Sinh động viên trong Nhóm Trẻ theo Phương pháp Sa-lê-diêng

SINH ĐỘNG VIÊN TRONG NHÓM TRẺ THEO PHƯƠNG PHÁP SA-LÊ-DIÊNG

 

Lời giới thiệu

Đây là một bản văn quý báu giúp sinh động hóa các nhóm trẻ. Một tài liệu chính thức do các Salêdiêng và các nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ, bởi đã được hai cơ quan mục vụ trung ương của giới trẻ quyết tâm lo thực hiện.

Đọc và nghiên cứu các trang sách này sẽ rất hữu ích cho các người hoạt động mục vụ và cho các sinh động viên trẻ.

Được phát sinh trong môi trường Salêdiêng và được viết đầy đủ bao có thể, sách này có thể được sử dụng bởi mọi người. những trực giác là động lực thúc đẩy đã được trình bày và đào sâu nhiều lần trong tạp chí “những ghi chú Mục vụ giới trẻ”.

Thế giới văn hóa của sách là thế giới chú tâm tới các bạn trẻ trong các tiến trình tăng trưởng của họ trong từng bối cảnh riêng, rất khác biệt nhau và phức tạp, theo như chất liệu thu được từ kinh nghiệm và suy tư của các khoa học của con người trong đối thoại với truyền thống phong phú hơn của Hội Thánh.

Cuốn sách này có cái giá trổi vượt vì nó nói trực tiếp với người sinh động hóa hoạt động ở bên trong một nhóm.

Sau phần thứ nhất đặt người sinh động hóa vào vị trí ở trước việc sinh động hóa (chương một), ở phía chính bản thân mình và ở trước hình ảnh họ sẽ phải có về họ (chương hai) và ở trước nhóm trẻ (chương ba) các chương kế tiếp sẽ miêu tả các nhiệm vụ riêng của người sinh động hóa.

Tất cả là sáu nhiệm vụ.

Lược đồ được sử dụng nhận định ba giai đoạn: các vấn đề, các mục tiêu, các hoạt động và các sự can thiệp, với việc lưu ý tới một số thái độ riêng của người sinh động hóa. Đó là một cách thức thực tiễn giúp ta đọc bản văn.

Nếu được phép cho những người hoạt động một lời khuyên, chúng tôi gợi ý các bạn hãy đọc nhiều lần cuốn sách này, để tái tìm trở lại sự giầu có của khoa khôn ngoan mục vụ.

Trong khi chúng tôi trao phó cuốn sách này cho rất nhiều sinh động viên  của các nhóm trẻ, với niềm xác tín là cống hiến cho quý bạn cả một kho tàng phong phú chứa đựng những nhận định, những viễn ảnh làm việc, những trực giác hay và những phương hướng hành động, chúng tôi ngỏ lời cảm tạ sâu xa đến các người trách nhiệm trung ương của Mục vụ giới trẻ Salêdiêng, gồm các người SDB và FMA, vì món quà quý báu họ cống hiến cho các cộng đoàn Hội thánh tại Ý.

Trung tâm mục vụ giới trẻ Salêdiêng

DẪN NHẬP

  • Vấn đề

Từ vài năm nay, trong các môi trường Salêdiêng, ta nói đến các nhóm và phong trào giới trẻ. Những thống kê chứng tỏ một số rất đông các bạn trẻ dấn thân vào kinh nghiệm này. Thực tại này càng tăng trưởng thì suy tư cũng dần dần tiến những bước sâu xa hơn, để xác nhận những điểm chiến lược mới nhằm củng cố thêm. Thế là lộ ra càng ngày càng rõ nét hơn giá trị giáo dục và mục vụ của thực tại này.

Một nỗ lực nhằm đạt nền tảng lý thuyết và đường hướng thực hành đầu tiên được cống hiến trong bản văn “Hoạt động của các hội, nhóm của nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ” (tháng 9, 1982) và trong tài liệu Salêdiêng “Một đề nghị về Hội, nhóm Salêdiêng. Tổng kết một “kinh nghiệm đang tiến hành” (tháng 1,1985). Các bản văn này thu gom việc thực hành đã được khai triển tại các bối cảnh khác nhau và đã đến một kết luận: các nhóm và các phong trào phát sinh trong các môi trường Salêdiêng, ngoài tính cách mở rộng tối đa và sắc thái giáo dục, còn mang đậm đặc điểm của một thứ tương quan, một thứ tạo nên các nội dung và một phong cách dõi theo được minh định bằng hạn từ sinh động hóa.

Việc sinh động hóa có nhiệm vụ khởi sự, tiếp tục, phát huy và xây dựng sự vững chắc về mặt giáo dục và mục vụ của các nhóm, như là một đơn vị thống nhất, hài hòa của một phong trào mà nhóm có liên quan tới.

Việc sinh động hóa có một khuôn mặt cụ thể: đó là sinh động viên. Sinh động viên là yếu tố không thể thiếu của một nhóm Salêdiêng, đến độ ta có thể lập ra một câu châm ngôn: nhóm nào cũng phải có cho mình một sinh động viên. Việc chuẩn bị và phục vụ của người sinh động này là vấn đề then chốt cho khả thể và cho các vấn đề của nhóm.

Tài liệu này tái xuất phát từ điểm kết luận này.

Bản văn được đúc kết bởi hai văn phòng trung ương mục vụ giới trẻ của các Salêdiêng (SDB) và các nữ tu Con Đức Mẹ Phù hộ (FMA). Đó là một cái mới và một dấu hiệu: nó biểu lộ ý muốn hoạt động chung với nhau, gắn kết cách lý tưởng các nhóm bạn trẻ vào dòng chảy thiêng liêng của gia đình Salêdiêng.

  • Mục tiêu của tập tài liệu

Hòa hợp với các chỉ dẫn nêu lên ở trên, tập tài liệu tự đề ra cho mình một số mục tiêu chính xác sau đây:

  • Thu tập gia sản đã được hình thành liên quan đến việc sinh động hóa.

Kinh nghiệm mà các Salêdiêng và các nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ đã tích lũy được thật to lớn, cho dù có khi nó được tạo nên bởi vô số các mảnh nhỏ. Đây là một việc thực hành cụ thể, kết quả của một vài trực giác thuộc đoàn sủng, gợi hứng tận nền tảng từ Hệ thống giáo dục dự phòng.

Nhưng đây cũng là một suy tư giáo thuyết, kết quả của một sự lên khuôn chậm rãi được chin muồi bởi các tu nghị toàn dòng và tu nghị  tỉnh bởi các ban tổng cố vấn (SDB và FMA), bởi các ê kíp mục vụ quốc gia và miền, bởi các trung tâm lý luận, chúng ta muốn kết hợp các mảng này lại thành một tổng hợp khả dĩ cho phép chúng ta tổng kết về hoàn cảnh hiện tại và thúc đẩy chúng ta đi xa hơn nữa.

  • Giúp có lấy ý thức về sự chọn lựa của chúng ta là trở nên những nhà giáo dục với phong cách sinh động hóa. Trong công việc mục vụ, chúng ta chọn con đường giáo dục nhân vị: trong công việc giáo dục chúng ta chọn công việc sinh động hóa.

Đâu là ý nghĩa nền tảng của sự chọn lựa này? Nó bao hàm việc tiếp nhận người trẻ ở cái mức tự do và sự chin chắn nó hiện có, bao hàm việc làm thức tỉnh các tiềm năng của nó, giúp cho nó điều hành cuộc đời mình. Cũng có nghĩa là nó phải biết mở rộng đời sống đón nhận những đề nghị mới bằng cách đảm nhiệm lấy trách nhiệm của nó.

Ở tận cốt lõi, đây chính là việc nhận định về giáo dục và truyền thông tin mừng ở tận các bình diện đứng đắn của chúng và việc coi mọi khía cạnh của phát triển và mọi hạt giống của nghị lực, dù là tiềm ẩn, đều là có giá trị và quan trọng cho việc tự xây dựng bản thân. Các nguồn tiềm năng mà một người trẻ có, dù là có vẻ nghèo nàn, chính là cái tạo ra các khả thể tăng trưởng của họ.

Giáo dục và thông truyền Tin Mừng dưới hình thái của việc sinh động hóa bao hàm một mối tương quan giáo dục, có sức giải phóng và sức đề nghị, cũng bao hàm một tiến trình giáo dục được xây dựng dựa trên các mục tiêu có thể đạt tới được, một cách thức cá biệt điều hành các kinh nghiệm giáo dục và một khuôn mẫu nhất định của nhóm. Mỗi một điểm trong các yếu tố này là tổng thể của chúng sẽ được tái suy nghĩ để làm cho sự lựa chọn được hữu hiệu.

  • Phác họa dung mạo sinh động viên Salêdiêng giữa các bạn trẻ. Nhiều người cảm thấy mình là sinh động viên. Nhưng tất cả có thực sự là những sinh động viên chăng? Dung mạo của sinh động viên hiện ra chất chứa các khả thể, nhưng không được minh họa rõ nét về tính chuyên biệt và về sự khác biệt của họ với các dung mạo giáo dục khác.
  • Thế rồi các người Salêdiêng cảm thấy có một cái gì độc đáo trong cách thức thực hiện việc sinh động hóa của mình. Tên gọi Salêdiêng thêm vào cái gì và lấy đi cái gì ở nơi một sinh động viên? Các sinh động viên Salêdiêng là những tu sĩ và linh mục hay giáo dân. Cái gì đã được họ cùng chia sẻ với nhau ở một mức độ sâu xa đến nỗi họ cảm nghiệm thấy mình hiệp nhất cách sâu xa với nhau, cho dù họ có những ơn gọi khác nhau ở trong Hội Thánh?

Chúng ta có hiểu rằng sinh động viên Salêdiêng là một người sống trong sự thống nhất bất khả phân cái kinh nghiệm độc đáo của một con người, một Kitô hữu và một Salêdiêng. Kinh nghiệm này soi sáng cuộc sống hằng ngày của họ và nâng đỡ họ trong cái quyết định: giúp cho người trẻ tăng trưởng.

Giáo dục đối với họ không phải là một nhiệm vụ được thêm vào hay được phủ lên các khía cạnh khác của cuộc đời họ, là những cái được coi là quan trọng hơn. Trái lại giáo dục chính là cách diễn tả tốt đẹp nhất của sự phong phú của họ như là một con người, một Kitô hữu và một Salêdiêng. Đó là cách thức họ quan niệm về cuộc sống của mình như là một khả thể liên tục phải tăng trưởng; là cách thức yêu mến các người trẻ, trong khi mở ra cho chúng những chân trời và những niềm hy vọng; là cách thức biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa, Đấng gọi tất cả vào trong sự viên mãn của sự hiệp thông với Ngài theo như hành trình của một con người. Họ “tin vào các tiềm năng tự nhiên và siêu nhiên của con người” “tiếp thu các giá trị của thế giới và từ chối than vãn về thời cuộc” (HLSDB 17). Họ trực giác thấy phong cách giáo dục của mình có một sự độc đáo; họ cảm thấy là sinh động viên cho cuộc sống trong tổng thể của nó: đó là cuộc sống cá vị, xã hội, văn hóa, tôn giáo.

  • Tài suy nghĩ về việc hoạt động sinh động hóa ở trong nhóm bạn trẻ. Dưới nhiều khía cạnh, việc sinh động hóa cho tới ngày hôm nay xem ra vẫn giống như một “chương trình do nhiều nghệ nhân”. Nhiều người nói về nó, nhưng mỗi người hiểu theo kiểu của mình. Thường đó là một lời nói trong đó đồng tuôn về nhiều cách suy nghĩ, hành động, đối chiếu rất khác biệt nhau. Có người giảm thiểu nó thành các sáng kiến có tổ chức kỹ năng hay các kỹ thuật khác biệt.
  • Sinh động hóa chắc chắn là một đề tài giầu ý nghĩa, dù không luôn luôn chính xác và rõ ràng. Từ đó có lẽ đã phát sinh một sự hỗn độn. Có nguy cơ dẫn đến việc đặt gần nhau các kỹ thuật mới bên cạnh các tâm trạng và các phương pháp đã lỗi thời.
  • Bởi đó cần phải làm sáng tỏ điều ta muốn nói đến bằng hạn từ sinh động hóa. Và xem ra còn khẩn thiết hơn nữa việc định nghĩa xem sinh động viên trong một nhóm trẻ là ai, làm gì và làm như thế nào. Phải chăng là người dẫn dắt đã thay đổi các phương pháp hướng dẫn riêng của mình? Hay họ là một thủ lãnh, một dung mạo cổ điển của một thời đã qua? Một nhiệm vụ đã từng được trao cho người trợ lý tôn giáo?

Cũng cần phải nhận ra rằng sự chọn lựa cho mình công việc sinh động hóa đã thay đổi lối hiện diện của người lớn trong một nhóm trẻ. Không chỉ cần đến thiện chí và nhiệt tình tông đồ. Sự chọn lựa giáo dục trong các nhóm với phong thái và phương pháp sinh động hóa đòi hỏi phải đào sâu các việc phục vụ các phương pháp và các thái độ chuyên biệt. Để sinh động hóa một nhóm, y như là đối với các lãnh vực khác, ta cần đòi hỏi khả năng chuyên môn.

  • Tài liệu này dành cho những ai?

 Tài liệu được viết ra nhằm giúp những ai thi hành một nhiệm vụ sinh động hóa trong các nhóm trẻ, cách riêng các nhóm tham gia cách minh nhiên vào linh đạo Salêdiêng. Do vậy, tài liệu cách riêng gởi tới SDB, FMA, các cộng tác viên Salêdiêng, các cựu học sinh Salêdiêng và tất cả các bạn trẻ và các người lớn đã chọn giáo dục xuyên qua các nhóm theo phong cách Salêdiêng. Tài liệu có thể được sử dụng cho công việc đào luyện ban đầu của họ và cho việc tạo phẩm chất giáo dục trường kỳ của họ. Tuy nhiên, việc sinh động hóa là một đề tài liên quan đến nhiều thực tại khác: trường học, trung tâm trẻ, các địa bàn…Việc áp dụng vào tất cả các bối cảnh này dựa trên các tiền đề chung. Vậy tài liệu này có thể được dùng cách hữu ích bởi những ai sinh động hóa các nhóm, các bạn trẻ hay các người trưởng thành, cũng như những ai đã được trao phó việc sinh động hóa một cộng thể giáo dục hay một cơ cấu mục vụ.

Việc chia sẻ các đường hướng và các tiêu chuẩn giữa những người chăm sóc cho các bạn trẻ trong một môi trường, dù là với các nhiệm vụ khác nhau, luôn luôn là tối cần thiết để thống nhất một cách thích hợp các mục tiêu và các sáng kiến.

  • Các tiêu chuẩn biên soạn

Mục tiêu và các độc giả mà tập tài liệu nhắm tới đã khiến phải chọn một số tiêu chuẩn biên soạn, là những tiêu chuẩn cần lưu ý tới khi đọc nó

  • Cấu trúc bên trong

Sư phạm Salêdiêng – việc sinh động hóa – nhóm – sinh động viên là những trục mang nơi chúng toàn thể diễn từ. Những ý nghĩa và những đòi hỏi hàm chứa trong việc sinh động hóa được đặt ở bên trong gia sản sư phạm Salêdiêng, nhằm đáp ứng hôm nay cho các thách đố mới của việc giáo dục.

Nhóm được xác nhận như là nơi thích hợp hơn cho việc đào luyện người trẻ và sinh động viên được coi như là dung mạo của người giáo dục Salêdiêng, có khả năng to lớn hơn để đảm nhận lấy toàn thể tiến trình của việc tăng trưởng của nhóm.

Trên cơ cấu nền tảng này, bản văn sẽ triển khai và móc nối các đề tài then chốt.

Một cái nhìn vào trực giác và vào các sự chọn lựa hành động tiêu biểu của khoa sư phạm  Salêdiêng khi đi tìm các giãi pháp cho các thách đố giáo dục hiện tại, cho phép ta khám phá ra nơi việc sinh động hóa mầm mống của một câu trả lời rất hay ho, tuy một số vấn đề vẫn để bỏ ngỏ (chương I).

Việc trình bày dung mạo sinh động viên Salêdiêng như xuất phát từ năm điểm đối chiếu – cộng thể, linh đạo kế hoạch giáo dục mục vụ, tiến trình đào luyện, các nhóm trong đó họ thi hành việc phục vụ – giúp tiếp thu lấy nét độc đáo của dung mạo này (chương II).

Một suy tư đặc biệt về các tiến trình đào luyện được làm nơi các nhóm rộng mở cho tất cả các bạn trẻ, kể cả những em nghèo hơn, khiến ta phải làm sáng tỏ phương pháp và tiến trình giáo dục nhân bản và Kitô hữu tại các nhóm (chương  3,4).

