô, họ không ngại để theo và công bố đức Kitô bằng đời sống gương mẫu của họ. Nếu không thì làm sao họ có thể giáo dục đức tin được?

Tôi rất vui mừng khi thấy công việc vất vả của cha Nelson Falcao Sdb. Xin Thiên Chúa chúc lành cho những nỗ lực của ngài. Xin Chúa chúc lành và hướng dẫn những người ngoại giáo cách riêng giới trẻ tới đức tin.

Mẹ Têrêsa Calcutta

LỜI TỰA

Chúng ta đang sống trong giai đoạn rất quý báu của lịch sử: thập niên 1980 – 1990 làm cho chúng ta ý thức rằng chúng ta đang tiến tới việc đánh giá tốt hơn vai trò của con người – cách riêng loài người chúng ta. Đây là chiều kích chung của mỗi người bất luận không gian và thời gian, chủng tộc và màu da, hiểu biết hay vô tri, dân chủ hay chuyên chế, ý thức hệ hay thể chế và ngay cả những khác biệt về giáo lý của các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh đó làm nổi bật và đồng thời cũng làm nghiêng thế quân bình về sự hiểu biết chính xác về tính cộng đồng

Từ những suy tư trên, mục tiêu mà tôi muốn đặt ra ở đây là “những sự khác biệt về giáo lý của các tôn giáo”như là điểm cuối cùng, bởi vì tôi rất tiếc để nói rằng điểm ưu tiên nhất ở đây là gì nếu không phải tôn giáo có điểm chung là tìm kiếm một thực tại Siêu Nghiệm trong rất nhiều trường hợp cá biệt, ngay ở Ấn Độ, không thể loại bỏ hết những cái ràng buộc của những niềm tin mù quáng và cuồng tín, bởi sự thiển cận của họ và bởi những giáo phái có chủ đích nhằm hại người.

Tuy nhiên trong lãnh vực tôn giáo của chúng ta, chúng ta đang thấy rực lên một tương lai huy hoàng, tràn dầy hy vọng vì kế hoạch chuẩn bị cho năm 2000. Tôi muốn nói về những nhận thức mà nó đã xẩy ra đặc biệt trong những năm cuối để hướng tới sự đánh giá  tích cực vai trò hướng dẫn đức tin trong lãnh vực giáo dục giới trẻ (và của thiếu niên nữa). Chúng ta biết rằng điều đó không đủ để tin một thực tại là Thiên Chúa. Điều tiên quyết nhất trong cuộc sống của mỗi người là có thể sống đức tin trong thực tại tối hậu này (đây không là một niềm tin đơn thuần) một Thực tại vì siêu việt mọi sự và mọi người nên nó thuộc về mọi sự và mọi người.

Bởi vậy chúng ta hãy tiến vào tâm điểm của bối cảnh đa tôn giáo của toàn thế giới bất chấp mọi khác biệt kể cả những khác biệt về tôn giáo. Chúng ta cảm thấy mình thuộc về nhau trong một đường lối nền tảng nhất: Đó là nguồn gốc chung của chúng ta. Nguồn gốc này là chính Thiên Chúa, không có nguồn nào khác ngoài Ngài. Mọi tôn giáo đều hướng tới Ngài như là mục đích và cứu cánh nền tảng nhất của họ. Đây chính là mục tiêu của việc giáo dục đức tin (cho người trẻ) làm cho chúng thấy nền tảng duy nhất của mọi niềm tin và vì thế không hẳn là đem người ta vào Giáo Hội và cũng không hẳn để họ theo đường lối vô định của việc sống niềm tin tôn giáo của họ nhưng giúp họ sống niềm tin của họ cách mãnh liệt hơn (đây là khởi đầu của đức tin và điều này tất yếu sẽ dẫn họ tới Thiên Chúa. Hy vọng một ngày nào đó (mọi người hướng tới điều đó) qua Đấng trung gian và Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô.

Sau nét khởi đầu của đức tin này, chúng ta không nói điều gì mới mẻ. nó luôn nằm trong Giáo Huấn của Giáo Hội đã được công bố rõ ràng trong những văn kiện về “Đối thoại tôn giáo” của Cộng đồng Vaticanô II. Điều mới mẻ ở đây là gì? Có lẽ là sự khám phá ra rằng chúng ta muốn thấy điều đó được áp dụng trong bối cảnh đa tôn giáo, cách riêng trong sứ mệnh của chúng ta là giáo dục giới trẻ hướng tới đức tin, nhưng đừng quên những giá trị riêng của tôn giáo của họ

Qua việc trình bày của cuốn sách này, cha Nelson Falcao Sdb giúp những nhà giáo dục giới trẻ trong công việc tế nhị là “huấn luyện người khác” sống đức tin. Nhà giáo dục phải ý thức rõ ràng rằng điều này liên hệ tới miền đất mới mà chúng ta không thể đánh giá đúng mức công việc của người khai sáng tiên phong được. Thành tựu nghiên cứu này rất đáng ca ngợi và hưởng ứng bởi nhu cầu hiện tại của bối cảnh đa tôn giáo chúng ta. Lời khen ngợi tốt đẹp nhất sẽ được gởi tới cha Nelson Sdb vì đã góp phần rất lớn trong lãnh vực giáo dục người trẻ tới đức tin.

Tôi tin chắc rằng các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục sẽ tiếp thu quyển sách độc đáo này trong bổn phận của họ  đối với giới trẻ.

Fr. Luciano Colussi Sdb

CHƯƠNG I

GIỚI THIỆU

  • Bối cảnh đa tôn giáo: một hiện tượng thế giới hiện hữu được gọi là đa tôn giáo.

Những môi trường mà ở đó hơn một tôn giáo. Ngày nay trong những thành phố hiện đại, chúng ta thấy có nhiều thanh thiếu niên thuộc nhiều tôn giáo khác nhau. Vì nền công nghiệp hóa và đô thị hóa phát triển, dân chúng từ nhiều miền quốc gia khác kéo về những thị thành. Đây chính là lý do làm cho hiện trạng đa tôn giáo phát triển trong những thành phố. Vì đô thị phát triển mà bối cảnh đa tôn giáo được tăng lên. Do đó không riêng gì ở Châu Á mà thực tế đáng nói, bối cảnh đa tôn giáo là một hiện trạng mang tính quốc tế.

  • Ý nghĩa của việc giáo dục giới trẻ đa tôn trong bối cảnh đa tôn giáo

Giới trẻ mà những nhà giáo dục tu sĩ và người đời làm việc trong bối cảnh đa tôn giáo xuất thân từ những tôn giáo khác nhau: Ấn Độ giáo (Hinduism), Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo. Đạo Jai-na (Jainism), Đạo thờ lửa (Zoroastrianism), Thần đạo, Nhật bản (Shintoism), Khổng giáo, Lão giáo, Kitô giáo và những tôn giáo khác. Vì thế, chúng được gọi là giới trẻ đa tôn giáo. Hơn nữa có thể nói rằng những nhà giáo dục người đời và tu sĩ, họ làm việc cho giới trẻ đa tôn giáo trong những bối cảnh đa tôn giáo

Những nhà giáo dục tu sĩ và người đời đang làm việc trong bối cảnh đa tôn giáo giáo dục giới trẻ Kitô giáo và ngoại giáo. Giới trẻ ngoại giáo gồm:

  • Giới trẻ Kitô của nhiều niềm tin Kitô khác nhau như: Tin Lành, Hội Giám lý (Tin lành theo Jone Wesley), Anh giáo, phái Baptist, phái Calvin, Chính Thống và nhiều giáo phái khác
  • Giới trẻ của những tôn giáo khác: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Đạo Jai-na. Đạo thờ thần lửa, Thần đạo, Khổng giáo, Lão giáo, Do thái giáo và những tôn giáo khác

Vì những khác biệt về giáo thuyết giữa giới trẻ Công giáo và giới trẻ đa tín ngưỡng mà thực trạng về sự hiện diện của giới trẻ không thể không chú ý. Vì thế giới trẻ đa tôn giáo bao gồm giới trẻ Công giáo, giới trẻ Kitô ngoài Công giáo thuộc nhiều giáo phái khác nhau (thuộc về Chúa Kitô nhưng không thuộc về Giáo hội) và giới trẻ của nhiều tôn giáo khác

  • Đức tin là gì?

Theo Lonergan, đức tin là kiến thức nảy sinh bởi tình yêu tôn giáo. Ngoài kiến thức thực tế đạt được bởi kinh nghiệm, sự hiểu biết và sự minh xác, còn có một loại kiến thức khác mà nó đạt được qua sự nhận thức sâu sắc và sự phán đoán về giá trị của ngôi vị trong tình yêu. Kiến thức ấy cao siêu hơn khi tình yêu ấy chính là tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong tâm hồn chúng ta.

Theo Panikkar, đức tin là một chiều kích cấu thành của con người, hình thành cho mọi người, nó thuộc chức năng năng động và yếu tính của nó phải được tìm kiếm

Đức tin không cho phép coi con người là Thiên Chúa nghĩa là chấp nhận con người là giới hạn và nhỏ bé nên phải dựa vào tình yêu Thiên Chúa. Nếu không có đức tin, con người sẽ đặt giá trị cội nguồn là con người và giá trị tối hậu là sự thiện nơi bản tính con người. Ngược lại nếu có đức tin. Thiên Chúa sẽ là giá trị cội nguồn và toàn thể vũ trụ đều có giá trị riêng của nó.

Vì thế, đức tin phủ nhận chủ nghĩa duy nhân bản vì nó làm cho con người xa cách Thiên Chúa. Nghĩa là không chấp nhận thuyết vô thần coi con người và thế giới là thượng đế. Trái lại, đức tin có nghĩa là chấp nhân một chiều kích hướng thượng là Thiên Chúa. Không một quan điểm, một lập trường nào được gọi là quân bình nếu thiếu vắng hoặc con người, thế giới hoặc Thiên Chúa. Cả ba phải được đặt đúng vị trí.

Có đức tin nghĩa là có nhãn giới của tình yêu. Đức tin nhìn nhận rằng Thiên Chúa cho con người có tự do. Ngài mời gọi họ cộng tác mạnh mẽ hơn để lấy sự lành mà lướt thắng sự dữ. Vì thế,đức tin gắn liền với tiến trình phát triển nhân bản. Sự sa sút của con người được coi là một thách đố. Đức tin đặt nỗ lực cộng tác của con người trong vũ trụ để con người chiếm hữu, nhập cuộc, phát triển, kiến thiết và xây dựng. sự cộng tác mãnh liệt nhất để đáp trả trong đức tin là sự hoán cải và bác ái triền miên suốt đời

  • Đức tin Công giáo

Đức tin Công giáo là nơi một Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Đấng lấp đầy tâm hồn của con người. Ý nghĩa của đức tin là không coi con người là Thiên Chúa, nghĩa là chấp nhận con người là giới hạn, nhỏ bé và họ phải dựa vào tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. nếu không có đức tin Công giáo, con người sẽ đặt giá trị cội nguồn là con người và giá trị tận thức là sự thiện nơi bản tính con người. Đằng khác nếu có đức tin Công giáo, Thiên Chúa là giá trị cội nguồn và toàn thể vũ trụ có giá trị tận cùng của nó.

Vì thế, đức tin Công giáo phủ nhận chủ nghĩa nhân bản vì nó làm cho con người xa cách Thiên Chúa. Nghĩa là không chấp nhận thuyết vô thần coi con người và thế giới như Thượng đế. Trái lại nó đòi chấp nhận chiều kích hướng thượng là Thiên Chúa.

Đức tin Công giáo xác định việc tạo dựng trời và đất đều do bởi Thiên Chúa mà có. Chúa Con, Đức Giêsu là Đấng Kitô (Cv2,36; Col 2,6; Ngài là Thiên Chúa (1Cor 12,3; Rm 10,9; Cv2,36; Phil 2,11); Ngài là con Thiên Chúa (Cv9,20;13,33; Rm 1,4; Dt4,14).Ngài đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được sinh ra bởi Đức Nữ Trinh Maria. Ngài chịu khổ hình đời quan Phongxio Philato, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết và được chôn trong mồ.

Ngày thứ ba Ngài đã sống lại, lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. đồng thời Ngài mời gọi tin Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, tin các Thánh thông công, tin phép tha tội, tin sự sống lại và sự sống đời sau

  • Giáo dục đức tin Công giáo

Giáo dục nghĩa là trao ban tri thức và đào luyện luân lý cho một người nào đó. Việc giáo dục đức tin Công giáo (hoặc giáo dục đức tin nghĩa là huấn luyện một ai đó tới đức tin Công giáo và mọi đòi hỏi của nó. Đó là việc giáo dục nhắm tới sự chấp nhận một Chúa Ba Ngôi và công trình cứu chuộc của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

  • Những nhân tố chính yếu của việc giáo dục đức tin

Ba nhân tố chính yếu trong việc giáo dục đức tin là: giới trẻ được giáo duc, bối cảnh liên tôn giáo – văn hóa – xã hội mà giới trẻ đang sống; và chính những nhà giáo dục. Ba vai trò này cho thấy những vấn đề đổi thay và bất an

Giới trẻ liên tôn giáo – văn hóa, hầu hết đang sống trong bối cảnh đô thị hóa và tách mình khỏi những giá trị tôn giáo – văn hóa truyền thống; xã hội mà trong đó ngày mai chúng cư ngụ sẽ bất ổn vì mất đi những giá trị tôn giáo – luân lý; trong bối cảnh ấy, chính những nhà giáo dục cũng cho người ta có một ấn tượng rằng họ không tin vào điều mà họ dạy và dường như họ đã đánh mất luôn cả những xác tín  mạnh mẽ về tôn giáo – luân lý của họ.

Hoàn cảnh nguy cấp ấy kêu gọi một động lực và một quyết tâm mới trong việc giáo dục – tôn giáo – luân lý – văn hóa. Đồng thời cần xây dựng những phương tiện truyền thông, trao đổi ý kiến, hiểu biết lẫn nhau, khám phá ra những trách nhiệm hổ tương giữa nhà giáo dục và người thụ giáo. Sẽ không bao giờ có việc giáo dục đức tin trong viễn cảnh tương lai nhân loại nếu không canh tân sự đối thoại giữa các thế hệ.

 

CHƯƠNG 2

NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ NHU CẦU: NHIỆM VỤ VÀ THÁCH ĐỐ

 

  • Những khó khăn vấn nạn và những nhu cầu liên quan tới việc giáo dục đức tin
  • Những khó khăn và những trở ngại trong việc giáo dục đức tin

Có nhiều khó khăn và vấn nạn khác nhau trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn – ngoài Công giáo tới đức tin. Người ta coi việc giáo dục giới trẻ ấy tới đức tin là một công việc rất tế nhị. Hơn nữa, đây không phải là một việc đơn giản, vì nó liên quan tới trí tuệ, tâm hồn, niềm tin và đức tin của con người. Những khó khăn thường nảy sinh từ phia nhà giáo dục cũng như từ phía người thụ giáo.

Thứ nhất: lãnh vực giáo dục đức tin bị thu hẹp lại bởi chính những nhà giáo dục. Thứ hai: không phải tất cả những người thụ giáo đa tôn – ngoài Công giáo đều sẵn sàng tiếp  nhận việc giáo dục. Lý trí và tâm hồn của họ chống lại những kiểu cách giáo dục mới. Sự rộng mở của họ có giới hạn. Họ đã có một đức tin, một tôn giáo, họ cũng có những bản văn Kinh Thánh, những nghi thức, và những phong tục riêng của họ rồi. Họ không theo thuyết duy linh hoặc vô tín ngưỡng. Vì thế, họ không cần đức tin Kitô giáo. Đúng hơn đức tin không cho họ một cái gì mới mẻ cả.

Thứ ba: những thế lực chính trị đã lấy đi quyền thi hành công việc giáo dục đức tin của những nhà giáo dục. Nhiều nơi, những nhà giáo dục bị bắt bớ, bị đe dọa hoặc bị bỏ tù vì cách thức giáo dục mà họ đã nỗ lực thông truyền cho người thụ giáo.

Mặc dầu có nhiều khó khăn, việc giáo dục đức tin vẫn được vì nó là lệnh truyền của Thiên Chúa: Hãy đi rao giảng và loan báo cho mọi dân tộc, mọi tạo vật và cho toàn thể thế giới. Đức tin càng bị chống đối nhiều thì Giáo hội càng phát triển.

  • Những vấn nạn của việc giáo dục đức tin cho giới trẻ

Đề tài của việc giáo dục đa tôn – ngoài Công giáo tới đức tin đặt ra những vấn nạn sau:

  • Làm thế nào để giáo dục giới trẻ đa tôn ấy tới đức tin?
  • Việc giáo dục đức tin ấy có chạm tới lương tâm sâu thẳm của người trẻ?
  • Bao lâu thế mạnh của việc giáo dục này thực sự biến đổi giới trẻ trong thế kỷ này?
  • Phương pháp nào cần được áp dụng trong việc giáo dục giới trẻ tới đức tin?

Tất cả những vấn nạn này là một đòi hỏi cấp bách, kiên nhẫn, khiêm nhường và can đảm đáp trả, vạch đường hướng hành động.

  • Có thể giáo dục đức tin trong những bối cảnh đa tôn giáo?

Dường như có một cái cầu vĩ đại ngăn cách giữa những nhà giáo dục với người thụ giáo trong bối cảnh đa tôn giáo. Những người thụ giáo dường như đang sống trong một thế giới liên tôn giáo, liên văn hóa khác xa với những nhà giáo dục. những nhà giáo dục thì tỏ ra lung túng trong việc hoàn thành ý nghĩa và những điều kiện của việc giáo dục. Vấn đề là: có thể giáo dục đức tin cho giới trẻ trong bối cảnh liên tôn giáo, liên văn hóa?

Việc giáo dục đức tin ấy là điều có thể trong sự biến đổi thường xuyên và sự bất an hiện thời của giới trẻ trong thế giới liên tôn giáo và liên văn hóa?

  • Văn hóa cản trở việc giáo dục đức tin

Trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo, đa văn hóa tới đức tin, người ta phải vượt qua một trở ngại lớn đó là văn hóa. Trong quá khứ cản trở văn hóa chỉ giới hạn trong những phương tiện vận chuyển của con người, những thư tín và những hàng hóa vật chất qua sự phản bội trên biển, trên núi và trên những đường mòn sa mạc. Ngày nay vì khoa học kỹ thuật phát triển những trở ngại của quá khứ đã được khắc phục. Nhưng lại nảy sinh ra những cản trở văn hóa mới: sự nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa và con người không đủ để biết những sứ điệp. Nó chỉ là lý thuyết không hơn không kém. Điều quan trọng là hiểu biết đối tượng, những người mà sứ điệp muốn truyền đạt. những nhà giáo dục đức tin phải học ngôn ngữ của các dân tộc. Họ phải học trước khi dạy và lắng nghe trước khi nói.

Nhà giáo dục phải từ bỏ những dự định, những thành kiến cũng như những thiên kiến của họ. Họ phải cảm nghiệm được những thái độ, những giá trị và những ảnh hưởng của nền văn hóa của người thụ giáo. Với cách thức này, tất cả những trở ngại về văn hóa cũng như sự mất liên lạc văn hóa đó mới có thể được khắc phục?

  • Giáo dục giới trẻ vô thần hướng tới đức tin

Xã hội hiện nay phổ biến đủ mọi loại vô thần thuyết. Do đó, sự thiếu đức tin vào Thiên Chúa là hậu quả của chủ nghĩa thế tục. Một sự trần tục hóa chính đáng chủ trương đề cao tự nhiên và khoa học mà không từ chối Đấng tạo hóa và Đấng ban lề luật, sẽ thúc đẩy tới chủ nghĩa nhân bản trần tục. Còn chủ nghĩa duy trần tục chủ trương đề cao tự nhiên, khoa học và từ chối một thực tế rằng Đấng tạo hóa đã đặt lề luật trong các tạo vật. Không cần Thiên Chúa nữa.

Hiện tại, nền công nghiệp hóa, đô thị hóa, chủ nghĩa duy vật chất và chủ nghĩa duy hưởng thụ càng ngày càng phát triển. Nó làm giảm nhu cầu về Thiên Chúa. Con người dường như có thể tự quản lý tốt mà không cần Thiên Chúa. Tất cả những nhu cầu của con người đều được thỏa mãn ngoài Thiên Chúa. Ngài chỉ là một bức tranh mà thôi. Hoàn cảnh và tình trạng ấy làm nẩy sinh chủ nghĩa duy trần tục. Chủ nghĩa duy trần tục chính là chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy nhân bản và chủ nghĩa duy vật.

Để giáo dục những người vô thần, đặc biệt giới trẻ vô thần ấy tới một đức tin vững chắc không phải là một chuyện dễ. Bởi vì nó liên quan tới một nền giáo dục lưỡng diện: Giáo dục để tin vào Thiên Chúa và giáo dục tới đức tin. Tin Chúa Kitô là một hồng ân được trao ban bởi Chúa Thánh Thần và hồng ân này mời gọi con người cộng tác đáp trả cách quảng đại và trung thành. Vì thế, những nhà giáo dục phải cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho giới trẻ hồng ân đức tin trong Chúa Kitô và trong Giáo hội của Ngài. Họ cần phải được giáo dục để cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho họ hồng ân đức tin.

  • Giới trẻ đa tôn giáo bị ảnh hưởng bởi một xã hội buông lỏng kỷ cương

Giới trẻ đa tôn giáo ngày nay bị ảnh hưởng bởi một xã hội buông lỏng kỷ cương. Đó là một xã hội công nghiệp hóa và đô thị hóa. Hiển nhiên, nền công nghiệp hóa sẽ dẫn tới đô thị hóa. Hơn nữa, tiến trình phát triển đô thị hóa dẫn tới việc đánh mất những giá trị tôn giáo, văn hóa và luân lý. Trong thành phố, giới trẻ sống trong sự trốn tránh. Trong nhiều thành phố, tội lỗi bị che khuất và người ta khó có thể nhận dạng được. Những giá trị văn hóa bị đánh mất bởi vì sự hiện hữu của nhiều nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Nó không đủ chỗ để cho văn hóa, ngôn ngữ, ở việc thực hành tôn giáo và những phong tục phát triển.

Xa hơn nữa, nền công nghiệp hóa và đô thị hóa dẫn tới chủ nghĩa duy vật chất. Chủ nghĩa duy vật chất này lại dẫn tới chủ nghĩa duy bất tri và chủ nghĩa vô thần. Không còn chỗ cho Thiên Chúa, tôn giáo và đức tin. Trong thực tế, những người duy vật không có nhu cầu về Thiên Chúa. Nếu không có tôn giáo, đức tin và Thiên Chúa, người ta không thể hy vọng về những chuẩn mực luân lý. Xã hội trở nên dễ dãi và chủ nghĩa tự do được hình thành

Tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, chủ nghĩa duy bất tri, chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy tự do này đã tác động đến giới trẻ trong bối cảnh đa tôn giáo. Hơn nữa bối cảnh đa tôn giáo ngày nay, đáng kể nhất trong những thành phố công nghiệp hóa nơi quy tụ nhiều người với nhiều tôn giáo khác nhau để  kiếm sống. Vì thế, giới trẻ đa tôn giáo đã bị ảnh hưởng bởi tiến trình phát triển ấy, chúng trở thành những nạn nhân của một xã hội buông lỏng kỷ cương.

  • Giáo dục đức tin trong thế giới nhiều biến đổi

Thế giới ngày nay đã, đang và tiếp tục biến đổi về chính trị, văn hóa và kinh tế. Kỷ nguyên thực dân đã kết thúc. Các nước thuộc thế giới thứ ba đang phát triển mạnh mẽ và đồng thời đòi những quyền lợi và những vị thế của riêng nó. Việc giáo dục đức tin cũng được nhìn nhận trong bối cảnh của thế giới đang phát triển ấy.

Trong quá khứ, Giáo hội đã phát triển đang khi quyền lực Kitô giáo Tây phương thống trị thế giới. Ngày nay Giáo hội phải đương đầu với những quốc gia và được giải phóng khỏi ách thống trị Tây phương. Hơn nữa có sự phục hưng của những nền văn hóa cổ, sự tái sinh của các tôn giáo Đông phương, sự lan rộng của Hồi giáo. Văn hóa thế giới đang có xu hướng ngày càng là một văn hóa  thế tục hơn, cả những quốc gia công nghiệp cũng như những nước đang phát triển. Giáo hội phải thấy, phán đoán và hành động trong sự biến đổi của thế giới hiện tại và tìm ra những cách thức mới để giáo dục đức tin.

  • Sự khẩn cấp của việc giáo dục đức tin

Tiến trình phức tạp của các nền công nghiệp hóa – đô thị hóa – duy vật chất – duy hưởng thụ – duy bất tri – chủ nghĩa vô thần – duy tự do cho thấy sự khẩn cấp của việc giáo dục chính niềm tin của họ và dần dần giáo dục tới đức tin Công giáo. Nếu việc giáo dục ấy không xẩy ra, giới trẻ đa tôn giáo sẽ bị kết án trong một thế giới lo âu, sợ hãi, ma túy, rượu chè và tự do tình dục. Chỉ nhờ việc giáo dục đức tin, mới cứu vớt được tình trạng giới trẻ hiện nay.

Việc dẫn giới trẻ đa tôn giáo tới Đức Kitô và Giáo hội của Ngài là một lý tưởng. Vì thế tiến trình này phải là một tiến trình tiệm tiến. Từ tín ngưỡng riêng của họ bước sang đức tin sẽ dễ dàng hơn. Cho dù là duy bất tri hay vô thần, bước nhẩy tới đức tin ấy là khả thể.

  • Sự tận tâm giáo dục giới trẻ đa tôn giáo: một đòi hỏi cấp bách và thực tế

Sự tận tâm giáo dục giới trẻ ngoài Kitô giáo hay đúng hơn giới trẻ đa tôn giáo là một thực tại hiện hữu trong những môi trường, hoàn cảnh, thực trạng xã hội và những quốc gia đa tôn giáo. Việc giáo dục giới trẻ tới đức tin không loại trừ giới trẻ ngoài Kitô giáo. Nhu cầu này trở nên cấp bách hơn bao giờ hết trong hoàn cảnh đa tôn giáo.

Nhiều vị Thánh Công giáo đã hình thành nên nhiều phương pháp sư phạm khác nhau, mặc dù không chỉ thiết yếu với những bối cảnh đa tôn giáo, không chỉ có thể áp dụng cách rất ích lợi ngay cho cả những tôn giáo ngoài Kitô nữa. Người đời và tu sĩ giáo dục được kêu gọi để giáo dục mọi nơi, mọi lúc. Việc giáo dục của chúng ta gồm những môi trường và bối cảnh đa tôn giáo khác nhau.

  • Sự cần thiết của đức tin giữa những lúc khó khăn

Như đã thấy ở trên, có rất nhiều trở ngại: về vật lý, tâm lý, xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Trong tất cả những khó khăn ấy, chúng ta hãy nhìn gương mẫu của những vị Thánh, những người đã thực thi công việc giáo dục đức tin này, đặc biệt trong bối cảnh đa tôn giáo. Lòng nhiệt thành quảng đại, công việc vất vả và đức tin của họ làm cho những khó khăn, trở ngại của chúng ta tan biến. Những lo lắng của chúng ta ban đầu rất nhiều chỉ vì chúng ta thiếu đức tin. Vì thiếu đức tin, mọi sự ban đầu có vẻ khó khăn và những mô đất nhỏ ban đầu xuất hiện như những cái núi. Nguyên do chỉ là sự khủng hoảng đức tin hơn là những sự khác

  • Nhiệm vụ và thách đố của việc giáo dục đức tin
  • Thách đố

Theo hoàn cảnh văn hóa địa phương, những trường hợp và những thách đố thường thay đổi rất khác nhau. Điều này mời gọi chúng ta tái suy nghĩ về phương pháp và kỹ năng của việc giáo dục đức tin. Những phương pháp và những kỹ năng này phải đa dạng và thuộc nhiều loại khác nhau. Hơn nữa, vì là môi trường và bối cảnh đa tôn giáo và đa văn hóa nên đòi hỏi phải có phương pháp kỹ thuật thích hợp.

  • Văn hóa nhân loại và đức tin: những thách đố của việc giáo dục đức tin

Văn hóa nhân loại và đức tin tôn giáo có liên quan với nhau? Thế giới văn hóa con người và thế giới đức tin tôn giáo không giống hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Chúng không tách biệt nhau. Giới trẻ đa tôn giáo tin rằng sẽ không có sự tách biệt giữa đức tin và văn hóa. Cả hai gắn kết vào nhau trong ngôi vị con người. Văn hóa và đức tin hiện hữu đồng thời trong một ngôi vị.