Do đấy ta phải đặt vấn đề của các nhiệm vụ của các sinh động viên trong các tiến trình giáo dục này. Ta không có tham vọng nêu lên tất cả mọi nhiệm vụ. Chuyện đó là điều không thể làm được. Thực ra các nhiệm vụ của sinh động viên quả đầy năng động, và hiện lên khác biệt với nhau tùy vào các nhóm khác nhau. Tuy nhiên, nên đi theo các gợi hứng Salêdiêng, tài liệu nêu ra ánh sáng 4 nhiệm vụ xem ra là nền tảng: giúp các người trẻ trở thành nhóm; làm trung gian giữa nhóm và môi trường, giúp lên kế hoạch cho một phong thái sống mới, dõi theo các thành phần của nhóm trong các chọn lựa cá vị của họ (các chương 5,6,7,8)..

Xung quanh các nhiệm vụ này ta tập hợp các chỉ dẫn chính yếu để vẽ lên cho thấy nhiệm vụ toàn diện của sinh động viên.

  • Sự chọn lựa các nội dung

Sự chọn lựa cơ cấu bên trong và chính yếu đòi phải tiến hành một sự điều nghiên kỹ lưỡng các nội dung. Chất liệu hiện có liên quan đến năng động lực của nhóm hay đến việc đề nghị một nền đào luyện, xem ra khá phong phú.

Thay vì trình bày thật rộng rãi và dưới cách thức có cơ cấu các phương pháp, các nội dung, các kỹ thuật của nhóm, ta sẽ chọn tiến hành theo chùm các dấu nhấn đủ để tạo lập nên dung mạo cho các khúc nối nền tảng của cuộc sống của các nhóm. Vào lúc này, việc tạo nên một tổng hợp mới xem ra là cần thiết hơn việc tiếp thu các chỉ dẫn chi tiết liên quan đến điểm này. Các chỉ dẫn này có thể dễ dàng được tìm thấy trong các nguồn khác và việc báo cáo lại chúng ở đây sẽ làm cho tập tài liệu dài quá mức thích hợp của nó.

Tuy nhiên, ta không chỉ giới hạn ở việc tạo thành bản văn luật cho những gì đang tiến hành khắp đó đây mà còn phải tìm cách gợi ra các chân trời mình phải hành trình tới đó. Đó là điều khiến chúng ta phải kín múc từ hai nguồn tài liệu: kinh nghiệm đã được thực hành trong hai tu hội chúng ta, và sự suy tư giáo thuyết mà các trung tâm mục vụ đã tạo nên. Ta phải quy chiếu tới nhiều điểm được nêu lên trong nhiều văn kiện nghiên cứu về thực tại của việc sinh động hóa nhìn tổng quát, cũng như cách riêng của các nhóm bạn trẻ.

Bản văn đã nhiều lần được trao đổi giữa các nhóm những người hoạt động sinh động hóa nhóm, rồi tái lấy lại, tái thảo luận, đào sâu trong các cuộc hội thảo để nghiên cứu. Nhưng lượng định xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này đã là một sự kiểm nhận thứ nhất về tính hữu dụng thực tiễn của tài liệu được cống hiến.

  • Sự chọn các ngôn từ

Tài liệu hướng đến một lối văn ít tính lược đồ, mang tính diễn đạt nhiều hơn. Bản văn sẽ thích hợp  để cùng suy tư hơn là để trực tiếp tham khảo và đem áp dụng.

Tuy văn từ muốn mang tính dễ hiểu, bình dân nhưng vì tính cách chuyên biệt của vấn đề (việc sinh động hóa, các nhóm, việc giáo dục), nó cũng buộc phải sử dụng đến các hạn từ kỹ thuật. Điều đó có thể tạo nên cái khó đọc cho những ai không quen với việc sinh động hóa hay với các hiện tượng họp nhóm; nhưng đồng thời nó sẽ kích thích nỗ lực đào sâu trong lãnh vực giáo dục.

Có những viễn ảnh phải nói đến ở nhiều nơi trong bản văn. Vì muốn cho thấy tính thống nhất của các mục tiêu và các tiến trình xẩy ra trong các nhóm, chúng tôi đã thà nhiều nhắc lại các viễn ảnh đó hơn là liên tục phải quy chiếu về các đoạn văn khác, khiến cho tài liệu thêm khó đọc:

Hạn từ Salêdiêng áp dụng cho các thực tại khác nhau (các sinh động viên, các môi trường, các đặc điểm) và luôn bao gồm các SDB và FMA, các Cộng tác viên, các học sinh, các cộng sự viên hoạt động trong các nhóm trẻ có ý mang lấy phong thái giáo dục của Don Bosco.

Để giúp cho có cái nhìn vào tổng thể, tài liệu sử dụng tới các lược đồ minh họa.

  • Những gợi ý để đọc tập tài liệu này

Từ các tiêu chuẩn biên soạn trên đây có thể nêu lên các gợi ý cho việc đọc tập tài liệu này.

Mỗi một chương đều là một tổng hợp nhiều điểm quy chiếu đồng quy về một điểm then chốt của việc sinh động hóa. Đó là: dung mạo của sinh động viên, các tiến trình của các nhóm, các hành trình. Cho nên không thể đọc vội vã. Bản văn phải được học hỏi và đào sâu hơn là đọc cách mau vội.

Nên đọc trong nhóm, hay có trung gian của các người có khả năng cho các Salêdiêng (SDB) đó có thể là các ủy viên tỉnh về mục vụ giới trẻ, cho các chị em FMA, đó sẽ là các người điều phối mục vụ giới trẻ của tỉnh dòng; cho các bạn trẻ đó có thể là các người trưởng thành của các nhóm.

Cần phải có sự đối chất giữa cái đọc trong bản văn với kinh nghiệm của các độc giả. Tập tài liệu là một lời mời gọi để đi đến kết quả là hành động đã được đào sâu một cách thich hợp, xuyên qua các khung qui chiếu đã được phong phú hóa. Bản văn đã được làm ra qua hầu như hai năm bàn soạn, với niềm xác tín thâm sâu là nó có thể đồng chia sẻ với nhiều người hoạt động mục vụ cái ý thức về con đường cả hai Tu hội đã thực hiện và với hy vọng có thể cung cấp các điểm vững chắc cho bước tiến về phía trước.

Đây không phải là một tổng hợp vĩnh viễn mà chỉ là một sự chỉ dẫn có thẩm quyền để củng cố những gì đã đạt tới và mở ra các biên giới mới cho việc thực hành công tác giáo dục và mục vụ.

Roma 24-6-87

Elisabetta Maioli                         Juan E. Vecchi

Tổng Cố Vấn                                              Tổng Cố Vấn

Mục vụ giới trẻ FMA                  Mục vụ giới trẻ SDB

SINH ĐỘNG VIÊN SALÊDIÊNG

NHÌN TỔNG THỂ
  • VIỆC SINH ĐỘNG HÓA

            VIỆC SINH ĐỘNG HÓA

CÁC CHỌN LỰA THỰC HÀNH
Các trực giác
CÁC THÁCH ĐỐ
NHÓM

                                           VẼ

TRONG NHÓM TRẺ

1

VẼ

SINH ĐỘNG HÓA :

MỘT ĐỀ NGHỊ GIỮA NHỮNG TRỰC GIÁC VÀ THÁCH ĐỐ

Kinh nghiệm giáo dục Salêdiêng, xẩy ra trong thời gian, được soi sáng bằng một vài nguồn gợi hứng có khả năng khai sinh ra những đề nghị luôn tươi mới và có sức đem lại nét nhân bản và thông truyền Tin Mừng. Kinh nghiệm giáo dục ấy kín múc từ Hệ thống giáo dục Dự phòng và ở nơi ba nguồn tiềm năng vĩ đại của nó là lý trí, tôn giáo, tình thương.

Để dẫn nhập vào đề tài « Sinh động viên Salêdiêng trong nhóm trẻ », xem ra cần phải nhìn bao quát toàn bộ quá khứ và hiện tại để từ đấy tiếp thu lấy cái liên tục và cái mới mẻ của một kinh nghiệm có bề dày. Tưởng nhớ lại quá khứ của nó và thử làm một cuộc đánh giá là điều cần thiết để thực hiện bước tiến về phía trước và trực diện với các vấn đề vừa mới nảy sinh.

Các người Salêdiêng và Con Đức Mẹ Phù Hộ cũng như các cộng sự viên của mình ở giữa các bạn trẻ trong các môi trường rộng mở cho hết mọi người, trong các nhóm và trong sự tương quan cá vị. Họ cũng tới gặp các bạn trẻ tại những nơi quy tụ mới và xuyên qua các sứ điệp của truyền thông xã hội. Đó là những thanh thiếu niên xa xăm, các thanh thiếu niên sẵn sàng, các thanh thiếu niên dấn thân.

Để nâng đỡ cho nỗ lực này, họ đã thực hiện một hành trình độc đáo được đánh dấu bằng những thời điểm suy tư và những sáng kiến có khi chưa từng thấy. Không dễ dàng để tổng hợp lại các kinh nghiệm sinh động và đa diện này, vừa cũ vừa mới đây thôi. Tuy nhiên ta có thể xác định rõ một số những trực giác giáo dục nền tảng và một số những chọn lựa về phương pháp tạo thành đặc điểm và các điểm trụ cột cho kinh nghiệm này. Chúng chứa đựng những chỉ dẫn để trực diện dưới một hình thức mới với những thách đố chính được đặt ra hôm nay cho công việc giáo dục và giúp soi sáng các vấn đề được nêu ra trong lãnh vực thực hành của việc sinh động hóa.

  • Các trực giác nền tảng

Các trực giác này là những nhận thức về thực tại giới trẻ mà chúng ta thấy là hiển nhiên. Chúng phát sinh từ tận căn rễ của ân huệ Chúa ban là « lòng đặc ái đối với các thanh thiếu niên » là đặc điểm của ơn gọi chúng ta. Chúng lập tức đưa chúng ta, một cách tự nhiên vào ngay tâm điểm của một vài yếu tố liên quan đến ơn cứu độ của giới trẻ, khiến cho chúng ta có một sự hiểu biết độc đáo về họ. Chúng gợi hứng và nâng đỡ cho toàn thể việc thực hành giáo dục ở bất cứ môi trường nào, hay bằng bất cứ con đường nào. Chúng ta nêu lên cả thảy sáu trực giác.

Niềm tin tưởng vào con người.

Trực giác thứ nhất là niềm tin tưởng vào con người và vào sức mạnh thực hiện sự thiện của con người, cũng như niềm tin tưởng vào nền văn hóa nhân bản phát triển trong thời gian. Nguồn mạch cuối cùng là sự tin tưởng này chủ yếu thuộc về tôn giáo : đó là tuyên xưng rằng với sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần nay hoạt động và khởi sinh nơi con người và nơi lịch sử một sự đáp trả tích cực cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dù vẫn còn đó một sự yếu đuối tận căn và một kinh nghiệm bi thảm về sự tội và sự chết

  • Trước hết là niềm tin tưởng trước hết nơi người trẻ : dù cho hoàn cảnh thực tại của họ có thế nào đi nữa, chúng ta tin rằng ở nơi họ có một nguồn tiềm năng, mà nếu được đánh thức và nuôi dưỡng, sẽ có thể phát sinh ra nghị lực giúp họ xây dựng bản thân mình. Dó là kinh nghiệm của Don Bosco khi đi thăm các nhà tù, đã được diễn tả qua câu châm ngôn : « Nơi mỗi người trẻ đều có một điểm mà sự thiện có thể đi vào được.. » Cho nên mỗi một tiến trình giáo dục đều phát xuất từ sự tận dụng cái mà người trẻ mang ở bên trong họ và nhà giáo dục tìm cách phám phá cách thông minh, kiên nhẫn kèm với niềm tin theo hướng của ba danh xưng sau đây : khả năng sử dụng cách tích cực lý trí của người trẻ, sự mở ra cho Thiên Chúa và niềm khao khát Thiên Chúa, sự sẵn sàng và khả năng yêu thương.
  • Kế đến là niềm tin tưởng vào điều mà nhân loại đã sản sinh trong thời gian và còn tiếp tục sản sinh : Đó là nền văn hóa của con người. Tuy có tính cách phê phán đối với những việc nhân bản hóa giả tạo và những sự hủy hoại con người, thiên nhiên và các dân tộc, kinh nghiệm Salêdiêng không phán đoán cách tiêu cực về đời sống xã hội. Trái lại, kinh nghiệm ấy nhìn nhận sự triển nở, giữa muôn vàn nghịch lý, của một sự thể hiện trước Nước Thiên Chúa ở trong nền văn hóa và lịch sử. Đức tin Kitô hữu và Salêdiêng giúp ta tiếp nhận cái gì là nhân bản, thanh luyện nó, giải phóng nó, để làm cho nó tăng trưởng, trong khi chờ đợi lời hứa vĩ đại của « trời mới, đất mới » mà chúng ta , như Don Bosco, cảm thấy mình cùng với các người trẻ đang ở trên hành trình tiến về đó.

Sức mạnh giải phóng của tình yêu giáo dục

Trực giác vĩ đại thứ hai tin rằng « sức mạnh của sự thiện » ở nơi người trẻ, để có thể phát huy, phải cậy dựa vào tình yêu giáo dục có sức giải phóng. Tự một mình chúng, nhất là trong xã hội phức tạp và đa nguyên của ngày hôm nay, chúng không thành công trong việc diễn đạt các nghị lực có bên trong chúng và đạt tới được cái kinh nghiệm vĩ đại đã được con người đưa tới chín muồi trong thời gian và tích lũy ở trong lịch sử. Tiếp súc với các nhà giáo dục đang nuôi dưỡng một đam mê sâu xa và một lòng mến thương có tính chất giáo dục, các người trẻ cảm thấy được thúc đẩy diễn đạt cái phần tốt hơn của chính chúng và học biến thành của mình cái kinh nghiệm văn hóa, và tôn giáo đã được thể hiện liền trước chúng. Tình yêu giáo dục, như đã được sống bởi kinh nghiêm Salêdiêng và được tái sáng tạo trong những năm gần đây, có hai đặc điểm lớn sau đây :

  • Sự tận dụng các mối tương quan liên vị ghi đậm dấu tin tưởng, đồng thời chia sẻ và tiếp nhận lẫn nhau, như sức mạnh cho người trẻ trở thành chính mình cách đích thực và mở lòng người trẻ để họ kiếm tìm Thiên Chúa. Đấng là tinh yêu mà biểu hiện và tiếng nói của tình yêu ấy chính là tình yêu của nhà giáo dục.
  • Lòng can đảm đưa ra những đề nghị ghi đậm dấu của niềm say yêu cái thiện, cái đẹp, cái chân thật, được cảm nhhiệm cách đầy hấp dẫn, và hướng đến xây dựng hơn là hàn gắn hay tích lũy. Chỉ có thế, nguồn nghị lực của sự thiện mới được phong phú hóa bởi kinh nghiệm nhân bản và bởi đức tin và sinh hoa kết quả trên bình diện cá nhân và tập thể.

Giáo dục : « con đường » dẫn đến thông truyền Tin Mừng.

Trực giác thứ ba là cách thức độc đáo mở cửa lòng người trẻ đón nhận đức tin. Chúng ta nói đến nền giáo dục như là con đường dẫn đến thông truyền Tin Mừng, dưới ánh sáng của đường hướng nay đã là gia sản chung : giáo dục bằng con đường thông truyền Tin Mừng và thông truyền Tin Mừng bằng con đường giáo dục.

Không thể hiểu thấu hoạt động Salêdiêng nếu ta không đi từ đức ái mục tử là sức mạnh sinh động hóa người Salêdiêng và các cộng sự viên của họ. Đức ái này thúc đẩy họ gặp gỡ các bạn trẻ ở nơi có sự tự do của chúng và làm phát sinh nỗi lo thông truyền Tin Mừng nhầm cho chúng được tham dự vào Nước Thiên chúa. Nỗi lo tông truyền Tin Mừng và sự chọn lựa giáo dục khai sinh ra hai tiến trình tác động lẫn nhau, cho tới mức tự thống nhất thành một tiến trình đào luyện mà thôi.

Tiến trình giáo dục giúp người trẻ đảm nhận và yêu mến cuộc sống xuyên qua sự đáp trả cá nhân, bén rễ ở nơi các giá trị nhân bản vĩ đại, cho tới nhìn nhận rằng cuộc sống mang nơi mình nó một yêu cầu tôn giáo.

Tiến trình thông truyền Tin Mừng đề nghị đức tin như là lời đáp trả vá (một sự thúc đẩy thêm dục ta yêu mến sự sống là một tiếng gọi hay tiến xa hơn để yêu sự sống) cho tới khi nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa và là sự viên toàn của cuộc sống. Như thế lời loan báo đức tin là một sự thúc đẩy ngày càng mãnh liệt hơn tới nỗ lực nhân bản hóa cuộc sống và phản ánh vào mọi khía cạnh của sự tăng trưởng nhân bản.