Về điều này, những nhà giáo dục dù không là người trực tiếp dạy đức tin, họ cũng nên giúp các học sinh vượt lên trên tầm nhìn về những thực tại  của con người. Hành vi tốt của con người luôn hướng về Thiên Chúa và không bao giờ kết thúc trong chính nó. Nhà giáo dục phải nắm bắt những cơ hội bằng sự sáng tạo và sự khéo léo để nối kết thực tại con người với đức tin thiêng liêng.

Thiên Chúa, Đấng sang tạo dã dựng nên mọi thực tại. Vì thế không một thực tại nhân loại nào tách biệt khỏi Thiên Chúa. Mọi thực tại cách này hay cách khác đều nói về Thiên Chúa. Sự hiểu biết hơn về những thực tại là một cách gián tiếp biết về Thiên Chúa. Đây là những lời gợi ý, là kim chỉ nam để hướng dẫn giới trẻ

  • Lòng nhiệt thành đối với giáo dục đức tin

Lòng nhiệt thành cứu vớt các linh hồn dẫn những nhà giáo dục người đời và tu sĩ tới sự khát khao trung thành để giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin trong Chúa Kitô

Hơn nữa họ có một sự khao khát mãnh liêt để đi tới những nơi mà người ta chưa biết Giáo hội, những nơi mà người ta chưa được nghe Danh Chúa Kitô. Họ phải hết sức nỗ lực để mang ánh sang đức tin Kitô giáo vào trong nhân loại, trong trần thế và tới tận cùng thế giới. Họ phải nỗ lực để mang niềm tin Kitô giáo vào trong mọi hình thức của mọi tiến trình phát triển của con người. Họ phải có một trái tim đầy tràn tình yêu và lòng nhiệt thành để mang giới trẻ và nhân loại tới đức tin. Lòng nhiệt thành giáo dục đức tin này phải được bùng cháy lên

  • Việc giá dục đức tin: nhiệm vụ cấp bách và thách đố

Hiện nay, việc giáo dục người trẻ tới đức tin là một nhiệm vụ cấp bách và là một thách đố đối với người đời và tu sĩ giáo dục đức tin vì những lý do sau:

  • Những khó khăn đối diện với giới trẻ và những nhà giáo dục trong những năm gần đây.
  • Sự khủng hoảng đức tin của giới trẻ như là kết quả của tiến trình phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa, duy vật chất, duy hưởng thụ, duy bất tri, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa thờ ơ tôn giáo.
  • Sự phức tạp của sứ mệnh giáo dục đức tin cho giới trẻ, cho mọi nền văn hóa và tôn giáo
  • Thành quả văn hóa mới trong thực trạng lịch sử tác động tới toàn thể Giáo hội
  • Thách đố của những cộng đoàn Kitô hữu trong những bối cảnh đa tôn giáo: việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin

Những cộng đoàn Kitô hữu có trách nhiệm truyền giáo trong bối cảnh đa tôn giáo, đó chính là việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin. Tuy nhiên điều này không thể đạt được cách trực tiếp. Nó cần được thi hành cách tiệm tiến. Trước hết nên giáo dục theo niềm tin riêng của chúng. Giới trẻ trong bối cảnh đa tôn giáo xuất thân từ nhiều tôn giáo khác nhau, chúng cần được giáo dục về hiện tượng luận, triết học và thần học về niềm tin riêng của chúng. Việc sống niềm tin riêng của chúng đã là một sự chuẩn bị để hướng tới đức tin Kitô giáo rồi.

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN GỐC

 

  • Phương pháp giáo dục đức tin
  • Phương pháp giải quyết thích đáng: việc giáo dục tới và về đức tin

Chỉ có phương pháp giải quyết thích đáng là giáo dục về đức tin và tới đức tin. Ngoài phương pháp này nghĩa là lạc đề.

Sự phân tích nên được thi hành từ quan điểm mục vụ. Điều này đòi hỏi sự xác minh về thực tại: Những công việc đối với việc giáo dục đức tin nơi giới trẻ đa tôn giáo; giới trẻ đối diện với những vấn đề của đức tin

  • Phương pháp thích hợp trong việc giáo dục đức tin

Phương pháp tốt, có hiệu lực và thích hợp đối với việc giáo dục đức tin luôn là điều quan trọng và chính đáng. Việc giáo dục đức tin liên quan tới: tính giáo dục, nhà giáo dục, văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, tín ngưỡng, việc dạy dỗ, người thụ giáo và những người khác. Vì thế việc giáo dục đức tin là một thực tại phức tạp. Nó tất yếu đòi hỏi một phương pháp luận đứng đắn. Phương pháp này phải được thay đổi vì tính đa ngôn ngữ, đa văn hóa và đa tôn giáo.

Những dấu chỉ thời đại cho thấy cần canh tân những phương pháp. Những dấu chỉ thời đại chỉ cho thấy những vấn đề, những nhu cầu và sự cấp bách của những giải pháp cá biệt. Phải canh tân vì thời đại và những nhu cầu không ngừng tiến triển. Vì thế điều quan trọng là phải thay đổi, tái tạo, điều chỉnh, thích nghi, canh tân, khôi phục, bổ sung, tái sinh, phục hồi, sửa chữa, xét lại, tái thiết và sửa đổi.

Vấn đề là làm thế nào để giáo dục giới trẻ đa tôn ngoài Công giáo tới đức tin. Điều này đòi hỏi một phương pháp đặc thù và thích hợp. Phương pháp ấy phải được suy xét và nghiên cứu theo những hoàn cảnh, nơi chốn và văn hóa của thời đại.

  • Ba văn hóa trong phương pháp giáo dục đức tin

Ba văn hóa trong việc giáo dục đức tin là: văn hóa của nhà giáo dục, văn hóa Kinh Thánh và văn hóa của người thụ giáo. Nhà giáo dục thuộc bất kỳ nền văn hóa nào, phải nghiên cứu sâu sắc về văn hóa Kinh Thánh, lý giải chính xác Kinh Thánh chú giải những bản văn Thánh kinh cổ và Thánh Truyền. Sau đó họ phải thông truyền sứ điệp Tin Mừng cho những người thụ giáo theo ngôn ngữ và văn hóa của họ. Nhà giáo dục Goan trong vùng nội địa Maharashtra đã phải nghiên cứu những chân lý được thông truyền trong những hạn từ Kinh Thánh Theos, hamartia và soteria và thông truyền chúng trong những hạn từ Marathi của Dev, paap, và taarana. Điều này thật không dễ dàng đối với những nhà giáo dục bởi vì việc tìm ra và thông truyền ba hạn từ ấy trong ngôn ngữ và văn hóa Goan thì dễ hiểu hơn là trong ngôn ngữ và văn hóa của Kinh Thánh và của những người thụ giáo

  • Cách tiếp cận với ba loại kiến thức

Những nhà giáo dục đức tin phải có ba loại kiến thức: kiến thức về Thiên Chúa, kiến thức về chính mình và kiến thức về đối tượng giáo dục. Nếu không có ba loại kiến thức này thì không thể giáo dục đức tin được. không có kiến thức ấy thì không thể phán đoán chính xác mà cũng không thể có bất kỳ hành động nào.

  • Tính đa phương pháp không đánh mất nội dung trường tồn của việc giáo dục

Tính đa phương pháp trong việc giáo dục đức tin không đánh mất bản chất và yếu tính của nội dung giáo dục đức tin. Nội dung này là duy nhất, căn bản, vĩnh tồn, phổ quát, tuyệt đối. Trái lại những hệ phương pháp là thứ yếu, phụ thuộc, tạm thời, cá biệt và tương đối. Vì thế những phương pháp thường nảy sinh và thay đổi còn nội dung thì tồn tại mãi. Nội dung giáo dục không thể thay đổi bởi vì nó vượt lên trên phương pháp

  • Thuyết đa nguyên chỉ cho thấy sự cần thiết của việc đối thoại trong lòng Giáo hội

Liên quan tới việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo có nhiều quan điểm hiện hành dựa trên những hệ thần học tôn giáo khác nhau. Nói chung chúng họp thành hai quan điểm dưới đây: quan điểm cấp tiến và quan điểm bảo thủ. Có một sự căng thẳng giữa những người theo quan điểm cấp tiến và những người theo quan điểm bảo thủ. Đảng cấp tiến nỗ lực tiến về phia trước cách vội vàng và hấp tấp đang khi đó Đảng bảo thủ giữ sự an toàn quá khứ cách tỉ mỉ. Phải có một cuộc đối thoại ngay trong lòng Giáo hội trước khi dấn thân vào cuộc đối thoại với giới trẻ đa tôn giáo

  • Kế hoạch giáo dục đức tin
  • Tầm quan trọng của việc soạn thảo kế hoạch giáo dục đức tin

Chúng ta nên soạn thảo một chương trình rõ ràng và đầy đủ về việc giáo dục đức tin. Điều này nhắm tới sự phát triển toàn diện của giới trẻ qua giáo lý, qua việc cử hành Thánh lễ và qua những công việc tông đồ. Do đó cần phải soạn thảo một chương trình giáo dục đức tin rõ ràng và đầy đủ cho giới trẻ Công giáo cũng như liên tôn giáo, ngoài Công giáo và đa tôn giáo

  • Tầm quan trọng của sự minh xác

Xác minh hiệu quả giáo dục đức tin liên quan tới đời sống đức tin của người trẻ và đời sống đức tin của nhà giáo dục là làm việc không thể thiếu được. Từ đó sẽ dẫn đến một cái nhìn sâu sắc về kế hoạch giáo dục mục vụ của mỗi tổ chức giáo dục và mỗi cộng đoàn địa phương

  • Nội dung giáo dục đức tin

Nội dung của việc giáo dục đức tin là Tin Mừng như đã dạy và đã sống. Tin Mừng gồm những thực tại vĩnh cửu và những nhân tố nhất thời. những thực tại vĩnh cửu tức là những nội dung thuộc giáo thuyết truyền thống, những yếu tố cấu thành và sự cứu rỗi. Những nhân tố nhất thời tức là sử tính của con người, lịch sử của nhân loại, những khía cạnh xã hội – văn hóa và lịch sử

Trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo cần phải nắm vững những thực tại vĩnh cửu đang khi vẫn nỗ lực để thích ứng và làm cho thích hợp với những thực tại nhất thời với hoàn cảnh đa tôn giáo và liên văn hóa

  • Nghiên cứu việc giáo dục đức tin
  • Việc giáo dục đức tin đòi sự nghiên cứu

Việc giáo dục đức tin là việc giáo dục chân lý. Đức tin là một chân lý về Chúa Kitô, là chính Đức Kitô. Đồng thời cũng là một mầu nhiệm. Vì thế nó cần phải được nghiên cứu, cần được thấu suốt. Điều này đòi hỏi sự nghiên cứu và cầu nguyện. Qua sự tin tưởng cầu nguyện đó, người ta có thể có một sự hiểu biết sâu sắc trong đức tin, trong luân lý, trong Chúa Kitô, trong Thiên Chúa

Tất cả những người đời và tu sĩ giáo dục, những thầy cô giáo trong nhà trường, những bậc phụ huynh đều được mời gọi để cùng nhau làm việc, nghiên cứu và trau dồi đức tin, để làm thế nào giáo dục giới trẻ tới đức tin, làm thế nào để chúng hiểu biết chân lý về Chúa Kitô; làm thế nào để chúng khám phá ra sự thật, làm thế nào để chúng trở thành những nhà giáo dục đức tin qua hành vi của chúng; làm thế nào để chúng cảm nghiệm, hiểu biết, phán đoán và sống đức tin

  • Việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin đặt nền tảng trên sự nghiên cứu sư phạm thần học

Việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo phải được xây dựng trên sự nghiên cứu sư phạm thần học. Sự nghiên cứu thần học phải được thực hiện bởi vì việc giáo dục đức tin liên quan tới mặc khải, niềm tin, đức tin; tôn giáo, sự cứu rỗi, giáo lý và những tranh luận khác. Hơn nữa nó bao gồm cả việc nghiên cứu sư phạm bởi vì nó liên quan tới việc giáo dục, giáo lý, sự nghiên cứu, dạy dỗ, tình yêu và nhiều yếu tố khác.

  • Những nhà giáo dục được gọi để nghiên cứu thực trạng tôn giáo của giới trẻ đa tôn.

Vừa qua một hội đồng đã nghiên cứu và phân tích thực trạng tôn giáo thế giới, đặc biệt giới trẻ. Rất nhiều nhà giáo dục được mời gọi để nghiên cứu đặc biệt về tình hình tôn giáo của giới trẻ đa tôn.

Giới trẻ đa tôn giáo hầu hết được tìm thấy trong những thành phố công nghiệp hóa phát triển. giới trẻ ấy đối diện với những vấn đề liên quan đến công nghiệp hóa, đô thị hóa và những phương tiện truyền thông đại chúng. Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn, chúng có thể thông thạo về thế giới và con người.

Tuy nhiên, chúng thiếu những thong tin tôn giáo và luân lý bởi chúng là sản phẩm của nền công nghiệp hóa, đô thị hóa, là hạt nhân trong gia đình mà vì chủ nghĩa duy vật chất và duy hưởng thụ nên chúng cảm thấy không cần Thiên Chúa nữa. Chúng rơi vào thuyết vô bất tri và vô thần. Do đó chúng đánh mất những giá trị luân lý, tôn giáo của gia đình; chúng không ý thức về sự hiểu biết, phán đoán và tính khách quan liên quan tới những giá trị luân lý, tôn giáo. Chúng rơi vào thuyết tương đối và chủ nghĩa duy hoài nghi. Những lý thuyết tự mâu thuẫn này cho rằng tất cả mọi sự là tương đối, và hoài nghi mọi sự. Khi những lý thuyết áp dụng trong thế giới tôn giáo, luân lý, kết quả là tất cả những giá trị luân lý trở thành chủ quan và người ta bắt đầu hoài nghi mọi sự. Để đối lại với những điều này, chúng phải được giáo dục tính khách quan và thiết lập một trật tự luân lý. Hơn nữa các quy tắc về trật tự luân lý phải được làm rõ cho chúng

  • Nhà giáo dục tìm hiểu nguyên nhân của sự khủng hoảng đức tin

Những nhà giáo dục được mời gọi để nghiên cứu và tìm ra những nguyên nhân khủng hoảng đức tin của giới trẻ đa tôn giáo. Tại sao người ta từ chối đức tin và tại sao sự dửng dưng tôn giáo lại len lỏi vào giữa giới trẻ đa tôn?

Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu sự giáo dục chu đáo ở nhà trường, thiếu sự giáo dục luân lý – tôn giáo trong nhà trường, cách xa gia đình, thiếu những tổ chức xã hội – văn hóa – kinh tế – tôn giáo – luân lý cho giới trẻ trong các Giáo hội địa phương, thiếu sự rộng mở với liên tôn giáo, thiếu sự can đảm rao giảng Đức Kitô bằng lời nói và hành động của những nhà giáo dục và của người Công giáo.

  • Nguồn gốc những giá trị Công giáo của Giáo hội về việc giáo dục đức tin cho người trẻ trong bối cảnh đa tôn giáo

ở đây không nói tới sự hiện hữu của một vài hiến pháp Giáo hội hay những văn kiện về đề tài “Giáo dục đức tin trong bối cảnh đa tôn giáo”. Tuy nhiên, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến việc giáo dục đức tin trong bối cảnh đa tôn giáo. Từ cộng đồng Vaticano II, Giáo hội ý thức hơn công việc cứu rỗi của mình giữa những tôn giáo khác.

Những tài liệu quan trọng hơn là : Conciliar declaration on Christian Education GE ; Pope Paul VT s Apostolic Exhortation EN ; Pope John Paul II’s Apostolic Exhortation Catechesi tradendae ; From the Congregation for Catholic Education Lay catholics in schools : Witness to faith and The religious dimension of education in a catholic school,… ngoài ra còn nhiều tài liệu khác nữa.

CHƯƠNG IV

THẦN HỌC GIÁO DỤC ĐỨC TIN

  • Thiên Chúa, nhà giáo dục

 

  • Giáo dục đức tin và kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa

Con người có thể nhận biết kế hoạch cứu độ thế giới của Thiên Chúa vẫn đang được tiếp diễn từ sau công trình sáng tạo. Đức Kitô là sự thể hiện mang tính lịch sử chung cuộc và tối hậu của Thiên Chúa, Đấng qua cuộc nhập thể, vượt qua, chết và sống lại, qua sự kiện Đức Kitô là con người lịch sử giới hạn trong không gian và thời gian đã giao hòa nhân loại của mọi thời đại với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa, là sự hiện hữu vĩnh cửu trước mọi thời và mọi tạo vật. Ngài là Thiên Chúa làm người, mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài có tác động cá biệt cũng như phổ quát. Tóm lại cuộc nhập thể, vượt qua. Chết và sống lại của Ngài trong lịch sử đã mang lại sự giao hòa và ơn cứu chuộc phổ quát cho tất cả mọi người nam cũng như nữ thiện chí của mọi thời đại

Giáo dục đức tin nghĩa là trình bày và giải thích kế hoạch cứu độ phổ quát của Thiên Chúa đặt trọng tâm nơi Đức Kitô. Kế hoạch ấy đang bộc lộ dần dần qua luân lý, khoa học và Giáo lý Công giáo. Có nhiều cách thức giải thích kế hoạch cứu độ này nhưng không ngoài chiều kích qui Kitô.

  • Thiên Chúa Cha giáo dục con người tin vào Ngài

Thiên Chúa Cha, Đấng sáng tạo vũ trụ, đã tạo dựng và ban cho con người đầy đủ ân sủng và tự do. Nhưng vì ích kỷ và kiêu ngạo, con người đã sử dụng tự do, ý chí và lý trí của mình để bất tuân phục Thiên Chúa. Con người đã đánh mất ân sủng và phải xa cách Thiên Chúa. Tuy vậy, Thiên Chúa đã không từ bỏ con người. Vì yêu, Ngài đã hứa giáo dục họ qua các ngôn sứ, qua Đức Kitô và Chúa Thánh Thần và cuối cùng đem con người trở về với Ngài

  • Thiên Chúa giáo dục dân tộc đa tôn qua Đức Kitô

Chúa Cha đã chọn Israel và giáo dục họ. Dân tộc Israel có nhiều tôn giáo và tôn thờ nhiều thần khác nhau. Nhưng Giavê đã giáo dục họ qua sự can thiệp của Ngài để họ tôn thờ Ngài, Thiên Chúa duy nhất. Họ đã thi hành mệnh lệnh Môise là không vâng lời Chúa nào khác ngoại trừ Giavê. Vì thế, Thiên Chúa đã giáo dục dân Israel vốn nhiều giáo phái và nhiều tôn giáo khác nhau để họ tin vào Ngài. Đây là một sự giáo dục xa hướng tới việc đón nhận Chúa Kitô, nhà giáo dục, Đấng giáo dục họ tới đức tin, nghĩa là tin Đức Kitô là Thiên Chúa và Giáo hội của Ngài.

  • Thiên Chúa giáo dục những cộng tác viên đức tin

Thiên chúa ban cho dân tộc Israel hồng ân đức tin. Qua đức tin này, Ngài muốn giáo dục họ cộng tác với Ngài trong việc chuẩn bị cho Đức Kitô, Đấng Cứu thế, con duy nhất của Ngài. Đức tin không là một hồng ân phiến diện. Thiên Chúa mong đợi con người đáp trả hồng ân đức tin ấy. Qua các tiên tri, dân tộc Israel đã dần dần được dạy dỗ để cộng tác với công việc của Giavê. Ngài đã ban cho họ hồng ân và lời mời gọi đó. Tất cả những điều này đòi hỏi phải giáo dục sự cộng tác.

Việc Giavê tuyển chọn Israel là một lời mời gọi cộng tác và lãnh trách nhiệm. Dân tộc Israel đã được gọi để nối lại quan hệ tự do giữa lý thuyết và thực hành. Họ tin rằng việc nối lại quan hệ tự do là xây dựng một chiếc cầu trách nhiệm. Đối với việc giáo dục ấy, Giavê đã đặt lên họ trách nhiệm nhìn nhận chỉ mình Ngài là Thiên Chúa (Dt 4,39) và gìn giữ lệnh truyền của Ngài (Dt4, 40; 7,9; 10,16)

  • Thiên Chúa giáo dục dân Israel qua các ngôn sứ

Giavê Thiên Chúa cần những người cộng tác với Ngài trong việc giáo dục Israel. Vì thế, Ngài đã nói, đã hành động qua các vị ngôn sứ. Dân Israel không thể hiểu lời của Giavê cách trực tiếp. Họ cần được nói bằng ngôn ngữ nhân loại qua những vị lãnh đạo đã được chọn và các ngôn sứ. Qua các ngôn sứ Giavê đã chỉ cho thấy nội dung của việc giáo dục: Giao ước, những mệnh lệnh, sự cộng tác.

  • Thiên Chúa tôn trọng và thống trị các nền văn hóa đang khi giáo dục đức tin

Giavê đã can thiệp vào những công việc của Israel và dần dần dẫn họ về với Ngài. Ngài đã chọn Israel và giáo dục trong nền văn hóa của họ. Ngài tôn trọng văn hóa, chủng tộc, ngôn ngữ của họ. Tuy nhiên, Ngài không chấp nhận những hành động bất chính hiện hữu trong nền văn hóa đa nguyên của họ: việc thờ nhiều thần, tục đa thê, hành động giết người và nhiều điều khác nữa. Thiên Chúa đã thống trị (St 27,40;37,8; Ds 24.19; G 25.2; 38,33; Tv 8,6; 19,13; 119,133; 72,8; Dcr 9,10; Is 26,13; Đn 4,34; 7,14) nền văn hóa và những phong tục bằng Giao ước, những mệnh lệnh, những lề luật và những nguyên tắc của Ngài. Ngài muốn là Thiên Chúa duy nhất của họ. Ngài muốn họ thờ một mình Ngài mà thôi. Ngài truyền cho họ phải vâng lời Ngài với tâm hồn khiêm nhường thống hối. Ngài không đòi hỏi họ những lễ vật hy sinh và hiến tế nhưng là sự vâng phục (Sm 15,22; Tv 50,8; Mk 6,6)

  • Thiên Chúa giáo dục cá nhân và cộng đồng

Thiên Chúa dã giáo dục toàn thể cộng đồng Israel và do đó cá nhân mỗi người được tôn trọng. Tuy nhiên, đối với Giavê việc giáo dục không mang nghĩa cá nhân nhưng là sự thuần phục của toàn thể dân tộc Israel. Ngài đã thuần phục và giáo dục cộng đồng Israel tới sự trưởng thành và mỗi cá nhân đều ý thức việc giáo dục ấy. Đôi khi những lời nói với cá nhân ám chỉ tới toàn thể Israel, tới những người khác và ngược lại

  • Thiên Chúa giáo dục qua những dụng cụ

Thiên Chúa giáo dục Israel qua nhiều dụng cụ biểu tượng: các vị ngôn sứ, qua Lời, qua các sứ điệp, những giấc mơ, những dấu chỉ. Ngài dùng ngôn ngữ và những biểu tượng của con người để biểu lộ lý trí và ý chí của Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa có giới hạn. Hơn nữa nó cho thấy con người là giới hạn và nhỏ bé. Thiên Chúa đã hạ mình xuống dưới tầm mức của Ngài. Nếu Thiên Chúa không nói bằng ngôn ngữ nhân loại thì con người không thể hiểu Ngài được.

  • Thiên Chúa giáo dục trong lịch sử

 

Thiên Chúa thực hiện việc giáo dục của Ngài trong lòng lịch sử, trong thời gian và không gian của con người. Đang khi Thiên chúa là vĩnh cửu, còn lịch sử con người được bắt đầu trong thời gian, được tạo dựng bởi tạo hóa. Thiên Chúa, Đấng tạo hóa đã mặc khải chính Ngài qua việc tạo dựng người nam và người nữ đầu tiên trong vườn địa đàng. Hơn nữa với sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa khởi sự sự hiện hữu vì con người.

Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và Ngài mong muốn con người nên như vậy mãi mãi, nhưng con người đã phạm tội và bóp méo hình ảnh mà Ngài đã tạo dựng. Vì lòng thương xót Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người mà đã khởi sự giáo dục họ. Qua các ngôn sứ, Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa giáo dục con người và mang con người trở về với hình ảnh ban đầu của Ngài. Tất cả những điều này xẩy ra trong lịch sử, thời gian và không gian của con người

  • Thiên Chúa đòi phẩm chất giáo dục

Thiên Chúa, là Cha đã không hài lòng với sự tuân phục bên ngoài, hoặc giáo dục về lượng (quantitative education). Ngài là Thiên Chúa hay ghen tuông. Mục đích giáo dục của Ngài là dạy con người yêu mến Thiên Chúa bằng lý trí, ý chí yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Hơn nữa Ngài muốn mọi người yêu thương nhau bởi vì họ đều là con của Ngài. Ngài muốn toàn thể nhân loại trở thành một gia đình mà Ngài là Đầu. Vì thế, việc giáo dục của Ngài là một việc giáo dục của tình yêu. Ngài không hài lòng những vật hy sinh, lễ vật hiến tế, những lời ca tụng, việc cắt bì và mọi hình thức bên ngoài. Hơn nữa Ngài muốn trái tim bằng thịt của con người phải yêu Ngài và chỉ mình Ngài mà thôi

  • Thiên Chúa giáo dục bằng một tiến trình tiệm tiến

Thiên Chúa không giáo dục Israel, tương lai Giáo hội cùng một lúc. Qua nhiều thế kỷ Ngài đã kiên nhẫn giáo dục họ. Con người thật không dễ để cộng tác đáp trả ơn Ngài. Họ đã chống lại Thiên Chúa, đã không trung thành, ích kỷ, kiêu ngạo, phạm nhiều tội lỗi và bất tuân nhưng qua một sự kiên nhẫn và qua một tiến trình tiệm tiến. Thiên Chúa đã huấn luyện họ để yêu Ngài

  • Thiên Chúa giáo dục qua việc sửa phạt

Con người đã không đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa. Họ đã thất bại trong việc cộng tác với những ân sủng thần linh. Sự thất bại của họ trong việc đáp trả lời mời gọi trung thành và quảng đại của Thiên Chúa là tội lỗi của họ chống lại Ngài. Vì thế Thiên Chúa phải sửa trị sự bất tuân và kiêu ngạo của con người. Sau khi nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã không rút lại những hồng ân đặc biệt mà Ngài đã ban cho họ. Con người phải đau khổ, phải làm việc vất vả. Ngài đã giáng trên con người nhiều loại hình phạt và nhiều đau khổ. Tất cả đã cho thấy rằng Ngài là Thiên Chúa. Ngài đã kêu con người đến gần Ngài hơn. Trong sự đau khổ và khốn nạn, con người đã kêu cầu Thiên Chúa. Hơn nữa Ngài đã sai các ngôn sứ đến để sửa dạy con người. Ngài đã gởi cho họ những sứ điệp đanh thép. Ngài kêu mời họ ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. vì thế sự trừng phạt là một phần của việc giáo dục mà Thiên Chúa đã ban cho con người

  • Chúa Giêsu, thầy dạy đức tin
  • Chúa Giêsu giáo dục đức tin trong Chúa Cha, và trong Chúa Thánh thần

Trong Chúa Giêsu Kitô, kế hoạch giáo dục của Thiên Chúa được hoàn thành. Qua cuộc nhập thể, vượt qua, chết và sống lại, con người được đem về với Thiên Chúa. Việc giáo dục tình yêu được hoàn thành. Qua Chúa Kitô, con người được đem đến với Chúa Cha. Việc đến với Chúa Cha qua Chúa Con được tiếp tục ngay sau việc Chúa Giêsu về trời, trong Chúa Thánh Thần từ khi Ngài hiện xuống. Chúa Thánh Thần gìn giữ công việc ấy trong tâm hồn con người và dẫn dắt họ qua Chúa Kitô đến với Chúa Cha. Cách thức đến với Chúa Cha ấy là kết quả của việc giáo dục kiên nhẫn của Thiên Chúa. Hành động đáp trả vĩ đại nhất của con người là yêu Thiên Chúa bằng lý trí, ý chí, yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương người lân cận như chính mình

  • Chúa Kitô, nhà giáo dục đức tin

Chúa Kitô đã tuyên bố Ngài là người đã loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Lc 4,43). Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh này. Hành động của Ngài xét như là nhà giáo dục bao gồm: việc dạy dỗ, việc kêu gọi các môn đệ và những tông đồ của Ngài, cuộc vượt qua, chết và sống lại, việc giáo dục vĩnh viễn hiện diện nơi Ngài và nơi những người theo Ngài.