Trong phong thái Salêdiêng, cả hai tiến trình tạo thành một hành trình đào luyện duy nhất : việc giáo dục mở ra cho yếu tố tôn giáo và cho việc lắng nghe – và – tiếp nhận Tin Mừng. Tin Mừng gieo vãi hạt giống của nó vào nơi kinh nghiệm nhân loại được chín muồi cho đời sống thiêng liêng và hoàn lại cho các bạn trẻ khả năng tạo lập các kế hoạch mới hằng ngày.

Đời sống : đề tài trung tâm của đối thoại giáo dục và tôn giáo

Một trực giác thứ tư là làm cho cuộc sống thành đề tài trung tâm của đối thoại giáo dục và thiêng liêng : đó là cuộc sống hằng ngày trong những đợi chờ, những vấn đề, những lo âu, những hy vọng, những kế hoạch bé nhỏ, hiện thực, những quyết định của nó. Đây là việc phải đồng chia sẻ với người trẻ một tình yêu sâu xa cho cuộc sống có nền tảng của nó ở nơi Tin Mừng phải được tiếp nhận và phải để cho mình được biến đổi bởi Tin Mừng đó.

Mọi sự đều nói về cuộc sống. Nhưng dằng sau bao lời nói và bao kinh nghiệm ấy, người trẻ vẫn liều lâm vào nỗi nguy không đạt tới được một câu trả lời cá vị cho vấn nạn tại sao sống và làm sao để trao ban cho cuộc sống một ý nghĩa cụ thể.

Nền giáo dục Salêdiêng đảm nhận lấy trọng trách này, cho tới mức các người giáo dục coi sự gần gũi của mình cùng các bạn trẻ như là một sự trợ giúp để khám phá và say mê cuộc sống trong sự viên toàn của nó để sống cuộc sống ấy cách sung sướng như là sự tự hiến mình phải dấn thân vì tha nhân và phải đặt căn rễ của sự sống nơi các giá trị Tin Mừng.

Lời nói của Don Bosco nay vẫn còn vang vọng : « Cha muốn chúng con vui vẻ…đến mức các con có thể nói : Chúng ta hãy phụng sự Chúa trong niềm vui ». Và một lời nói khác : « Cha muốn chúng con hạnh phúc bây giờ và trong cõi đời đời ».

Đối thoại với cuộc sống hằng ngày là làm cho mình có khả năng ý thức được rằng trong cái nghèo nàn của các cảnh huống hằng ngày và trong cái giới hạn xuyên suốt toàn thể cuộc sống, con người luôn có khả năng làm cho cuộc sống mình nên xứng với con người và thưởng thức hạnh phúc trong chính cuộc sống ấy.

Đồng thời đối với cuộc sống còn là biến nó thành nơi để ta diễn tả một câu hỏi tôn giáo về mầu nhiệm Thiên Chúa (Ai dựng nên tôi ? Ngài có thương mến tôi chăng ?) Trong khi mình mở lòng mình cho Tin Mừng, tới mức quyết định yêu mến cuộc sống như Chúa Giêsu đã yêu mến và như hằng bao thế kỷ các Kitô hữu đã yêu mến. « Ta đến để chúng có sự sống…một cách dồi dào » (Ga 10,10)

Các người trẻ, vai chính trong tiến trình giáo dục

Trực giác thứ năm chính là niềm xác tín, không kém đau đớn và chẳng thiếu hậu quả trái ngược, cho rằng các người trẻ phải là các chủ thể đóng vai chính tạo lập sự tăng trưởng nhân bản và đức tin của chúng. Điều đó không có nghĩa là để mặc các bạn trẻ cho chính họ. Hoạt động Salêdiêng muốn thức tỉnh nơi người trẻ một sự cộng tác tích cực và có phê phán trong tiến trình giáo dục, hợp với những khả thể của họ.

Chúng ta xác rằng bất chấp các hoàn cảnh nội tại và của môi trường xung quanh, nơi người trẻ luôn có hạt giống của tự do mà nhà giáo dục phải liên tục nại tới và với sự hiện diện của mình, nhà giáo dục phải làm cho nó tăng trưởng tới sự tự lập ngày càng có ý thức và phong phú các giá trị hơn.

Hạt giống của tự do này là nơi thần khí của Chúa Phục sinh kêu mời người trẻ đảm nhận lấy cuộc sống riêng của họ một cách có trách nhiệm.

Người trẻ không thể bị coi thuần túy như là đối tượng hay người tiếp nhận những quy luật hay những đề nghị, nhưng đồng thời cũng không được bỏ mặc họ cho chính mình họ. Người trẻ được kêu gọi thực hiện kinh nghiệm sống, hấp thụ và biến thành của mình bậc thang các giá trị văn hóa và tôn giáo như là trang thiết bị tối cần của mình.

Về phần mình, nhà giáo dục phải cảm thấy dấn thân để khám phá, tôn trọng và tận dụng tính độc đáo của chủ thể người bạn trẻ, cổ xúy các đặc điểm và các năng khiếu của họ.

Sự trưởng thành chỉ xẩy ra khi giữa các nhà giáo dục và các bạn trẻ được tạo nên một sự cộng tác tích cực và ý thức.

Cái kết quả tốt đẹp sẽ là sự tự lập của người trẻ, khả năng hành trình độc lập, tự chọn những chọn lựa có phê phán, sáng tạo nên phong cách sống có ý nghĩa, đi tới các khẳng định và các lối sống  mà ngay chính nhà giáo dục không dám nghĩ tới, dù đã theo dõi người bạn trẻ trong hành trình của họ.

Mở rộng cho tất cả các bạn trẻ và cho từng bạn trẻ.

Trực giác thứ sáu chính là chú tâm xây dựng những đề nghị trong đó tất cả các bạn trẻ có thể được tham dự. Nếu Don Bosco đã quả quyết : « Chỉ cần chúng con là các bạn trẻ, là có đủ lý do để cha hết lòng yêu thương chúng con », thì sống theo phong cách Salêdiêng hôm nay được trực giác thấy như là « sự thiện cảm và ý muốn tiếp xúc với tất cả các thanh thiếu niên » (HL SDB 25) để trở nên cho mỗi bạn trẻ « sự chờ đợi tiếp đón, sự hiện diện tích cực và có sức chứng tá » (HL FMA 67).

Sự thân ái và tình bạn làm cho người Salêdiêng trở thành điểm quy tụ cho hết mọi người, nhất là cho các bạn trẻ nghèo khổ hơn, cho những ngưởi ít có niềm an ổn về tình thương và xã hội. Cách riêng với những người này, người Salêdiêng sẵn sàng đồng chia sẻ những lo lắng và những vấn đề, trong khi theo dõi họ vào những lúc phức tạp của cuộc sống.

Sự rộng mở cho mọi thanh thiếu niên không có nghĩa là hạ thấp các chờ trông giáo dục, nhưng là sự khẩn trương phải cống hiến cho mỗi người, điều họ cần vào lúc này và tại chính nơi đây và kêu mời họ đáp ứng với những cử chỉ tương xứng với các khả thể của họ.

Mọi bạn trẻ sống trong các môi trường Salêdiêng đều tiếp xúc với một đề nghị duy nhất về cuộc sống và về linh đạo. Dưới một cách thức nào đó, họ hành trình trên một con đường duy nhất, và ở bên trong cuộc hành trình đó, họ được cung cấp các giai đoạn giáo dục và tôn giáo khác nhau, tùy theo họ là những chủ thể nào và thuộc những nhóm nào. Sự tiệm tiến và khác biệt với nhau được thể hiện ở trong một hành trình duy nhất, là một sự chọn lựa phẩm chất hóa việc phục vụ người Salêdiêng dành cho tất cả các bạn trẻ.

  • Chọn lựa hoạt động

Với các chọn lựa hoạt động, chúng ta muốn nói đến các chọn lựa nền tảng về phương pháp giáo dục, gắn liền với các trực giác thuộc đoàn sủng, giờ đây đã trở thành gia sản chung, có thể áp dụng cho tất cả mọi bối cảnh trong đó các SDB và FMA hoạt động.

Cả trong lãnh vực các chọn lựa này, ta cũng khó đi đến một cái nhìn đầy đủ về cái đã có.

Tuy nhiên, trong các hoàn cảnh khác biệt và phức tạp, ta cũng có được một số hạng loại chung, dẫn đến một số điểm then chốt được mọi người đồng chia sẻ

Sự sống tiếp nhận

Hệ thống dự phòng là khoa sư phạm của sự tiếp nhận cho không và vô vị lợi. Từ các trực giác mang tính chất lý thuyết, nó đã trở thành một cách thực hành giáo dục cùng với các người trẻ, khi một số điều kiện sau đây được thể hiện :

  • Việc tạo nên một bầu khí liên hệ liên vị thấm tình bạn hữu giữa các bạn trẻ và giữa các nhà giáo dục và các bạn trẻ, trong đó trổi vượt sự tin tưởng lẫn nhau, sự bộc phát, đối thoại và đồng chia sẻ.
  • Việc tiếp nhận các người trẻ ở trong chính thực trạng của họ, không phải qua quá nhiều màng sàng lọc để chọn cho vào hay sa thải một bản trẻ nào khỏi môi trường Salêdiêng. Hiển nhiên là phải có những « tiêu chuẩn » tiếp nhận nào đó, nếu không sẽ có nguy cơ làm mất phẩm chất môi trường giáo dục ; nhưng các tiêu chuẩn này chỉ là tối thiểu thôi để cho mọi người đều được cống hiến khả thể thực hiện một hành trình giáo dục. Bằng cách ấy, sự tiếp nhận không chỉ là mối tương quan giữa các con người mà còn là một phẩm chất của môi trường Salêdiêng. Trong môi trường đó, người trẻ có thể cảm thấy mình ở tại nhà mình mà không bị áp đặt những điều kiện đối tác bất khả thực hiện và có tính cách chọn lọc.
  • Có sự căng thẳng giữa các người trẻ đang mang nơi mình những đợi chờ, những quan tâm, những trực giác và những đề nghị làm phong phú cho những đợi chờ và những mối quan tâm trên, nhằm giúp cho họ lấy những quyết định về cuộc sống của riêng mình và của tập thể. Sự tiếp nhận không đồng nghĩa với sự im lặng trong giáo dục hay thiếu vắng các lời đề nghị, nhưng có nghĩa là thực hiện một cuộc gặp gỡ can đảm và giầu tưởng tượng giữa thế giới các người trẻ và truyền thống văn hóa và tôn giáo.

Tạo nên các môi trường theo kiểu « Nguyện xá »

Hạn từ « nguyện xá » không muốn nói đến một cơ chế, mà là tới một khuôn mẫu hay « hình ảnh » của một môi sinh giáo dục.

Trong sự chọn lựa này, chúng ta cẩn xác định một số điểm.

  • Cần phải đề nghị rất nhiều loại hoạt động để có thể đáp ứng với những sự quan tâm khác nhau của các bạn trẻ. Nhưng đây không thuần túy là chủ thuyết duy động, nhưng chính là việc chọn lựa một hình thức học hỏi tích cực, trong đó đòi hỏi người trẻ phải trải qua một kinh nghiệm, phải tìm kiếm, phải là vai chính, phải sáng tạo và tái diễn đạt những sáng kiến trong một môi sinh khó mềm dẻo và thay đổi được. Các hoạt động này là nơi trong đó các trông chờ của các bạn trẻ được tiếp xúc với các đề nghị mang những giá trị và mang chiều kích của niềm tin do các nhà giáo dục đề ra. Đây luôn luôn là vấn đề các kinh nghiệm giáo dục. Như thế, các thanh thiếu niên được tham dự qua một hình thức xứng đáng vào trong việc khám phá và tiếp thu các giá trị một cách sinh động.
  • Cần phải giúp các người trẻ đi từ các kinh nghiệm khác nhau mà họ phải trải qua để tới việc làm « chín muồi một kinh nghiệm sống » ; nghĩa là tìm ra được và thực hành một lối sống bén rẽ nơi truyền thống, nhưng lối sống đó đồng thời cũng được tái tìm ra trong ánh sáng của đức tin và của những đòi hỏi tích cực của con người ngày hôm nay. Điều đó đòi hỏi phải hành động, phải suy nghĩ, phải nhận thức, phải tận dụng. Nó cũng đòi hỏi trí thông minh và cõi lòng để phác họa ra các sáng kiến và các hoạt động mới trong ánh sáng của kinh nghiệm chất đống và của các chân trời được khám phá.
  • Phải tìm cách liên kết các kinh nghiệm lại với nhau qua việc ngày một thuộc về môi sinh chặt chẽ hơn. Nếu các hoạt động không giúp để nhận thức được bản thân mình trong môi trường giáo dục thì các hoạt động ấy trở thành một sự hoang phí nghị lực cách vô ích. Bởi đó, các Salêdiêng đều phải chăm chú tới sức mạnh đề nghị của môi sinh, như là một bầu khí có sức thống nhất, trong đó điều chúng ta vừa nói ở trên được đảm nhận như đã được thể hiện, và do đó trở thành phương thức và sự đề nghị ra các giá trị.

Bầu khí, khoảng không của tự do, tinh thần liên đới, vai chính giáo dục của người trẻ sẽ là những yếu tố quan trọng nhất cho phép mỗi cộng đoàn giáo dục được nên giống như khuôn mẫu Nguyện Xá.

Ở với các bạn trẻ

Đây là nguyên tắc của hộ trực Salêdiêng

Hộ trực viên đồng thời là nhà giáo dục. Họ sống nhiệm vụ của mình giữa sự chia sẻ hằng ngày và đầy nhiệt huyết vào đời sống các bạn trẻ và đồng thời sống quyết tâm nên mối kích thích, lời đề nghị, sự phong phú hóa về nhân bản và tôn giáo cho các bạn trẻ ngoài những gì họ đã chinh phục được.

Xác tín nền tảng vẫn thâm tín rằng cuộc sống của người trẻ sẽ giải tỏa toàn bộ tiềm năng tích cực của nó khi các nhà giáo dục không trốn lánh nhiệm vụ có mặt và tích cực, trái lại, họ luôn có đó để cống hiến các yếu tố đem tới sự chín muồi, ngăn ngừa các hoàn cảnh tiêu cực, liên tục mở ra cho người trẻ viễn ảnh nhân bản và tôn giáo của cuộc sống.

Sự lựa chọn trên được cụ thể hóa nơi một số điểm mạnh sau đây :

  • Người trẻ và người lớn cùng sống một kinh nghiệm giáo dục duy nhất theo sự phong phú cá nhân riêng : cả trẻ cả già đều « theo học » người này là thầy của người kia.
  • Khám phá ra vai trò chuyên biệt của người lớn. họ ý thức rằng mình có bổn phận phải « thông truyền », nhân danh xã hội và Hội Thánh, tất cả những điều đã được tạo lập nên ở trong lịch sử, và phải phân biệt cái gì là giá trị vĩnh hằng, cái gì là kinh nghiệm sẽ qua đi của gia sản đó. Nhất là họ biết rằng mình có nhiệm vụ làm cho các giá trị nhân bản và tôn giáo hài hòa được với các trực giác mà các thế hệ người trẻ mang nơi lòng mình. Cuộc sống với nhau đây được đánh giá như là nơi giáo dục. không phải ở với nhau, để rồi sau đó mới giáo dục, mới đưa ra các đề nghị. Chính cuộc sống đồng chia sẻ hằng ngày, được cảm hứng từ tình yêu đối với sự sống và đam mê rao giảng Tin Mừng, đã là sự trao đổi các giá trị nhân bản và đức tin. Ở với các người trẻ không phải là mất thời giờ, mà chính là việc thông ban trực tiếp và sinh động, còn hữu hiệu gấp bội việc trao ban thuần túy bằng lời nói.

Điều này đòi hỏi sự trao ban các nghị lực thể lý, tâm lý và thiêng liêng, đòi hỏi một nỗ lực dấn thân mạnh mẽ của nhà giáo dục.

Cổ xúy kinh nghiệm nhóm

Chúng ta lấy khởi điểm từ niềm xác tín rằng để giáo dục theo phong thái hệ thống giáo dục dự phòng, thiết yếu các người trẻ phải  thực hiện một kinh nghiệm nhóm với sự hiện diện của một hay nhiều nhà giáo dục.

Sự chọn lựa của nhóm là một sự chọn lựa nay được nhìn nhận là không thể từ bỏ. Người Salêdiêng quyết định sống cho nhóm vì họ biết rằng hình thức qui tụ này hơn bất cứ hình thức qui tụ khác.

  • Tạo nên sự trung gian giũa khối đông trong đó cá nhân liều rơi vào sự vô danh và sự cô đơn đầy thất vọng đóng kín cá nhân nơi chính mình họ.