Chúa Giêsu, nhà giáo dục đức tin đầu tiên đã ban cho các tông đồ của Ngài và những người theo Ngài hồng ân đức tin trong Cha Ngài. Ngài đã nói với họ về Nước Thiên Chúa (Mt 5,3-12;13,18,24-25). Tất cả các sự khác đối với Ngài là thứ yếu (Mt 6,33). Ngài đã dạy họ về Nước Thiên Chúa: hạnh phúc thuộc về vương quyền, một hạnh phúc nghịch lý mà thế giới bác bỏ (Mt 5,3-12) những mệnh lệnh của Nước Trời và hiến chương nước trời (Mt 5,5-7), những sứ giả của Nước Trời (Mt 5,10), những mầu nhiệm của Nước Trời (M5,20), những con người bé mọn của Nước Trời (Mt 5,28), sự tỉnh thức và sự trung thành mong đợi thực tại Nước Trời (Mt 5,24-25)

Ngài đã giáo dục họ hướng tới sự tự do ơn cứu độ mà ơn cứu độ đó là tâm điểm của Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngài đã dạy họ rằng sự tự do của ơn cứu độ này có liên quan chính yếu đến sự tự do khỏi tội lỗi, thần dữ cũng như tất cả những điều đè nặng lên con người. Ơn cứu độ ấy sẽ hoàn toàn được thực hiện trong thời gian đã được định trước (Mt 24,36; Cv 1,7;1 Tx 5,1-2)

Chúa Giêsu đã dạy họ về Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi được ban cho con người như là ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời, mỗi người phải nỗ lực cộng tác đáp trả, bằng đời sống Phúc Âm, sự từ bỏ và thập giá, tinh thần tám mối phúc thật, metanoia, tức là một sự biến đổi tận căn của tâm hồn và trí khôn

Chúa Giêsu đã giáo dục đức tin bằng việc rao giảng không biết mệt mỏi về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ (Mc 1,27; Lc 4,22; Ga 7,46) bằng những dấu chỉ Phúc Âm (Lc 4,43; Ga 11,52; DV,4: ASS 58, 1966, 818-819)

  • Chúa Kitô, nhà giáo dục giới trẻ

Trong Phúc âm chúng ta đọc thấy tình yêu của Chúa Giêsu Kitô đối với giới trẻ. Bằng nhiều cách thức Ngài đã gọi chúng và yêu mến chúng. “Chúa Giêsu nhìn và yêu mến chúng” (Mc 10,21). Ngài muốn chúng vây quanh Ngài (Mt 19,14-15; Mc 10,13-16; Lc 18, 15-17). Ngài đón tiếp chúng (Mt 19,16-26; Mc 10, 17-22). Ngài chữa lành cho chúng (Lc 7, 11-15; 8, 40-55; Mc 5, 21-43). Ngài giải thoát chúng khỏi ma quỷ (Mc 17,14-18; 7,24-30; Lc 9,37-43; Mt 15,21-28). Ngài tha thứ cho chúng qua ngụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15,11-32)

Những hành vi yêu thương của Chúa Giêsu diễn tả tình yêu của Ngài đối với đứa trẻ. Bằng tình yêu Ngài giáo dục chúng để chúng tới với Ngài. Ngài kêu gọi chúng theo Ngài.

  • Mạc khải tất cả sự phong phú của mầu nhiệm Chúa Kitô là niềm vui lớn nhất của đời người và tu sĩ giáo dục

Người đời và những tu sĩ giáo dục được kêu gọi không chỉ để truyền đạt những nội dung và những phương pháp giáo dục đức tin mà còn để thông truyền ngôi vị của Đức Giêsu Kitô. Ngài là cứu cánh trong khi những sự khác là phương tiện và thứ yếu. Người đời và tu sĩ giáo dục thi hành lời của Thánh Phaolo cho riêng họ: “…Tri thức cao trọng nhất của chúng ta là biết Chúa Giêsu Kitô, và niềm vui lớn nhất của chúng ta là mặc khải sự phong phú khôn dò của mầu nhiệm của Ngài” (Eph 3, 8-19).

Kiến thức về Chúa Kitô này bao gồm: sự kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô ngay trong những công việc nhỏ mọn của cuộc sống hằng ngày lắng nghe lời Ngài; nhìn toàn thề thực tại qua nhãn quan thiêng liêng Kitô giáo; nghiên cứu và học hỏi tất cả những điều là thiết yếu cốt để trình bày ngôi vị Chúa Kitô. Vì thế việc giáo dục đức tin không gì khác hơn là giới thiệu cho những người khác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Người thánh hiến được mời gọi để giáo dục đức tin với niềm vui, sự nhiệt tình và sẵn sàng hy sinh đời sống cho tới lúc hấp hối. Tất cả những điều này phải được thực hiện để danh Chúa Kitô được nhận biết, rao giảng, được giáo dục và được sống

  • Ưu tiên giáo dục ơn cứu rỗi

Vì thế Giáo hội không thể không quan tâm đến việc phát triển của người nghèo và những người bị bỏ rơi đặc biệt là giới trẻ. Việc quan tâm đến những người nghèo và bị bỏ rơi luôn được coi là công việc hàng đầu của Giáo hội. Giáo hội thực hiện công việc này qua ơn cứu rỗi đã được thực hiện trong Đức Kitô Giáo hội không chỉ giáo dục giới trẻ tới sự tự do của con người mà còn tới ơn cứu rỗi được thực hiện trong Đức Kitô. Trong Đức Giêsu Kitô Giáo hội thi hành việc giáo dục mang tính Kitô ấy và loan báo ơn cứu chuộc phổ quát của Ngài

  • Việc giáo dục đức tin theo nghĩa sẵn sàng vô điều kiện cho sứ mạng cứu rỗi Kitô giáo

Giáo dục giới trẻ tới đức tin là dâng hiến cho giới trẻ đa tôn giáo sứ điệp cứu rỗi được trao ban qua Chúa Kitô. Đáng tiếc vì thiếu sự hiểu biết và phán đoán chính xác liên quan tới câu: “ngoài Giáo hội không có ơn cứu rỗi” nên sứ điệp Kitô giáo đã bị áp đặt bằng võ lực. Điều này đã đánh mất tự do và trách nhiệm tôn giáo về phía người thụ giáo và hiến dâng vô điều kiện về phía nhà giáo dục. Thiên Chúa ban cho con người ơn cứu độ vì sự thiện và lòng tốt của Ngài. Chúa Con đã vâng lời Chúa Con cách tự do: “Lạy Cha không phải theo ý Con, nhưng xin cho Ý Cha được trọn”. Chúa Cha đã không ép buộc Con một của Ngài và Chúa Giêsu đã thi hành Ý Cha cách hoàn toàn tự do. Đây là sự tự do, tự trao ban và tiếp nhận vô điều kiện

Thái độ này được tiếp tục khi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình cho sứ mạng của Cha qua việc chọn các tông đồ. Ngài không ép buộc họ. Ngài đã gọi họ và họ đã theo Ngài. Tới lượt các tông đồ cũng mời gọi người khác hoàn toàn tự do theo Chúa Kitô. Tuy nhiên Giáo hội tiên khởi đã không giữ sự dâng hiến tự do vô điều kiện này bởi vì thiếu sự hiểu biết liên quan tới quan niệm: “ngoài giáo hội sẽ không có ơn cứu rỗi”. Nhưng ngày nay Giáo hội đã vượt qua sự bất tri ấy, Giáo hội chấp nhận tất cả những điều thánh thiện  và tốt lành trong các tôn  giáo khác , tôn trọng sự tự do và trao ban vô điều kiện sứ điệp Kitô giáo của Chúa Cha, Chúa Con và các Tông đồ. Đó cũng là sự trao ban  cách tự do và vô điều kiện giữa nhà giáo dục và người thụ giáo .

  • Đức Giêsu Kitô là cùng đích của việc giáo dục đức tin

Biết Chúa Kitô là kiến thức cao nhất mà chúng ta có và biểu lộ màu nhiệm của Chúa Kitô cho mọi người là niềm vui lớn nhất của chúng ta. Vì thế mục tiêu của việc giáo dục giới trẻ tới đức tin là Chúa Giêsu Kitô. Đây là một việc giáo dục đức tin. Nghĩa là giáo dục những người ngoại giáo và giới trẻ của những tôn giáo khác tới đức tin.

  • Ơn cứu rỗi xuyên qua Đức Giêsu Kitô là tột đỉnh của việc giáo dục

Tột đỉnh của việc giáo dục đức tin là ơn cứu rỗi qua Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ này đạt được qua cuộc nhập thể, vượt qua, chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.Ơn cứu độ đó được ban cho mọi người. Toàn thể nhân loại, tất cả của mọi người mọi thời đại đều được cứu rỗi qua Đức Kitô. Ngài là Đấng cứu chuộc phổ quát. Dù không chịu phép Rửa cũng được cứu độ qua Ngài trong cách thức mà chỉ mình Ngài biết. Chắc chắn sự cộng tác tương ứng với ơn gọi của mỗi người sẽ được Thiên Chúa thưởng công. Vì thế người đã chịu phép Rửa cũng như chưa chịu phép Rửa phải cộng tác với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa và việc chấp nhận cộng tác là một hồng ân của ơn cứu độ.

Ơn cứu độ mang tính Kitô này không thuộc thời gian, không qua đi, không thuộc về thế gian, không nhất thời chóng qua, phù du, tạm thời, nhưng bất diệt, vĩnh viễn, mãi mãi tồn tại, thuộc về tinh thần vĩnh tồn, vô tận bất tử. Ý tưởng phổ quát của ơn cứu độ hiện hữu hầu hết trong mọi tôn giáo. Ơn cứu độ ấy đã khởi sự trên thế gian này rồi. vì thế, việc trình bày nó cho giới trẻ đa tôn giáo là điều không quá khó khăn

  • Giáo dục đức tin là giáo dục niềm hy vọng Kitô giáo

Giáo dục đức tin sẽ không được hoàn thành ngoài việc giáo dục tới nguồn ơn cứu độ. Thực vậy không có một nền giáo dục chỉ thuộc về những thực tại trần thế. Đúng hơn, nền giáo dục đó phải thuộc về những thực tại thiêng liêng. Đó là một nền giáo dục vừa liên tục vừa gián đoạn với hoàn cảnh hiện tại. Nó vượt trên thời đại và lịch sử, vượt trên những thực tại trần thế. Thứ đến người ta sẽ nhận thấy chiều kích ẩn của việc giáo dục này. Nó bao gồm việc giáo dục niềm hy vọng mà Thiên Chúa đã hứa trong Giao ước mới là Chúa Giêsu Kitô

Vì thế, giáo dục đức tin bao gồm việc: giáo dục về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và tình yêu của con người đối với Thiên Chúa; về mầu nhiệm sự thiện và sự dữ; về dấu chỉ hữu hình của cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người là Giáo hội; về các bí tích do Chúa Giêsu thiết lập mà chúng ta được sống; việc cử hành Thánh Thể tột đỉnh của Bí tích.

  • Việc giáo dục đức tin dõi theo thời đại mang tính Kitô

Chắc chắn những đoạn Kinh Thánh Tân ước như: “Tôi chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel” (Mt 15,24) và “Đức Giêsu đã sai đi và truyền lệnh cho các môn đệ rằng: các ngươi đừng đến với các dân ngoại; cũng đừng vào thành nào của người Samari; đúng hơn hãy đi đến cùng các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10, 5-6) sẽ tạo nên một ấn tượng rằng cuộc nhập thể của Đức Giêsu Kitô chỉ có ý nghĩa đối với người Do Thái. Thế nhưng, sau biến cố phục sinh mệnh lệnh của Chúa Kitô mang tính phổ quát. “Hãy đi khắp thế gian, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần và dạy họ tất cả những điều Thầy truyền cho các con. Và các con biết rằng: Thầy ở với các con luôn, vâng, mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18). Vì thế, bất kỳ người ngoài Công giáo thuộc các Quốc gia, tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ nào thì việc giáo dục đức tin vẫn được dành cho họ.

Đúng hơn những người trẻ đa tôn giáo là những người mà việc giáo dục đức tin nhắm tới. chính họ là những người đã được nhắm tới để giáo dục đức tin. Sau đó, chính những người trẻ Công giáo cũng phải được giáo dục để họ thấm nhuần đức tin hơn.

  • Chúa Thánh Thần , Giáo hội và việc giáo dục đức tin
  • Việc giáo dục đức tin và hoạt động của Chúa Thánh Thần

Việc giáo dục đức tin cho người ngoại giáo không bao giờ được thực hiện ngoài hành động của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã thông truyền việc giáo dục đức tin cho các môn đệ và tất cả những người theo Ngài, trong Chúa Thánh Thần (Mt 3,17; Lc 4,14,18,21; Ga 20,20,22).

Vì thế, các Tông đồ đã bắt đầu công việc giáo dục đức tin của họ trong Chúa Kitô vào ngày Hiện xuống khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ (Cv 2,17;4,8;9,17,31; 6,5,10; 7,55; 10,44). Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn nhà giáo dục giải thích những lời dạy dỗ của Chúa Kitô. Ngoài Chúa Thánh Thần không có việc giáo dục đức tin.

Ngoài Chúa Thánh Thần không thể có việc giáo dục đức tin. Ngoài Chúa Thánh Thần mọi kỹ năng, phương pháp, mọi bằng cấp của những nhà giáo dục, mọi nghiên cứu tiên tiến đều vô nghĩa. Ngài là tác nhân chính yếu, là người hướng dẫn việc giáo dục đức tin. Ngài hoạt động trong lương tâm con người và làm cho Lời Chúa được tiếp nhận và hiểu biết. Với cách thức này, Ngài giáo dục con người bằng hành động nội tâm.

  • Sự bất khả phân giữa Chúa Kitô, Giáo hội và việc giáo dục đức tin

Đức Giêsu – Nhà Giáo Dục, Giáo Hội – người được giáo dục và cũng là nhà giáo dục và việc giáo dục đức tin không thể tách biệt Giáo Hội – kẻ thụ giáo phải thừa nhận Vị Thầy và nhà giáo dục của mình Đức Giêsu Kitô. Giáo dục phải tiếp tục giáo dục đức tin qua Đức Giêsu Kitô. Giáo hội phải tiếp tục giáo dục đức tin qua Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, Giáo hội phải tiếp tục giáo dục đức tin cho thế giới, dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô rao giảng Danh Chúa cho mọi người. Giáo hội phải chuẩn bị những nhà giáo dục để tiếp nối Thánh Phêrô và các Tông đồ chính thức công khai rao giảng danh Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Vì thế, chúng ta nhận ra rằng ở đâu có Chúa Kitô, ở đó có Giáo hội và việc giáo dục đức tin trong Chúa Kitô.

  • Giáo hội được Chúa Kitô giáo dục để trở nên nhà giáo dục

Giáo hội được thành lập như là kết quả của việc giáo dục đức tin được hoàn thành bởi Chúa Cha và Chúa Con. Israel là một dân tộc non trẻ đã được giáo dục bởi Chúa Cha, Nhà giáo dục. Chúa Kitô nhà giáo dục đã hoàn thành việc giáo dục trong chính Ngài và đã biến đổi Israel thành Giáo hội của Ngài để tiếp tục giáo dục những người khác. Vì thế, Giáo dục cùng một lúc vừa là người được giáo dục và là nhà giáo dục đức tin. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục giải thích, cắt nghĩa, thông truyền và tái tạo nền giáo dục mang tính Kitô giáo. Vì thế Chúa Thánh Thần là Đấng gìn giữ hướng dẫn Giáo hội qua việc giáo dục và đào luyện liên tục.

Giáo hội hiện diện trong thế giới trong khi Chúa Kitô nhà giáo dục đang ngự bên hữu  Chúa Cha. Giáo hội tiếp tục là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Giáo hội được kêu gọi để tiếp tục sứ mạng là nhà giáo dục và vẫn tiếp tục được giáo dục.

Giáo hội giáo dục chính mình qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Dòng dõi Thiên Chúa đã chìm đắm trong thế giới, nên dễ bị lôi cuốn bởi nhiều tượng thần khác. Vì thế, họ cần phải lắng nghe những lời công bố về những kỳ công của Thiên Chúa (Cv 2,11; 1 Pr 2,9) và để biến đổi, họ cần phải tiếp tục đến với Thiên Chúa và tái hợp nhất với Ngài qua việc giáo dục. Để bảo đảm tính chất mới mẻ này, Giáo hội luôn cần được giáo dục. Qua tính mới mẻ này Giáo hội sẽ có một sức mạnh để giáo dục đức tin cho người khác. Vì thế, Giáo hội cần phải giáo dục chính mình qua Lời Chúa để tiếp tục biến đổi và canh tân. Khi đã được giáo dục, Giáo hội tiếp tục giáo dục đức tin cho thế giới qua việc công bố Phúc Âm.

Giáo hội được trao phó cho nội dung của việc giáo dục: những lời hứa của Giao Ước mới đã được thực hiện trong Đức Kitô, trong lời giáo huấn của Chúa của các Tông đồ và trong  Lời Chúa. Vì thế Giáo hội nắm giữ nội dung giáo dục đức tin nhưng không dấu kín nó, hơn nữa còn dùng nó để thông truyền cho người khác.

Giáo hội cũng kêu gọi những Kitô hữu trở nên những nhà giáo dục. Giáo hội sai những nhà giáo dục đi giáo dục đức tin cho người khác. Việc giáo dục đức tin  ấy được thi hành qua sự trung thành với Phúc Âm và giáo huấn của Giáo hội. Vì thế, những nhà giáo dục không dạy những tư tưởng cá nhân của họ.

  • Đức Maria, nhà giáo dục và người được giáo dục
  • Đức Maria, mẫu gương của những nhà giáo dục đức tin

Mẹ Maria đã giáo dục Con của Mẹ, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tin vào Chúa Cha. Mẹ đã dạy Ngài yêu mến Chúa Cha và yêu mến những người thân cận. Đây là việc giáo dục lớn nhất mà Mẹ đã làm cho Ngài. Mẹ là mẫu gương tuyệt vời nhất và lý tưởng nhất của mọi nhà giáo dục đức tin, bởi vì Mẹ đã dạy Chúa Giêsu sự khiêm nhường, tin tưởng, vâng lời, đồng thời Mẹ cũng sẵn sàng tiếp nhận những lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Con Mẹ. Tất cả nhũng nhà giáo dục hãy bắt chước sự khiêm nhường, đức tin và sự vâng lời của Mẹ trong mọi hoạt động giáo dục của mình. Hơn nữa, như Mẹ, họ cũng biết sẵn sàng đón nhận sự giáo dục bởi Chúa Giêsu Nhà Giáo dục. Như Mẹ, họ cũng sẵn sàng trở thành người thụ giáo bởi Chúa Giêsu, Nhà Giáo dục.

  • Đức Maria, khuôn mẫu của những nhà giáo dục và người thụ giáo

Đức Maria trọn đời đồng trinh là mẫu mực của những nhà giáo dục vì Mẹ đã giáo dục Đấng giáo dục nhân loại, Đức Giêsu Kitô, Đấng là Thầy. Từ giây phút truyền tin, Mẹ đã thốt lên lời “xin vâng” của Mẹ. Như một nữ tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Mẹ đã để cho Thánh Ý của Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời của Mẹ. Cho dù Mẹ không thể hiểu tất cả những mầu nhiệm nhập thể, vượt qua, chết và sống lại của Chúa Giêsu, Mẹ vẫn tiếp tục thi hành vai trò của Mẹ. Về phần Mẹ, Mẹ đã cộng tác trong việc giáo dục Chúa Giêsu từ thời thơ ấu cho đến khi sứ mạng cứu độ.

Những nhà giáo dục cần học nơi Mẹ: Sự khiêm nhường trong việc giáo dục Chúa Giêsu; sự vâng lời Chúa Cha; sự kiên nhẫn thi hành điều được linh ứng cho dù mập mờ và khó hiểu; sự tử tế; sự sẵn sàng qua cuộc đời xin vâng; sự trung thành; sự hiện diện mang tính giáo dục.

Hơn nữa, Mẹ cũng là khuôn mẫu của người thụ giáo bởi vì Mẹ đã được dạy dỗ và được giáo dục bởi Chúa Giêsu là Thầy và là Chúa của Mẹ. Ngài đã giáo dục Mẹ bằng Lời Chúa, cách lắng nghe và sống Lời Chúa. Ngài dạy Mẹ sự khôn ngoan của cuộc sống. Ngài đã chỉ cho Mẹ con đường đến với Chúa Cha

Những người thụ giáo cần học hỏi nơi Mẹ: sự sẵn sàng học hỏi nơi Chúa Giêsu, Con Mẹ; sự khiêm nhường; sự vâng phục; sự trung thành với Chúa Giêsu; sự quảng đại cộng tác với Thiên Chúa, việc sống Lời Chúa

  • Mẹ Maria giáo dục Chúa Giêsu và được thụ giáo bởi Ngài.

Đức Maria trọn đời đồng trinh đã giáo dục Chúa Giêsu và được thụ giáo bởi Ngài. Đức Giêsu Kitô. Đó là điều tất nhiên bởi vì Chúa Giêsu cũng là người như chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi. Do đó làm sao Ngài có thể loại trừ sự giáo dục thời thơ ấu của Ngài nơi Mẹ. Là Thiên Chúa Ngài không cần điều ấy, nhưng là con người Ngài cần nó. Vì Chúa Giêsu là con người nên cần Đức Maria giáo dục. Hơn nữa, vì Ngài là Thiên Chúa nên Mẹ cũng cần được Ngài giáo dục. Vì Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Vị Thiên Chúa làm người, nên Ngài có hai bản tính, bản tính con người và bản tính Thiên Chúa.

CHƯƠNG V

SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

 

  • Giáo dục đức tin là một sứ mệnh căn bản của Giáo hội
  • Giáo dục đức tin là chiều kích căn bản của sứ mệnh Công giáo

Việc công bố Tin Mừng Đức Giêsu Kitô là sự khai tâm của những người ngoài Công giáo tới mầu nhiệm của Ngài là trung tâm của toàn bộ kế hoạch giáo dục Kitô  giáo. Việc công bố khai tâm này là tâm điểm của việc giáo dục và tỏa sáng trên toàn kế hoạch giáo dục. Vì thế chiều kích căn bản là giáo dục giới trẻ ngoài Công giáo tới đức tin.

Khi nói tới chiều kích căn bản là muốn nói tới sự linh hứng cơ bản mà ưu tiên trong tất cả những hành động đó là việc giáo dục đức tin. Hành động giáo dục này được soi sáng bởi Phúc Âm và được thúc đẩy bởi Chúa Kitô. Giữa tất cả những khía cạnh giáo dục, điều căn bản nhất là đem bình an cho những tâm hồn người trẻ và đó là điều mà Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô mong đợi.

  • Nền tảng của việc giáo dục giới trẻ ngoại giáo tới đức tin: thực thi bổn phận rao giảng của Đức Giêsu.

Nền tảng của việc giáo dục đức tin cho giới trẻ ngoại giáo là một mệnh lệnh có tính cách bó buộc mà Chúa Giêsu trao cho các Tông đồ để họ rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Dạy bảo họ thi hành tất cả những mệnh lệnh của Chúa Giêsu không gì khác hơn là giáo dục đức tin trong Chúa Giêsu.

Hơn nữa, mệnh lệnh của Chúa Giêsu là phổ quát bởi vì Ngài là duy nhất và phổ quát. Ngài là Thiên Chúa làm người, là phổ quát – cá biệt. Vì thế mọi tư tưởng, lời nói và hành động của Chúa Giêsu là cá biệt đồng thời cũng là phổ quát. Mọi điều Ngài nói và làm đều tác động trên toàn thế giới. Vì thế, những lời Ngài dạy dỗ và giáo dục có tác dụng cá biệt cũng như phổ quát.

  • Giáo dục đức tin, một hành động của Giáo hội

Giáo dục đức tin cho người Kitô hữu cũng như người ngoại giáo không bao giờ là hành động cá nhân, đơn độc. Trong bất kỳ trường hợp hoặc hoàn cảnh nào, bất kỳ người thụ giáo là ai, việc giáo dục ấy vẫn là hành động của Giáo hội. Vì thế, việc dạy giáo lý, rao giảng, cử hành các Bí tích và những điều khác liên quan đều phát xuất từ hành động của Giáo hội

Mỗi nhà giáo dục hành động nhân danh Giáo hội, chứ không nhân danh cá nhân mình. Hơn nữa, nhà giáo dục hành động theo những mệnh lệnh của Giáo hội và Giáo hội vâng lệnh Chúa Kitô. Đúng hơn mọi nhà giáo dục phải vâng lời những vị mục tử, bởi vì họ được trao ban năng quyền bởi Giáo hội vượt trên mọi hành động của việc giáo dục đức tin

  • Việc giáo dục đức tin phù hợp với mệnh lệnh rao giảng phổ quát

Mệnh lệnh phổ quát của Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc và mọi tạo vật (Mt 16,15) và đó là nền tảng của việc giáo dục đức tin. Các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi đã thực hành mệnh lệnh phổ quát này. Họ đã giáo dục những người chưa biết Chúa Kitô, để họ tin vào Ngài. Điều đó phù hợp với việc thi hành mệnh lệnh giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo

  • Việc giáo dục đức tin phù hợp với nhiệm vụ Giáo hội mà Chúa Kitô trao phó.

Chúa Kitô trao cho Giáo hội nhiệm vụ trở nên những sứ giả Tin Mừng. Giáo hội thi hành và nắm giữ mệnh lệnh này với bàn tay rộng mở để rao giảng Phúc Âm cho muôn dân. Có một sự chuyển giao kép bởi Chúa Kitô và Giáo hội: “mặc lấy con người mới” và “từ bỏ chính mình để được giao hòa vói Thiên Chúa”.

Những nhà giáo dục tu sĩ và Giáo dân được Giáo hội thừa nhận và ở trong Giáo hội. Hơn nữa ơn Kitô hữu đặt chúng ta vào tâm điểm của Giáo hội và phục vụ sứ mạng Giáo hội cách trọn vẹn hơn. Như vậy sứ mạng của Giáo hội là rao giảng Phúc Âm và mang Chúa Kitô cho muôn dân cũng là sứ mạng của những nhà Giáo dục tu sĩ và giáo dân. Chúng ta chia sẻ sứ mệnh này của Giáo hội, chúng ta quan tâm tới giới trẻ đem họ tới chúa Kitô qua việc rao giảng Phúc Âm

  • Việc giáo dục đức tin là một đặc điểm thiết yếu của đức tin

Tự bản chất Giáo hội giáo dục người Công giáo cũng như những người ngoại giáo và đặc biệt giới trẻ tới đức tin. Đặc sủng giáo dục đức tin của toàn Giáo hội trở nên cá biệt và chủ quan. Vì vậy, nói một cách tiêu cực. Giáo hội sẽ không là Giáo hội như Giáo hội là nếu không có việc giáo dục đức tin cho giới trẻ Công giáo cũng như giới trẻ ngoài Công giáo

Việc giáo dục đức tin không chỉ là một trong những công việc của Giáo hội mà còn là một công việc ưu tiên, một công việc được trao ban như là một sự lựa chọn căn bản. Sự lựa chọn ấy là một thách đố trong việc hội nhập văn hóa. Những nhà giáo dục đức tin không nên có ấn tượng rằng mình đã mang sứ điệp giáo dục Phúc Âm ra ngoài, đúng ra, qua đời sống chứng nhân Kitô, họ nên coi những giá trị, những hy vọng và những lắng lo của giới trẻ làm của riêng mình

  • Giáo dục đức tin là xây dựng Giáo hội giữa giới trẻ đa tôn giáo

Ngày nay hơn bao giờ hết, Giáo huấn của Giáo hội Công giáo đã nói cách rõ ràng về việc giáo dục đức tin cho giới trẻ ngoài Công giáo hoặc những giới trẻ trong những bối cảnh đa tôn giáo. Điều này thể hiện sự quan tâm và nỗ lực tông đồ của Giáo hội hướng tới những người vẫn còn đang mong đợi sứ điệp Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ như những nhà truyền giáo và vì thế công việc truyền giáo là một đặc điểm thiết yếu của Giáo hội Chúa Kitô.

Những nhà giáo dục tu sĩ và người đời được gọi để kiên nhẫn thực hiện công việc Phúc Âm hóa đang hình thành trong lòng Giáo hội bởi một nhóm người. một cách gián tiếp, nó bày tỏ việc hình thành Giáo hội ngay trong lòng giới trẻ đa tôn giáo và trong những bối cảnh đa tôn. Hơn nữa bắt chước Chúa Giêsu, Đấng trở nên mọi sự cho mọi người và coi mọi người như những bạn hữu của Ngài, nhà giáo dục cũng được kêu gọi để thể hiện nơi mình những giá trị của con người đối với những người  mà họ làm việc, chia sẻ những hy vọng và những âu lo của họ. Điều này đòi hỏi những người đời và tu sĩ giáo dục đang làm việc trong những bối cảnh đa văn hóa, thể hiện nơi chính con người của mình những giá trị đa tôn giáo và chia sẻ những hy vọng và những lo lắng của giới trẻ đa tôn giáo

  • Việc giáo dục giới trẻ ngoại giáo là một đối tượng quan trọng của sứ mệnh Công giáo

Sứ mệnh Giáo hội Công giáo yêu cầu: giáo dục giới trẻ tới đức tin, cam kết dấn thân trong những ơn gọi, công bố Phúc Âm cho những người chưa đón nhận Tin Mừng.

Những người đời và tu sĩ giáo dục phải công bố Phúc Âm và Nước trời cho những người mà họ chưa được tiếp nhận. Họ được kêu gọi để giáo dục đức tin cho những người chưa được Rửa tội. Điều đó cũng bao gồm việc giáo dục đức tin không chỉ cho giới trẻ Công giáo mà còn cho cả giới trẻ đa tôn giáo nữa.

Thách đố giáo dục ấy tạo nên những người đời và những tu sĩ giáo dục một viễn tượng phổ quát, ôm ấp toàn bộ thực tại của giới trẻ. Việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo không là một luật trừ nhưng thay vào đó nó trở thành một trong những đối tượng chính yếu của sứ mạng Giáo hội.

  • Việc giáo dục những người ngoại giáo tới đức tin là một ưu tiên hàng đầu của Giáo hội

Trong kỷ nguyên của thế kỷ 20 này, kể từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội đã và đang thực hiện việc giáo dục đức tin cho những người Công giáo cũng như ngoại giáo. Tuy nhiên ưu tiên hàng đầu vẫn là việc giáo dục đức tin cho những người ngoại giáo để họ tin Đức Kitô. Còn những người Công giáo thì phải thực hành và sống đời sống Kitô giáo. Với họ, Giáo hội không ngừng giáo dục và thăng tiến chương trình giáo dục. Nhưng cõi lòng của Giáo hội là giáo dục đức tin cho những người mà chưa bao giờ nghe danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế

  • Những nhà giáo dục đức tin phục vụ sứ mạng Giáo hội

Việc truyền bá Phúc Âm và việc dạy giáo lý là đặc tính căn bản của sứ mạng Giáo hội. Nhà giáo dục được kêu gọi để giáo dục và dẫn tới đức tin trong mọi hoàn cảnh.

Tất cả những nhà giáo dục người đời và tu sĩ được cắt đặt trong Giáo hội để phục vụ sứ mạng Giáo hội. Đối với tu sĩ Salédeng Don Bosco, chúng ta là những người loan báo Tin Mừng cho giới trẻ, đặc biệt những em nghèo nhất và là những nhà giáo dục đức tin cho từng lớp bình dân và tất cả mọi người. Chúng ta được kêu gọi để công bố Tin Mừng cho những người mà họ chưa được tiếp nhận Tin Mừng, đặc biệt giới trẻ đa tôn giáo.

Chúng ta không đóng góp phần của mình cách mù quáng cho giới trẻ là những người chưa được tiếp nhận Tin Mừng nhưng đây là một sự đóng góp tích cực để xây dựng Giáo hội Thân Thể Chúa Kitô. Qua những phương tiện truyền thông xã hội, việc Phúc âm hóa và việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn phải được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa qua cuộc sống chứng nhân Phúc Âm của chúng ta, Giáo hội hiện diện trong thế giới như là “Bí tích phổ quát như là ơn cứu độ”

  • Mọi người Công giáo đều được mời gọi để giáo dục đức tin
  • Ơn gọi của người Công giáo là giáo dục đức tin

Hiển nhiên, Chúa Kitô cứu cả  những người thuộc tôn giáo khác, cho dù họ không là Kitô hữu. Thiên Chúa có nhiều cách thức để cứu rỗi con người. Nhưng người Công giáo bởi ơn gọi của họ là được kêu gọi để giáo dục người khác tới đức tin Kitô giáo. Có thể họ sao nhãng bổn phận của họ chăng? Họ có thể lĩnh nhận ơn cứu rỗi nếu như họ thất bại trong việc giáo dục người khác tới đức tin Công giáo? Họ có thể e thẹn với Phúc Âm vì sự sợ hãi và xấu hổ (Rm 1,16)

  • Việc giáo dục đức tin không chỉ là độc quyền của hàng Giáo phẩm mà còn là của Giáo dân

Hành vi của việc giáo dục đức tin không chỉ độc quyền của hàng giáo phẩm nhưng cũng là của giáo dân, những người đã được Rửa tội. Đó là bổn phận của Giáo hội. Phù hợp với mệnh lệnh của Chúa là hãy đi rao giảng cho thế giới, mọi dân tộc và mọi tạo vật. Toàn thể Giáo hội được kêu gọi để giáo dục đức tin và đó là bổn phận của những người theo Chúa.

  • Theo Chúa Kitô. Giáo dục đức tin

Tất cả mơi người theo Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài cũng góp phần vào việc tìm kiếm, xây dựng và sống sự sống Nước Trời. Mọi người theo Chúa đều được kêu gọi để công bố những công việc lạ lùng của Chúa Kitô (1 Pr2,9; Cv 2,11).

Việc giáo dục đức tin vốn là bổn phận được trao phó cho toàn thể Giáo hội. Nó là một hồng ân và cũng là chính ơn gọi của Giáo hội, là đặc tính thâm sâu của Giáo hội. Giáo hội hiện hữu để giáo dục đức tin, nghĩa là để rao giảng và để dạy dỗ, để giao hòa tội nhân với Thiên Chúa, để kéo dài hy tế của Chúa Kitô trong Thánh lễ (1Pr 2,9; Cv 2,11; Lc 4,43; 1Cr 9,16)

Những người Kitô hữu vì đã tiếp nhận Chúa Kitô và những lời giáo huấn của Ngài nên được mời gọi để trở nên những nhà truyền giáo cho những người đa tôn giáo, đặc biệt là giới trẻ. Những người đời và những tu sĩ giáo dục bởi ơn gọi Kito hữu của họ, họ nguyện trở nên những nhà truyền giáo cho giới trẻ. Vì thế ơn gọi của họ là một lời mòi gọi rất triệt để. Nó là một ơn gọi đào sâu hơn Bí tích Rửa tội

  • Việc giáo dục đức tin cho vô số những người trẻ ngoại giáo

Hợp với mệnh lệnh của Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng của Ngài cho mọi dân tộc và mọi tạo vật. Việc giáo dục đức tin phải được tổ chức với cách thức ấy để hướng tới hết mọi người và đặc biệt là giới trẻ đa tôn giáo. Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt tới chân lý (1 Tm2,4). Hơn nữa Giáo hội được kêu gọi để thi hành ý muốn của Đấng sáng lập, Đức Giêsu Kito, thông cảm với tất cả những người mà họ chưa được giáo dục tin (Mt 9,36; 15,32). Giáo hội đến với những người mà họ chưa được tiếp nhận đức tin để giáo dục họ

  • Giáo hội mời gọi những người đã được giáo dục đức tin giáo dục những người khác

Người đã được giáo dục đức tin cùng được mòi gọi để giáo dục đức tin cho những người khác Giáo dục những người  khác tới  đức tin là có ý nói tới chính việc giáo dục đức tin. Vì thế, việc giáo dục đức tin nhĩa là làm tông đồ để giáo dục người khác trở thành tông đồ

  • Ai giáo dục đức tin và giáo dục khi nào?

Trong Chúa Kitô, toàn thể Giáo hội được mời gọi để  giáo dục đức tin. Đây là hành động của toàn thể Giáo hội. Mỗi người khi đã được Rửa tội đều được mời gọi để công bố danh Chúa Kitô và ơn cứu độ phổ quát của Ngài cho tất cả những ai chưa được nghe danh Chúa. Vì thế, đây là hành động của chính những người đã được rửa tội. Cách riêng những tu sĩ, chính họ đã cam kết để sống ơn gọi bí tích rửa tội cách hoàn  hảo và  triệt để hơn. Họ hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa để đáp trả ơn gọi thánh hiến của họ. Và trong sự thánh hiến này họ được mời gọi để thi hành một sứ mạng cụ thể.

Giáo hội công giáo theo sự hướng dẫn của Đấng Sáng lập Đức Giêsu Kitô và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần được kêu gọi để làm việc cho những người nghèo và giới trẻ bị bỏ rơi. Trong những người nghèo và bị bỏ rơi ấy có cả giới trẻ Công giáo cũng như giới trẻ ngoại giáo – liên tôn giáo – đa tôn giáo. Vì thế, những người đời và tu sĩ giáo dục được mời gọi và giáo dục họ từng bước tới đức tin.

Chúng ta đang nói về việc giáo dục đức tin, vì thế những nhà giáo dục, chính họ phải là Kitô hữu: giáo dân, cha mẹ, thầy giáo, nam nữ tu sĩ, linh mục, Giám mục, Giáo hoàng. Mọi Kitô hữu đều được gọi để giáo dục đức tin.

Liên quan tới “cách thức” giáo dục đức tin bao gồm việc sử dụng những phương pháp và những kỹ năng khác nhau. Những phương pháp và những kỹ năng này phải được thay đổi liên tục trong những dấu chỉ của thời đại. Nhưng yếu tố quan trọng trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn là mọi lãnh vực phải được sử dụng: xã hội, kinh tế, văn hóa, thẩm mỹ, kịch tuồng, ngôn ngữ, thể thao…Xuyên suốt mọi hành động, phải khởi sự từ mối quan hệ tốt với niềm tin chung sau đó tới đức tin Công giáo

  • Cha mẹ cộng tác trong việc giáo dục đức tin

Giáo dục đức tin ở trường không đủ. Cha mẹ phải tiếp tục thực thi bổn phận của mình trong tiến trình phát triển liên tục của việc giáo dục đức tin mà đã khởi sự từ gia đình rồi và xúc tiến thêm nữa những điều đã được dạy ở trường học. Cha mẹ phải tiếp tục trao ban và làm thăng tiến việc giáo dục đức tin cho con cái. Điều quan trọng là chính cha mẹ phải là mẫu gương tốt và sống động về đời sống đức tin cho con cái.

Cha mẹ cần ý thức trách nhiệm của mình trong việc giáo dục đức tin. Những nhà giáo dục cần được bậc phụ huynh cộng tác trong cộng thể giáo dục và cần được giải thích vai trò quan trọng của họ trong việc giáo dục đức tin. Nếu đức tin không được sống tại gia đình, thì các việc khác của việc giáo dục không có tác dụng gì hết. Cha mẹ là nhà giáo dục đức tin đầu tiên và quan trọng nhất. Nếu chính cha mẹ từ chối đức tin của mình và sống thờ ơ đối với tôn giáo thì khi ấy công việc của nhà giáo dục rất giới hạn.

  • Qua việc gia nhập cộng đoàn đức tin, giới trẻ được giới thiệu tới đời sống Giáo hội

Việc giới thiệu đức tin cho giới trẻ đa tôn là điều rất cần thiết để làm cho họ thuộc về một cộng đoàn đức tin, một xứ đạo, một cộng đoàn địa phương, một nhóm trẻ, một câu lạc bộ mùa hè, một nguyện xá. Từ những cộng đoàn đức tin ấy, giới trẻ đa tôn được tăng niềm tin váo Chúa Kitô. Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng tới việc tiếp nhận Đức Kitô: đời sống đức tin của Cộng đoàn; nguồn hy vọng và bác ái; tình yêu và tình huynh đệ giữa những phần tử của cộng đoàn; những nghi thức phụng vụ; đời sống cầu nguyện; và các hoạt động của cộng đoàn đức tin. Tất cả những điều này giúp cho người giáo dân và tu sĩ giáo dục giới thiệu đời sống đức tin của Giáo hội Công giáo cho giới trẻ đa tôn.

Điều thiết yếu của sứ mạng Giáo hội là nâng đỡ sứ mạng của người Kito hữu bằng kế hoạch giáo dục và mục vụ. Mục đích của chúng ta là xây dựng chính những cộng đoàn Kitô giáo, cách đặc biệt, nỗ lực đem giới trẻ đa tôn gia nhập vào Giáo hội.

  • Trách nhiệm của mỗi Kitô hữu trong việc giáo dục đức tin

Những người đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tất nhiên phải công bố Đức Kitô cho chính mình và cho người khác trong suốt cuộc sống của họ. Đó là sự từ bỏ Satan và tất cả mọi công việc của nó. Hơn nữa qua Bí tích Thêm sức, Giải tội và Thánh Thể, người Kitô hữu tiếp nhận cách mạnh mẽ hơn những trách nhiệm liên quan tói việc giáo dục đức tin.

  • Giới trẻ Công giáo giúp giới trẻ đa tôn hướng tới đức tin.

Trong khi những nhà giáo dục nghiên cứu những đường lối và những phương pháp mới để giáo dục giới trẻ đa tôn tới đức tin, họ không quên giáo dục giới trẻ Công giáo trở thành những Tông đồ giữa những bạn trẻ đồng trang lứa cũng như bạn hữu của họ. Họ phải được đào luyện để trở thành những nhà giáo dục đức tin trong chính môi trường, hoàn cảnh của họ. Với cách thức này giới trẻ Công giáo trở thành những cộng tác viên gần gũi của người đời và tu sĩ giáo dục trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn

  • Người đời giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn.

Những nhà giáo dục kể cả những tu sĩ và linh mục, mời gọi những cộng tác viên người đời sát cánh với họ trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn. Những người đời đang sống trong thế giới, có thể qua đời sống chứng tá cũng như qua nghề nghiệp của họ có thể giáo dục giới trẻ đa tôn tới đức tin. Hơn nữa, họ cũng có thể giúp đỡ cách chính thức hoặc không chính thức những tổ chức giáo dục đức tin.

  • Những thừa tác vụ khác nhau trong việc giáo dục đức tin
  • Tính duy nhất và đa dạng của thừa tác vụ giáo dục đức tin

Toàn thể Giáo hội được mời gọi để giáo dục đức tin trong Đức Kitô, cho người Công giáo cũng như người ngoại giáo. Mệnh lệnh của Chúa Kitô là công bố danh Ngài, trong lòng thế giới và cho muôn dân. Tuy nhiên, trong tính duy nhất của sứ điệp này có tính đa dạng. Chúa Kitô kêu gọi mỗi người theo cách khác nhau. Một vài người Ngài đã gọi họ như: những cộng tác viên gần gũi của Ngài, những Tông đồ, và một số người khác. Đối với các Tông đồ Ngài ban cho họ quyền năng và trách nhiệm đặc biệt trong việc giáo dục người khác tin vào Ngài. Đối với những người kế vị các Tông đồ, các Giám mục và linh mục được kêu gọi cách đặc biệt để nhân danh Chúa Kitô giáo dục mọi người thuộc mọi dân tộc tới đức tin Kitô giáo, đặc biệt những người ngoại giáo, tức là những người chưa được biết danh Chúa Kitô.

Các tu sĩ, với đời sống thánh hiến, với lời khuyên Phúc Âm, họ tìm thấy trong chính mình việc giáo dục đức tin. Sự vâng phục, nghèo khó, và thanh khiết của họ là bằng chứng hùng hồn cho người ngoại giáo. Vì vậy, họ giáo dục đức tin qua đời sống chứng nhân của họ. Họ là nguồn an ủi lớn cho Giáo hội vì liên quan tới việc giáo dục đức tin, họ sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của họ vì đức tin. Họ sống Đức Kitô, khám phá ra những cách thức và những phương pháp mới để giáo dục đức tin.

Hơn nữa, tất cả những người đời, trong địa vị và quyền hành thấp hơn, cũng được kêu gọi để giáo dục đúc tin. Lời mời gọi này được xác định trong bí tích Rửa tội và Thêm sức. Họ được gọi để giáo dục mọi người mà họ tiếp xúc, qua đời sống chứng nhân và chứng tá của họ. Họ giáo dục đức tin trong mọi môi trường và mọi hoàn cảnh: chính trị, xã hội, kinh tế, thế giới văn hóa. Khoa học và nghệ thuật. Họ thông truyền Đức Kitô cho người khác qua tình yêu nhân loại, đời sống gia đình thánh thiện, việc giáo dục con cái, thanh thiếu niên, và nhiều công việc khó khăn khác. Trong thực tế, người đời có nhiều cơ hội tốt hơn về việc giáo dục qua việc tiếp xúc của đời sống chứng nhân Kitô giáo.

Người đời, qua cuộc sống gia đình thánh thiện có thể giáo dục không chỉ riêng gia đình của họ và những gia đình tương lai tới đức tin mà còn đem nhiều gia đình ngoại giáo tới đoàn chiên của Chúa Kitô nữa. Đời sống cầu nguyện, chứng tá của gia đình sẽ là tiếng nói hùng hồn cho những gia đình ngoại giáo chung quanh.

  • Các linh mục và phó tế đóng góp phẩm chất cá biệt của thừa tác vụ của mình trong việc giáo dục đức tin

Các linh mục và phó tế qua Bí tích Truyền chức, họ lãnh nhận trách nhiệm đặc biệt để giáo dục  mọi người tới đức tin trong Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Trong ơn gọi này, họ được kêu gọi để cộng tác đáp trả với lòng quảng đại.

  • Những người đời đóng góp phẩm chất cá biệt của địa vị trần thế trong việc giáo dục đức tin

Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu chia sẻ sứ mạng tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô. Mỗi người Kitô hữu. Mỗi người Kitô hữu qua bí tích rửa tội trở thành tư tế, ngôn sứ và vương giả. Đặc biệt là ngôn sứ, bản thân người đời được kêu gọi để công bố danh Chúa Kitô cho toàn thế giới qua đời sống chứng nhân và qua hoạt động giáo dục trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh và mọi cơ hội.

  • Trong việc giáo dục người trẻ tới đức tin: người đời và tu sĩ giáo dục chia sẻ sứ mệnh Giáo hội

Người đời và tu sĩ giáo dục ở trong Giáo hội và được Giáo hội nhìn nhận. Điều làm cho họ hiện diện ngay trong lòng Giáo hội và phục vụ  sứ mạng Giáo hội là việc giáo dục người trẻ tới đức tin. Qua việc giáo dục giới trẻ tới đức tin, người đời và tu sĩ giáo dục góp phần xây dựng Giáo hội.

Người đời và tu sĩ giáo dục khao khát làm việc với Giáo hội và nhân danh Giáo hội. Họ muốn chia sẻ cuộc sống và sứ mạng của Giáo hội. Với cách thức này, họ diễn tả cách hữu hình mầu nhiệm Giáo hội và thể hiện một kinh nghiệm sống động về Giáo hội cho giới trẻ. Vì thế, là người đời và tu sĩ giáo dục nghĩa là hiện hữu trong Giáo hội, vì Giáo hội, với Giáo hội và cho Giáo hội. Vì vậy hơn bao giờ hết việc giáo dục đức tin cho giới trẻ làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Giáo hội . Đây là cách hiện hữu cụ thể trong Giáo hội.

Cách sống Phúc Âm và việc lãnh nhận sứ mạng tông đồ từ Giáo hội đặt người đời và tu sĩ giáo dục làm tâm điểm của Giáo hội và phục vụ sứ mạng Giáo hội. Điểm then chốt của sứ mạng Giáo hội là giáo dục giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi ngoài Công giáo tới đức tin. Đặc biệt đối với tu sĩ giáo dục, sứ mạng này cùng với lời khuyên Phúc Âm đặt họ ngay tâm điểm của Giáo hội và việc phục vụ Giáo hội

  • Việc giáo dục đức tin trong bối cảnh Giáo hội địa phương và Giáo hội phổ quát
  • Sự chăm lo chu đáo của những nhà giáo dục đức tin nơi địa phương.

Những nhà giáo dục liên quan tới những người có trách nhiệm đối với việc giáo dục đức tin nơi địa phương. Những người đời có liên quan chính yếu tới công việc ấy: cha, mẹ, giáo viên, nhân viên giáo dục – xã hội – chí nguyện viên. Nên quan tâm cách chu đáo hơn tới những người ấy vì họ có liên hệ trực tiếp với công việc của chúng ta. Tầm quan trọng của sự quan tâm ấy phát xuất từ hai yếu tố: trước tiên, người đời cần phải được nhìn nhận, đánh giá và hướng dẫn trong công việc của họ; thứ đến, môi trường xung quanh góp phần quan trọng trong việc đào luyện cá nhân.

Cách riêng, sự chăm lo chu đáo nên được thực hiện ở gia đình, nơi những thế hệ khác nhau cùng nhau xây dựng tương lai của nhân loại. Công đồng Vaticano II và Hội đồng các Đức Giám mục (1980) đã xác nhận tầm quan trọng của gia đình dối với việc phát triển của các thế hệ mới. Hơn nữa đối với người đời và tu sĩ giáo dục, gia đình là một thành phần thiết yếu của cộng đoàn giáo dục và đóng góp phần quan trọng trong việc giáo dục giới trẻ tới đức tin.

  • Giáo dục đức tin trong Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu

Giáo hội Công giáo là Giáo hội toàn cầu và đồng thời cũng là Giáo hội địa phương. Phổ quát tính của Giáo hội, không thể không được nói tới ngoài cá biệt tính của nó. Giáo hội đồng thời là phổ quát và đặc thù. Giáo hội không hiện hữu trìu tượng. cá biệt tính của Giáo hội được thể hiện và nhập thể trong những Giáo hội địa phương.

Việc giáo dục đức tin tức là cá biệt hóa phổ quát tính của Giáo hội. Giáo hội tiếp tục phát triển những mầm rễ mới và trải rộng nó qua việc giáo dục đức tin để lôi kéo những người ngoại giáo tới Giáo hội Chúa Kitô. Vì thế việc giáo dục đức tin ấy đồng thời ở trong Giáo hội địa phương cũng như Giáo hội toàn cầu

  • Việc giáo dục hướng tới giáo dục Công giáo và mối tương quan giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu

Trong khi việc giáo dục đức tin đang tiến hành tại các trung tâm giáo dục, không được sao lãng mối quan hệ với Giáo hội địa phương cũng như với Giáo hội toàn cầu. Mối liên hệ với Giáo hôi địa phương và có ý nói tới mối tương quan gần gũi và sự thông cảm với cha xư, liên tu sĩ và Đức Giám mục giáo phận. Việc giáo dục đức tin được đặt nên hàng đầu trong các cuộc thảo luận với các Ngài, nếu không sẽ có nguy cơ rằng chúng ta sẽ phải đối diện với những sự chống đối và nhiều trở ngại khác nhau: xã hội học, chính trị, mục vụ, thần học, tâm lý học, tôn giáo.

Liên hệ với Giáo hội phổ quát tức là mối tương quan với trung tâm sống động và hữu hình của Giáo hội, đứng đầu là Đấng kế vị Thánh Phêrô, ngài được trao cho quyền thừa tác trong việc giáo dục đức tin (Cv 4,8; 2,14; 3,12; 1Plm 5,14). Truyền thống Giáo hội, những sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng và Huấn quyền của Giáo hội phải được tuân theo như những lời hướng dẫn và những nguyên tắc cá biệt về việc giáo dục đức tin cho người ngoại giáo cách riêng cho giới trẻ.

CHƯƠNG VI

GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRONG BỐI CẢNH THUYẾT ĐA TÔN GIÁO

 

  • Việc giáo dục đức tin và thuyết đa tôn giáo – văn hóa
  • Thái độ của những nhà giáo dục đối với giới trẻ đa tôn giáo

Thái độ của những nhà giáo dục đối với giới trẻ đa tôn vừa có tính tích cực vừa tiêu cực. Tóm lại thái độ của họ là: không chấp nhận lỗi lầm và sự hiểu biết có cân nhắc

Khung hướng thông thường của những nhà giáo dục là phải chịu trách nhiệm trên giới trẻ: chúng là những người muốn thay đổi  và khởi sự mọi sự từ đầu; chúng phủ nhận uy quyền của những nhà giáo dục; chúng không chấp nhận các cơ cấu tổ chức và những giá trị luân lý truyền thống; chúng là những người thất nghiệp; chúng là nạn nhân của sự phạm pháp, ma túy, tự do tình dục và tự tử. Nguyên nhân của sự không chấp nhận lỗi lầm ấy nơi thái độ của nhà giáo dục là nỗi luyến tiếc về những giá trị văn hóa, luân lý, cơ cấu của quá khứ.

Một khuynh hướng khác đối kháng với khuynh hướng trên là sự hiểu biết có cân nhắc. Những nhà giáo dục nhìn giới trẻ với một thái độ hiểu biết, xem xét cách nhẫn nại, phê bình sâu sắc và cân nhắc trong đối thoại. Thái độ ấy có tính cách xây dựng và giáo dục. Sự đối thoại được khởi sự nơi nhà giáo dục với sự quảng đại và khôn ngoan. Điều này dẫn tới một thế giới sáng tạo mới, dựa trên công bằng, tình huynh đệ, sự hòa bình và tôn trọng phẩm giá con người.

Thay vì buộc tội giới trẻ, nên nỗ lực tìm cách để hiểu biết chúng, biết những ưu khuyết của chúng. Điều này đòi hỏi những nhà giáo dục tự phê và tự đánh giá trách nhiệm của mình. Nguyên nhân của những hoàn cảnh tiêu cực nơi giới trẻ phải được lưu ý: những hiệu quả tâm lý – xã hội của chủ nghĩa tự do buông thả luân lý; những thay đổi về văn hóa tâm lý đã thúc đẩy những phương tiện truyền thông xã hội đại chúng  phát triển. Tất cả những điều này tác động mạnh mẽ đến giới trẻ. Vì thế thái độ và cách cư sử của chúng là lý do biện minh rằng chúng cần phải được hiểu biết.

Nếu không có sự hiểu biết ấy, sẽ không có việc giáo dục. Đối với việc giáo dục đức tin, tình yêu và lý trí xét về phía nhà giáo dục là điều rất cần thiết. Nếu những nhà giáo dục không hiểu biết mọi lãnh vực của giới trẻ và nếu họ không hiểu được hoàn cảnh, nguyên nhân, thái độ của chúng, thì không thể có việc giáo dục đức tin

  • Việc giáo dục đức tin và những tôn giáo khác

Giáo hội tôn trọng tất cả những điều tốt và thánh thiện trong những tôn giáo khác, những tôn giáo mà có rất nhiều người theo. Nhiều người đã sinh ra và đã chết trong những tôn giáo đó. Họ biểu lộ sự khiêm nhường, lòng trung thành và khát khao tìm kiếm Thiên Chúa. Họ có những nghi thức tôn giáo. Tất cả mọi người trong họ đều chất chứa “hạt giống Lời Chúa”. Họ được mời gọi để “chuẩn bị cho Phúc Âm”

  • Việc giáo dục đức tin và những nền văn hóa đa tôn

Việc giáo dục đức tin và tất cả những điều hàm chứa trong đó không đồng nhất với tất cả những nền văn hóa. Nó không dựa vào bất cứ nền văn hóa đặc thù hoặc phổ quát nào. Tuy nhiên, việc giáo dục đức tin là điều thiết yếu được tổ chức trong những nền văn hóa, ngôn ngữ và nơi chốn cá biệt. Tất cả mọi người đều được giáo dục, không loại trừ một nền văn hóa nào. Vì thế việc giáo dục đức tin và văn hóa mặc dù độc lập với nhau nhưng không đối kháng lẫn nhau.

Việc giáo dục ấy với những giá trị đức tin của nó chi phối nền văn hóa về mặt luân lý, tôn giáo, xã hội và kinh tế. qua việc giáo dục, những nền văn hóa đa tôn khác nhau sẽ được tái tạo, canh tân, nhận thức, thay đổi, củng cố, tinh tuyền, sinh động, tinh thần hóa, được tái sinh, đổi mới và được phục hồi. Nhưng việc canh tân ấy sẽ không xẩy ra nếu không có việc giáo dục đức tin.

  • Việc giáo dục đức tin và kế hoạch cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa
  • Việc giáo dục đức tin và vị trí của những truyền thống đa tôn trong nhiệm cục cứu độ

Tầm quan trọng của việc giáo dục giới trẻ tới đức tin là chú tâm nghiên cứu vị trí của những truyền thông tôn giáo đa tôn của thế giới trong nhiệm cục ơn cứu độ và giá trị cứu rỗi của nó đối với những người theo nó.

Theo Raimundo Panikkar, tôn giáo là chiều kích cơ bản của con người. Con người là con vật có tôn giáo. Ông nhìn tôn giáo trong những hạn từ của hành động đúng (orthopraxis) hơn là chính thống (orthodoxy). Tôn giáo được diễn tả như một “cách thức của sự cứu độ”. Nhân vị được cứu độ bởi orthopraxis cũng được diễn tả trong niềm tin. Mọi người được tạo thành trong tình trạng của sự cứu độ. Ông đảo nghịch chân ký, “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ” thành “ở đâu có ơn cứu độ, ở đó có Giáo hội”. Giáo hội là địa điểm, là nơi chốn được xác định bởi ơn cứu độ. Đây là điều cần thiết để xem xét và phán đoán lập trường của Panikkar trong bối cảnh Kitô học và Giáo hội học của ông.