Giúp cho người trẻ tái tìm lại cách dễ dàng chân tính của mình và nhận ra và tiếp đón cái khác lạ của những người khác :

  • Là một chiếc ghế dài thử luyện trong đó con người thực hiện được cái kinh nghiệm về sự liên đới, cho họ tìm thấy niềm can đảm để mạo hiểm trong một lãnh thổ, nơi cần đến sự đối chất và đối thoại, là những cái có khi tạo thành những kinh nghiệm gian khổ mà người ta tìm cách trốn tránh ;
  • Là bước đi qua (hầu như bó buộc) để làm chín muồi một kinh nghiệm về sự hiệp thông và về Hội Thánh, làm cho lời loan báo và các thái độ Tin Mừng được nội tâm hóa.
  • Là dấu của sinh động lực, trong một cộng đoàn giáo dục rộng lớn hơn : nó cho phép các người trẻ thi thố các vai chính, tạo lập nên các giá trị với những phạm trù văn hóa mà họ nhạy bén hơn cả.

Đề nghị giáo dục nhằm làm nên nhóm nơi các môi trường Salêdiêng mang lấy một số đặc điểm sau đây :

  • Sự bộc phát của sự liên kết thành nhóm : Đây là một sự chinh phục hơn là một khởi điểm. Nếu trong các nhóm giải trí, sự quy tụ bộc phát đòi hỏi phải học hỏi sự trung thành, sự năng đi tới, sự vô vị lợi trong các tương quan bằng hữu, thì trong một lớp học, nhóm đạt tới sự bộc phát khi vượt thắng các chướng ngại vật ví như tính hình thức của tương quan, sự tập trung thuần túy vào việc học hay vào thành công cá nhân mà thôi.
  • Sự tận dụng mọi điều người trẻ quan tâm như là các yếu tố xoay quanh đó người ta có thể quy tụ lại với nhau. Mỗi mối quan tâm chính đáng đều có tính giáo dục và cống hiến khả thể đảm nhận và tiến hành một hành trình tăng trưởng : thể thao, âm nhạc, du lịch, việc phục vụ tha nhân, việc đào sâu đức tin.

Vậy nhóm là nơi trong đó người ta sống mức căng thẳng tích cực giữa cuộc sống hiện hữu phải tận dụng vào các đề nghị văn hóa, tôn giáo và đức tin.

Đề ra các tiến trình

Sự tăng trưởng nhân bản và Kitô hữu của người trẻ không chỉ được trao phó đơn thuần cho các kinh nghiệm thích thú của các hoạt động, hay cho cái khả năng thống nhất của môi trường. Cũng không dựa trên sự thêm các nội dung giáo dục và dạy giáo lý cách có hệ thống, dạy một dịp cho cả đời, và được thích nghi với tất cả mọi người.

Kinh nghiệm phải được làm cho ngang tầm với các trẻ em đang sống các hoàn cảnh cá thể và môi sinh khác nhau, dù rằng kinh nghiệm đó có luôn luôn xứng với mục tiêu mà nó vươn tới đi chăng nữa. Cho nên cần phải :

  • Suy nghĩ đâu là các mục tiêu khẩn trương nhất, ở trong tầm mức với các bạn trẻ cụ thể.
  • Thiết định các nội dung tiệm tiến và các cách thức nội tâm hóa chúng.
  • Tổ chức toàn thể kinh nghiệm dưới hình thức năng động và mềm dẻo như là lời đáp trả cho cuộc sống.
  • Hành trình tới mục tiêu nên «  người Kitô hữu tốt và công dân lương thiện », trong khi luôn tìm củng cố cách kiên trì một số các giá trị, các thái độ, và các khả năng nền tảng
  • Sau cùng nghiệm xem, để nhận chân xuyên qua các kết quả chứng minh được, về sự xứng tầm của các đề nghị và các sự can thiệp.

Tắt một lời, điều này có ý nói phải phác họa ra các hành trình. Bất chấp mình có chăm lo tạo chương trình đến đâu ta vẫn phải luôn sẵn sàng tái bắt đầu lại một lần nữa để trao ban cho hết mọi người cái khả thể được hành trình, dù là người mới bắt đầu hay là người đã lạc bước đi nữa.

Việc sinh động hóa nhóm

Chúng ta đã trình bày, với một số nhấn mạnh mau vội, các đặc điểm chính của khoa sư phạm được thực hành trong các môi trường Salêdiêng. Việc kể ra kinh nghiệm này không vì chính nó. Chúng ta muốn tiến xa hơn nữa.

Mục tiêu xa hơn nữa này, chúng ta dành cho nó một tên gọi : đó là việc sinh động hóa nhóm. Nhóm đưa chúng ta vào thế giới sống của nhiều bạn hữu gồm các hội viên nam, nữ, và các cộng sự viên giáo dân, và nhắc cho chúng ta tập trung vào cái hạt nhân then chốt của khoa sư phạm Salêdiêng hôm qua và hôm nay.

Nhưng cái hạn từ « sinh động hóa » này lại gợi nên cả một chòm sao các ý nghĩa mới không phải luôn luôn từng được thấu hiểu. Giới thiệu thực tại « sinh động hóa » này chẳng phải là hùa theo mốt, một thứ tái giới thiệu các nội dung cũ bằng các lời lẽ mới mà vẫn để cho bản chất của nó trong tình trạng bất di bất dịch.

Trái lại, đây là việc chúng ta ý thức được rằng hành trình, hay chặng đường thực hiện hệ thống giáo dục dự phòng đã tạo nên những sự thấu hiểu chưa từng có không thể giảm thiểu thành những gì đã được sống và được thực hành trước đó.

Một hành trình

Từ ngữ này được sử dụng, và có thế giá kể từ nửa hai của thập kỷ Những năm 1970, để diễn tả một đòi hỏi  rất được cảm nhận, và đã được nhập vào trong khi từ vựng Salêdiêng, và được pháp luật hóa trong các bản văn hiến luật và trong các tài liệu tu nghị.

Trên đường nét của nguyên tắc, việc thực hành công việc sinh động hóa đã tiếp tục đực chín muồi, hơn nữa xuyên qua các phân tích về vô số các hàm ẩn đa diện của nó. Sinh động hóa là một trong ba điểm nền tảng đảm bảo cho việc thể hiện một mục vụ – giáo dục và nhắc nhở cho ta phải chọn lựa kế hoạch giáo dục và cộng thể giáo dục.

Sự đào sâu việc sinh động hóa trong lãnh vực giáo dục đã đồng quy về và một phần nào đó đã tạo nên sự thức tỉnh của kinh nghiệm liên kết với nhau thành nhóm : kinh nghiệm này không song hành hay đổi lại với các cơ chế phức tạp và có tổ chức, nhưng như là một năng động lực có thể bổ sung cho hay làm biến đổi các cơ chế trên .

Việc sống liên kết thành nhóm (associazionismo) xuất hiện như một kinh nghiệm có khả năng tập hợp những yêu cầu giáo dục mới đòi hỏi thể hiện việc nhân vị hóa và việc tham dự, là những nhân tố đang ở bên rìa tại các cơ quan khác. Đã nảy sinh các nhóm và các hội tự lập hay gắn kết lại cùng nhau dưới các hình thức khác nhau. Các người Salêdiêng và Con Đức Mẹ Phù Hộ đã cảm nhận việc mình làm mục vụ và giáo dục ở trong thực tại nhóm này. Trong khi họ được phẩm chất hóa nơi bản thân mình,  họ đã lôi cuốn các bạn trẻ vào trong cùng một công việc phục vụ đó.

Các bản văn đang nỗ lực tổng hợp cái kinh nghiệm sống nhóm này, đã cố gắng thu tập cái nền linh đạo của nó và sắp xếp lại cho thống nhất các trực giác về phương pháp được phân tán trong các biểu hiện khác nhau.

Trực diện với các thách đố mới

Nếu từ ngữ « sinh động hóa » xem ra có khả năng lớn lao để diễn tả hành trình suy tư giáo dục đã được thực hiện trong những năm gần đây thì nó xem ra cũng có khả năng to lớn tiếp thu lấy các thách đố của tiến trình chuyển đổi văn hóa đang cuốn lôi toàn thể nhân loại và gợi ra các câu trả lời mà các thế hệ mới yêu sách nhằm thể hiện sự tăng trưởng toàn diện.

Sinh động viên không thể làm ngơ việc xác định rõ các thách đố này, diễn tả chúng ra và sắp đặt một cách chính xác cái thứ tự của chúng để tìm ra một câu đáp trả gần gũi với các vấn đề đích thực. Bởi đó chúng ta nên đan kể ra ở đây một vài thách đố.

  • Nay ta thấy phát hiện lên nhiều hình ảnh về con người nhiều khi đối chọi với nhau. Và còn thường hơn thế, người ta cống hiến các mảnh hình ảnh con người không thể cùng đứng chung với nhau được, do các cơ quan khác nhau cung cấp. Trong bối cảnh này, chúng ta được mời gọi dõi theo các bạn trẻ, giúp họ trở thành những con người và những Kitô hữu sau khi chúng ta đã làm sáng tỏ cho chính bản thân mình hình ảnh con người và Kitô hữu nào phải hướng dẫn công việc giáo dục của chúng ta.

Và đây là thách đố : ta phải làm sao để nêu ra được chân trời nhân bản và tôn giáo trong đó phải tiến hành công việc giáo dục, và các mục tiêu mà việc giáo dục được gọi theo đuổi. Cho nên cần phải tái suy nghị cách sâu xa về gia sản Giáo hội và xã hội, và khẩn trương phải nói lên được là con người và người Kitô hữu ngày hôm nay cụ thể là những gì.

Phải khai sinh ra các phương thế giáo dục, làm cho người trẻ thoát được cảnh bị phân tán mà trong đời sống xã hội, họ có nguy cơ liều gặp phải và giúp cho họ tạo nên một hình ảnh dựa trên nền tảng, điều họ đã nhận thức ra được.

Việc sinh động hóa nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có một bầu khí thông tri với các bạn trẻ khác và giũa các người trẻ và các người lớn, giúp cho các giá trị được chín muồi để làm nên một tổng hợp giũa các sứ điệp khác nhau và kinh nghiệm cá nhân. Do đấy, nhóm là nơi thông tri, là xưởng thợ lý tưởng, trong đó các bạn trẻ cùng sống và làm việc với nhau, trong sự hòa hợp với môi trường văn hóa, xã hội và Giáo hội và xuyên qua cả các thông số và các khung quy chiếu được hình thành cách có phê phán, nhờ vậy, họ đạt đến việc phác họa ra được một hình ảnh về con người và về Kitô hữu dựa vào đó định hướng bản thân mình.

  • Chúng ta sống trong một thế giới gồm những cống hiến về một lãnh vực riêng lẻ liên tục hối thúc chúng ta, chúng thỉnh thoảng lại khơi dậy cách gay gắt về một khía cạnh của cuộc sống, do đó mà từng cá nhân thường cảm thấy bị phân hóa, tự tách bản thân ra thành nhiều mảnh để rồi các mảnh đó xem ra phát triển cách tự lập và dưới một hình thức đổi ngược. Trong bối cảnh này, sự mất đi tính chất duy nhất của chủ thể con người, và cách riêng của người trẻ, không còn là một mối nguy tưởng tượng nữa. Tạo lập sự thống nhất, ban lại cho cuộc sống một ý thức cá vị, đi tới một cái thang các giá trị mạch lạc, thường trở thành một công việc rất khó khăn.
  • Sự thách đố trong hoàn cảnh này, là làm sao thực hiện sự chung sống giữa lý trí và tình cảm, tự do và luật nội tâm, tính cá thể và tình liên đới, đời sống riêng và sự tham gia xã hội. Ngoài ra, vẫn còn là một vấn đề, cách riêng đối với các bạn trẻ, là làm sao tạo khoảng không trong đời sống riêng của mình cho một bình diện tôn giáo chín chắn, là tiền đề tối cần thiết để mở lòng mình cho một đề nghị của đức tin Kitô hữu.

Bởi thế cần cho các bạn trẻ tập luyện, để có khả năng bén rẽ sâu trong nền văn hóa như là tổng thể nhất thống và có suy xét của các ý nghĩa và các giá trị để tái khám phá ra cho phong phú của môi trường cuộc sống riêng ; để kiếm tìm các điều kiện để giúp trở nên chính bản thân mình hơn.

Tuy nhiên các sinh động viên phải lo sao đừng rót vào trong các bạn trẻ một nền văn hóa « đã làm sẵn », mà hãy tập luyện cho họ có khả năng tạo ra nền văn hóa, dựng xây lên nền văn hóa, cho họ dấn thân trong việc sản sinh ra các giá trị và các biểu hiện văn hóa mới.

  • Ta đang sống trong một thời gian khủng hoảng của các tiến trình đào luyện nơi thế hệ mới. Thật đáng kể cái khó khăn chuyển giao cho họ cái gia sản văn hóa, xã hội, và tôn giáo, bằng một hình thức có ý nghĩa và thực tiễn ; cũng như thật là cam go việc giáo dục họ hãy biết thực hiện những đáp ứng cá vị ngày càng có ý thức và có nguyên cớ hơn, được bén rẽ sâu xa nơi kinh nghiệm của nhân loại. Các tiến trình xã hội hóa và hội nhập văn hóa rút cuộc đã bị nổ tung thành bụi tro và đầy nghịch lý vì lý do con người càng ngày càng thuộc về quá nhiều môi trường. Các tiến trình giáo dục tại gia đình, tại trường học, tại cộng đoàn Kitô hữu có vẻ như không đạt tới mục tiêu của nó. Tất cả cái đó tạo nên nơi người trẻ một nỗi không thoải mái hiện sinh rất sâu xa.
  • Các thách đố ở đây chính là sáng tạo nên những nơi chốn, những tiến trình, những hình thức tương quan và thông tri cho phép trao ban một cách thỏa đáng cái gia sản của nhân loại do các thế hệ trước dựng nên, và thức tỉnh các tiềm năng cá nhân của người trẻ theo đường nét của sự sáng tạo, kế tục và mới mẻ.
  • Bởi thế cần tạo nên các nơi và các tiến trình chuyển giao và giáo dục mới có khả năng nâng đỡ trường học, gia đình, cộng đồng con người – thống nhất và liên kết hài hòa các cơ chế ấy – trong các nhiệm vụ giáo dục của chúng.
  • Việc sinh động hóa hoạt động chủ yếu vào thời giờ rỗi, coi đó như là nơi độc đáo của việc đào luyện, để hoặc là chuyển giao cái gia sản văn hóa và tôn giáo, hoặc là để giúp đem lại cho cuộc sống riêng một ý nghĩa. Điều ấy không cất đi việc có thể tô đậm cho các tiến trình xẩy ra tại mỗi cơ chế giáo dục, xác định chúng trên sự tham gia tích cực của các chủ thể.
  • Chúng ta vẫn thường nghiệm thấy mình sống  trong các môi trường ghi đậm ấn tích của trào lưu trần thế hóa và của chủ nghĩa vô thần thực tiễn, trong đó các giải pháp cho các vấn đề con người được trao phó cho lý trí hay, xét về mặt ý nghĩa và các giá trị, chúng được trao phó cho quyết định cá nhân, trong đó kinh nghiệm đức tin không có chỗ đáng kể. Cũng như những bối cảnh khác trong đó phát xuất từ lời loan báo Tin Mừng và từ việc thực hành đời sống Kitô hữu, ta chú tâm tới cái khả năng tạo nên một lương tâm lịch sử mới và cái khả năng làm biến chuyển xã hội. Trong cả hai bối cảnh này, một con đường được mở ra : Đó là tái suy nghĩ  lại đề nghị Kitô hữu.
  • Thách đố nhắm đến cả nội dung của đề nghị (ngày nay phải nói lên đức tin của mình như thế nào ?), lẫn các nơi chốn trong đó mình thi hành đức tin (Giáo hội « cơ chế » được nhận thức thấy từ xa) và các thách thức qua đó ta cụ thể đề ra hành trình đức tin. Thách đố đến từ con người thuộc mọi lứa tuổi, nhưng thách đố này liên hệ mật thiết hơn với các thiếu niên và các người trẻ sau cuộc hành trình giáo lý đã dẫn họ tới các bí tích Thánh Thể, Thêm Sức và Hòa giải.