  • Yếu tính của việc trao ban những nhiệm vụ quan trọng trong những nền văn hóa và tôn giáo

Không thể giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin nếu không tôn trọng những nhiệm vụ quan trọng của nền văn hóa và tôn giáo. Con người được sinh ra trong một nền văn hóa và tôn giáo. Vì thế, văn hóa và tôn giáo có thể nói là hồng ân của Thiên Chúa. Đức tin không ép buộc ai, nên văn hóa và tôn giáo của một người cần phải được lưu tâm, học hỏi và tôn trọng xứng đáng những điều tốt và thánh thiện, trong những nền văn hóa và tôn giáo này phải được tôn trọng. Trong bối cảnh đáng tôn trọng ấy, phải trình bày Chúa Kitô và đức tin phải được giải thích qua việc giáo dục.

  • Tại sao giáo dục đức tin khi con người có thể được cứu rỗi qua tín ngưỡng của họ?

Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là phổ quát và cho mọi người, mọi thời đại và tôn giáo, mọi cấp bậc và mọi tin ngưỡng, cả những người ngoại giáo chấp nhận hay từ chối Đức Kitô. Nhưng đây không là một sự chấp nhận hoặc từ chối trực tiếp Chúa Kitô và ân sủng của Ngài. Hữu thể tuyệt đối hay Thiên Chúa mặc khải chính Ngài trong lương tâm của con người hoặc qua những bậc hiền nhân và những vị Thánh của tôn giáo của họ. Sự quyết định của một người chống đối hay chấp nhận Hữu thể Tuyệt đối hay Thiên Chúa là một sự tiếp nhận hay từ chối Chúa Kitô. Trong ý nghĩa này con người một cách vô thức cộng tác hoặc không cộng tác với ơn cứu chuộc của Chúa Kitô

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng những người đa tôn tiếp nhận Đức Kitô một cách trực tiếp và vô thức. Chúa Giêsu muốn rằng bao có thể mọi người ngoại giáo phải trở về với Ngài ngay ở đời này. Ngài muốn danh Ngài được công bố cho mọi người, mọi dân tộc.

  • Tại sao có hành động truyền giáo trong khi kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa là phổ quát?

Kế hoạch cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa đặt nhà truyền giáo vào tình trạng khó xử? Ý nghĩa của sứ mạng của tôi là gì? Tại sao tôi lại đi làm sáo trộn những người mà họ đã có lương tâm ngay thẳng và đứng đắn, mà những người đó mà Thiên Chúa có thể cứu qua Đức Kitô cho dù người ta không biết và không dám nhận Ngài cách ý thức và trực tiếp?

Kế hoạch cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa qua sự cứu chuộc duy nhất của Chúa Kitô không lấy đi hành động truyền giáo tức việc rao giảng và làm phép Rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Bổn phận rao giảng và Rửa tội đặt nền tảng căn bản trên mệnh lệnh cả Chúa Kitô là hãy đi rao giảng và làm phép Rửa cho muôn dân. Ngài sai các Tông đồ đi rao giảng danh Ngài và sứ điệp của Ngài cho mọi dân tộc. Hơn nữa, mọi tư tưởng, lời nói và hành động của Chúa Kitô đồng thời là phổ quát và đặc thù vì Ngài là Thiên Chúa làm người. Do đó mệnh lệnh rao giảng và làm phép Rửa ấy cũng mang tính phổ quát và đặc thù. Nói cách khác, đó là một mệnh lệnh được thi hành cách cá biệt nơi các Tông đồ thời đó, tại nơi đó và đồng thời nó là một mệnh lệnh mang tính phổ quát, quốc tế, cho mọi thời đại.

  • Giáo dục đức tin: tôn trọng và đối thoại
  • Việc giáo dục đức tin đối với giới trẻ đa tôn giáo loại trừ sự thống trị, tính kêu ngạo và sự ép buộc

Trong Công đồng Vaticano II Giáo hội đã canh tân đời sống và vị trí của Giáo hội trong thế giới. Sự mặc khải đã được nhìn cách rộng rãi hơn. Thiên Chúa đã và đang nói qua các tạo vật của Ngài, “sự thiện hiển nhiên và ý định cứu rỗi của Ngài trải rộng tới mọi người”. Giáo hội không được coi là để thống trị nhân loại. Giáo hội là một Giáo hội lữ hành, sẵn sàng tiếp nhận và yêu thương mọi người. Giáo hội là một dấu chỉ hữu hình, một Bí tích “hiệp nhất với Thiên Chúa và duy nhất giữa loài người”. Giáo hội có trách nhiệm đối với sự thiện của thế giới hiện tại.

Vâng lệnh Chúa Kitô hãy đi rao giảng và làm phép Rửa cho muôn dân. Thực ra, ý thức tiếp nhận và cộng tác của người đa tôn, cách riêng giới trẻ là một lý tưởng, tuy nhiên, vẫn phải tôn trọng tự do tôn giáo và đức tin của họ. Chính Thiên Chúa đã cho phép có nhiều niềm tin tôn giáo. Chúa Kitô là phổ quát, là Đấng Cứu Thế duy nhất của mọi người, mọi thời. Vì thế, biết và tiếp nhận Chúa Kitô cách ý thức và trực tiếp là một đặc ân. Trong ý nghĩa này, Kitô giáo là một tôn giáo đích thực. Quyền năng thống trị của Chúa Kitô điều khiển, xác định và phổ quát. Nhưng không có nghĩa là việc giáo dục đức tin cần phải được thi hành với sự thống trị, tính kiêu ngạo và sự ép buộc. Phải tránh những cách thức thô bạo ấy bởi vì Thiên Chúa cho phép có nhiều tôn giáo, đức tin, văn hóa và nhiều chủng tộc khác nhau tùy theo Thánh Ý Ngài.

  • Việc giáo dục đức tin yêu cầu bất bạo lực đối với người ngoại giáo.

Việc giáo dục đức tin không được sử dụng bạo lực. Biện pháp cưỡng bức không thuộc về Phúc Âm và nó chống lại phẩm giá của con người. Biện pháp ấy chỉ gây thêm bạo lực, sự chết, sự phá hủy, lòng căm thù, sự nghèo nàn và không thể làm cho đức tin phát triển được. Đức tin là một hồng ân phát xuất từ Thiên Chúa nên phải được tiếp nhận với cả tâm hồn và tự do. Nếu đức tin bị ép buộc bằng bạo lực, nó sẽ không sinh hoa trái, bởi vì hoa trái của sự cộng tác đáp trả đức tin đòi hỏi sự tự do của tâm hồn và trí khôn.

Nếu giới trẻ đa tôn giáo bị ép buộc tin bằng bất cứ giá nào, chúng sẽ nổi loạn vì thiếu tự do. Cách riêng đối với giới trẻ, chúng rất ý thức về phẩm giá và sự tự do của con người. Thực ra chúng phải được giới thiệu và chuẩn bị để yêu Chúa  Kitô cách tiệm tiến. Chúng phải được trình bày nhiều khía cạnh về khuôn mặt của Chúa Kitô. Sau cùng, chúng phải được tự do để chọn lựa chấp nhận hoặc từ chối Chúa Kitô.

Một trong những quyền căn bản của con người là quyền tự do tôn giáo. Con người được phép thực hành và theo tín ngưỡng của riêng họ. Việc rao giảng và giáo dục đức tin trong Chúa Kitô phải được thực hiện trong sự tự do tôn giáo này.

  • Đối thoại trong việc giáo dục giới trẻ tới đức tin

Việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo đòi hỏi một sự thẩm tra về những thất bại cũng như thành công của quá khứ trong lãnh vực Phúc Âm hóa, và mối tương quan của Giáo hội với những tôn giáo khác. Cần nảy sinh nhiều cách thức cộng tác mới. Những nhà giáo dục Công giáo nên làm việc trong những cơ cấu xã hội, hãy tạo nên những nhóm nhỏ làm hạt nhân trong những giáo phái khác. Những gia đình Công giáo nên cởi mở và đối thoại và trao đổi cách thân tình với những người thuộc tôn giáo khác, đặc biệt giới trẻ. Những người Công giáo hãy cởi mở, thể hiện và chia sẻ những buổi lễ kỷ niệm gia đình và chấp nhận lời mời tham dự những ngày hội của những người ngoại giáo.

CHƯƠNG VII

GIÁO DỤC ĐỨC TIN VÀ VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA

  • Sự thích ứng với những bối cảnh liên tôn giáo – văn hóa địa phương và sự tồn tại của những giá trị giáo dục Công giáo
  • Lịch sử giáo dục đức tin: từ việc hội nhập để thống trị những nền văn hóa tới việc hội nhập văn hóa

Lịch sử của việc giáo dục đức tin được chia thành những thời kỳ sau:

  • Việc giáo dục đức tin của đế quốc Roma (năm 500 AC)
  • Việc giáo dục đức tin của miền đông bắc Châu Âu (500-1500AC)
  • Thời kỳ khai hóa và thực dân hóa (1500-1800 AC)
  • Thời kỳ cân đại cho tới Công đồng Vaticano II (1800-1962)
  • Thời kỳ hiện tại của Hội đồng Giám mục (1962-1990)

Trong mỗi giai đoạn này, có những đặc điểm riêng của nó. Nhiều yếu tố chính trị và văn hóa đã ảnh hưởng tới việc giáo dục đức tin của Giáo hội. Giáo hội đã bắt đầu công việc của mình dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, rộng mở tới chân trời thế giới. Giáo hội đã mở rộng cách tự phát tới toàn thế giói, nghĩa là Công giáo, tới bất kỳ những ai khao khát được giáo dục đức tin. Việc giáo dục đức tin được thực hiện qua ngôn ngữ, phong tục, biểu tượng của việc thờ phượng của khu vực Địa trung hải. Đối với việc giáo dục, Giáo hội đã thể hiện chính mình trong ngôn ngữ triết học của thời đại. Giáo hội đã hội nhập vào trong nhiều nền văn hóa khác nhau và dần dần đồng nhất với văn hóa Tây phương. Trong thế kỷ XVI, những thuộc địa của Châu Mỹ, Châu phi và Châu Á đã được Giáo hội biết đến. Thay vì hội nhập văn hóa, Giáo hội đã bắt phải theo văn hóa Tây phương. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã chia cắt mặt địa cầu để tạo thế lực trong các Châu lục. Đạo Công giáo đã xuất hiện như một tôn giáo của quyền lực thực dân.Giáo hội bắt buộc phải theo văn hóa Tây phương. Giáo hội là một tôn giáo du nhập.

Ngày nay sau Thượng Hội Đồng Giám mục. đã mở ra một thời kỳ mới trong việc giáo dục đức tin. Sự mù quáng của quá khứ không còn nữa. Giáo hội đã loại bỏ tất cả những hình thức ép buộc hoặc quyến rũ đề hòa nhập mình vào trong xã hội đa văn hóa, đa tôn giáo trong những quốc gia khác nhau. Trong cách thức này, Giáo hội trở thành Công giáo đích thực và việc giáo dục đức tin trở thành việc giáo dục Công giáo. Giáo hội tiên khởi đã chấp nhận thay đổi những truyền thông dân ngoại hình thành trong Đế quốc Roma và sau đó giữa các dân tộc Đức quốc. Giáo hội địa phương phải tìm ra những phương pháp mới để việc giáo dục đức tin phù hợp với truyền thống địa phương. Điều này phải được thực hiện với sự tự do và trung tín, sự can đảm và khôn ngoan, với sự ý thức về truyền thống và sự biến đổi của thời đại.

  • Giáo huấn của Giáo hội thích ứng với bối cảnh đa tôn giáo.

Người đời và những tu sĩ giáo dục nên áp dụng giáo huấn của Giáo hội vào việc giáo dục đức tin như một phương tiện để thi hành việc phục vụ giáo dục và mục vụ. Giáo huấn này được áp dụng không chỉ với giới trẻ Công giáo và còn với giới trẻ  ngoại giáo, liên tôn giáo và đa tôn giáo nữa. Điều này gọi là một sự thích ứng có hệ thống đối với những bối cảnh đa tôn.

  • Ánh sáng đức tin soi dẫn liên văn hóa.

Những nhà giáo dục nên giúp giới trẻ đa tôn giáo đạt tới một sự tổng hợp giữa đức tin và văn hóa. Sự tổng hợp này rất cần thiết  cho sự trưởng thành đức tin. Do đó nền văn hóa nhân loại của giới trẻ đa tôn giáo phải được thanh lọc, điều chỉnh và cắt tỉa. Bất kể điều gì nghịch với Phúc Âm đều bị từ chối. Chỉ trong ánh sáng và sự linh chiếu của đức tin mà những nền văn hóa nhân loại mới được hướng dẫn, được biến đổi và làm cho hoàn hảo.

Đức tin soi dẫn cách tiệm tiến nền văn hóa đa tôn bằng việc sinh động hóa. Điều này phải được thi hành nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài, qua việc đối thoại, sự khôn ngoan và tôn trọng tất cả nền văn hóa đa tôn.

Đức tin không đồng hóa với bất kỳ nền văn hóa nào. Nó độc lập với mọi nền văn hóa. Tuy nhiên, đức tin gợi hứng, sinh động mọi nền văn hóa mà nó thấm nhập. Qua sự sinh động hóa và sự gợi hứng của đức tin, dần dần nền văn hóa sẽ thấm nhuần đức tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khẳng định: “Đức tin không thấm nhập vào văn hóa là đức tin mà không được đón nhận đầy đủ, đức tin không được hòa nhập trọn vẹn, không sống trung thành với đức tin”

Việc hội nhập văn hóa không đơn giản chỉ là sự thích ứng nhưng “có nghĩa là biến đổi sâu sắc chính những giá trị văn hóa qua việc hòa nhập của nó với đạo Công giáo trong những nền văn hóa nhân loại khác nhau”. Vì vậy, việc hội nhập văn hóa có nghĩa là “một sự tác động và có thể nói là một sự đảo lộn, tiêu chuẩn phán đoán của nhân loại, những giá trị tất định, những điểm quan tâm, những đường nét của tư tưởng, nguồn gốc của sự linh hứng và những lối sống hiện đại, mà tương phản với Lời Chúa và kế hoạch cứu rỗi nhờ thần lực Phúc Âm” (EN, số 9)

Vì thế, đức tin trong khi vẫn độc lập với mọi nền văn hóa khác nhau của giới trẻ đa tôn thì đồng thời sinh động mọi nền văn hóa ấy. Qua việc giải trừ ngữ cảnh hóa (decontextualization) siêu văn hóa, sứ điệp Kitô giáo phải được đạt tới. Sự bao bọc giữa văn hóa Thánh Kinh và văn hóa của nhà Giáo dục được hòa nhập cốt để đi tới sứ mệnh căn bản của Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Sau việc giải trừ ngữ cảnh hóa này, là ngữ cảnh hóa. Đây là điều thiết yếu để việc thực thi sứ mạng Chúa Kitô có ý nghĩa thích hợp, có sức thuyết phục và tác động nội tại nhất trong nền văn hóa của người thụ giáo. Đức tin cách tiệm tiến trở thành văn hóa. Đức tin không chỉ trở thành một nền văn hóa mà nhiều nền văn hóa, đúng hơn, nó phải được đồng hóa và được sống. Rõ ràng, có một đòi hỏi lớn và cấp bách về việc hòa nhập và hội nhập “văn hóa” của đức tin.

  • Giáo dục đức tin giữa sự thích nghi và trường tồn.

Giáo dục đức tin là truyền dạy cho người thụ giáo những giá trị Kitô giáo, những giáo huấn của Chúa đã được thông truyền cho Giáo hội và được lưu truyền cho tới ngày nay, qua Thánh Truyền. Sự thông truyền ấy gồm những giá trị và những nguyên lý chắc chắn có tính phổ quát và trường tồn. Nó sẽ tồn tại mãi như thế trong tất cả mọi nền văn hóa, ngôn ngữ, mọi thời đại, nơi chốn, chủng tộc, màu da, hoàn cảnh, tình thế, mọi môi trường và mọi bối cảnh. Nó đã mặc lấy những hình thức bên ngoài của nhiều dân tộc khác nhau và nó đã biểu lộ bằng nhiều cách khác nhau qua sự diễn tả mang tinh thần học cũng như văn hóa, xã hội, chủng tộc. Nhưng nội dung của đức tin sẽ tồn tại mãi không thay đổi, vì nó được chính Chúa Giêsu thông truyền cho các Tông đồ.

Vì thế, mọi việc giáo dục địa phương đòi hỏi sự thích nghi thích đáng. Mọi người, đặc biệt giới trẻ đòi hỏi sự thích nghi ấy. sự thích nghi có thể trong nghi thức tôn giáo, trong phụng tự, trong nghi thức phụng vụ, trong giáo lý, trong việc giáo dục và trong sự trình bày có hệ thống của thần học.

Việc giáo dục đức tin sẽ mất hiệu quả và tác dụng của nó nếu không có sự thích nghi hợp lý. Nên quan tâm tới người thụ giáo, đến môi trường, hoàn cảnh, ngôn ngữ, dấu chỉ, biểu tượng, những vấn đề, những thái độ, những giá trị và những động cơ thúc đẩy của họ.

Mối nguy hiểm lớn nhất của sự thích nghi là tính hay thay đổi hoặc sửa đổi cùng một nội dung. Nội dung này tồn tại mãi bởi nó là cốt lõi, là bản chất của việc giáo dục. Giáo hội địa phương phải phân biệt rõ ràng giữa phổ quát tính và cá biệt tính, giữa cái có thể được thích nghi và được thay đổi với cái tồn tại vượt trên sự thích nghi.

  • Việc giáo dục đức tin bao gồm những nội dung căn bản và những yếu tố phụ thuộc

Chắc chắn việc giáo dục đức tin không thể thay đổi những nội dung căn bản. Những nội dung này là bản chất nên nó không thể thay đổi. Tuy nhiên, trong việc giáo dục ấy có nhiều yếu tố phụ và thứ yếu. Những yếu tố này thay đổi tùy theo hoàn cảnh khác nhau.

Trong trường hợp của chúng ta, những bối cảnh là đa tôn giáo. Do đó, việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo phải được áp dụng cách tường tận những yếu tố thứ yếu. Tuy nhiên những yếu tố thiết yếu, thuộc bản chất, căn bản vẫn không thể thay đổi.

  • Sự sinh động chung và riêng của nền văn hóa địa phương
  • Nhà giáo dục được gọi để đồng hóa, đánh giá và tái tạo nền văn hóa địa phương.

Trường học Công giáo cần cổ võ sự phát triển toàn diện của giới trẻ qua việc đồng  hóa, đánh giá và tái tạo nền văn hóa địa phương và giáo dục đức tin cho người Kitô hữu để biến đổi xã hội. Điều này trước hết mời gọi người đời và tu sĩ giáo dục đồng hóa và đánh giá để tái tạo nền văn hóa địa phương ấy qua việc giáo dục đức tin, vì sự biến đổi xã hội của người Kitô hữu.

Tiến trình giáo dục phải được tiến hành theo cách thức Công giáo và công nhận khả năng giáo dục và kỹ thuật. Hơn nữa, tiến trình ấy phải dựa trên những giá trị văn hóa vững chắc và đáp ứng những nhu cầu của giới trẻ. Điều này cho thấy chính người đời và tu sĩ giáo dục phải hấp thụ những giá trị văn hóa thuần nhất đó trước khi truyền đạt cho giới trẻ, đặc biệt trong bối cảnh đa tôn giáo. Nhu cầu của giới trẻ đa tôn phải được ghi nhận trong tâm trí của nhà giáo dục. Rõ ràng, nhu cầu của giới trẻ Công giáo rất khác biệt với nhu cầu của giới trẻ ngoại giáo, liên tôn và đa tôn giáo.

Chắc chắn những nội dung của chương trình giảng dạy, tính sư phạm và phương pháp đào luyện vẫn có giá trị nó liên hệ tới mối tương quan của chúng với môi trường xã hội, thế giới lao động và những chỉ dẫn mục vụ của Giáo hội đồng thời chúng phải được thẩm tra định kỳ xuyên suốt và kỹ lưỡng về chương trình giảng dạy, tính sư phạm và phương pháp đào luyện. Đó là điều quan trọng để trắc nghiệm giá trị của chúng trong mối liên hệ với môi trường xã hội, thế giới lao động và những chỉ dẫn mục vụ của Giáo hội.

  • Sự chia cắt giữa khung giá trị Công giáo và hiện thân của nó trong thực tại giới trẻ đa tôn

Về điểm này, những người đời và tu sĩ giáo dục nên nỗ lực nhằm lưu ý đến thực tại giới trẻ đa tôn trong bối cảnh đa tôn giáo. Điều này được coi như là một thiện chí để thực hiện điều gì đó trong đường lối Công giáo để giáo dục giới trẻ đa tôn tới đức tin. Tuy nhiên, nếu chỉ quan sát hoàn cảnh và có thiện chí để thi hành điều gì đó thì chưa đủ, vì hoàn cảnh và nhu cầu thời đại rất rộng lớn và cấp bách. Nó đòi hỏi một nỗ lực nghiêm túc và một hành động trực tiếp.

Mặt khác, hiện nay có một sự chia cắt giữa khung giá trị Công giáo và thực tại giới trẻ đa tôn giáo. Trên bình diện lý thuyết, cần rộng mở để hướng tới thực tại giới trẻ đa tôn. Giáo hội nhận thấy cần phải có những hành động thích hợp với nhu cầu và hoàn cảnh đa tôn giáo. Trở ngại lớn nhất là sự chia cách giữa khung giá trị Kitô giáo và hiện thân của nó trong thực tại giới trẻ đa tôn.

Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của Ngài như những nhà truyền giáo cho mọi dân tộc. Lòng nhiệt thành truyền giáo của Ngài hoàn toàn do sự khao khát mang Tin Mừng không chỉ cho giới trẻ theo thuyết duy vật linh và những người vô tôn giáo mà còn cho những ai đang thực hành nghi thức tôn giáo rồi. Trong ý nghĩ ấy, việc giáo dục giới trẻ ngoại giáo, liên tôn giáo và đa tôn giáo tới đức tin, người đời và tu sĩ giáo dục dường như chẳng làm được bao nhiêu. Nhiều khi giới trẻ ấy vô tình hiện diện trong những tổ chức tôn giáo của chúng ta. Nhưng vấn nạn là không biết chúng ta có thực hiện những nấc thang chương trình để giáo dục chúng tới đức tin hay không.

  • Những nỗ lực nhằm thể hiện những giá trị Kitô giáo trong thực tại giới trẻ đa tôn

Người đời và tu sĩ giáo dục phải thể hiện những giá trị Kitô giáo trong bối cảnh đa tôn. Những nguyên tắc và đối tượng tổng quát là vũ trụ và thế giới. Nhưng việc áp dụng những nguyên tắc và đối tượng ấy phải được thực hiện trong những môi rường khác nhau. Trong trường hợp của chúng ta, chúng cần được thể hiện và hội nhập trong những hoàn cảnh và những môi trường đa tôn giáo và liên văn hóa. Điều này đòi hỏi những nỗ lực nhằm hiểu biết, kinh nghiệm phán đoán và hành động.

CHƯƠNG VIII

GIÁO DỤC ĐỨC TIN THUỘC LOẠI NÀO

 

  • Giới thiệu

Chúng ta khẳng định rắng những nhà giáo dục được kêu gọi cách đặc biệt để giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo. Nhưng vấn đề là “viêc giáo dục đức tin thuộc loại nào” để trao ban cho giới trẻ ấy? vấn đề này được trả lời cách vắn gọn trong chương ngắn này. Câu trả lời ấy dựa vào việc nghiên cứu những dấu chỉ của thời đại. Những môi trường, hoàn cảnh và bối cảnh đa tôn giáo thúc đẩy một loại giáo dục đức tin cần được trao ban cho giới trẻ đa tôn giáo.

  • Những loại giáo dục đức tin
  • Giáo dục về giá trị

Mọi giá trị của con người đều in dấu Kitô giáo bởi vì Chúa Kitô là duy nhất, tuyệt đối và phổ quát. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô chạm tới mọi thực tại. Vì vậy, mọi hành vi nhỏ mọn được làm vì giới trẻ đa tôn cũng được gọi là việc tông đồ vì mọi giá trị đều quy hướng về Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Trong ý nghĩa này, nhà giáo dục không làm điều gì mà không có giá trị. Tất cả đều có hiệu lực, tất cả đều có giá trị và hữu ích. Tiêu chuẩn để phán đoán sự thành công hay thất bại của việc truyền giáo không biến đổi trực tiếp người Kitô hữu nhưng đúng hơn, biến đổi những giá trị giáo dục hầu hết thuộc lãnh vực nhân bản: xã hội, văn hóa, kinh tế, thẩm mỹ, kịch tuồng, âm nhạc và khoa học.

Bất kỳ mức độ giáo dục nào và bất kỳ sự thông truyền những giá trị giáo dục nào , những nhà giáo dục phải có ý hướng dẫn dắt mọi người tới Chúa Kitô. Những nhà giáo dục nên làm mọi việc vì Chúa Kitô. Nếu không có ý hướng làm việc vì Chúa Kitô thì mọi việc tông đồ và truyền giáo chỉ là một sự phục vụ mang tính xã hội mà thôi. Những ai đã theo một tôn giáo rồi thì khó có sự biến đổi trực tiếp nhưng có khả thể là một cách gián tiếp dẫn tới Chúa Kitô. Tất cả những điều này cần tôn trọng cái gì là tốt và thánh thiện trong những tôn giáo khác và thừa nhận quyền tự do tôn giáo của người thụ giáo.

  • Giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin

Giới trẻ mà những nhà giáo dục người đời và tu sĩ làm việc trong bối cảnh đa tôn giáo xuất thân từ những tôn giáo khác nhau: Ấn độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, đạo Jai-na, Thần đạo (Nhật bản), Khổng giáo, Lão giáo, đạo thờ Thần lửa, Kito giáo và những tôn giáo khác. Vì vậy họ được gọi là giới trẻ đa tôn giáo. Những nhà giáo dục được nói tới ở đây là những người làm việc cho giới trẻ đa tôn giáo trong bối cảnh đa tôn.

Ngày nay, có nhiều nhà giáo dục đang làm việc cho giới trẻ trong những thành phố lớn. Nền công nghiệp hóa và đô thị hóa không ngừng phát triển dẫn tới sự hình thành những thành phố đồ sộ. những thành phố ấy được hình thành bởi những người đa văn hóa, đa tôn giáo, đa ngôn ngữ, đa khu vực, đa quốc gia, họ đang éo đến những thành phố để tìm việc làm và để phục vụ. Từ đó bối cảnh đa tôn giáo và đa văn hóa không còn độc quyền riêng Châu Á nữa mà chúng là một hiện tượng mang tính quốc tế.

Vì thế, việc loan truyền Phúc Âm cho giới trẻ đa tôn giáo trong xã hội đa tôn là một nhiệm vụ và thách đố không chỉ cho những nhà giáo dục Châu Á mà còn cả những nhà giáo dục thuộc mọi Châu lục, đặc biệt những người làm việc trong bối cảnh đa tôn giáo. Thách đố ấy tồn tại liên Châu lục vì thế những nhà giáo dục phải thiết lập mối liên hệ liên Châu lục và phải truyền bá Phúc Âm cho giới trẻ thuộc thế giới đa tôn giáo đã được đề cập trên đây

Trước hết giới trẻ đa tôn giáo được đào luyện và được củng cố thích hợp với niềm tin của chúng. Đời sống tôn giáo riêng của chúng là khởi điểm của việc giáo dục đức tin Kitô giáo.

  • Giáo dục văn hóa tới đức tin

Văn hóa và đức tin không đối kháng nhau. Sự hình thành của văn hóa kéo theo sự hình thành của đức tin và ngược lại. Cả hai có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Những người loan báo Tin Mừng nên cố gắng dẫn dắt giới trẻ đa tôn từ cấp độ văn hóa của con người tới đức tin. Những hành vi văn hóa được thi hành theo cách thức ấy là kim chỉ nam hướng tới Thiên Chúa. Qua sự sáng tạo và tài tháo vát, sự nối kết  giữa văn hóa và đức tin được thực hiện. Những thực tại hiện hữu đang nói về Ngài và hướng về Ngài. Phải chỉ rõ cho giới trẻ biết điều này. Đối với những ai có đức tin, với họ ngay cả sỏi đá cũng nói về Thiên Chúa.

  • Giáo dục tôn giáo – văn hóa và luân lý tới đức tin

Giới trẻ đa tôn giáo, mà những nhà giáo dục có liên hệ hầu hết ở trong những đô thị. Trong những thành phố, những giá trị tôn giáo – văn hóa không được đề cao bởi vì thiếu sự đồng nhất và tính cộng đồng. Trong những khu vực đô thị, tội lỗi bị che khuất và đánh mất đi những giá trị văn hóa, tôn giáo, luân lý. Vì thế, điều cấp bách là phải mang giới trẻ trở về với những giá trị tôn giáo – văn hóa truyền thống. Trong vùng nông thôn những giá trị tôn giáo – luân lý được gìn giữ cách dễ dàng hơn vì sự an hòa, vì bầu khí cộng đồng, nhưng trong những miền đô thị, những giá trị ấy không dễ để bảo quản vì có sự hỗn độn về tôn giáo, văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ. Việc giáo dục tôn giáo – văn hóa cũng như luân lý tới đức tin đối với những người trẻ ấy thực sự là một nhiệm vụ và một thách đố cho những nhà giáo dục đức tin.

  • Giáo dục con người tới đức tin

Mọi hành vi con người, được đào luyện với một ý hướng ngay lành và niềm tin vào Thiên Chúa, ắt sẽ dẫn tới Thiên Chúa. Giới trẻ phải được dạy dỗ cách thức để đến với Thiên Chúa qua con người, qua những hành vi thông thường. Liên quan đến việc học hỏi về những thực tại con người biểu lộ và quy hướng về Thiên Chúa, những dấu được biểu lộ và những điểm quy hướng về Thiên Chúa ấy phải được tỏ bày cho giới trẻ.

  • Giáo dục người theo thuyết đa nguyên tới đức tin

Vì thuyết đa tôn giáo, đa văn hóa và đa ngôn ngữ có sự bất đồng về phương pháp. Hơn nữa, với thời gian kể cả hệ phương pháp cũng phải thay đổi và canh tân. Thực tế, vì có sự biến đổi nhanh chóng nên sự thích nghi, cải tổ, tái tạo, sự chuyển hóa và thay đổi là cần thiết. Tuy nhiên, tính đa phương pháp trong việc truyền bá Phúc Âm không lấy đi bản chất nội dung của việc giáo dục đức tin. Trong khi nội dung là chính yếu và hệ phương pháp là thứ yếu

  • Giáo dục đức tin bằng đối thoại

Tính đa phương pháp đòi hỏi một sự đối thoại thẳng thắn giữa những nhà truyền bá Phúc Âm cấp hội đoàn, cấp tỉnh, liên tỉnh, Hội dòng, Liên dòng, cấp Giáo hội, liên Giáo hội. Hơn nữa tính đa tôn giáo đòi hỏi một cách tất yếu sự đối thoại gần gũi trong việc giáo dục đức tin. Chính những nhà giáo dục phải tỏ lộ sự cởi mở, sự sẵn sàng để lắng nghe, tiếp nhận tất cả những điều tốt và thánh thiện trong những tôn giáo khác. Giới trẻ đa tôn giáo cũng được mời gọi để tạo sự đối thoại giữa họ với nhau. Điều này dẫn tới sự chia sẻ kinh nghiệm đức tin, đời sống cầu nguyện, phong tục và truyền thống của họ.

  • Phương pháp giáo dục đức tin

Chính những phương pháp của việc giáo dục đức tin phải được nhận thức và nghiên cứu để đáp ứng những dấu chỉ của thời đại, nơi chốn, văn hóa và những hoàn cảnh khác nhau. Những phương pháp thích hợp và có hiệu quả là cần thiết. Việc soạn thảo chương trình giáo dục đức tin là điều tất yếu. Điều này cũng cần phải được kiểm tra kỹ lưỡng.

  • Giáo dục mang tính giáo dục tới đức tin.

Những nhà giáo dục được kêu gọi để giáo dục bằng Phúc Âm và rao giảng Phúc Âm bằng giáo dục. Việc giáo dục về đức tin và giáo dục tới đức tin có liên quan gần gũi với nhau. Hành vi giáo dục dù theo hình thức chính quy hay không chính quy điều là cơ hội để truyền bá Phúc Âm. Những nhà truyền bá Phúc Âm nên lợi dụng mọi khả năng và mọi cơ hội để truyền bá Phúc Âm. Họ phải nỗ lực sử dụng sự sáng tạo và tài tháo vát của mình để hướng người thụ giáo về Thiên Chúa qua chương trình giáo dục.

  • Giáo dục đức tin là một tiến trình tiệm tiến.

Việc dẫn dắt giới trẻ đa tôn tới Chúa Kitô và Giáo hội cách sớm nhất là một lý tưởng. Tuy nhiên, điều này không phải là điều luôn có thể. Nó chỉ có thể đối với người theo thuyết vật linh. Theo lịch sử, hầu hết những người theo thuyết vật linh không thuộc về một tôn giáo cá biệt nào, nên việc dẫn dắt trẻ ấy tới Chúa Kitô và Giáo hội có thể là điều dễ dàng. Tuy nhiên, đối với những người đã thuộc về một tôn giáo cá biệt rồi, những người đã có đức tin, có Thánh Kinh và Thánh Truyền rồi (Tin lành, Chính Thống..) thì rất khó. Vì lý do đó, việc giáo dục đức tin phải được thực hiện cách tiệm tiến.

Danh Đức Kitô và Giáo hội của Ngài nên khởi sự và làm nổi bật cách rất tiệm tiến và khôn ngoan.

  • Giáo dục người vô thần tới đức tin

Xã hội hiện nay càng nhày càng gia tăng những người vô thần. Đây là hệ quả tự nhiên của sự không ngừng phát triển công nghiệp hóa – đô thị hóa – chủ nghĩa duy vật chất – chủ nghĩa duy hưởng thụ – chủ nghĩa nhân bản – chủ nghĩa trần tục. Con người không nhìn nhận sự cần thiết phải có Thiên Chúa nữa. Mọi sự là ngẫu nhiên và tức thời.

Cần phải gieo niềm tin vào Thiên Chúa cho giới trẻ đa tôn giáo từ những gia đình vô thần ấy. Đây là công việc của những nhà truyền bá Phúc Âm. Họ phải cho thấy nhu cầu về Thiên Chúa qua những lý lẽ rồi từ đó hướng dẫn họ tin vào Thiên Chúa. Trong cách thức ấy, phải dạy họ về hiện tượng luận và triết học. Điểm chính yếu của triết học là hướng về sự hiện hữu của Đấng Tuyệt Đối là Thiên Chúa.

  • Giáo dục đức tin

Như đã trình bày ở trên, đức tin là một tri thức được nảy sinh từ tình yêu tôn giáo. Thực tế, kiến thức đạt được bởi kinh nghiệm, sự hiểu biết và sự minh xác. Bên cạnh đó còn có loại kiến thức  khác đạt tới qua việc ý thức sâu sắc về giá trị và phán đoán giá trị của nhân vị trong tình yêu. Nó là một kiến thức trổi vượt. Một kiến thức khi  tình yêu là tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn trên tâm hồn chúng ta. Đức tin không cho phép coi con người là Thiên Chúa, tức chấp nhận con người là giới hạn và nhỏ bé và con người phải dựa vào tình  yêu của Thiên Chúa. Không có đức tin con người sẽ đặt giá trị cội nguồn là con người và coi sự thiện ích là giá trị cùng đích. Đức tin phủ nhận chủ nghĩa duy nhân bản và vô thần coi con người và thế giới là thượng đế, tức là không chấp nhận chiều kích hướng thượng về Thiên Chúa.

Giới trẻ đa tôn giáo cần được giáo dục đức tin. Đức tin là một kiến thức nảy sinh từ tình yêu tôn giáo. Kiến thức ấy nảy sinh ý thức sâu sắc về giá trị và những phán đoán về giá trị của nhân vị trong tình yêu. Đó là một kiến hức cao vời khi tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ tràn đầy trên tâm hồn con người.

Giáo dục đức tin là việc giáo dục giới trẻ đa tôn theo chiều ngang và chiều dọc. Nghĩa là trao cho chúng một cái nhìn quân bình về con người, thế giới và Thiên Chúa. Ngay lúc mà Thiên Chúa được cất đi khỏi tầm nhìn của con người thế giới, việc giáo dục trở thành chủ nghĩa duy trần thế, chủ nghĩa duy xã hội, chủ nghĩa duy nhân bản, chủ nghỉa duy lý trí, chủ nghĩa tương đối, chủ quan, vô thần và chủ nghĩa duy vật chất. Vì thế việc giáo dục đức tin nghĩa là phủ nhận những tầm nhìn giới hạn ấy. Hơn nữa, việc giáo dục đức tin nghĩa là đào luyện giới trẻ đa tôn nhận ra ơn tự do mà Thiên Chúa ban cho con người và con người phải dùng sự tự do này để xây dựng sự xác tín mãnh liệt hơn và thăng tiến hơn.

Giáo dục đức tin nghĩa là bày tỏ nhãn giới yêu thương là dạy cho giới trẻ nhận ra rằng: vì yêu Thiên Chúa ban cho con người sự tự do. Ngài mời gọi họ cộng tác, và xác tín mãnh liệt hơn vào Ngài. Việc giáo dục đức tin là giáo dục nhằm thăng tiến con người chứ  không làm con người suy sụp đi. Là dạy họ biết nỗ lực cộng tác để chiếm hữu, nhập cuộc, thắng tiến, kiến thiết và xây dựng. Sự cộng tác vĩ đại nhất là sự hoán cải và bác ái.

  • Giáo dục đức tin Công giáo

Sau khi đã đề cập cách rõ ràng đến sự chuẩn bị xa và gần, nên có một sự gia nhập đức tin qua việc hội nhập và lãnh nhận. Chúng ta có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa đức tin Công giáo là gì? Kinh Tin Kính và bản tóm tắt về đức tin Công giáo. Nghĩa là: tin một Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con va Chúa Thánh Thần; Thiên Chúa Cha là tạo dựng nên Trời và Đất; Chúa Giêsu là Đấng Kitô (Cv 2,36; 10,36; Col 2,6) là Thiên Chúa (1Cor 12,3; Rm 10,9; Cv 2,36; Pl 2,11) là Con Thiên Chúa (Cv 9,29; 13,33; Rm 1,4; Dt 4,14) con của Đức Trinh Nữ Maria là Vua vũ trụ và là Đấng Cứu Thế. Ngài sẽ đến lần nữa để phán xét kẻ sống và kẻ chêt. Ngoài ra, việc giáo dục đức tin Công giáo còn bao gồm những giáo huấn của Giáo hội Công giáo, giáo huấn tông truyền.

Những lời giáo huấn về đức tin ấy yêu cầu việc dạy giáo lý cách nghiêm túc. Điều này áp dụng đối với giới trẻ Công giáo và giới trẻ thuộc những tôn giáo khác mà họ muốn theo đạo Công giáo. Đức tin không thể học trong một ngày. Việc lãnh nhận các Bí tích, ân sủng và giáo lý được tiếp diễn với nhau. Điều này đòi hỏi phải có một chương trình giáo lý nơi Giáo hội địa phương, trường học và các tổ chức giáo dục khác

  • Sự khẩn thiết của việc giáo dục đức tin

Vì tiến trình phát triển phức tạp của nền công nghiệp hóa – đô thị hóa – chủ nghĩa duy vật chất – duy hưởng thụ – thuyết duy bất tri – thuyết vô thần – thuyết duy tự do, và chủ nghĩa buông thả đang phát triển mạnh mẽ nơi giới trẻ. Đo đó, kêu gọi sự khẩn thiết của việc giáo dục đức tin nơi những nhà giáo dục nếu không giới trẻ đa tôn giáo sẽ bị sa lầy trong thế giới của sự chán nản vô vọng, lo âu, sợ hãi, ma túy, rượu chè và tự do tình dục.

  • Kết luận

Cách giáo dục đức tin không giống nhau ở nơi này hay nơi khác mả tùy teo môi trường, hoàn cảnh và nhu cầu. Nó dựa vào điều mà người thụ giáo là . Nó đòi hỏi sự quan tâm đến những vấn đề và những khó khăn đã gặp nơi người trẻ. Nó yêu cầu biết rõ người thụ giáo là ai? Họ thuộc tôn giáo nào?. Đặc biệt là phải lưu ý tới những dấu chỉ của thời đại. Giới trẻ là tương lai của thế giới. Vì thế nếu những dấu chỉ của thời đại chỉ cho thấy vấn đề cấp bách mà nó tác động trên toàn thế giới, thì giới trẻ là người trước tiên được nhận thức và được giáo dục trong cách thức ấy điều mà họ có thể làm cho thế giới này trở thành nơi để sống tốt đẹp hơn.

CHƯƠNG IX

PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐỨC TIN LÝ TRÍ, TÌNH YÊU VÀ TÔN GIÁO

  • Lý trí, tình yêu và tôn giáo tạo thành một môi trường giáo dục ?

Những nhà giáo dục phải thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của môi trường giáo dục để hành động. Đặt giới trẻ trong sự bất khả thắng về luân lý của tội và sự dữ sẽ đòi hỏi phải kiến tạo một môi trường giáo dục. Vì sự kiến tạo môi trường ấy, họ sử dụng 3 yếu tố: lý trí, tình yêu và tôn giáo. Ba yếu tố này hòa trộn với nhau, bất khả phân ly, nó tạo nên niềm vui, sự tự do và bầu khí thiêng liêng trong nguyện xá và những trung tâm giáo dục. Vì tâm lý học, xã hội học, văn hóa và nhất là vì đào luyện tinh thần đức tin nên môi trường giáo dục ấy là  điều không thể thiếu.

Điều này rất hợp với Giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin. Mọi chu kỳ đào luyện đều đòi một môi trường giáo dục . Chính môi trường khả thi ấy tuyên truyền và làm chứng đức tin cho người ngoại giáo. Trong bối cảnh ấy, giới trẻ đa tôn bắt đầu nhìn thấy khuôn mặt của Đức Kitô qua mẫu gương của các nhà giáo dục và các bạn Công giáo. Đặc điểm chính yếu chính trị của môi trường ấy là bầu khí gia đình, sự tín nhiệm và đối thoại. Nét đặc trưng này sẽ có ảnh hưởng lớn trên giới trẻ.

Vì thế việc giáo dục đức tin là vấn đề không chỉ riêng lý trí mà còn là vấn đề của con tim. Ngoài trái tim, công việc giáo dục đức tin sẽ trở nên khó khăn, chán nản và nặng nề.

  • Giáo dục đức tin và lý trí
  • Lý trí trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin

Lý trí là phần quan trọng nhất bởi vì chỉ qua lý trí những nhà giáo dục và giới trẻ mới khám phá ra tôn giáo và tình yêu được. Chỉ qua lý trí, nhà giáo dục mới có thể làm cho giới trẻ suy xét và nhận thực được chính lý trí, tôn giáo và tình yêu. Không có lý trí thì không thể giải thích cho giới trẻ những điều liên quan tới chính lý trí: những giá trị đứng đắn của con người, sự chính xác về những giá trị con người, giá trị Công giáo và sự chính xác của nó về giá trị của nhân vị, lương tâm bản tính con người, văn hóa, thế giới lao động và đời sống xã hội.

Hơn nữa, ngoài ý chí, không thể hiểu được những điều liên quan tới tôn giáo: như việc làm lành lánh dữ theo nghĩa nó được in sâu vào tâm khảm con người, dẫn tới một đời sống tốt, trở nên những công dân tốt và lương thiện, thực hành tôn giáo, sống theo những đòi hỏi luân lý xã hội và niềm tin tôn giáo. Cũng vậy, không có lý trí thì không thể hiểu được những điều liên quan đến tình yêu: Điều thiết yếu về phía nhà giáo dục là chính họ phải yêu mến, đối thoại phải thông cảm, hiểu biết, khích lệ, thể hiện sự thông cảm sâu xa với những vấn đề của giới trẻ, sự cần thiết của tình bạn và sự hiện diện liên tục của nhà giáo dục với người thụ giáo, sự thân thiện, sự tế nhị, bác ái và lòng tốt.

Với sự trợ giúp của lý trí, người đời và tu sĩ giáo dục thông truyền hiện tượng và triết lý tôn giáo cho giới trẻ đa tôn.

  • Lý trí là điều bất khả thiếu trong việc giáo dục đức tin.

Không có lý trí, không có việc giáo dục đức tin. Đức tin phải được dùng lý lẽ để thuyết phục, hay nói cách khác nếu không có lý trí thì đức tin sẽ không được lãnh nhận với sự xác tín. Ở tuổi thành niên, giới trẻ nghi ngờ mọi sự, đặc biệt niềm tin của họ, do đó trong giai đoạn này, đức tin phải được kèm theo với đầy đủ ý nghĩa của nó. Dĩ nhiên, lý trí không thể trả lời được tất cả những vấn đề. Nhưng nó là nền tảng của đức tin và làm cho niềm tin thêm mạnh mẽ hơn.

Lý trí con người là kiến thức có giới hạn, nó dẫn dắt và củng cố đức tin. Hơn nữa, đức tin là một tri thức cao hơn khi được tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ trên tâm hồn chúng ta. Thần lực tình yêu Thiên Chúa mang lại nghị lực và một sinh khí mới trong mọi sự thiện và đức tin con người giới hạn sau khi chết. Giới hạn của lý trí không là cứu cánh khi tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn tâm hồn con người. Đức tin, một tri thức xa hơn, trở thành khả thể vì sự hoạt động của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lý trí con người thì không ngừng hiện hữu. Đức tin hiện diện liên tục qua lý trí mà con người với sự trợ giúp của Thiên Chúa, hé mở một kiến thức xa hơn. Nhờ lý trí, con người phải tự giáo dục chính mình và được giáo dục tới đức tin.

Việc giáo dục ấy cho thấy lý trí con người không là tất cả. Nó bao gồm sự tiếp nhận tình yêu Thiên Chúa đầy tràn tâm hồn con người và dẫn dắt họ tới một tri thức cao hơn, với sự trợ giúp của Thiên Chúa và lý trí con người.

  • Nhà giáo dục thông truyền những lý lẽ về đời sống và hy vọng

Nhờ giáo dục thông truyền những lý lẽ về đời sống và hy vọng.

Giới trẻ đa tôn giáo đã thấm những sự đa tạp của nền công nghiệp hóa – đô thị hóa – chủ nghĩa duy vật chất dẫn tới duy hưởng thụ – thuyết duy bất tri – vô thần, duy tự do. Đối với giới trẻ ấy, cần thiết phải giáo dục nền hy vọng. Những nhà giáo dục đức tin được mời gọi để thông truyền cho giới trẻ đa tôn giáo những lý do để hiện hữu, những lý lẽ để dẫn dắt họ tới đời sống lương thiện và nhất là những lý do để hy vọng. Đây là điều rất cần thiết bởi vì giới trẻ ngày nay đang đối diện với đời sống vô vọng và vô nghĩa. Gaudium et Spes khẳng định : “Tương lai của nhân loại được trao phó cho những người mà họ có khả năng thông truyền cho những thế hệ mai sau những lý lẽ của cuộc sống và nguồn hy vọng”. Nó đáng được coi là mẫu mực cho những nhà giáo dục Công giáo là người đã thông truyền chân lý, hy vọng và những lý tưởng cho hàng ngàn người trẻ đang đói khát đức tin và niềm hy vọng.

  • Giáo dục đức tin và tôn giáo
  • Tôn giáo trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin

Sư phạm giáo dục không chỉ là chiều ngang mà còn là chiều dọc, siêu nhiên và siêu nghiệm. Người đời và những tu sĩ giáo dục trong bối cảnh đa tôn giáo được kêu gọi để quan tâm tới chiều kích chiều dọc này và dần dần hướng các đối tượng khác tới Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Họ nên giáo dục những người bình dân là người có đức tin đứng đắn và dần dần trình bày cho giới trẻ cái lý tưởng của con người mới đã được tuyên bố bởi Đức Giêsu Kitô.

Giới trẻ phải được đào luyện để có một đời sống đức tin trong Chúa Kitô và được đâm rễ trong đời sống hằng ngày, một đức tin đáp trả lời mời gọi cộng tác từ phía người trẻ

  • Giáo dục đưc tin và tình yêu
  • Tình yêu trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo

Tình yêu muốn nói ở đây là thái độ yêu thương và tôn trọng giới trẻ đa tôn giáo. Những giá trị tôn giáo của họ cần phải được tôn trọng. Bất kỳ sự linh thiêng nào trong tôn giáo, phong tục và văn hóa của họ cần phải được giữ gìn, tôn kính. Người đời và nhà tu sĩ giáo dục cần phải có một thái độ rất thông cảm đối với giới trẻ đa tôn giáo. Họ phải có khả năng đối thoại đa tôn, tín nhiệm lẫn nhau và trao hiến hoàn toàn vì sự phát triển liên tôn giáo và sự phát triển hướng tới đức tin. Họ phải thực hành sự hiện diện mang tính sư phạm của họ đối với giới trẻ, nghĩa là họ hiện diện không phải như những nhà giáo dục khó gần gũi nhưng như những người bạn, người thầy, người Cha. Điều này giúp tiếp nhận những gía trị  đức tin, niềm hy vọng và bác ái Công giáo.

Trong cách thức này, người đời và tu sĩ giáo dục tạo một tinh thần gia đình trong tương quan với giới trẻ đa tôn giáo. Họ dùng đức ái và đời sống chứng nhân hơn là những nguyên tắc sư phạm trong nỗ lực giáo dục người trẻ từ niềm tin đa tôn tới đức tin Công giáo. Bác ái là trung tâm của việc giáo dục đức tin. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào của giới trẻ, người đời và tu sĩ giáo dục vì đức ái dẫn chúng tới sự hoàn hảo đã được mặc khải qua Đức Kitô hầu trao cho chúng cái ý thức và khả năng sống như những công dân lương thiện và như những người con Chúa.

Đức ái giáo dục này không là tình yêu đơn thành của con người cũng không chỉ là đức ái siêu nhiên. Nó là tình yêu hiện hữu giữa nhà giáo dục và những người được giáo dục, trong cách thức ấy, nhà giáo dục làm cho chính mình được yêu. Điều này đòi hỏi nhà giáo dục đối với những nhà giáo dục cũng như đối với những người thụ giáo. Để hiểu được điều này là điều rất khó khăn đối với giới trẻ đa tôn giáo. Nhưng chúng phải được giải thích ý nghĩa của đức ái và tình yêu của người Kitô hữu để từ đó tiến tới đức ái giáo dục, phải làm thế nào để chứng nhận thấy rằng những nhà giáo dục yêu mến chúng.

  • Nhà giáo dục đức tin phải yêu mến những người mình giáo dục

Những nhà giáo dục đức tin nên sinh động hóa mọi hành vì của họ bằng tình yêu và sự hiểu biết. Nếu việc giáo dục toàn diện không được tô điểm bằng tình yêu và sự thân ái, thì công việc giáo dục sau này sẽ không lôi cuốn, hấp dẫn tâm hồn người thụ giáo.

Các tông đồ, đặc biệt thánh Phaolô đã yêu thương người mà các Ngài đã giáo dục đức tin trong Chúa Kitô (1Tx 2,7-11; Plm 1,8; 1Cor 4,15;8,9-13; Gl 4,19;Rm 14,15) bắt chước các Tông đồ, toàn thể Giáo hội và đặc biệt những người có liên hệ trực tiếp với việc giáo dục đức tin đều được kêu gọi để diễn tả hành vi giáo dục bằng tình yêu và sự thân ái.

Tình yêu ấy phải cụ thể, không trìu tượng. nó phải được biểu lộ trong mọi hành vi giáo dục. Nó phải chạm tới những người được giáo dục. Tình trạng tôn giáo và tinh thần của họ phải được tôn trọng. Những thái độ, giá trị, văn hóa, ngôn ngữ, chủng tộc, quốc gia, màu da, thói quen, nghi thức, nghi lễ, và những dịp lễ của họ phải được tôn trọng. Sự yếu đức tin của họ phải được thông cảm bởi vì sau mọi sự, đức tin là hồng ân của Thiên Chúa (1Cor 8,9-13; Rm 14,15)

Người được giáo dục cần được yêu với sự thân ái. Hơn nữa người đời và tu sĩ giáo dục phải làm cho những người thụ giáo và giới trẻ biết chúng được yêu.

  • Tương quan mật thiết giữa nhà giáo dục và người thụ giáo trong việc giáo dục đức tin

Việc giáo dục đức tin không thể hoàn thành được nếu không có sự thông truyền đức tin qua nhân cách của nhà giáo dục. Những nhà giáo dục được kêu gọi để thông truyền sứ điệp giáo dục qua gương sáng, tư tưởng, lời nói và hành động của họ cho giới trẻ. Những thái độ thân thiện, cởi mở, cách cư sử tốt, những tương quan giữa nhà giáo dục là điều hết sức quan trọng đối với sự phát triển của việc giáo dục đức tin.

Giới trẻ đa tôn giáo khao khát được nhìn thấy bản chất của đức tin được thực hành nơi những nhà giáo dục và những người Công giáo. Khi họ thấy, họ sẽ tin. Xem thấy thì tin. Thế giới ngày nay không tin trừ khi nó thấy. Sự nhận thức chỉ là nguồn gốc của kiến thức, như người theo chủ nghĩa duy vật.

Thế giới đô thị hóa, duy vật chất, duy hưởng thụ tất cả đều thiên về vật chất nên niềm tin cũng chỉ được nhìn thiên về vật chất.

  • Sự cần thiết của việc gặp gỡ nhân vị trong việc giáo dục đức tin

Bên cạnh môi trường giáo dục được sinh động bởi lý trí tôn giáo và tình yêu, sự gặp gỡ nhân vị là cần thiết. để thực hiện điều này, cần phân nhỏ những nhóm lớn thành từng nhóm nhỏ hơn. Với cách thức này, mối tương quan nhân vị giữa những người thụ giáo với những nhà giáo dục trở nên sâu sắc hơn. Do đó việc giáo dục đức tin không chỉ là một sự truyền đat lạnh nhạt, hình thức và xây dựng những giá trị tinh thần và luân lý Công giáo, nhưng hơn thế nữa, những nhà giáo dục thông truyền những sứ điệp có giá trị về đời sống chứng nhân Tin Mừng cho người được giáo dục. Đời sống của nhà giáo dục là  tiếng nói cho người thụ giáo . Hương thơm thánh thiện của những nhà giáo dục lan tỏa giữa những người được giáo dục. Đồng thời những người giáo dục tốt là mẫu gương cho những người chưa tốt.

  • Người đời và tu sĩ giáo dục đồng hành với giới trẻ để dẫn họ tới Chúa Kitô

Người đời và tu sĩ giáo dục được kêu gọi trở nên mẩu gương sống động về đời sống chứng nhân cho giới trẻ. Đang khi họ giáo dục giới trẻ tin vào Chúa Kitô, thì chính họ cũng liên tục được tăng trưởng trong đức tin. Họ phải luôn tâm niệm rằng sự tăng trưởng trong đức tin không phải là vấn đề trường tồn nhưng là một tiến trình phát triển liên tục. Họ phải liên tục canh tân và biến đổi chính mình. Đó là một bổn phận suốt đời. Cả những nhà giáo dục cũng như những người được giáo dục cùng đồng hành tiến vế Chúa Kitô, chia sẻ đức tin Công giáo và giúp đỡ lẫn nhau để đi tới mục tiêu chung. Vì vậy, chúng ta nhìn nhận rằng những nhà giáo dục trong khi dẫn giới trẻ tới Chúa Kitô cũng tìm thấy chính mình để đến với Chúa Giêsu, là Chúa, là Thầy của việc giáo dục, là nhà giáo dục.

  • Người đời và tu sĩ giáo dục được mời gọi để đồng hành với giới trẻ trong sự phát triển nhân bản và thiêng liêng.

Những người đời và tu sĩ giáo dục được kêu gọi để bắt chước sự kiên nhẫn của Thiên Chúa trong việc tiếp xúc với giới trẻ. Sự kiên nhẫn ấy đòi hỏi để nhận biết sự tự do sai trái mà chúng tìm kiếm và dần dần đào luyện chúng tới sự tự do đích thực. Qua sự xác tin và trách nhiệm họ dạy dỗ và xây dựng chiếc cầu tự do, lấp hố ngăn cách giữa lý thuyết và thực hành. Chiếc cầu là sự tự do trong khi đó hố ngăn cách là trách nhiệm. Qua chiếc cầu này hướng tới sự đào luyện nhân bản và thiêng liêng. Hai khía cạnh đào luyện này thì tiệm tiến, từ từ và tế nhị. Vì hai khía cạnh này, sự đồng hành của người  đời và tu sĩ giáo dục là một đòi hỏi thiết yếu

  • Việc giáo dục đức tin và sự sửa bảo huynh đệ, giáo lý và đời sống Bí tích
  • Tinh thần tông đồ và sự sửa bảo huynh đệ nơi những người thụ giáo sẽ giúp cho việc giáo dục đức tin

Người thụ giáo tốt cần được khuyến khích để ảnh hưởng của họ giữa các bạn không ngừng tăng trưởng hơn. Tiến trình giáo dục đức tin không đồng đều nơi nhà giáo dục và người thụ giáo. Nó cũng không đồng đều giữa chính  những người thụ giáo với nhau. Vì tính liên tục của việc giáo dục, nơi người thụ giáo, tinh thần tông đồ và sự sửa bảo huynh đệ là cần thiết. Những người được giáo dục giúp đỡ lẫn nhau để tăng trưởng đức tin. Họ sửa chữa cho nhau, nhắc nhở nhau về những giá trị của Tin Mừng.