Do vậy cần phải tái suy nghĩ sâu xa về các tiến trình thông truyền Tin Mừng. Đối với phần đa các bạn trẻ, đưa ra đề nghị minh nhiên về đức tin chỉ có nghĩa khi họ có thể trực giác được nơi đâu tin vui này có thể được đặt trong cuộc sống họ. Nếu lời đề nghị được đề ra mà không lưu ý tới các mối trông chờ của người trẻ, hay đối kháng cái là nhân bản với cái là tôn giáo, thì nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Đối với các bạn trẻ khác, lời đề nghị tuy được thực hiện cách có ý nghĩa, nhưng lại không có tính thuyết phục, vì câu hỏi hay lời kêu xin tôn giáo chưa được chín muồi nơi họ. Vậy sinh động hóa còn có nhiệm vụ làm cho người ta có khả năng đáp ứng được với câu hỏi tôn giáo, nghĩa là với một phản ứng cá vị đối với những thách đố của mỗi ngày trong đó ta nhìn là cuộc sống có nơi có cái sức mạnh khởi động hướng về màu nhiệm Thiên Chúa được triển nở ở mỗi biến cố và mỗi hoàn cảnh.

Vấn đề mà các nhóm trẻ Salêdiêng đặt ra cho việc sinh động hóa

Những thách đố và những chỉ dẫn về hành trình của chúng ta vừa nói tới lôi kéo toàn thể cộng thể tham dự, với những kế hoạch cùng sáng kiến của nó : Vậy thực hiện sinh động hóa là một trách nhiệm phức tạp.

Ai trong cộng thể có nhiệm vụ sinh động hóa các nhóm phải ý thức được điều này. Những thách đố và những tiến trình sinh động hóa là những vấn đề sinh động viên liên tục phải đối chiếu. Việc nhận ra các vấn đề này có thể khơi mào cho các suy tự về dung mạo và nhiệm vụ của sinh động viên các nhóm trẻ.

  • Vấn đề đầu tiên là cái khó khăn biến đề nghị sống nhóm Salêdiêng trở thành một công việc đào luyện đích thực đáp ứng lại các thách đố ở trên. Tại các môi trường Salêdiêng nay thấy xuất hiện vô vàn các nhóm, nhưng có một câu hỏi được đặt ra cách thôi thúc cho một vài sinh động viên biết nhận định về hành trình của nhóm mình một cách có phê phán : Đó là liệu đó có thực sự là một kinh nghiệm đào luyện ? hay chỉ là để giải trí, để thỏa mãn các nhu cầu, được rao bán tại phiên chợ giới trẻ đang yêu cầu có thể thao, âm nhạc, sự chung sống, du lịch, các giờ phút sống tôn giáo mạnh mẽ, các cuộc hội thảo ?
  • Gắn kết với vấn đề này là nỗi quan tâm đến phẩm chất của việc sinh động hóa. Ta đặt câu hỏi là một nhóm được sinh động hóa về mặt giáo dục và mục vụ có khác gì với các nhóm khác cùng được sinh động hóa theo một nghĩa rộng hơn và tổng quát hơn với điều kiện nào mỗi nhóm có thể đặt kế hoạch và thực hiện một tiến trình tăng trưởng Kitô hữu ?
  • Vấn đề thứ hai là phải làm sáng tỏ phương thức giáo dục được áp dụng ở trong nhóm. Việc sinh động hóa không bị giảm thiểu thành phương pháp mà thôi, mà còn bao hàm một quan niệm về cuộc sống và nền giáo dục, một chân trời tôn giáo và các mục tiêu diễn tả tổng hợp đức tin và cuộc sống. Tuy nhiên không thể chối cãi được rằng nhiều vấn đề gắn liền với chuyện : « sinh động hóa như thế nào », với phương pháp và chiến thuật, nhất là để nhằm tận dụng các kết quả. Liệu nên có một sự đồng trách nhiệm thực sự của nhóm trong việc đề ra các mục tiêu và các nội dung, hay là nên có sự hướng dẫn cách có uy quyền của sinh động viên ? Tóm lại, phải tìm kiếm phương pháp làm việc nhóm hay một phương pháp có nhóm như là phương tiện thôi ?

Vấn đề của phương pháp nhắc tới nhiệm vụ của sinh động viên ở trong nhóm, bởi vì việc sinh động hóa nhìn nhận các chủ thể là tác nhân chính của các tiến trình đào luyện.

Có thể chịu đựng một thứ chuyển động kiểu quả lắc đồng hồ đi từ nỗi hãi sợ sâm phạm vào các nhiệm vụ của nhóm sang thứ biện pháp hoạt động thái quá của sinh động viên, người đích thân đứng ra giải quyết các vấn đề, các hoài nghi và các cơn khủng hoảng để cứu nguy cho nhóm. Giữa hai cực đối chọi này, cần phải miêu tả nhiệm vụ và các bổn phận mà một công việc sinh động hóa chân chính phải thi hành.

  • Vấn để thứ ba là phong cách qua đó ta đề nghị các nội dung văn hóa, xã hội, cũng như tôn giáo và Hội thánh.
  • Trước con mắt của nhiều người, sinh động hóa có nghĩa là chơi vui, là sống giữa các bạn trẻ, mà không quá bận tâm chuyển giao cho họ các giá trị lớn của văn hóa, và nhất là của đức tin Kitô giáo. Việc sinh động hóa có khi được coi là sự giảm nhẹ, nếu không phải là sự phản bội, tính chất tận căn Tin Mừng.

Nhiều người đã phản ứng lại thái độ này bằng cách lấy lại khả năng đề nghị mạnh mẽ, kiên quyết nhắm để khơi dậy sự chọn lựa đức tin một cách tận căn và vĩnh viễn, tạo nên một sự tuyển lựa giữa những người chia sẻ hay không những đề nghị Kitô hữu, giữa những người dấn thân hay không, giữa những người chia sẻ hay từ chối các giá trị.

Chúng ta đi đến xem đây có phải là thực sự là con đường chăng ? Liệu có thể nhân danh việc sinh động hóa nhóm, mà tránh hai giả thiết không thỏa đáng đối với những ai yêu mến hệ thống giáo dục dự phòng chăng : Đó là chỉ ở lại với những ai gắn bó ngay từ đầu, và tránh hạ thấp trình độ để mọi người ngang hàng nhau tính từ chỗ thấp nhất ? Làm sao để có thể lưu ý tới « các kết quả » và làm sao để thỏa mãn sự sẳn sàng của các chủ thể ?

  • Vấn đề thứ tư là xác nhận phẩm chất cách Salêdiêng, nghĩa là xác định dung mạo, nhiệm vụ và các trách nhiệm của sinh động viên khởi điểm từ dữ kiện, họ đồng chia sẻ tinh thần và kế hoạch giáo dục Salêdiêng.

Nhận ra dung mạo sinh động viên Salêdiêng đối với các  nhà giáo dục khác cũng như đối với các sinh động viên khác không phải là chuyện luôn luôn dễ dàng.

Mẫu của sinh động viên không chỉ được nuôi dưỡng bằng các giả định có trước phát sinh từ việc suy tư về công việc sinh động hóa. Thế là trổi lên việc gặp gỡ giữa những suy tư này với những trực giác và những đối kháng tạo nên gia sản đoàn sủng bền bỉ của phong trào phát sinh từ Don Bosco, mà chúng ta đã nói đến ở đầu chương này. Vậy là có nhu cầu phải nhắm bắn thẳng tới các hàm ẩn về sự kết hợp này, cũng như nhu cầu phải nhận định ra các mối phối hợp có hoạt động của sinh động viên.

2

 

Dung mạo của sinh động viên theo phong cách Salêdiêng

                  Vẽ

Dung mạo sinh động viên

theo phong cách Salêdiêng

Để vẽ nên với nét sắc bén dung mạo sinh động viên Salêdiêng như một nhân vị và phác họa các đặc điểm của hoạt động giáo dục của họ trong nhóm trẻ, cần phải đặt họ vào trong một hệ thống có đủ cả năm yếu tố tác động lẫn lên nhau : vai trò của họ, trong cộng đoàn giáo dục với các đặc điểm riêng :

  • Tinh thần Salêdiêng mà họ là hiện thân ;
  • Kế hoạch giáo dục mục vụ độc đáo mà họ hiến mình phục vụ.
  • Chân tính mà họ đang ngày một nên chín muồi trong hành trình đào luyện kể từ khi họ muốn là sinh động viên.
  • Các nhóm trẻ mà họ phục vụ.
  • Sinh động viên ở trong cộng thể giáo dục

Ta có thể hiểu về sinh động viên Salêdiêng khi xét dung mạo chuyên biệt của họ ở trong cộng thể giáo dục, là cộng thể có nhiều người tham gia dưới danh nghĩa khác nhau, nhưng với cùng một nỗi bận tâm giáo dục các người trẻ, các cha mẹ, các nhà giáo dục, các thầy dạy, các kỹ thật viên, các người hướng dẫn, các người trợ lý.

Thuộc về cộng thể

Sinh động viên thuộc về cộng thể giáo dục đến độ họ là biểu hiện của cộng thể. Họ chia sẻ những sự chọn lựa nền tảng của cộng thể, và tham gia vào việc phác họa những chọn lựa ấy. Việc nhìn nhận vai trò của họ, tạo nên một mối dây liên hệ đặc biệt với cộng thể của các nhà giáo dục. Họ đáp ứng cho cộng thể vì họ là hiện thân của sứ mạng giáo dục của nó, và trong cộng thể, họ sống những động lực cá nhân sâu xa nhất : như họ đã chọn ơn gọi dấn thân, sự đam mê giáo dục, và nỗ lực đào sâu đời sống thiêng liêng.

Vai trò chuyên biệt

Trong cộng thể giáo dục họ có một vai trò chuyên biệt.

Cộng thể tiên liệu và khởi động nhiều chức năng chuyên môn khác nhau : giáo viên, người đảm trách việc tổ chức học, giáo lý viên và nhà giáo dục đức tin, chuyên viên nối kết cơ chế giáo dục với địa phương …Tất cả những người này cùng với các bạn trẻ, được coi là các người tác động giáo dục lẫn trên nhau.

Cho nên nếu cộng thể sống những chọn lựa của việc sinh động hóa, thì tất cả, theo một nghĩa nào đó, đều có thể được gọi là các sinh động viên. Sinh động hóa được coi như một phẩm chất bàng bạc được làm cho thêm phong phú bởi các nhiệm vụ khác nhau, vá ảnh hưởng vào mọi thời điểm và mọi tiến trình bằng các giá trị và các phương pháp của nó.

Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, chúng ta dành hạn từ sinh động viên, để chỉ người trực tiếp và liên tục hội nhập vào trong một nhóm trẻ với một vai trò được nhìn nhận bởi các nhà giáo dục khác và bởi chính nhóm đó.

Cái chuyên biệt của sinh động viên chính là ở giữa các bạn trẻ tác động họ liên kết lại thành nhóm, cùng nhau nên chín chắn qua kinh nghiệm nhóm ; khả năng chuyên biệt này có thể được thi hành theo hướng khác nhau ở trong và xuất phát từ cộng thể giáo dục mục vụ : trong một nhóm bộc phát hoặc trong những nhóm được đề nghị, trong các khởi động của các năng động lực nhóm tại các phân nhóm cổ điển của các cơ chế (các lớp học, các nhóm « giáo lý » của giáo xứ)

Sự liên đới và bổ sung

Vai trò chuyên biệt của sinh động viên là liên đới và bổ sung với các vai trò và nhiệm vụ khác nhau của cộng thể, giữa năng động lực của cộng thể và của cơ chế..

Cộng thể giáo dục có những năng động lực riêng và khác nhau, gắn với các mục tiêu giáo dục tổng quát và chung, và với các bình diện và các tổ chức của nó. Sinh động viên đảm nhận vai trò người mang các yếu tố chuyên biệt phát sinh từ kinh nghiệm sống nhóm và các yếu tố đó yêu cầu trong cộng thể giáo dục phải có khoảng không gian và sự sẵn sàng dành cho sự thay đổi.

Bởi có tính chất độc đáo, nên nhiệm vụ sinh động viên có khi thực sự khó khăn : họ có thể gặp khó khăn hoặc với nhóm hoặc với cộng thể các nhà giáo dục. Họ không nên tránh né sự sung khắc này, nhưng tạo nó nên điểm tích cực vì lợi ích của toàn thể cộng thể giáo dục. Họ không nên biến nhóm thành chuyện riêng tư và đừng để mình bị nuốt lấy bởi nhóm và bởi quan điểm của nhóm tới độ cảm thấy mình đối kháng lại với cộng thể các nhà giáo dục.

Đằng khác, họ được kêu gọi thoát ra khỏi vai trò của sinh động viên nhóm để đặt mình, cùng với các nhà giáo dục khác, vào việc lập kế hoạch và sự kiểm chứng tổng quát, trong bầu khí bạn hữu, vui tươi và tưng bừng cử hành niềm tin là đặc điểm của cộng thể Salêdiêng.

  • Sinh động viên Salêdiêng : linh đạo của họ

Dung mạo sinh động viên là người đồng chia sẻ tinh thần Salêdiêng, tức là các nét đặc sắc của kinh nghiệm tin mừng đã được chứng thực bởi Don Bosco và mẹ Marzarello, như là một phong thái sống đặc biệt và những tiêu chuẩn về thẩm định và hành động.

Tinh thần Salêdiêng tạo nên điểm đối chiếu quyết định về cách thức suy nghĩ, hành động và tự thánh hóa của nhà giáo dục và cũng là chỉ dẫn nền tảng để khai sinh các kế hoạch giáo dục, mục vụ và linh đạo cùng với các bạn trẻ hôm nay.

Bởi ơn gọi họ ở giữa các bạn trẻ

Sinh động viên Salêdiêng là người bởi ơn gọi hiến mình cho các bạn trẻ. Bởi đó họ sẵn lòng đồng chia sẻ với chúng những kinh nghiệm, những giá trị, những niềm hy vọng, những vấn đề. Tất cả những gì làm nên cuộc sống của các bạn trẻ, thì họ đảm nhận lấy làm của mình, với nỗi lo tông đồ là làm sao nuôi dưỡng ở bên trong diễn tiến cuộc sống hằng ngày cái thao thức tìm tòi ý nghĩa phát sinh ở trong cuộc gặp gở với Thiên Chúa của sự sống.

Các bạn trẻ là châu lục của sứ mạng của họ, và là tổ quốc của ơn gọi họ. Họ cảm thấy mình không chỉ là một nhà giáo dục vì nghề nhiệp phải qua thời giờ làm việc của mình giữa các bạn trẻ. Hơn là một nghề nghiệp cho họ, các bạn trẻ còn là nỗi đam mê của họ. Họ yêu mến chúng còn hơn cả cái nhìn về cuộc sống mà họ cảm thấy mình là kẻ mang nó. Họ dám trả giá để ở lại và làm việc với chúng.

Đức ái mục tử

Do đó, họ cảm thấy bị thúc đẩy bởi đức ái mục tử biến  họ nên nhạy cảm và chú tâm tới mọi hoàn cảnh tác động đến sự tăng trưởng của các người trẻ và giúp cho chúng nhận thức được các dữ kiện đồng cộng tác vào sự tăng trưởng này hay có phương hại cho nó. Đức ái này cho họ có khả năng hiến dâng tất cả để gặp gỡ cuộc sống của các bạn trẻ.

Như Don Bosco, họ biết sống sáng tạo và dám tiến tới nơi đâu có các người trẻ, ngay cả ở bờ rìa của một xã hội đè bẹp không thương tiếc các kẻ nghèo nàn hơn, các kẻ không được bảo vệ hơn, các kẻ gặp nguy hiểm nhiều hơn.

Sinh động viên Salêdiêng không đòi hỏi ở bất cứ bạn trẻ nào một thẻ nhận diện : « chỉ cần đó là một người trẻ là đủ ». Họ nhìn mọi bạn trẻ với thiện cảm và với khát vọng bí mật là được là trung gian chuyển ban một lời nói to lớn hơn, một niềm hy vọng to lớn hơn.

Việc thực hành sư phạm

Họ chuyển dịch tình yêu đối với các bạn trẻ thành một các việc thực hành sư phạm, hệ thống giáo dục dự phòng, có khả năng đánh thức những tiềm năng bên trong của mỗi người trẻ, cách riêng của người đang nghèo nàn sự thông giao và kinh nghiệm tăng trưởng hơn cả.

Những biểu lộ của tình yêu này, trước tiên chính là khả năng gặp gỡ biết giải quyết các hoàn cảnh khác nhau trong sự tín nhiệm. Những cuộc gặp gỡ – đối thoại của Don Bosco và của mẹ Mazzarello với các bạn trẻ đầu tiên còn được ghi lại dạy cho họ biết trở thành một chuyên gia của các lần tiếp xúc ban đầu, trong đó họ tạo được ngay thiện cảm và gợi ra các niềm mong mỏi.

Tình yêu này còn được biểu lộ trong sự tiếp nhận cái người trẻ hiện là, cái người trẻ mang nơi mình và nhất là định mệnh huyền bí của người trẻ. Sự tiếp nhận này đưa họ tới chỗ đặt phẩm giá con người lên trên tất cả mọi sự.

Sau cùng tình yêu này còn biểu lộ ở trong một tình bạn sâu xa và có uy tín hướng dẫn, có khả năng hiểu, dõi theo, đề nghị và làm cho mỗi người bạn trẻ được thêm phong phú nhờ kinh nhiệm của bản thân sinh động viên và đồng thời để cho các bạn trẻ được nên phong phú nhờ các biểu lộ của Thánh Thần Chúa hiện diện trong đời sống các bạn trẻ.

Sự thống nhất đời sống

Đức ái mục tử, đang chuyển thành thực hành sư phạm vừa với tầm mức của người trẻ, chính là con đường thánh hóa của sinh động viên. Trong đó cuộc sống tiêu hao của họ  trong muôn vàn việc phục vụ và thời khắc khác nhau được thống nhất. Sinh động viên Salêdiêng hiểu được rằng để làm Thánh như Don Bosco và Mẹ Mazzarello, thì có con đường của hoạt động, trong khi làm cái có lợi cho ơn cứu độ của các người trẻ. Cho nên sự kiểm nghiệm mức trưởng thành thiêng liêng của sinh động viên trước hết hệ tại lòng trung thành năng động với sứ mạng và bổn phận riêng của mình.

Linh đạo của sinh động viên có vài đặc điểm : nó đơn giản và là cái người trẻ dễ dàng đạt tới được..

  • Họ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và cảm nghiệm được về tình Cha của Thiên Chúa trong cuộc đời tận tụy hằng ngày cho các bạn trẻ. Niềm xác tín rằng Thiên Chúa ở trong lịch sử và Ngài đã cứu mỗi người và tất cả mọi người giúp cho họ biến đời mình thành nơi gặp gỡ Chúa và họ trở thành tiêu chuẩn nhờ đó cùng với các bạn trẻ, họ đọc biết cuộc sống.
  • Họ không bao giờ tách biệt trách nhiệm khỏi niềm vui. Niềm vui là dấu chỉ hữu hình của niềm tin của họ vào Chúa là Thiên Chúa, của niềm tín nhiệm của họ vào con người, của niềm lạc quan của họ vào ơn gọi đã đang thực hiện ; đó là thẻ căn cước của họ, bởi vì như Don Bosco, họ tin vào sự thánh thiện có khả năng khơi dậy sự hào hứng. Trách nhiệm dấn thân chính là ý thức được rằng Nước thiên Chúa trẻn trái đất này thì được trao vào tay con người, do đó họ có phận sự làm hết sức mình để thực hiện tại đây và giờ này một thế giới công bình hơn.
  • Sống cắm neo nơi mầu nhiệm, như Don Bosco họ tin rằng mối tương quan cá vị cùng với Chúa Kitô phải là chìa khóa giúp sống một kinh nghiệm đức tin đích thực có khả năng khơi dậy ở chỗ thâm sâu con người một kinh nghiệm đức tin chân chính và một sáng kiến tông đồ trung thành. Đàng khác bí tích Hòa giải được mỗi con người cảm nghiệm cách cá vị nơi mình, đưa họ tới niềm cậy trông và kiên nhẫn. Họ không phó mặc cho một thứ duy hoạt động, nhưng trong thanh thản và an bình, họ đảm nhận lấy các sự chống cự đồng nhiên của hoạt động, đảm nhận lấy nhịp độ của các nhân vị và luôn tin tưởng vào ơn Thiên Chúa.
  • Họ sống kinh nghiệm về Chúa Kitô của riêng họ ở trong Giáo hội. Họ cảm nhận kinh nghiệm này như mầu nhiệm, như sự hiệp thông tất cả mọi sức lực làm việc cho Nước Trời, như bí tích hay là sự biểu lộ mặc khải về ơn cứu độ, hơn là cảm nhận nó như là một cái khung đối chiếu có tổ chức bề ngoài. Họ biết rằng kinh nghiệm đó là dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Kitô và nơi thể hiện kinh nghiệm Tin mừng.
  • Họ tin và cảm nghiệm Đức Maria, Mẹ của Chúa và Mẹ Giáo hội, là người tín hữu đầu tiên, hình ảnh của cách thức là Kitô hữu của họ ở trong Hội thánh, để phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho tất cả các bạn trẻ.
  • Sinh động viên và kế hoạch giáo dục mục vụ

Kế hoạch tổng quát và kế hoạch cụ thể

Dung mạo sinh động viên còn được làm sáng tỏ hơn nữa bởi sự kiện là hoạt động của họ được định hướng bởi kế hoạch giáo dục mục vụ Salêdiêng. Họ đồng chia sẻ và đảm nhận lấy những chân trời nhân bản và tôn giáo, cái nhìn giáo dục qua đó họ đọc thực tại, cách thức chú tâm tới các dấu chỉ của sự thiện, các mục tiêu phải theo đuổi, phương pháp và các điểm chiến thuật dùng để đạt tới các mục tiêu.

Hạn từ kế hoạch lập tức nhắc tới khung tổng quát, các sự chọn lựa căn bản mà các Salêdiêng và Con Đức Mẹ Phù Hộ đã hình thành ra và lập thành một trong các tài liệu chính thức, đối diện với các yêu cầu  của hoàn cảnh giới trẻ, dựa trên nền tảng của các trực giác và các chọn lựa miêu tả trước đây và dưới ánh sáng của các đóng góp của các khoa giáo dục và mục vụ.

Hạn từ này cũng có thể dùng để chỉ các chọn lựa cụ thể hơn của cộng thể giáo dục mục vụ tông đồ mà sinh động viên được hội nhập.

Không đủ khi nói rằng sinh động viên có liên hệ cách chung chung tới kế hoạch của một viện giáo dục. Dung mạo sinh động viên của họ phải được xác định qua sự đảm nhận sáng tạo cái kế hoạch mà Cộng thể – mục vụ của họ đã hình thành hay sắp hình thành.

Sự đối chất giữa kế hoạch và sinh động viên không chỉ được xét tới theo cách bề ngoài, như là sự làm cho xứng tầm hay áp dụng cách máy móc những nguyên tắc và những luật sư phạm.

Sinh động viên phải hiểu thấu kế hoạch, nội tại hóa nó và để cho các giá trị và các chọn lựa lớn của nó thấm nhập vào đời sống cá vị. Sự nội tâm hóa vừa nhằm giúp đảm nhận lấy công việc một cách có ý thức hơn vừa giúp làm phong phú cho cá nhân.

Sự đóng góp của sinh động viên cho kế hoạch

Họ có những đóng góp độc đáo cho kế hoạch của cộng thể giáo dục và việc lập nên kế hoạch đó.

  • Sinh động viên phải chú tâm tới phẩm chất giáo dục của kế hoạch, tức là tới cái khả năng hướng dẫn các bạn trẻ thực hiện những câu trả lời cá vị cho các thách đố của cuộc sống. Vì thế họ phải biết phê phán đối với các kế hoạch chung chung, xa với các mong chờ và các vấn đề của các bạn trẻ, được lập nên mà không có sự đóng góp của tất cả các sức lực của cộng thể và của chính các bạn trẻ.
  • Sinh động viên phải chú tâm đển cộng thể khi lập nên kế hoạch, biết hướng tới một sự hòa nhập giữa giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin. Không thể có một bên là giáo dục nhân bản và bên kia là giáo dục đức tin ; bên thứ nhất thì gắn cho một số giờ khắc và một số con người nào đó ; bên thứ hai thì phó cho một số giờ khắc, các hoạt động và các con người khác. Tất cả đều phải chịu trách nhiệm về một nhiệm vụ giáo dục vĩ đại duy nhất : là thống nhất tăng trưởng nhân bản với tăng trưởng đức tin, tuy vẫn tôn trọng thẩm quyền của mỗi lãnh vực.
  • Sinh động viên chú tâm để : trong môi trường giáo dục, phải có chỗ cho sự tham gia tích cực của các người trẻ, không chỉ để thi hành hay làm các hoạt động, mà còn phải được có phần trong các quyết định hướng dẫn cuộc sống của cộng thể. Phải nhấn mạnh đến vai trò tác nhân chính của người trẻ trong cộng thể giáo dục mục vụ (chứ không chỉ ở trong các nhóm) : đó là cái cốt yếu để đồng nhất các người trẻ với cơ chế và môi trường giáo dục.
  • Sinh động viên phải chú tâm tới các hoàn cảnh cụ thể qua đó họ có thể phát huy các kinh nghiệm kết nhóm khác nhau, theo như các mối quan tâm của người trẻ và các khả thể của môi trường. Sự đóng góp của họ vào kế hoạch của cộng thể hệ tại chỗ đề ra các mục tiêu phải theo đuổi gợi ra các hình thức muôn vẻ của sự quy tụ nhóm và các phương thức tổ chức nhóm.
  • Sinh động viên chú tâm để kế hoạch, một đàng vẫn nhìn nhận sự khác biệt của các hoàn cảnh trong đó người trẻ sống, tiên liệu được cho các nhóm, các hành trình đào luyện khác nhau nhằm phát huy hành trình duy nhất của cộng thể giáo dục mục vụ.

Sinh động viên phải chú tâm biến kế hoạch thành một sự kích thích cho công việc giáo dục, một dụng cụ để cộng thể liên tục tái lập kế hoạch bản thân mình như là cộng thể chứ không như là một tài liệu bàn giấy. Vậy họ không nên coi kế hoạch như đã viết một lần là xong mãi, mà luôn luôn phải tái viết lại, để xứng tầm với các yêu cầu, các vấn đề và các sự mập mờ ràng xuất phát từ phía các bạn trẻ.

  • Hành trình đào luyện Salêdiêng

Dung mạo sinh động viên theo phong cách Salêdiêng còn được nắn kỹ hơn nữa trong hành trình đào luyện họ phải làm. Tính phức tạp của vai trò và các nhiệm vụ của họ khiến họ buộc phải sáng tạo không ngừng công việc của họ dưới sự thúc đẩy của « sự đam mê giáo dục » của họ, khởi từ kinh nghiệm đã đạt được, xuyên qua một suy tư có hệ thống và ngày một sắc nét hơn.

Thế là họ được lớn lên với các nét độc đáo của sự chín chắn con người, của khả năng nghiệp vụ, của chiều sâu thiêng liêng.

Sự chín chắn cá vị

Kinh nghiệm tích lũy được trong việc phục vụ các người trẻ, đưa sinh động viên tới chỗ lớn lên như một con người và làm giầu cách tích cực cho hình ảnh mà họ có về chính bản thân mình.

Họ phải lo sao có khả năng đáp ứng, theo cách thức ngày càng mới mẻ và trong sự kế tục với lịch sử riêng của mình, cho một số những vấn nạn cá nhân và làm cho nên tốt hơn một số khía cạnh của khả năng liên hệ của họ.

  • Trước tiên chân tính của họ phải được canh tân dưới sự thúc đẩy của các diễn tiến cá nhân và việc gặp gỡ với tha nhân. Sinh động viên biết được rằng mình không thể đáp ứng một lần là xong, bởi vì họ được yêu cầu phải chú tâm liên tục tới cuộc sống và phải biết thực hiện những tổng hợp mới về các kinh nghiệm, các sự lượng định và các xác tín.
  • Sự đáp ứng mà việc phục vụ giáo dục của sinh động viên gợi ra từ nền tảng của nó phải được gợi hứng ở tình yêu đối với cuộc sống. Dù mỗi ngày họ cảm đều thấy mình nghèo nàn, họ vẫn thấy được ở bên trong sự nghèo nàn ấy, đang thực hiện một màu nhiệm vĩ đại : bất chấp tất cả, họ có thể hoàn thành, những cử chỉ tạo nên ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Bởi đó, tuy có tinh thần phê phán, và không bao giờ ảo tưởng, cách ngây thơ về chính bản thân mình, họ biết tiếp nhận bản thân mà không hãi sợ, biết nhìn về cuộc sống riêng của mình với con mắt thực tế và đầy tràn hy vọng.
  • Cũng có nhu cầu phải tìm kiếm và đào sâu các động cơ, nền tảng của việc phục vụ giáo dục của họ. Các động cơ này giúp làm sáng tỏ ngày một hơn sự chọn lựa nhiệm vụ sinh động hóa các bạn trẻ của họ.
  • Những động cơ này tuần tự triển nở, theo với hành trình họ thực hiện bên cạnh các bạn trẻ : có cái biến mất hay trở thành thứ yếu, cái khác thì lại hiện lên ở đằng chân trời, hay có lấy sự nặng ký quyết định. Ý thức rằng các động cơ thường thay đổi ý nghĩa, hay có thể chuyển thành các mong chờ và các nhu cầu tự thỏa mãn, nên sinh động viên phải liên tục thanh luyện những « lí do tại sao » khiến họ hiến đời mình cho các bạn trẻ.

Tái viết lại cách kiên nhẫn những động cơ riêng của mình không phải là một chuyện dễ. Luôn luôn có nguy cơ là để cho mình bị thói quen thường nhật cuốn lấy, rồi chỉ biết tái nhắc lại những câu trả lời theo ước lệ và không còn biết rằng mình đang chờ đợi cái gì ở nơi công việc điên đầu và mệt nhọc này.

  • Họ phải biết mình định rõ họ chính bản thân họ là họ muốn làm việc cho xã hội nào và cho Giáo hội nào. Ai không có khả năng chuyển từ các động cơ chủ quan để tiến đến các mục tiêu vĩ đại, tới chân trời nhân bản và đức tin, trong đó họ biết đặt trọn sự can thiệp của mình, thì kẻ đó tất không thực sự chín chắn ở nội tâm.

Bởi đó cần tới công việc suy tư cho phép họ đọc lại cách kiên nhẫn các vấn đề của ngày hôm nay, để nhận ra cái gì là phù phiếm hầu tách biệt nó khỏi cái trường cửu, để trực giác được các nỗi âu lo và các nỗi khát vọng thâm sâu, là những hạt giống mới loan báo tương lai của con người, của xã hội và của Hội Thánh.

Khả năng nghiệp vụ

Sinh động viên là người nêu chứng tá về các giá trị bởi họ đã có cái kinh nghiệm về chúng. Họ là một người biết được rằng có thể có những cuộc gặp gỡ làm chuyển biến cả một cuộc đời. Bởi đó họ ước ao thông ban cho những người khác cái kinh nghiệm nhân bản và đức tin của họ và họ chọn thực hiện điều đó bằng một cách thức chính xác : đó là việc sinh động hóa.

Nhưng vì làm sinh động viên là một công việc, một nghiệp vụ, nên họ phải làm cho mình có cái khả năng chuyên môn đó, hầu có thể nêu chứng tá của mình. Khả năng chuyên môn này không phải một lần đạt được là có vĩnh viễn, ở ngay vào lúc đầu của công việc của họ giữa các bạn trẻ : nhưng nó là cái cần phải được đào sâu trong thời gian. Do đó, trên quan điểm này, họ không bao giờ cảm nghiệm thấy mình là người đã tới đích, dù rằng họ ý thức được cái sung mãn của kinh nghiệm chồng chất thêm lên với thời gian. Do vậy, dung mạo của họ mang lấy nét của con người kiếm tìm sự hoàn thiện trong công việc và luôn rộng mở cho những thu đạt mới.

  • Nơi đầu tiên mà họ có thể phát huy khả năng chuyên môn chính là việc thực hành giáo dục. Với hạn từ này, ta kết hợp hai hành trình đào luyện phong phú, liên tục bổ sung cho nhau : đó là kinh nghiệm cụ thể của công việc giữa các người trẻ và suy tư lý thuyết về kinh nghiệm đó.

Hoạt động giáo dục trên thực tế đặt họ trước các vấn đề và thúc đẩy họ đi tìm các giải pháp : suy tư và sự nghiên cứu cống hiến cho họ những yếu tố để tái suy nghĩ lại về hoạt động, giúp tạo nên các kế hoạch can thiệp mới.

Việc sinh động hóa trở thành «  việc thực hành giáo dục » khi nó có khả năng hành động và tái suy xét lại hoạt động riêng của nó với sự trợ giúp của một sự lượng định có khoa học và cởi mở ; cũng như khi việc nghiên cứu các khoa học giáo dục được thực hiện dưới ánh sáng của các vấn đề cụ thể và của những trực giác phát sinh từ hành động.

  • Tuy nhiên, còn cần tới một nền đào luyện căn bản thích đáng luôn chú trọng tới ba viễn ảnh :
  • Việc đào sâu bằng quan niệm, nhằm tạo nên một « tâm trạng của sinh động viên ». Sinh động hóa thực ra là một cách thức, suy nghĩ, đọc thực tại, và lập chương trình hành động. Nó đòi hỏi một khung quan niệm lý thuyết, nhưng không vì thế mà mang tính chất trìu tượng, cho phép tiếp thu cảnh vực trong đó thể hiện sinh động hóa và các phương pháp nó sử dụng.
  • Khả năng kỹ thuật – hành động nhắm tạo ra nơi sinh động viên khả năng hành động cách hữu hiệu, tùy theo lãnh vực can thiệp mà sinh động viên được ủy thác. Khả năng kỹ thuật – hành động của sinh động viên không tự giảm thiểu thành « chuyện phải làm » mà còn biết tìm ra cách « phải làm sao ». Điều này bao gồm việc xác định một chuỗi những tiêu chuẩn hoạt động và đánh giá, việc làm chủ các năng động lực tạo điều kiện cho sự tham gia, sự hiểu biết các nội dung để cống hiến cho các bạn trẻ theo mức khả năng đón nhận đích thực của họ.
  • Khả năng thông tri, nhằm đào tạo sinh động viên có khả năng mở ra một cách đứng đắn cho việc tác động lẫn trên nhau đối với nhóm và đối với từng người. Khả năng tương quan này là một đặc ân tự nhiên nơi một số ít mà thôi. Đối với nhiều người, đó là kết quả của học hỏi, thí nghiệm và tập sự một cách kiên nhẫn.
  • Ngoài nền đào luyện căn bản, sinh động viên còn có trách nhiệm phải liên tục cập nhật hóa nghiệp vụ, do sự kiện đổi thay liên tục của hoàn cảnh văn hóa và điều kiện của giới trẻ, do việc có những yêu sách giáo dục và tôn giáo mới phát sinh, do sự khai trương các tiến trình giáo dục mới.

Sự cập nhật hóa sư phạm là một trách nhiệm trường kỳ. Tinh thần mềm dẻo của sinh động viên đòi hỏi họ phải biết tìm những dụng cụ thích hợp nhất để làm chín muồi một việc thực hành sư phạm cá nhân luôn được đối thoại với sự suy tư lý thuyết.

Chiều sâu thiêng liêng

Sống theo thần khí là tiếp nhận sự hiện diện huyền bí của Thiên Chúa trong chính cuộc sống của mình, là mở bản thân cách tích cực cho Thiên Chúa, cho tình yêu Ngài và cho Nước của Ngài và cho Chúa Giêsu, lấy khởi điểm từ chính cái ta sống.

Như vậy kinh nghiệm về Thiên Chúa không phải ở bên rìa, hay trong những thời điểm khác với những thời điểm trong đó ta thực hiện việc sinh động nhóm, trái lại kinh nghiệm về Thiên Chúa nằm ngay trong chính việc sinh động hóa nhóm.

Sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa trong lịch sử của mỗi con người, đối với sinh động viên, chính là chân trời cuối cùng dựa trên đó họ phục vụ các bạn trẻ. Trong khi đi tìm ý nghĩa sâu xa của công việc của họ, họ đã tìm thấy trong kinh nghiệm Kitô hữu câu trả lời đến soi sáng, hướng dẫn, biến đổi các điều họ đang sống.

Một khi đã đảm nhận phong cách sinh động hóa, sinh động viên phải trải qua một hành trình thiêng liêng độc đáo, trong đó các chặng tuy tái lập đi, tái lập lại, nhưng phải được sống trên các bình diện ngày càng thâm sâu hơn.

  • Hành trình này đưa sinh động viên tới sống hoạt động giáo dục của mình như là phương thức độc đáo để kiếm tìm Thiên Chúa, như là câu hỏi tôn giáo luôn được tái đặt ra và được tái nuôi dưỡng.

Đây không phải là vấn đề ấp ủ những tư tưởng giáo thuyết thâm trầm về Chúa Ba Ngôi, mà là tìm ra những dấu vết và ý nghĩa của sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới. Từng bước trong hành trình của mình, sinh động viên ý thức được rằng « nỗi đam mê giáo dục của họ » được định hướng và nâng đỡ bởi sự kiếm tìm Chúa. Đấng luôn ở gần, cho dù Ngài im lặng và không thể thấy được. Kinh nghiệm hằng ngày, với những lúc vui vẻ và đau đớn, làm tăng lên nơi họ khát vọng và lời kêu cầu Thiên Chúa. Câu hỏi về ý nghĩa của các sự vật và các biến cố không bao giờ xa lạ đối với họ.

  • Trong khi đào sâu ý nghĩa của hoạt động giáo dục của họ, sinh động viên khám phá ra rằng đó là một cách thức độc đáo để chia sẻ mục tiêu của Đức Giêsu Nazarét. Họ cảm thấy cái hấp lực của một biến cố vĩ đại đã thay đổi lịch sử của con người : đó là việc Thiên Chúa nhập thể nơi Người Giêsu. Sự viên mãn của nhân tính Ngài, việc Ngài là tôi tớ của con người đưa sinh động viên tới xác tín rằng đối với họ mỗi thực tại con người đều là dung mạo của các thần linh. Đào sâu vào bên trong màu nhiệm Chúa Kitô đến độ cảm nhận Ngài như là sự gần gũi tuyệt đối của Thiên Chúa cho mỗi con người, dẫn sinh động viên tới một niềm tôn trọng sâu xa đối với tất cả cái gì là của con người, và khi sống niềm tôn trọng đó, họ học sống một cách ngày càng phong phú hơn với chính bản thân mình, với các bạn trẻ và với cộng thể giáo dục.
  • Ở một bình diện sâu xa hơn nữa, sinh động viên cảm thấy và sống hoạt động giáo dục của mình như một thôi thúc canh tân cận căn hiện hữu của mình, như là một lời mời gọi tới một phong thái cuộc sống mới. Điều ấy có nghĩa là họ liên tục tái suy nghĩ lại cuộc sống của họ trong ánh sáng. Tin Mừng và mục tiêu Nước Thiên Chúa. Hoạt động giáo dục, như là một dữ kiện thiêng liêng, đưa sinh động viên tái khơi động lại « sức vươn » của họ tới sự viên mãn của cuộc sống ; đặt tất cả các sức lực của họ triệt để phục vụ cho sự tăng trưởng của họ ở trong thế giới ; giúp họ tìm được khoảng không để thể hiện sự hiệp thông của họ cùng Thiên Chúa trong thinh lặng, trong cầu nguyện cá nhân, trong cử hành Thánh Thể và Bí tích Hòa giải ; cảm thấy mình tham dự cách sinh động vào kinh nghiệm Hội Thánh ở bên trong cộng thể giáo dục của mình.
  • Cả ba tiến trình nêu ra ở trên như con đường đào luyện trường kỳ của sinh động viên theo phong thái Salêdiêng tác động trên nhau và bổ sung lẫn nhau

Nhờ vậy, họ liên tục tái xác định dung mạo riêng của họ để ngày càng thêm gần gũi với người trẻ và càng có khả năng sống tinh thần Salêdiêng

  • Sinh động viên và các nhóm trẻ

Không thể hiểu thấu đáo chân tính sinh động viên Salêdiêng nếu ta chưa nhận xét về loại nhóm mà họ phục vụ xuyên qua hoạt động giáo dục của mình. Các nhóm này làm phong phú cho diện mạo sinh động viên, giúp họ cơ cấu cho đời sống của mình một cách độc đáo.

Việc tiếp nhận và tận dụng tất cả mọi nhóm

Sinh động viên Salêdiêng có một giấc mơ lớn, bén rễ nơi đức ái mục tử : đó là cho phép tất cả mọi bạn trẻ, nhất là các bạn nghèo khổ hơn, được thực hiện một kinh nghiệm nhóm trong quãng đời thiếu niên và thanh niên của họ, khi mà họ hoàn thành những chọn lựa lớn của cuộc sống.

Họ biết tìm những cách thức cụ thể để tạo nhóm cùng với các bạn trẻ này, những người chẳng có mấy động cơ thúc đẩy và, có lẽ bởi vì họ chẳng có mấy các vấn nạn về cuộc sống và nghèo về các kinh nghiệm liên kết nhóm, nên họ chẳng cảm thấy có nhu cầu nhóm.

Họ ý thức rằng đào luyện các bạn trẻ nghèo, bắt đầu với một ước vọng làm thành nhóm, cho dù ước vọng đó còn ở trong vô thức : ước vọng đó chính là được thoát ra khỏi nỗi cô độc của riêng mình, để mở bản thân ra cho thế giới bao quanh. Đây chính là yêu cầu giáo dục.

Yếu tố tối thiểu một người trẻ cần có để tham dự và một nhóm theo phong cách Salêdiêng chính là yêu cầu giáo dục này được ngầm hiểu ở cái khát vọng làm thành nhóm, không đòi hỏi là nhóm hay các cá nhân, phải biểu hiện một mối quan tâm chuyên biệt, có ý muốn cống hiến một việc phục vụ xã hội hay Giáo hội nào đó, cũng không đòi hỏi ngay từ đầu, họ phải đồng chia sẻ cách minh  nhiên đức tin Kitô giáo.

Rất có thể là dọc theo hành trình sinh động hóa các nhóm lại có được ý thức rằng yêu cầu giáo dục của họ đồng lúc là yêu cầu tôn giáo và đáp lại yêu cầu này, ta có thể đáp ứng bằng cách chuyển đổi sự khai mở tiên khởi với tha nhân thành một sự đối diện với các đề nghị của văn hóa và của niềm tin ở trong môi trường.

Sự chọn lựa đặc trưng Salêdiêng nhằm cống hiến cho tất cả các bạn trẻ kinh nghiệm giáo dục của nhóm đưa ta tới chỗ khẳng định rằng đối với sinh động viên theo phong cách Salêdiêng, tất cả các nhóm đều có thể có giá trị đào luyện, tất cả các nhóm đều được coi là nơi giáo dục sống truyền tin, cho dù nhóm có được tạo nên do bởi bất cứ mối quan tâm nào đi nữa.

Sẵn lòng để tiếp xúc với bất kỳ nhóm nào là một nét nhấn mạnh đến tính có thể thích nghi và niềm tin tưởng vào các người trẻ, đến sức sáng tạo của sinh động viên Salêdiêng là người dám tiếp nhận bất cứ điểm xuất phát nào miễn là được đồng hành với các bạn trẻ trên hành trình dẫn đến khám phá ra Thiên Chúa của Đức Kitô.

Những nhóm trẻ khác nhau

Sự rộng mở cho tất cả các bạn trẻ và coi nhóm như là một « yêu cầu giáo dục » là mẫu số chung tối thiểu phải có, và cho phép các môi trường Salêdiêng tiếp nhận và khai sinh ra vô số các nhóm khác nhau.

Không dám thực hiện một việc phân loại các nhóm khác nhau này, chúng ta chỉ muốn nhấn mạnh một vài yếu  tố xác định nên nhóm, trong khi ý thức được rằng ; sự khác biệt, sự tự lập và những hành trình khác nhau của mỗi nhóm đòi hỏi một dung mạo sinh động viên độc đáo.

Có những nhóm quy tụ lại xoay quanh nhu cầu « ở lại với nhau ». Đó là những nhóm của tình bạn, của đối thoại bộc phát và của trò chơi, của việc đối chiếu đức tin. Ở bên trong nhóm, người ta thảo luận cùng nhau, người ta cầu nguyện và suy gẫm lời Chúa, để rồi lại trở về với các bổn phận hằng ngày. Trong các nhóm này, không thiếu « những chuyện phải làm » ; nhưng các nhóm được tổ chức xoay quanh sự suy tư hay sự trao đổi của các kinh nghiệm khác.

Có những nhóm khác tập trung vào « nhiệm vụ », vào việc làm với nhau.  Ở tâm điểm của chúng, không phải là nhu cầu của tình bạn hữu, cho dù là tình bạn hữu quả có hiệu nghiệm, mà là nhu cầu thể hiện bản thân, xuyên qua thực hiện một hành động nào đó.

Ở bên trong các nhóm tập trung vào nhiệm vụ, ta còn có thể thiết định các yếu tố khác nữa để phân chúng thành các loại nhóm khác nhau : nhóm thì tập trung vào một sở thích được xác định rõ, nhóm khác thì tập trung vào một sự tình nguyện.

Các nhóm của sở thích được thiết lập xoay quanh thể thao, âm nhạc, du lịch, hay việc chuyển đạt cho nhau những giá trị của đức tin. Các nhóm tình nguyện quy tụ lại vì mục đích của tha nhân, theo đáp ứng các nhu cầu khác nhau : giúp trẻ nghèo hay trẻ bé bỏng, người già hay người tàn tật, tất cả những ai đang kêu cầu một đời sống xứng đáng hơn.

Ba lãnh vực tác động lẫn lên nhau giữa các nhóm

Các nhóm quy tụ lại theo các cách thức và những sở thích đa diện và ở trong các môi trường khác nhau, chúng không loại bỏ lẫn nhau, trái lại còn nại tới nhau và tác động lẫn trên nhau bằng nhiều cách.

  • Lãnh vực thứ nhất trong đó các nhóm quy tụ lại và gắn kết với nhau là cộng thể giáo dục (nguyện xá, trung tâm trẻ, trường học). Các nhóm khác nhau tìm thấy nơi môi trường giáo dục khả thể tham dự và đối thoại, và cảm nghiệm được điểm gặp gỡ và đồng quy với nhau nơi việc lập, thực hiện và kiểm nhận kế hoạch giáo dục mục vụ.

Tất cả các nhóm, bất kể tên gọi và mục tiêu của nó, đều tác động lẫn trên nhau để làm giầu cho nhau và tạo nên bầu khí sinh động về văn hóa và mang tính tích cực dấn thân Kitô hữu.

  • Môi trường thứ hai quy tụ thành nhóm là lãnh thổ hay Hội Thánh địa phương hiểu theo nghĩa rộng ( bối cảnh xã hội – văn hóa, địa bàn của giáo xứ, giáo phận…)

Tất cả mọi nhóm, bất kể đâu là mối quan tâm hàng đầu của chúng, đều cảm thấy tham gia vào các nỗ lực của cộng đồng nhân loại và Kitô hữu nhằm đương đầu với các vấn đề xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của địa bàn. Tuy có những hình thức phục vụ chuyên biệt và khác nhau, các nhóm đều biết tìm được những thời điểm để đối chiếu và các tiêu chuẩn chung, để kiểm nghiệm xem chúng tác động vào cộng đồng như thế nào.

  • Môi trường thứ ba trong đó các nhóm quy tụ lại là các hội đoàn ở cấp quốc gia và quốc tế. Một số các hội đoàn này phát triển trong các môi trường Salêdiêng, số khác bắt nguồn và biểu hiện tại các bối cảnh rộng lớn hơn của xã hội dân sự hay của Hội thánh. Trong các yếu tố tạo nên sự nối kết của các nhóm trên quy mô rộng lớn phải kể đến : các mục tiêu chuyên biệt thuộc loại xã hội, văn hóa và tôn giáo ; các tổ chức lớn rộng với các cấu trúc khác nhau giữ vai trò nâng đỡ ; khả năng trung gian và đại diện tại những phương tiện chính trị hay những đề nghị xã hội

Một điểm quy chế chung : linh đạo Salêdiêng

Các nhóm và các hội đoàn, dù vẫn duy trì sự tự lập về tổ chức và sự độc lập hành động, nhưng nếu mang diện mạo của linh đạo Salêdiêng và của phương pháp Salêdiêng, thì đều chung sức tạo thành Phong trào giới trẻ Salêdiêng.

Hai yếu tố xác định nên phong trào này là : sự quy chiếu  về linh đạo chung và phong cách thông tri giữa các nhóm.

  • Sự quy chiếu về linh đạo Giới trẻ Salêdiêng. Các nhóm sống các giá trị của linh đạo này ở các bình diện khác nhau, nhưng khi nhìn nhận các giá trị đó là của mình, thì đã thực sự làm cho nên giống nhau, đến mức có thể nói lên cùng một ngôn ngữ, vượt lên trên cái khác biệt của các kinh nghiệm cụ thể.

Do sự quy chiếu này các nhóm sau đây làm thành Phong trào Salêdiêng

  • Các nhóm và các hội phát triển tại các môi trường giáo dục của chúng ta.
  • Các nhóm do các Salêdiêng sinh động hóa tại các môi trường khác nhau của mục vụ Hội Thánh;
  • Các nhóm mang lấy các yếu tố nền tảng của phong cách Don Bosco, bởi vì chúng coi các yếu tố ấy như là cái làm phong phú cho đường nét linh đạo và đào luyện chuyên biệt của mình.

Vậy phong trào giới trẻ Salêdiêng là một thực tại rộng mở, liên kết rất nhiều các bạn trẻ ; kể từ những người ở thực xa, mà đối với họ linh đạo Salêdiêng chỉ là một sự quy chiếu vừa mới khai mầm và họ chỉ mới đơn thuần nhận thấy được rằng họ cảm thấy dễ chịu trong bầu khí Salêdiêng, cho tới các nhóm đã đảm nhận lấy đề nghị và sự dấn thân tông đồ Salêdiêng làm của mình một cách toàn diện, minh nhiên và có ý thức. Hiển nhiên là một phong trào mở rộng như thế phải kiến tạo phẩm chất cho mình xét trên quan điểm giáo dục. Quả vậy, phong trào phải được xác định bởi việc phục vụ những người trẻ nghèo nàn hơn cả, những người vừa chỉ mới bắt đầu hành trình thôi và dần dần mới mở lòng ra cho yêu cầu tôn giáo ; đồng thời phong trào phải bảo đảm các cơ hội tăng trưởng và chín muồi cá nhân cho các bạn trẻ đã thực hiện được một sự chọn lựa rõ nét về đức tin và việc phục vụ, bằng cách làm cho họ ngày càng nên men giữa các bạn trẻ khác.

  • Sự thông tri giữa các nhóm. Thực tại của phong trào, không nhấn mạnh đến cái tổ chức nghiêm khắc của nó, được thiết lập dựa vào sự thông tri giữa các nhóm, cho dẫu là xét thấy cần phải có một cơ cấu tối thiểu để thực hiện một sự phối hợp và đảm bảo sự lưu thông các sứ điệp và các giá trị.
  • Như vậy phong trào trở thành một môi trường khá chính xác trong đó khơi động các tiến trình thông tri. Các nhóm và các sinh động viên, với tất cả sự tự do đề ra các sáng kiến, tìm thấy các con đường thích hợp để khởi xướng và tổ chức các thời điểm gặp gỡ và đối chiếu. Trong khi họ khao khát và khám phá ra cái ý nghĩa ngày càng thêm sâu đậm của việc mình thuộc về phong trào to lớn này, họ tạo nên các kênh thông tin và liên lạc có khả năng nối kết các kinh nghiệm khác nhau, mở rộng sự đối thoại và phát huy sự tham gia. Mỗi nhóm đáp ứng các lời mời gọi, cảm thấy mình là thành phần sinh động, là tiếng nói kêu xin và đón nhận, là dấu chỉ của một thực tại đang tăng trưởng qua sự cống hiến có trách nhiệm của tất cả mọi người.

Được quan niệm như vậy, phong trào giới trẻ Salêdiêng không phải là một sáng kiến dành cho các bạn trẻ được nghĩ ra và điều hành bởi các người lớn. Phong trào này là của các bạn trẻ. Nó diễn đạt các chờ trông của các bạn trẻ, tạo thành điểm quy chiếu của họ, sử dụng các ngôn từ của họ trong các cuộc « hẹn gặp nhau » tạo nên nhịp sống của họ.

Chân trời trong đó tiến hành Phong trào giới trẻ Salêdiêng là trách nhiệm đào tạo « các Kitô hữu tốt và các  công dân lương thiện, các tông đồ của các bạn trẻ » theo như các khả thể của mỗi người. Nó là khía cạnh trẻ của một phong trào rộng lớn nhìn về Don Bosco và Mẹ Mazzarello để làm tái sinh lại ngày hôm nay nền linh đạo của các ngài

Sinh động viên Salêdiêng : một chân tính khó khăn.

Tấm vải dệt bằng sự đa diện, sự tự lập và các điểm đối chiếu chung này cho thấy không những chỉ có những nhiệm vụ khác biệt, mà còn cho thấy cả một dung mạo cá biệt của sinh động viên. Không những họ không theo đi theo  một thủ bản, hay suy nghĩ về công việc của họ như là một sự áp dụng các khung có sẵn, nhưng nhất là họ tự sắp xếp sao để mà có thể sáng tạo nên công việc của họ khởi sự từ khả năng họ chinh phục được. Mỗi nhóm là một tổng thể độc đáo. Chỉ có sự tự do nội tâm của sinh động viên, được nuôi dưỡng bởi khả năng chuyên môn và đam mê giáo dục, mới có thể tận dụng sự độc đáo này.

Có lẽ cái chuyên biệt của sinh động viên

Salêdiêng là ở chỗ không có thể vạch ra một cách rõ ràng và xác định dung mạo của mình được, và họ buộc phải tái tìm lại các nét đặc sắc của mình bằng cách liên tục tái diễn tả chân tính Salêdiêng của mình ở trong nhóm mà mình thi hành trách vụ sinh động hóa.

Không chỉ có một cách độc nhất để làm sinh động viên. Trong lòng con sông linh đạo và giáo dục vừa được phác họa, có thể có và buộc phải có sự sáng tạo, trí tưởng tượng, sự mềm dẻo, của tư duy và hành động.

Là sinh động viên có nghĩa là biết diễn vai trò của mình, và còn hơn thế, biết chấp nhận là mình được gọi để liên tục sáng tạo nên kinh nghiệm cuộc sống con người Kitô hữu và Salêdiêng của riêng mình.

3

Nhóm : chủ thể và nơi của việc sinh động hóa

 

Vẽ……..

 

Nhóm : chủ thể và nơi chốn của việc sinh động hóa

Để hiểu vai trò và nhiệm vụ của sinh động viên, cần thiết phải trực diện với câu hỏi tiên quyết sau đây : sinh động hóa một nhóm có nghĩa là gì ?

Việc sinh động hóa không được cống hiến bởi sức sinh động hay bởi sự bộc trực, cũng chẳng phải bầu khí bạn hữu, hay bởi sự gia tăng của các hoạt động. Những điều này là cần thiết, nhưng tự bản thân, chúng không phải là việc sinh động hóa.

Một nhóm được sinh động hóa khi các tiến trình của nó được phong phú hóa bởi một phẩm chất cá biệt được thêm vào làm biến đổi mọi sự từ bên trong. Ta có thể tổng hợp về phẩm chất này khi nói nhóm trở thành tác nhân chính của các tiến trình liên quan đến nó.

Điều ấy được đảm bảo bởi ba yếu tố tác động lẫn trên nhau :

  • Nhóm được coi là chủ thể đào luyện ;
  • Phải dùng phương pháp nhóm trong các tiến trình đào luyện ;
  • Một sinh động viên, với vai trò và các nhiệm vụ chuyên biệt, khởi động ở bên trong nhóm một hành trình tăng trưởng đặc biệt
  • Nhóm : chủ thể của việc đào luyện

Một nhóm trẻ được sinh động hóa khi nhóm có ý thức về việc đào luyện được đề nghị cho mình và tham gia một cách sáng tạo vào việc hình thành các mục tiêu giáo dục có liên quan đến nhóm và vào các hoạt động để đạt tới các mục tiêu này.

Điều ấy đòi phải có mặt một số đường nét phát triển, ít nhất như là khuynh hướng, ở ngay giờ phút đầu tiên khi nhóm phát sinh, và nhóm phải đảm nhận lấy một cách minh nhiên và ý thức dọc theo hành trình giáo dục. Chúng ta hãy thử phác họa chúng ra.

Một chủ thể thống nhất và ăn khớp.

Con người ta trước hết quy tụ lại, gặp gỡ nhau để chiến thắng nỗi cô đơn hay rút tỉa ra một lợi ích cá nhân, từ đấy chúng ta bàn tới một chủ thể được nên thống nhất nhờ các sợi giây tình thương gắn kết các phần tử của nhóm

Sau đây là những khó khăn để đến được với sự thống nhất này :

  • Việc tôn thờ thái quá sự tự lập, ngăn cản từng cá nhân cảm nghiệm được rằng thuộc về nhóm là chuyện có ý nghĩa :
  • Sự lệ thuộc hoàn toàn vào nhóm, và nhóm đưa các cá nhân tới chỗ bị lợi dụng, cho tới độ mất hết khả năng cống hiến những đóng góp và đảm nhận lấy các trách nhiệm ở trong đời sống chung.

Một chủ thể có ý thức và có phê phán

Vậy phải giúp sống nhóm như là một kinh nghiệm quyết định, dù không phải là kinh nghiệm duy nhất, để đào tạo một tâm trạng chín chắn và có trước có sau. Nhóm ngay từ đầu dù là một cách ngầm hiểu đi nữa, đã tự đề ra cho mình phải tiếp thu cách có phê phán cái gia sản văn hóa và tôn giáo của các thế hệ đi trước và giúp các thành viên của mình đích thân trả lời cho ý nghĩa của cuộc sống, phản ứng lại với những thách đố mà ngày này qua ngày khác nhóm gặp phải : đó là một nhóm được sinh động hóa.

Người ta chỉ dần dần mới ý thức được về tiến trình này, nhưng cái ý thức ấy có tính quyết định, bởi như hạt giống, nó đã có mặt ngay từ giờ phút đầu tiên của việc « ở với nhau ». Dọc theo các giai đoạn phát triển, nhóm làm chín muồi một tư thế ngày càng có ý thức, có phê phán và tích cực hơn :

  • Đối với các tiến trình đào luyện được tiến hành trong lòng nhóm và ở tại môi trường giáo dục ;
  • Đối với các đề nghị tổng quát được sống tại môi trường xã hội, văn hóa và Hội thánh.
  • Ý thức, việc tham gia và sự kiểm soát các tiến trình đào luyện là những điều người trẻ chỉ chinh phục cách tiệm tiến ; họ sẽ có thể đạt đến với sự dễ dàng hơn nếu họ được khích lệ bởi môi trường giáo dục và cách riêng bởi sinh động viên.

Một chủ thể hài hòa giữa « việc ở với nhau »và « việc  dấn thân trách nhiệm vì… »

Đàng khác còn phải làm cho ăn khớp cuộc sống của nhóm để  hòa hợp giữa khả năng và niềm vui ở với nhau với khả năng và niềm vui nỗ lực dấn thân trách nhiệm vì…, trong khi biết được rằng qua hai cách thức này, việc đào luyện được thể hiện

Sẽ không có sinh động hóa khi mà cuộc sống ở với nhau, tình bạn và tình liên đới cùng nhau lấn át sự dấn thân trách nhiệm, tức là lấn át việc thực hiện hoạt động nhằm đạt tới sự thiện. Cũng thế, sẽ không có việc sinh động hóa khi chỉ có những cuộc gặp gỡ nhằm diễn tả một điều mình mong ước, hay để thi hành một việc phục vụ mà không tạo đủ khoảng không cho các tương giao cá vị và cho tình bạn hữu.

Vượt ra khỏi mức khởi điểm, nhóm sẽ phát triển hai bình diện trên, tiếp thu làm của mình bình diện này nhờ ánh sáng của bình diện kia, trong một sự chín muồi chậm rãi và tiệm tiến, nhóm lớn lên xuyên qua kinh nghiệm phức tạp của việc làm nhóm.

  • Phương pháp đào luyện nhóm

Nhóm được sinh động hóa khi theo đuổi việc đào luyện của các phần tử của mình xuyên qua phương pháp nhóm. Phương pháp là cách thức tổ chức các nguồn tiềm năng và các việc can thiệp nhằm đạt tới các mục tiêu giáo dục, khi nhóm có được ý thức và tham gia vào công việc trên. Đây là một công việc tổ chức hợp lý, có cơ cấu, có sự mạch lạc. Thành ngữ phương pháp nhóm có thể che dấu các ý nghĩa không rõ ràng, hiểu được thế này, thế khác, mà ta cần phải làm sáng tỏ. Ta không áp dụng phương pháp « nhóm » khi việc đào luyện :

  • xẩy ra ở bên cạnh, song hành với kinh nghiệm mà nhóm đang sống ;
  • Được giảm thiểu vào một số thời điểm, một số hoạt động mà thôi ;
  • Chỉ được gán cho những thời điểm trong đó sinh động viên đề nghị những nội dung văn hóa hay tôn giáo và trái lại người ta lại chối bỏ giá trị giáo dục cho những sáng kiến đến từ dưới, gắn liền với những lợi ích và những quan tâm cá nhân.
  • Một cách tích cực phương pháp nhóm mang một số nét đặc sắc làm nổi bật lên một lần nữa rằng nhóm là chủ thể, chứ không chỉ là một phương tiện của công việc giáo dục.

Nghị lực giáo dục của nhóm

Đặc điểm thứ nhất chính là việc sử dụng nghị lực của nhóm dưới hình thức giáo dục.

Việc các cá nhân tác động lẫn trên nhau trong nhóm làm phát sinh các nghị lực làm tăng bội cái thông thường được cá nhân sử dụng đến để xây dựng chính bản thân mình : các sợi dây liên kết yêu thương, sự đối lập và sự đối chiếu, các mục tiêu chung, các tình cảm thuộc về, tất cả những cái đó thúc đẩy mỗi người dấn thân làm thay đổi chính bản thân mình, kẻ khác, xã hội và Hội thánh.

Vậy cần thiết phải tạo nên bối cảnh liên kết trong đó cá nhân cảm thấy mình ở mức độ được tiếp nhận và được củng cố như là nhân vị, khiến họ đem vào bàn thảo luận cái cách thức họ suy nghĩ và hành động, nhìn nhận những khả năng và giới hạn của mình, tiếp nhận chính mình và người khác, tôn trọng sự khác biệt và sự tự lập.

Đồng thời mỗi người sẽ tiếp xúc với các đề nghị văn hóa và tôn giáo của môi trường, học để tái cơ cấu bậc thang các giá trị và tái đề ra kế hoạch cho cuộc sống riêng của mình.

Ta sẽ hiểu được cái độc đáo của phương pháp nhóm nếu người ta nhìn vào các cách thức tiến hành khác trong đó người ta chỉ tập chú chủ yếu vào sự nặng ký của các nội dung và sức thuyết phục, hay vào cái sức thu hút đặc sủng của một lãnh tụ, còn đối với sự đối chiếu, việc đồng chia sẻ, việc cùng nhau hình thành ra các giá trị, người ta chỉ dành cho một tầm quan trọng thứ yếu.

Nhóm : Phòng thí nghiệm của cuộc sống

Một khi đã nhìn nhận các nghị lực đặc trưng của nhóm mang tính giáo dục, ta phải lo sao biến nhóm thành « phòng thí nghiệm » của cuộc sống xã hội và Hội Thánh rộng lớn hơn

Nhóm tái sản sinh, trong một môi sinh đơn giản hơn xét về mặt tổ chức và dễ dàng « kiểm soát hơn,  cái thế giới xã hội và Hội thánh rộng lớn trong đó người trẻ gặp nguy cơ bị phân tán bản thân và không thể tham gia cách tích cực. Nhóm muốn là một phòng thí nghiệm nhỏ trong đó con người thao luyện mình để sống như những con người và Kitô hữu, thiết lập các mối dây liên hệ và thi hành các hoạt động trong đó họ là tác nhân chính đề ra những đề nghị, chứ không thuần túy chỉ là kẻ thụ hưởng tiếp nhận những sản phẩm văn hóa hay tôn giáo.

Phương pháp nhóm không tách rời khỏi xã hội hay Hội thánh, nhưng liên kết lại với nhau các tiến trình xẩy ra trong xã hội và trong Hội thánh, cho dù ở mức độ nhỏ thôi.

Nhóm cũng tái sản sinh số đông những con người của Xã hội và của Hội thánh, với sự khác biệt của họ ; nhóm cũng đã tìm cuộc chung sống phản ánh được tính tự lập của mỗi người và sự liên đới tất cả, không những trong tình bạn hữu, mà còn để hưởng dùng, chia sẻ và phát huy các giá trị chung.

Nhóm còn tái sản sinh cơ cấu « xã hội » của xã hội và của Hội thánh, cho người ta cảm nhiệm rằng việc tôn trọng các luật lệ – cũng như việc chấp nhận các giới hạn được đặt ra cho sự tự do – là một sự phong phú hóa cho mọi người.

Nhóm cũng tái sản sinh mối tương quan khó khăn những chủ yếu của từng người, với quyền bính và các sự hiện thân khác nhau của quyền bính.

Nhóm là nơi huấn luyện một sự vâng lời có phê phán và có tính xây dựng, không vụ theo sự rập khuôn và lệ thuộc, qua đó lương tâm của mỗi người vâng theo quyền bính và những cái hiện thân cho quyền bính.

Được xây dựng thành « phòng thí nghiệm nhỏ », nhóm giúp làm chín muồi một mối tương quan có phê phán và tích cực với xã hội, giúp đối thoại và kiểm soát các tiến trình văn hóa. Trong rất nhiều trường hợp, nhóm đi tới mức trở thành đối trọng (lực làm cân bằng) chống lại những áp lực thái quá của xã hội đối với các người trẻ. Nhóm thanh lọc cách có phê phán các sứ điệp và nhất là củng cố các « chất kháng thể » để giúp con người thoát khỏi mọi hình thức rập khuôn.

Việc học tập bằng kinh nghiệm

Thế là ta có được một nét khác nữa của phương pháp nhóm : việc học tập bằng kinh nghiệm.

Thành ngữ « học tập bằng kinh nghiệm » này liên hệ tới ba đặc điểm :

  • Tiến hành bằng kinh nghiệm nhóm
  • Học bằng việc suy xét có phê phán về các kinh nghiệm
  • Tận dụng « các nội dung » văn hóa và tôn giáo tìm thấy trong kinh nghiệm