Cách riêng, giới trẻ Công giáo phải là mẫu gương sống động về những giá trị luân lý và tinh thần Kitô giáo cho giới trẻ đa tôn. Qua tinh thần tông đồ và sự  sửa dạy huynh đệ giới trẻ Công giáo làm sinh động và ảnh hưởng tới giới trẻ đa tôn đang hiện diện trong bất kỳ tổ chức giáo dục nào. Giới trẻ Công giáo phải được dạy dỗ thế nào để có thể nói về Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài cho giới trẻ đa tôn giáo cách có hiệu quả.

  • Giáo lý, một phương tiện của việc giáo dục đức tin

Việc dạy giáo lý, là một trong những phương tiện quan trọng nhất của việc giáo dục đức tin. Thực tế, việc dạy giao lý và việc giáo dục đức tin được coi là đồng nghĩa với nhau. Những phương tiện ấy không được sao nhãng. Nó bao gồm một hệ thống chỉ dẫn tôn giáo của những giáo huấn căn bản của Giáo hội.

Những chỉ dẫn tôn giáo ấy qua việc dạy giáo lý nên có một khóe nhìn hướng về bối cảnh đa tôn của những người thụ giáo. Mục đích là mang giới trẻ đa tôn giáo tới Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài.

Sự chỉ dẫn ấy được thực hiện trong nhà thờ, trường học, gia đình, các tổ chức giáo dục và bất kỳ nơi nào có thể. Theo địa điểm, thời gian và hoàn cảnh, những phương pháp và thể loại phải thích hợp. Hơn nữa những thái độ và những giá trị văn hóa của giới trẻ phải được duy trì

Giáo trình sử dụng cho việc dạy giáo lý phải được phê chuẩn bởi Hội Đồng Giám Mục bởi vì có thể có những lý thuyết sai lạc. Điều này được duy trì cách đặc biệt khi những người thụ giáo là giới trẻ đa tôn. Chắc chắn vẫn còn những quan điểm dị giáo tinh vi có thể len lỏi vào việc dạy dỗ tôn giáo qua hiện tượng luận, triết lý và thần học tôn giáo.

Sự chuẩn bị cho việc dạy giáo lý, đặc biệt là việc dạy giáo lý cho giới trẻ đa tôn giáo cần phải được chuẩn bị kỹ càng. Người đời cũng có thể giúp trong lãnh vực dạy giáo lý này.

Thực tế, có nhiều nơi trên thế giới những người đời đã tham gia rất tích cực trong công việc dạy giáo lý. Điều này đòi sự học hỏi, nghiên cứu về phía những người đời.

Những người trưởng thành và giới trẻ đa tôn giáo phải được giới thiệu qua khóa giáo lý gia nhập đạo. Thực tế, trong bối cảnh đa tôn giáo, rất cần có một khóa giáo lý ấy để dạy dỗ, hướng dẫn họ tới Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài.

  • Việc giáo dục đức tin và việc giáo dục đời sống mang tính Bí tích.

Việc giáo dục đức tin sẽ thiếu hoàn hảo nếu không có việc giáo dục về các bí tích. Ý nghĩa của những bí tích phải được cắt nghĩa. Các bí tích không phải là một phép thuật nên cần phải được chỉ dẫn. Điều này đòi hỏi một sự xác tín rằng chính Chúa Kitô đã thiết lập các bí tích Ngài muốn Giáo hội cử hành nó cho đến khi Ngài đến lần thứ hai.

Điều quan trọng là chỉ cho họ biết rằng các bí tích là hồng ân của Chúa Thánh Thần nên đòi hỏi một sự cộng tác tích cực về phía người lãnh nhận. Mỗi bí tích có hai khía cạnh: ân sủng và sự đáp trả. Hiệu quả của mỗi bí tích phải được sống và thực hành với sự trợ giúp của ơn đã lãnh nhận. Vì thế, các bí tích trở thành bí tích của cuộc sống, được sống cách trung thành và quảng đại.

Việc trình bày bí tích cho giới trẻ đa tôn giáo là một việc không dễ. Đây là một thách đố giáo dục cho Giáo hội qua những phương tiện sẵn có khác nhau. Tất cả những phương tiện tốt phải được sử dụng để giải thích kho tàng đời sống mang tính bí tích.

  • Nhà giáo dục được mời gọi để tạo điều kiện thuận lợi để chuyển đổi niềm tin

Người đời và tu sĩ giáo dục đang làm việc trong bối cảnh đa tôn giáo chính thức được kêu gọi để tạo những điều kiện thuận lợi cho tiến trình tự do chuyển đổi đức tin qua việc áp dụng những phương pháp giáo dục và mục vụ khác nhau. Điều này phải được thi hành với sự tôn trọng những giá trị văn hóa và tôn giáo của tôn giáo bạn. Ở nơi mà những bối cảnh tôn giáo, xã hội hoặc chính trị không cho phép tự do truyền bá Phúc Âm, người đời và tu sĩ giáo dục phải duy trì và phát triển công việc truyền giáo bằng đời sống chứng nhân và phục vụ.

  • Giáo dục đức tin và lòng đạo đức bình dân

Ngày nay có một sự tái khám về lòng đạo đức bính dân. Giá trị và tầm quan trọng của nó mới được phát hiện ra. Gần đây lòng đạo đức bình dân đã được coi là không trong sáng và bị xem thường. Nhưng ngày nay, hiệu lực mục vụ của nó cho thấy ngày càng tăng. Thực tế hơn bao giờ hết, nó được khuyến khích và thúc đẩy với một động lực và một mục tiêu đứng đắn.

Lòng đạo đức bình dân đã bị lạm dụng để xuyên tạc đạo Công giáo qua những chuyện hoang đường, mê tín dị đoan và bị coi là một giáo phái. Nhưng , nếu được áp dụng tốt, lòng đạo đức bình dân sẽ trở thành phương tiện để giáo dục đức tin. Nó biểu lộ sự khát khao tìm kiếm Thiên Chúa. Nó là dấu chỉ bên ngoài của đức tin, là niềm tin tôn giáo bình dân, nghĩa là niềm tin của con người biểu lộ cách công khai.

 Những nhà giáo dục đức tin nên khích lệ dân chúng, đặc biệt giới trẻ đa tôn giáo tham gia vào những hoạt động đạo đức bình dân khác nhau. Họ phải được khích lệ để tham dự vào những hoạt động nhằm thăng tiến đời sống tôn giáo , những cuộc hành hương, việc lần hạt Mân côi, những buổi đọc kinh, cầu nguyện, và nhiều cách biểu lộ bên ngoài khác của đức tin.

CHƯƠNG X

TIỀN GIÁO DỤC ĐỨC TIN

 

  • Giáo dục đức tin cách tiệm tiến qua việc đào luyện nhân bản và khoa học
  • Giới trẻ đa tôn giáo tiếp nhận Đức Kitô qua những giai đoạn khác nhau.

Những nhà giáo dục nên nhìn nhận một thực tế rằng: giới trẻ đa tôn giáo không dễ tiếp nhận Chúa Kitô cách nhanh chóng, nhưng chỉ tiệm tiến, qua từng giai đoạn. Vì vậy, nhà giáo dục phải bắt đầu với lòng tốt và những tương quan tự phát với giới trẻ đa tôn giáo; rồi tới những cuộc chuyện trò, đối thoại đa tôn sau đó mới tới việc truyền bá những giá trị Công giáo qua việc xuất bản sách báo Công giáo, qua phương tiện truyền thông đại chúng, những bài thuyết trình, hội thảo, những cuộc gặp gỡ cầu nguyện đa tôn, qua sự nghiên cứu học hỏi. Phải khám phá những cách thức mới mẻ và sáng tạo trong việc giáo dục đức tin, đồng thời cũng phải tiến hành việc nghiên cứu lý thuyết nữa. Những đền thờ không thuộc Công giáo cũng được sử dụng cho việc đối thoại, cải thiện xã hội và truyền bá những giá trị Công giáo qua những buổi cầu nguyện và những bài thuyết trình.

  • Giáo dục đức tin là đào tạo con người toàn diện

Việc giáo dục đức tin không loại trừ hoặc không thể không chú ý tới nền tảng của việc đào luyện con người: tâm lý học, văn hóa, tri thức, xã hội học, kinh tế và đa tôn giáo…Tất cả những điều ấy có tầm mức quan trọng và phải được lưu ý. Đang khi coi việc giáo dục Công giáo như là chóp đỉnh, đừng quên rằng việc giáo dục là toàn diện.

  • Qua khoa học tới đức tin: khía cạnh tôn giáo của khoa học

Những nhà bác học và kỹ thuật không nên loại trừ khía cạnh tôn giáo trong việc nghiên cứu của họ. Mọi khoa học kỹ thuật đều là thành phần của vũ trụ mà vũ trụ được tạo dựng bởi Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa. Vì thế việc nghiên cứu khoa học nên

quy về sự thiện của Thiên Chúa.

 Trong cách thức này, giới trẻ phải được dạy dỗ để chiêm ngắm công việc tay Chúa làm trong vũ trụ. Chúng phải được dạy cho biết sự hài hòa giữa đức tin và khoa học. Hơn nữa, để thăng tiến họ nên đặt khoa học và kỹ thuật để phục vụ cho toàn thể nhân loại. Trong cách thức đó, họ công tác với Thiên Chúa Đấng hoạt động trong sự sáng tạo của vũ trụ.

  • Giáo dục niềm tin cho giới trẻ đa tôn giáo: một sự chuẩn bị hướng tới đức tin

Việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo khác với việc giáo dục chính niềm tin của chúng. Việc giáo dục niềm tin đa tôn gồm: hiện tượng luận, triết học và thần học của những tôn giáo khác nhau hiện hữu trong chính cơ cấu, bối cảnh, hoàn cảnh và môi trường của họ.

  • Hiện tượng luận về tôn giáo

Điều này được đặt ra để biết tôn giáo là gì. Tôn giáo được biểu lộ ra bên ngoài qua tín ngưỡng, nghi thức phụng vụ, thái độ luân lý, những ngày lễ và những cuộc hội diễn (festivals) nơi đền thờ và những nơi hành hương cũng như qua nghệ thuật và văn chương. Tất cả những điều này, được gọi là hiện tượng luận nghĩa là chủ thể quan sát, nghiên cứu và khám phá ra nguồn gốc lịch sử của chúng. Việc nghiên cứu ấy không là gì khác ngoài hiện tượng luận tôn giáo.

Việc nghiên cứu ấy được tiến hành qua các phương pháp khác nhau:

  • Phương pháp lịch sử:

phương pháp này được sử dụng qua việc tìm kiếm nguồn gốc, sự phát triển , đâm nhánh ngay từ lúc khởi sự lan rộng tôn giáo.

  • Phương pháp so sánh và tương đồng:

phương pháp này được sử dụng qua việc tìm kiếm những hiện tượng chung, những cấu trúc và những mô hình chung.

  • Phương pháp lịch sử và sự hiện hữu:

phương pháp này có khuynh hướng quan tâm đến các tôn giáo khác nhau đã xuất hiện trong lịch sử thế giới như thế nào và sự tồn tại của nó.

Hiện tượng luận tôn giáo tự bản chất không chấp nhận phê bình, thành kiến và định kiến. Nó như là đối tượng, là khả thể, tiếp thu những sự kiện như nó là. Nó tồn tại trong kinh nghiệm (giác quan, ý thức, cảm giác và ý tưởng) và mức độ hiểu biết (quan sát nội tại, kết quả của những khái niệm và những giả thiết). Tuy nhiên với tư cách là con người, ta rất khó tri thức về sự tồn tại của mức độ kinh nghiệm – hiểu biết và sự kiềm chế phán đoán (sự thống chế và sự cân nhắc của tính hiển nhiên, sự thấu hiểu gần như tuyệt đối, những phán đoán về sự kiện và giá trị)

Hiện tượng luận tôn giáo liên quan tới sự hiểu biết ý nghĩa của những ngày lễ và những ngày thánh của những tôn giáo khác; ước muốn của giới trẻ đa tôn về những ngày lễ của họ; sự khoan dung đối với những lề thói và những phong tục cá biệt của việc cử hành những ngày lễ; việc học hỏi những lời cầu nguyện đa tôn; nói lên sự tôn trọng đối với những tôn giáo khác; hiểu biết những đặc tính cá biệt của những giáo phái địa phương khác nhau.

  • Triết lý tôn giáo

Triết lý tôn giáo là sự phản tỉnh mang tính triết học có ý nghĩa tôn giáo nói chung và ý nghĩa đa tôn giáo nói riêng. Đây là một bước tiến về phía trước sau hiện tượng luận tôn giáo. Bởi vì triết lý tôn giáo mang ý nghĩa nghiên cứu  thuộc triết học về những điều kiện tiên nghiệm, về khả thể của mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa hay Đấng Tuyệt đối. Hơn nữa nó mang ý nghĩa phê bình lý trí dựa vào tôn giáo. Theo một vài tác giả, nó mang ý nghĩa thần học tự nhiên, nghĩa là một sự thẩm tra mang tính triết lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa, mang ý nghĩa ngôn ngữ tôn giáo và mối tương quan của con người với Thiên Chúa.

  • Thần học tôn giáo

Thần học tôn giáo là một sự phản tỉnh theo sau hiện tượng luận và triết lý tôn giáo trong ánh sáng đức tin và mặc khải. nó bao gồm việc chiêm ngắm điều mà thần học Kitô giáo nói về tôn giáo và thuyết đa tôn giáo.

  • Giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới niềm tin đứng đắn: một sự chuẩn bị hướng tới đức tin.

Trong bối cảnh đa tôn giáo, giới trẻ mà chúng ta làm việc gọi là giới trẻ đa tôn. Việc giáo dục giới trẻ ấy tới đức tin Kitô giáo không thể được thực hiện ngoài việc giáo dục chúng trước hết tới chính niềm tin của chúng tức là chúng ta phải lưu ý tới chính niềm tin của chúng. Việc giáo dục chính niềm tin của chúng là một thách đố lớn và là một nhiệm vụ khó khăn.

Việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới chính niềm tin riêng của chúng là một sự chuẩn bị xa về đời sống Kitô hữu và cách riêng về đức tin. Có nhiều yếu tố tốt lành và thánh thiện trong những tôn giáo khác. Giáo hội  Công giáo luôn rộng mở và tiếp nhận tất cả những gì là tốt lành và thánh thiện trong những tôn giáo này

CHƯƠNG XI

GIÁO DỤC ĐỨC TIN BẰNG VIỆC RAO GIẢNG VÀ LÀM CHỨNG PHÚC ÂM

 

  • Giáo dục đức tin bằng việc rao giảng Phúc Âm
  • Giáo dục đức tin bằng việc rao giảng Lòi Chúa

Việc rao giảng rất cần thiết cho việc giáo dục giới trẻ tới đức tin. Thánh Phaolo nói: “làm sao họ tin Đấng mà họ chưa bao giờ được nghe? Và làm sao họ nghe nếu không có ai rao giảng? vì thế có đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,14,17).

Theo những dấu chỉ của thời đại, thế hệ này thích nhìn những hình ảnh hơn là nghe những lời rao giảng. Những hình ảnh có khi nói còn mạnh mẽ hơn những lời rao giảng. Hơn nữa, những ý tưởng được nghĩ ra từ những hình ảnh. Vì thế, việc rao giảng nên được thực hiện bằng những hình ảnh. Điều quan trọng không phải là cách thức rao giảng, nhưng là hành động mà việc rao giảng đó thực hiện. Thần lực của lời Chúa là vĩnh cửu, là tối hậu mà nó cần phải được rao giảng.

Thánh Phaolo nói đức tin xuất phát từ việc nghe giảng (Rm 10,17). Thực tế, khi Lời Chúa được rao giảng và được lắng nghe dễ nảy sinh đức tin và đức tin dẫn đến sự hoán cải là một vòng tuần hoàn liên kết với nhau.

  • Giáo dục đức tin qua việc rao giảng

Việc rao giảng Lời Chúa trong khi cử hành Thánh lễ cũng như cử hành Lời Chúa tự nó là việc giáo dục đức tin. Dĩ nhiên, những người ngoài Công giáo thì không được hiện diện trong những nghi thức Công giáo và vì thế, những cách thức mới và quan trọng phải được khám phá ra để rao giảng cho họ. Rao giảng là một phương tiện hữu hiệu để giáo dục đức tin cho người ngoại giáo nói chung và giới trẻ nói riêng. Những linh mục Công giáo và những người đời không bao giờ được bỏ lỡ những cơ hội rao giảng Lời Chúa.

  • Giáo dục đức tin cho giới trẻ nghĩa là loan báo Tin Mừng

Việc giáo dục giới trẻ tới đức tin rất cần thiết. Nó bao gồm việc loan báo Tin Mừng cho giới trẻ đa tôn giáo. Giới trẻ là những người đang kiệt sức vì sự sợ hãi và lo âu nên rất cần được trao ban sứ điệp Tin Mừng. Nhờ sự chuẩn bị xa nên hiện tượng luận tôn giáo, triết lý tôn giáo và thần học tôn giáo, những nhà giáo dục phải khởi sự việc loan báo Phúc Âm nhân danh Chúa Kitô. Ngoài việc loan báo Tin Mừng không có gì hơn việc giáo dục giới trẻ tới đức tin. Nói chung, giới trẻ phải được giáo dục đức tin.

  • Giáo dục đức tin đòi hỏi loan báo Tin Mừng cách công khai.

Đối với việc giáo dục đức tin, việc loan báo Tin Mừng cách công khai là điều cần thiết. Nước Thiên Chúa, mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Tin mừng ơn cứu rỗi trong Chúa Kitô, tất cả phải được rao giảng. Lời loan báo ấy là một khía cạnh thiết yếu của việc giáo dục đức tin.

Quyền năng từ bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô vào buổi sáng ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, được Giáo hội gìn giữ để thi hành việc loan báo Tin Mừng. Ngày nay Giáo hội ước mong tìm những cách thức mới và thích hợp để loan báo ơn cứu độ và loan báo Tin Mừng đã được thực hiện nơi Đức Kitô, qua muôn ngàn thế hệ. Giáo hội muốn giáo dục đức tin cho mọi người bằng việc loan báo Tin Mừng.

  • Việc rao giảng Tin Mừng và sự đáp trả của giới trẻ.

Bài Tin Mừng được rao giảng cho giới trẻ đa văn hóa và đa tôn giáo, nơi đó có những sự đáp trả sau:

  • Sự tiếp nhận chân thành: Những người này đón nhận Chúa Kitô ngay sau khi nghe giảng.
  • Từ chối thẳng thắn: những người này từ chối Chúa Kitô ngay sau khi nghe nói về Ngài
  • Cải tạo môi trường: những người này cải thiện, tái diễn, tái tạo sứ điệp của Chúa Kitô, nghia là giải mã những thông tin mang tính Kitô mới bằng những hạn từ của kinh nghiệm
  • Sát nhập những người theo thuyết hổ lốn: những người này Sát nhập những yếu tố đã tiếp nhận từ sứ điệp Kitô giáo vào những hệ thống ngoài Kitô giáo của họ
  • Sự kéo dài có chủ tâm: những người này trì hoãn hoặc cản trở quyết định tiếp nhận Chúa Kitô; nhưng không từ chối Chúa Kitô
  • Giáo dục đức tin và yếu tính của đời sống chứng nhân Kito giáo
  • Những tổ chức Công giáo trở nên chứng nhân trong việc giáo dục đức tin

Những tổ chức Công giáo giáo dục có thể là một trở ngại trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ. Điều này xẩy ra khi những cơ cấu tổ chức biến đổi từ phương tiện thành mục đích trong chính nó. Vì thế, thay vì đến với mục đích nghĩa là việc giáo dục đức tin, người ta lại chìm đắm trong cơ cấu và phục vụ cơ cấu. Những nhà giáo dục được tuyển chọn và được chuẩn bị không những đối với việc công bố Phúc Âm mà còn để gìn giữ những cơ cấu đang sống và hiện có.

Thay vì những tổ chức giáo dục Công giáo trở thành nơi nương tựa, cách thức và rộng mở hướng tới việc giáo dục đức tin thì duy cơ cấu mãi mãi là một cám dỗ. Mối nguy hiểm ấy phải được xa tránh để mục đích của việc giáo dục đức tin được rõ ràng trong tâm trí. Do đó những tổ chức giáo dục không phục vụ những cơ cấu nhưng phục vụ mục đích của việc giáo dục là hướng tới đức tin. Tất cả những cái khác chỉ là phương tiện.

  • Giáo dục đức tin đòi hỏi sự gắn bó cách trung thành với điều đã được dạy dỗ

Việc giáo dục đức tin không dừng lại ở việc loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu nhưng xa hơn nữa nó đòi hỏi những người giáo dục phải sống những lời mình dạy dỗ. Việc giáo dục đức tin không thể hoàn thành trừ phi có sự gắn bó trung thành với nội dung giáo dục. Do đó gắn bó trung thành nghĩa là thực hành và sống đức tin, lời dạy dỗ và sống điều mình giáo dục. Ngoài việc sống và thực hành ấy, việc giáo dục vẫn là trìu tượng, vượt lên trên đời sống cụ thể.

Điều này cũng bao gồm việc tiếp nhận người ngoại giáo vào Giáo hội, bí tích hữu hình của ơn cứu độ; vào trong cộng đoàn Giáo hội địa phương để sống và gắn bó với đức tin. Cộng đoàn ấy giúp người ta gắn bó với những nội dung giáo dục. Sự gắn bó trung thành với đức tin nơi một cá nhân được giúp đỡ nhờ chính sự hiện diện trong Giáo hội, qua việc lãnh nhận các bí tích

  • Phải là chứng nhân Kitô giáo trong việc giáo dục đức tin

Mọi nhà giáo dục đều được kêu gọi sống đời sống chứng nhân cho Chúa Kitô. Họ phải sống đời sống chứng nhân, làm chứng nhân, sống đức tin và sống điều họ dạy. Nếu giới trẻ không thấy những nhà giáo dục thực hành những điều họ dạy thì chúng sẽ không thực hành nó trong đời sống của chúng.

Toàn Giáo hội được mời gọi sống đời sống chứng nhân, Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục, các Linh mục, các tu sĩ, giáo dân. Mọi người đều được mời gọi để trở nên giống Chúa Kitô qua đời sống chứng nhân ấy, giáo dục những ngời đồng hữu ngoài Công giáo, đặc biệt giới trẻ tới Chúa Kitô.

  • Việc giáo dục đức tin và sự thiếu duy nhất trong Giáo hội Chúa Kitô.

Giáo hội Chúa Kitô vẫn đứng vững cho dù có sự chia rẽ. Đây là một trở ngại lớn nhất trong việc giáo dục đức tin. Sự bất nhất này hiện hữu giữa những giáo phài khác nhau được coi như là một si-can-đan đối với những anh em ngoài Công giáo. Làm thế nào chúng ta có thể rao giảng những  giáo thuyết khác nhau nhân danh cùng một Chúa Kitô? Giáo hội Chúa Kitô phải nỗ lực không ngừng để phá vỡ những ngăn trở của tội lỗi và sự chia rẽ để đi đến sự duy nhất và hòa bình. Việc giao hòa ấy là dấu chỉ của đời sống chứng nhân và nó dấu chứng cho những anh em ngoại giáo. Nó dẫn tới việc tiếp nhận Chúa Kitô và Giáo hội Ngài cách dễ dàng hơn

  • Giáo dục đức tin cho những

Người Công giáo không thực hành đức tin củng giống như việc giáo dục người ngoại giáo tới đức tin

Trong thời đại hiện nay, có nhiều Kitô hữu đã được Rửa tội, cách riêng những người Công Giáo không thực hành đức tin. Lý do dẫn đến điều này là: Sự phát triển không ngừng công nghiệp hóa, thuyết duy vật chất, duy hưởng thụ, đô thị hóa, thuyết duy thế tục.

Giáo Hội có bổn phận quan tâm tới những người không thực hành đức tin. Giáo Hội không ngừng giáo dục đức tin cho họ để họ khỏi sa vào sự bất tri hoàn toàn. Việc giáo dục đức tin bằng tất cả những phương tiện có thể không chỉ đối với những người ngoài Công giáo mà còn cả những người Công giáo nữa, để họ duy trì và giữ vững đức tin của họ. Từ đó, họ mới trở thành dấu chỉ và chứng nhân sống động cho người ngoại giáo. Họ sẽ là ánh sáng và là muối đất cho trần gian. Giáo Hội phải tiếp tục dạy giáo lý cho họ.

Hơn nữa , họ phải được giúp đỡ và nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, Lời Chúa sẽ phát sinh đức tin và đức tin sẽ dẫn đến sự hoán cải. Một tâm hồn khiêm nhường thống hối sẽ thực hành việc lắng nghe Lời Chúa và tiếp tục thực hành qua chu kỳ không bao giờ ngừng của ba khía cạnh: Lời Chúa, đức tin, sự hoán cải, Lời Chúa…

Trong Giáo Hội cũng có những kitô hữu không thực hành đức tin, đối với những người ấy Giáo Hội muốn tái giáo dục đức tin trong Chúa Kitô và Giáo Hội. Họ đã đánh mất ý thức về Giáo Hội và cuối cùng xa rời Chúa Kitô. Người ta không thể theo Chúa Kitô trừ phi qua Giáo Hội. Chúa Kitô và Giáo Hội là duy nhất bất khả phân. Ở đâu có Chúa Kitô, ở đó có Giáo Hội. Vì thế, những người không thực hành đức tin Công giáo phải quay về với Giáo Hội, về với giáo huấn của Giáo Hội, với điều mà Giáo Hội đã công bố và ra lệnh.

Điều quan trọng là phải dẫn những người Công Giáo không thực hành đức tin ấy về với Giáo Hội Chúa Kitô vì đời sống chứng nhân và sự làm chứng của họ là phương tiện sống còn trong việc giáo dục những người ngoài Công giáo và cách riêng giới trẻ tới đức tin.

  • Đời sống chứng nhân như phương tiện giáo dục đức tin

Sống và thực hành giáo huấn của Chúa Kitô là cách thức tiên quyết trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo. Đời sống chứng nhân, gương mẫu và thánh thiện của những nhà giáo dục tại Giáo Hội địa phương cũng như Giáo Hội toàn cầu là tiếng nói mạnh mẽ nhất trong việc giáo dục đức tin so với những phương tiện khác.

Trong văn kiện Consilium de Laicis, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khẳng định: “Con người ngày nay sẵn lòng lắng nghe những chứng nhân hơn là lắng nghe thầy giáo, và nếu họ lắng nghe thầy giáo chỉ vì họ là những chứng nhân”. Giáo Hội được kêu gọi để giáo dục qua đời sống chứng nhân nghèo khó, thiêng liêng, thánh thiện. Giáo Hội giáo dục bằng đời sống gương mẫu của mình.

 

  • Giáo dục đức tin nghĩa là trở nên chứng nhân tình yêu Cha

Giáo dục đức tin là lời minh chứng về Thiên Chúa được mặc khải qua Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Ngài làm chứng cho sự thật rằng Chúa Con đã yêu thế gian và tình yêu đó đã được thể hiện qua cuộc nhập thể, vượt qua, chết và sống lại để cứu chuộc nhân loại. Khẳng định Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài hiện diện khắp mọi nơi và chính Ngài dẫn dắt con người đến đức tin.

  • Giáo dục đức tin và tầm quan trọng của đời sống chứng nhân

Việc giáo dục đức tin nên được thực hiện không chỉ nhờ những cách thức giáo dục khác nhau mà còn nhờ đời sống chứng tá của nhà giáo dục nữa. Người đời và những tu sĩ giáo dục được mời gọi để thực hành những điều mà họ rao giảng. Đời sống chứng tá là một việc giáo dục âm thầm được thực hiện bằng đời sống. Thực tế, đời sống của nhà giáo dục là tiếng nói mạnh mẽ hơn lời dạy và lời rao giảng. Giáo dục đức tin bằng đời sống chứng nhân thì mạnh mẽ hơn là giáo dục đức tin cách hão huyền và trừu tượng. Hơn nữa, đời sống chứng nhân là hiện thân của việc giáo dục đức tin.

Thực tế, giới trẻ đa tôn giáo nhìn và muốn thấy đức tin được sống nơi những nhà giáo dục và nơi những người kitô hữu. Vấn nạn trước tiên họ đặt ra là lý do tại sao thiếu việc thực hành đức tin. Họ khát khao được thấy sự tham gia và sự thống nhất trong đức tin. Người đời và những tu sĩ giáo dục được gọi để làm chứng về tất cả điều này.

  • Không thể giáo dục đức tin ngoài lời chứng của những nhà giáo dục Công giáo.

Giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin đòi hỏi đời sống chứng tá nơi người đời và những tu sĩ giáo dục. Họ được kêu gọi để trở thành chứng nhân của Đức Kitô và dẫn dắt giới trẻ đa tôn giáo tới Chúa  Kitô. Họ phải dẫn dắt giới trẻ ấy tới việc tiếp nhận Đức Kitô trong bối cảnh của sự chia sẻ và truyền đạt kinh nghiệm về Đức Kitô cho họ. Chứng tá âm thầm và mạnh mẽ của họ phải được nối kết với đời sống. Nó không là một tác động ngoại tại, đúng hơn nó là một tác động nội tại. Nó là vấn đề của con tim hơn là của lý trí; Nó không cố định và thể chế hóa nhưng sâu sắc và uyển chuyển.

  • Giáo dục đức tin đòi hỏi sự biến đổi nơi những người Công giáo.

Giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin đòi hỏi một sự biến đổi tâm hồn và cách sống nơi những người Công giáo. Một đời sống chứng nhân tốt và thánh thiện là một cách thức tuyên truyền đức tin đích thực. Những người ngoại giáo sẽ thấy đời sống chứng nhân ấy trước khi họ tin. Những người Công giáo phải hết sức nỗ lực để tiếp tục tái khám bản chất của đạo Công giáo, của đời sống kitô hữu và sứ mạng của Giáo Hội.

  • Người Công giáo được mời gọi trở thành “men” một sự giáo dục xa hướng tới đức tin.

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi trở thành men, có khả năng là dậy đống bột, và trở thành nơi ở xứng đáng cho Chúa Kitô, Đấng đã xin được tự hiến chính mình cách công khai và bất chấp sự sợ hãi để sống cho và trong xã hội. Qua giá trị chứng tá ấy, một nền giáo dục xa được đề xuất. Giới trẻ đa tôn giáo nhìn thấy bằng nhãn giới riêng của họ Chúa Kitô đã và đang sống trong mọi thực tại và trong mỗi nhân vị.

CHƯƠNG X II

GIÁO DỤC ĐỨC TIN BẰNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI.

  • Người đời và tu sĩ giáo dục dùng nhũng phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin.

Người đời và tu sĩ giáo dục được kêu gọi để trở thành những nhà giáo dục đức tin qua việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Đây là một phương tiện rất ích lợi trong việc giáo dục văn hóa bằng chính ngôn ngữ, hoàn cảnh và môi trường của họ. Khi giới trẻ đa tôn giáo đã kinh qua thuyết vô thần và sự dửng dưng tôn giáo thì những phương tiện truyền thông xã hội phải tạo cho chúng một cảm thức tôn giáo và một nhãn quan hữu thần. Bên cạnh đó nó đem những người đang sống trong sự dửng dưng và lạnh nhạt tôn giáo trở về với Chúa Kitô cũng như làm cho những người chưa từng nghe danh Đức Kitô thì nay được biết nhờ những phương tiện truyền thông ấy. Đặc biệt nó sẽ giúp trong việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin.

Vì thế tất cả những phương tiện truyền thông xã hội được cung cấp bởi phương tiện truyền thông đại chúng phải được sử dụng cốt để giáo dục đức tin, chúng ta cần thích ứng với những cách thức và những phương tiện mới để giáo dục đức tin

  • Những nhà giáo dục được mời gọi dùng những phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin

Người  đời và tu sĩ giáo dục là những người truyền bá Phúc Âm cho giới trẻ. Họ cũng là những nhà giáo dục đức tin cho tầng lớp bình dân. Đặc biệt qua những phương tiện truyền thông xã hội, họ được mời gọi để công bố Phúc Âm cho những người chưa nhận biết Tin Mừng

Người đời và những tu sĩ giáo dục phải quan tâm đến những cộng tác viên người đời là những người có trách nhiệm đối với việc giáo dục đức tin trong địa phương của họ. Những cộng tác viên người đời hiểu biết hơn hoàn cảnh đa tôn giáo của những người ở bên cạnh họ. Vì thế, những cộng tác viên người đời có tác động giáo dục đến những người địa phương vì họ biết những nhu cầu và hoàn cảnh của họ.

  • Việc sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng trong viec5 giáo dục giới trẻ ngoại giáo tới đức tin

Thời đại hiện nay là thời đại của phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó ngày nay phải sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin, nếu không chúng ta không thể theo kịp thời đại.

Qua phương tiện truyền thông xã hội chúng ta có thể giáo dục hàng triệu giới trẻ ngoài Kitô giáo cũng qua phương tiện này, công việc giáo dục đức tin trở nên dễ dàng hơn. Giáo dục đức tin qua những phương tiện truyền thông xã hội nghĩa là nói với người trẻ qua thế giới hình ảnh. Ngày nay, hình ảnh là tiếng nói mạnh mẽ hơn lời nói vì trong thời đại truyền thông đại chúng hiện nay, người ta muốn nhìn, hiểu, phán đoán và hành động. Nhìn là nghe hai lần. Hơn nữa nhìn thấy là tin. Thế giới ngày nay sẽ không tin trừ phi nó nhìn, sờ và cảm giác được.

Hơn nữa những ý tưởng được nghĩ ra từ hình ảnh. Vì thế những hình ảnh giáo dục mang tính tôn giáo được thấy qua phim ảnh, sân khấu, tranh ảnh, video-cassettes sẽ dẫn đến tư tưởng. Với cách thức này, những ý niệm về hình ảnh phải được nảy sinh. Từ một ý tưởng thánh thiện mang tính tôn giáo ấy, hiển nhiên người ta sẽ hướng tới hiểu biết, phán đoán và cưối cùng qua sự cân nhắc, đánh giá sẽ dẫn họ tới hành động tiếp nhận đức tin.

Việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin thực sự là một thách đố. Vấn đề là làm sao để việc giáo dục hướng tới hàng triệu giới trẻ ngoài Công giáo. Hơn nữa nó đòi hỏi sự hấp dẫn nơi tâm hồn và tạo nên một nền giáo dục nhằm vươn tới đời sống của người thụ giáo. Những phương tiện truyền thông đại chúng tinh vi và tất cả những phương tiện khác sẽ vô dụng nếu nó trở thành mục đích trong chính nó. Mục đích của nó phải hướng tới việc giáo dục đức tin, lôi cuốn tâm hồn những người thụ giáo sống đức tin trong cuộc sống của họ.

 

CHƯƠNG XIII

GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRONG TRƯỜNG HỌC, TRONG NHÓM VÀ TRONG NHỮNG PHONG TRÀO

 

  • Giáo dục đức tin trong trường học
  • Giáo dục đức tin: một đặc điểm của trường Công giáo

Trường Công giáo cũng theo những mục tiêu văn hóa và tự nhiên như các trường học khác. Nhưng trường Công giáo có đặc điểm là nỗ lực tạo ra một bầu khí cộng đồng thấm nhuần tinh thần Phúc Âm như là kết quả của sự tự do và tình yêu. Cộng đồng giáo dục có trách nhiệm chính yếu trong việc tạo bầu khí này. Những người thụ giáo cũng phải nỗ lực cộng tác trong việc tạo ra bầu khí cộng đồng này. Sự phát triển nhân cách sẽ được tiếp diễn tay trong tay trong việc giáo dục niềm tin riêng của họ và rồi tới đức tin Công giáo.

Hơn nữa, trường Công giáo liên kết mọi người, mọi văn hóa, chương trình giảng dạy và những chương trình sinh hoạt ngoài giờ khác với Tin Mừng ơn cứu độ. Đức tin soi sáng mọi sự về thế giới, cuộc sống và nhân vị.

Theo Công đồng, điểm phân biệt của trường Công giáo nằm trong chính chiều kích Công giáo của nó. Nó tạo bầu khí giáo dục, thấy được sự phát triển của những học sinh, thấm nhuần mối tương quan văn hóa và Phúc Âm, và đem ánh sáng đức tin soi sáng mọi tri thức

  • Trường Công giáo và việc giáo dục đức tin

Trường học là nơi thích hợp nhất để giáo dục đức tin. Ở đây giới trẻ đa tôn được giáo dục chính niềm tin ban đầu của chúng và dần dần giáo dục chúng về Đức Kitô và Giáo hội của Ngài.

Trong nhà trường, tất cả các học sinh đa tôn giáo được trao ban hoặc một sự dậy dỗ tôn giáo chung hoặc một sự dậy dỗ riêng về tín ngưỡng của họ. Những học sinh Công giáo được dạy dỗ về Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài. Chúng trực tiếp lãnh nhận sứ điệp Kitô như một thực tại cứu rỗi. Phải dần dần giáo dục những học sinh đa tôn giáo qua những qui tắc giáo dục tôn giáo thích hợp với niềm tin riêng của họ và với niềm tin liên tôn.

  • Trường Công giáo cổ vũ tự do Công giáo

Tự do tôn giáo phải được khuyến khích trong các trường Công giáo. Công đồng Vaticano II khẳng định:

Giáo Hội tôn trọng những trường Công giáo, đặc biệt trong những quốc gia mà Giáo Hội còn non trẻ, những quốc gia mà thành phần lớn các học sinh là người ngoại giáo.

Phải tôn trọng tự do tôn giáo và lương tâm của mỗi người. Thực tế, trường Công giáo được tự do rao giảng Phúc Âm và những giá trị công giáo đồng thời cũng có quyền lợi và bổn phận rao giảng Đức Kitô và giáo huấn của Ngài. Rao giảng và loan truyền Phúc Âm của Chúa Kitô không nhất thiết bao gồm sự bắt buộc và cưỡng bức.

  • Những đòi hỏi cấp bách và những khó khăn của những lớp học tôn giáo trong nhà trường

Các lớp học tôn giáo trong nhà trường phải được bố trí với một chương trình rõ ràng về giáo huấn Công giáo và theo sách giáo khoa phù hợp với các trình độ khác nhau. Điều quan trọng là xác định những cuốn sách được dành riêng để chuẩn bị cho việc dạy giáo lý với mục đích trình bày Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.

Việc dạy giáo lý đòi hỏi phải đối phó với vấn nạn về sự thờ ơ tôn giáo, những vấn đề về sự hiện hữu của con người và ơn cứu rỗi là tâm điểm của mỗi tôn giáo. Tất cả điều trình bày trên là điểm tạo nên những tôn giáo khác nhau, cuối cùng phải trình bày theo Công giáo.

  • Các lớp tôn giáo trong nhà trường và việc giáo dục đức tin

Các lớp tôn giáo được ghi trong danh mục theo chương trình của trường Công giáo là cơ hội tốt để giáo dục giới trẻ đa tôn tới đức tin. Nhà giáo dục tôn giáo phải chuẩn bị mình thật tốt bởi vì việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo tới đức tin không là một việc dễ dàng. Người ta phải dẫn dắt giới trẻ qua thuyết hiện tượng luận tôn giáo, triết lý tôn giáo, thần học tôn giáo, liên tôn giáo rồi mới tới đức tin. Đây là một tiến trình tiệm tiến và vất vả. Những cách thức mới cần phải được nghiên cứu để làm thế nào trình bày Đức Kitô cách tiệm tiến đang khi thực thi sự công bình, giáo huấn luân lý và những giá trị tôn giáo để giới trẻ đa tôn nhận thức chúng trong trường học của chúng ta.

  • Giáo dục đức tin qua những nhóm và những phong trào
  • Việc giáo dục đức tin và sự cần thiết của những nhóm và những phong trào

Trong kế hoạch mục vụ Công giáo cũng như trong kinh nghiệm Giáo Hội, những nhóm và những phong trào giới trẻ rất cần trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ. Những nhà giáo dục giới trẻ đa tôn giáo phải là mẫu gương sống động về đời sống nhóm và đời sống cộng đoàn. Họ phải thực sự có ý hướng sống và làm việc trong những nhóm và khát khao tự nguyện sống đời sống cộng đoàn. Họ phải hòa đồng, thân thiện, cần mẫn và sáng tạo trong cách đối xử với giới trẻ. Họ phải có kinh nghiệm về đời sống cộng thể.

Những nhà giáo dục cần quan tâm cách riêng đến việc nuôi nấng và liên đới với giới trẻ. Họ không ngại để nói về chúng, khuyến khích chúng và giải thích những ý định của chúng. Những nhóm này có thể được coi là chìa khóa cho đời sống cầu nguyện, sự an toàn luân lý, và sự nâng đỡ tôn giáo và những ơn gọi linh mục.

Giáo hội phổ quát hiện hữu cụ thể trong những cộng đồng và những Giáo Hội địa phương. Vì thế, cần thiết những nhóm và những phong trào phải thuộc về Giáo Hội và những dòng tu. Tuy nhiên, để ứng dụng điều này cho giới trẻ đa tôn giáo đòi hỏi một sự sáng tạo và tài tháo vát. Giới trẻ đa tôn giáo phải được hội nhập vào trong những nhóm và những phong trào Công giáo hiện hành. Vì thế, những nhóm này trở thành nhóm đa tôn giáo. Đang khi vẫn tôn trọng tính đa tôn giáo, thì những nguyên lý và những nguyên tắc Công giáo phải chi phối và làm sinh động sự hiện hữu của các nhóm và các phong trào ấy.

  • Việc giáo dục đức tin và những nhóm, những phong trào đa tôn giáo

Những nhóm và những phong trào cần thuộc về Giáo Hội địa phương và các dòng tu để người đời và những tu sĩ giáo dục nghiên cứu và làm sinh động những nhóm và những phong trào ấy. Nhưng vì trong bối cảnh đa tôn giáo, những nhóm và những phong trào là đa tôn giáo nên việc giáo dục đức tin phải được tổ chức qua những nhóm và những phong trào đa tôn giáo ấy.

Những nhóm và những phong trào đa tôn giáo ấy phải được tổ chức những hoạt động khác nhau từ những người Công giáo thuần túy. Họ nên mở rộng tới mọi tầng lớp và mọi tín ngưỡng. Không tỏ ra thiên vị bất kỳ tôn giáo nào. Giới trẻ thuộc bất kỳ tôn giáo nào cũng được tôn trọng xứng đáng.

Mỗi lần gặp gỡ nhóm vì bất kỳ mục đích gì, nhà giáo dục phải khởi sự và kết thúc cuộc gặp gỡ ấy với lời cầu nguyện đa tôn, những bài hát ngợi khen và cảm tạ. Việc này rất cần sự sáng tạo và tài xoay xở của nhà giáo dục. Những lời cầu nguyện và những bài hát ấy không phải làm cho ai cảm thấy bị xúc phạm vì tính đa tôn giáo vẫn còn tồn tại. Những lời cầu nguyện chung vì kêu cầu lên Thiên Chúa Cha nên được đọc trước mọi người, gián tiếp qua Chúa Kito và Đức Trinh Nữ Maria.

Vì việc giáo dục và sinh động đức tin vẫn tồn tại trong bối cảnh đa tôn giáo nên những phương tiện truyền thông xã hội và những phương tiện truyền thông đại chúng phải được sử dụng cách phong phú hơn. Qua sân khấu, truyền hình, phim video…việc giáo dục đức tin được hoàn hảo hơn. Phải giải thích ý nghĩa và tầm quan trọng của những ngày lễ của các tôn giáo. Trong đó, lễ Giáng sinh và lễ Phục Sinh cũng phải được giải thích. Hai lễ này là cơ hội lớn để trình bày Ngôi vị Đức Kitô. Sự trình chiếu một cuốn phim về cuộc đời Đức Kitô là một trong những cách thức có tác động mạnh mẽ nhất để người ta biết về Ngài.

Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đặc biệt tới giới trẻ Công giáo nhất là khi chúng chuẩn bị rước lễ lần đầu, lãnh bí tích Giải tội và bí tích Thêm Sức. Vì thế, việc dạy giáo lý còn được gọi là phổ quát vì trong đó giới trẻ kitô thuộc những giáo phái khác không mất đi sự dạy dỗ về tôn giáo cá biệt của họ.

  • Giáo dục đức tin qua các nhóm

Việc giáo dục đức tin qua các nhóm là điều đáng được khích lệ. Trong những nhóm đó, giới trẻ Công giáo sẽ tác động giới trẻ đa tôn giáo hướng tới Chúa Kitô. Qua đó, những nhóm trẻ đa tôn giáo sẽ bị ảnh hưởng hướng tới việc tiếp nhận đức tin. Sự sinh động của những nhóm và những phong trào nhóm chuẩn bị cho sự chia sẻ niềm tin đa tôn giáo và rồi dần dần lớn lên trong đức tin Công giáo.

Điều quan trọng cần lưu ý rằng khuynh hướng tự nhiên của người trẻ là rất muốn trở thành những thành viên của một nhóm, một liên đoàn hay một phong trào. Khát vọng này cần được hướng dẫn để dần dần chúng thuộc về Giáo Hội Công giáo là một nhóm rộng lớn khắp thế giới. Giáo Hội phổ quát được thể hiện cụ thể và hữu hình qua những Giáo Hội đặc thù. Những nhóm, những liên đoàn và những phong trào trong Giáo Hội như là chất xúc tác cho sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.

Những nhóm, liên đoàn và những phong trào trong bối cảnh đa tôn giáo phải được quan tâm cách đặc biệt trong việc mở rộng đức tin qua việc giáo dục. Mọi cuộc gặp gỡ trực tiếp hay gián tiếp, phải nằm trong khuôn khổ của việc giáo dục đức tin. Mỗi cuộc gặp gỡ là một nhắc nhở cho người ta biết về Thiên Chúa. Đối với chúng ta, những liên đoàn giới trẻ phải được thúc đẩy mạnh mẽ về giáo dục đức tin.

Chúng ta phải nỗ lực vươn tới những nhóm thanh thiếu niên rộng lớn hơn trong sự dấn thân giáo dục của chúng ta. Không cách nào chúng ta vươn tới cá nhân người trẻ trừ phi có sự góp phần tích cực và hữu hiệu của chúng. Tuy nhiên, cần thúc đẩy việc giáo dục đức tin cho liên nhóm giới trẻ đó.

Những nhóm, liên đoàn đa tôn giáo phải có:

  • Những đặc tính tự do mang tính giáo dục: trong việc tham gia, trong hành động, trong sự phát triển, tính sư phạm, trong việc phục vụ và bác ái;
  • Những đặc tính mục vụ: giáo lý, tham dự vào đời sống Giáo hội, đời sống đức tin Kitô giáo;
  • Những đặc tính phát triển tinh thần: trong linh đạo Công giáo, trong tình yêu đối với Chúa Giêsu và lòng tôn kính Đức Trinh Nữ Maria
  • Những đặc tính thuộc tổ chức không chính thức: mở rộng mối quan hệ nhuần nhuyễn với những nhóm và liên đoàn đa tôn giáo khác nhằm góp phần phát triển – xã hội – tôn giáo

Giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo là một việc khẩn cấp. vì thế cần canh tân việc tiếp xúc với giới trẻ cần tập trung toàn bộ vào việc giáo dục và đào luyện tinh thần, cần có tính sáng tạo, và sự thích ứng với những hoàn cảnh và môi trường.

  • Phương pháp nhóm là một cách thức mới của việc giáo dục đức tin

Phương pháp nhóm phải được áp dụng trong việc giáo dục đức tin. Trong nhóm mỗi người phải cảm nghiệm được tầm quan trọng, trách nhiệm của mình và cảm thấy được người khác lắng nghe. Những thái độ và những giá trị chung của nhóm sẽ giúp cho sự trường thành đức tin. Mẫu gương của những nhà giáo dục cũng như của người được giáo dục luôn có giá trị đích đáng.

Giới trẻ Công giáo cần phải được giáo dục đức tin bằng phương pháp nhóm. Phương pháp này có hiệu lực cho cả việc giáo dục đức tin cho giới trẻ đa tôn giáo.

  • Những nhóm và những phong trào giới trẻ trong việc giáo dục đức tin

Để giới thiệu người trẻ tới đời sống Giáo hội, người đời và tu sĩ giáo dục phải khuyến khích và sinh động những nhóm và những phong trào giới trẻ trong việc đào luyện, việc tông đồ và trong các hoạt động xã hội. Với cách thức này, giới trẻ sẽ phát triển ý thức của chúng về trách nhiệm và góp phần làm biến đổi thế giới và Giáo hội. Những người trẻ ấy sẽ trở thành tông đồ của những nhóm trẻ sau này. Vì thế, cần khuyến khích và sinh động giữa những nhóm trẻ Công giáo và nhũng nhóm trẻ đa tôn giáo tinh thần tông đồ ấy. Qua những nhóm này, chúng ta có thể làm cho chúng biết Đức Kitô. Việc sinh động những nhóm trẻ ấy sẽ trực tiếp chuẩn bị xa cho việc Phúc Âm hóa và việc dạy giáo lý sau này.

KẾT LUẬN

Việc giáo dục người trẻ tới đức tin trong bối cảnh đa tôn giáo là mối quan tâm hang đầu. Đây là một nhiệm vụ và thách đố đối với người đời và những tu sĩ giáo dục đức tin. Sự mặc khải được nhìn trong viễn cảnh rộng hơn: Thiên Chúa đã nói với con người qua chính tạo vật của Ngài; mọi người thuộc mọi thời đại đều thuộc về Ngài, sự thiện hiển nhiên của Ngài và kế hoạch cứu rỗi của Ngài hướng tới mọi người. Giáo hội Chúa Kitô là Giáo hội Công giáo, phổ quát, loại bỏ tất cả mọi hình thức áp bức hay những quyến rũ. Giáo hội hiện hữu trong mọi hoàn cảnh của con người nhưng không phải để thống trị. Giáo hội thừa nhận rằng có thể được ơn cứu độ dù họ thuộc các tôn giáo khác. Điều này dường như làm giảm bớt đi sự khẩn cấp của việc giáo dục.

Tuy nhiên, nền tảng và động lực của việc giáo dục đức tin là mệnh lệnh của Chúa Kitô cho tất cả những ai theo Ngài: hãy rao giảng những giá trị, sự duy nhất và phổ quát của Ngài cho mọi dân tộc. Vì vậy, vấn đề là không phải chúng ta phải giáo dục đức tin mà hơn nữa là làm cách nào để giáo dục những người ngoại giáo, đặc biệt giới trẻ trong những bối cảnh đa tôn giáo, đa văn hóa và đa ngôn ngữ tới đức tin.

Giới trẻ của những tôn giáo khác cần phải được đào luyện để biết và đánh giá đúng tôn giáo riêng của chúng và những tôn giáo khác. Hơn nữa, chúng phải ý thức rằng những giá trị về nhân bản và luân lý không tương phản cũng không tương đồng với những giá trị Kitô giáo, nhưng chúng được hội tụ và hòa nhập lại. Đây là nền tảng của sự hòa nhập giữa tự nhiên và ân sủng. Tuy nhiên, những giá trị nhân bản và luân lý có in dấu Kitô giáo. Vì vậy, khi thông truyền  những giá trị ấy đã là việc giáo dục giới trẻ các tôn giáo khác tới đức tin rồi – thực tế đó là một sự chuẩn bị xa cho việc tiếp nhận Đức Kitô. Điều này cho thấy rằng công việc truyền bá Phúc Âm phải được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, không có gì là mất mát cả. Tuy nhiên, phải loại trừ những việc vô giá trị.

Việc giáo dục đức tin cần tôn trọng tất cả những điều tốt và thánh thiện trong những tôn giáo khác. Nó dựa trên thực tế căn bản rằng tất cả những giá trị nhân bản và những giá trị luân lý hiện hữu trong mọi thực tại  vũ trụ đều in dấu ấn thiêng liêng. Đồng thời mục đích dẫn dắt người trẻ tới Chúa Kitô phải rõ ràng và trong sáng trong tâm trí của những nhà giáo dục. Nếu không thì công việc của chúng ta sẽ chỉ là việc phục vụ mang tính xã hội mà thôi. Khi người trẻ được chuẩn bị săn sàng; chúng ta hãy công bố Đức Kitô như một hồng ân để chia sẻ với chúng.

Vài đường hướng hành động xin được đề nghị:

  • Giá trị giáo dục được tóm lại trong những nhận thức xã hội về công bằng, hòa bình, tự do và những khuôn mẫu hình thành nên việc giáo dục đức tin.
  • Chính sự phát triển những giá trị tinh thần, điều mà giới trẻ khao khát sẽ dẫn chúng tới một kinh nghiệm về Thiên Chúa và thúc đẩy chúng biến đổi cuộc sống
  • Việc giáo dục đức tin chỉ có thể khi nó được chứng minh bằng đời sống chứng nhân cảu nhà giáo dục và của cộng đoàn đức tin.
  • Mối tương quan cộng tác với cộng thể giáo dục và một bầu khí rộng mở và tôn trọng đối với tất cả những niềm tin khác sẽ trợ giúp cho việc giáo dục đức tin
  • Nên sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng cũng như những phong trào và những nhóm giới trẻ khác nhau trong việc giáo dục đức tin.

MỤC LỤC

Giới thiệu

Lời tựa

CHƯƠNG I:  GIỚI THIỆU

  • Bối cảnh đa tôn giáo: một hiện tượng thế giới
  • Ý nghĩa của việc giáo dục giới trẻ đa tôn giáo trong bối cảnh đa tôn giáo
  • Đức tin là gì?
  • Đức tin Công giáo
  • Giáo dục đức tin Công giáo
  • Những nhân tố chính yếu của việc giáo dục đức tin

CHƯƠNG II: NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ NHU CẦU: NHIỆM VỤ VÀ THÁCH ĐỐ

  • Những khó khăn vấn nạn và những nhu cầu liên quan tới việc giáo dục đức tin
  • Nhiệm vụ và thách đố của việc giáo dục đức tin

CHƯƠNG III   PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN GỐC

  • Phuong pháp giáo dục đức tin
  • Kế hoạch giáo dục đức tin
  • Nghiên cứu việc giáo dục đức tin

CHƯƠNG IV  THẦN HỌC ĐỨC TIN

  • Thiên Chúa, Nhà Giáo dục
  • Chúa Giêsu, Thầy dạy đức tin
  • Chúa Thánh Thần, Giáo hội và việc giáo dục đức tin
  • Đức Maria, Nhà giáo dục và người được giáo dục

CHƯƠNG V:  GIÁO DỤC ĐỨC TIN, SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

  • Giáo dục đức tin là một sứ mạng căn bản của Giáo hội
  • Mọi người Công giáo đều được mời gọi để giáo dục đức tin
  • Những thừa tác vụ khác nhau trong việc giáo dục đức tin
  • Việc giáo dục đức tin trong bối cảnh Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu

CHƯƠNG VI: GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRONG BỐI CẢNH THUYẾT ĐA TÔN GIÁO

  • Giáo dục đức tin và thuyết đa tôn giáo
  • Giáo dục đức tin và kế hoạch cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa
  • Giáo dục đức tin: tôn trọng và đối thoại

CHƯƠNG VII: GIÁO DỤC ĐỨC TIN VÀ VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA

  • Sự thích ứng với bối cảnh liên tôn giáo- văn hóa địa phương và sự tồn tại của những giá trị giáo dục Công giáo
  • Sự sinh động chung và riêng của nền văn hóa địa phương

CHƯƠNG VIII: GIÁO DỤC ĐỨC TIN THUỘC LOẠI NÀO

  • Giới thiệu
  • Những loại giáo dục đức tin
  • Kết luận

Chương IX: PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐỨC TIN: LÝ TRÍ, TÌNH YÊU VÀ TÔN GIÁO

  • Lý trí, tình yêu và tôn giáo tạo thành một môi trường giáo dục
  • Giáo dục đức tin và lý trí
  • Giáo dục đức tin và tôn giáo
  • Giáo dục đức tin và tình yêu
  • Việc giáo dục đức tin và sự sửa bảo huynh đệ, giáo lý và đời sống bí tích

CHƯƠNG X: TIỀN GIÁO DỤC ĐỨC TIN

  • Giáo dục đức tin cách tiệm tiến qua việc đào luyện nhân bản và khoa học
  • Giáo dục niềm tin cho giới trẻ đa tôn: một sự chuẩn bị hướng tới đức tin

CHƯƠNG XI: GIÁO DỤC ĐỨC TIN BẰNG VIỆC RAO GIẢNG VÀ LÀM CHỨNG PHÚC ÂM

  • Giáo dục đức tin bằng việc rao giảng Phúc Âm
  • Giáo dục đức tin và căn tính của đời sống chứng nhân Kito Giáo

CHƯƠNG XII: GIÁO DỤC ĐỨC TIN BẰNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

  • Người đời và tu sĩ giáo dục dùng những phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin
  • Những nhà giáo dục được mời gọi dùng những phương tiện truyền thông xã hội trong việc giáo dục đức tin
  • Việc sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng trong việc giáo dục giới trẻ ngoại giáo tới đức tin

CHƯƠNG XIII: GIÁO DỤC ĐỨC TIN TRONG TRƯỜNG HỌC, TRONG NHÓM VÀ TRONG NHỮNG PHONG TRÀO

  • Giáo dục đức tin trong trường học
  • Giáo dục đức tin qua những nhóm và những phong trào

KẾT LUẬN

MỤC LỤC

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *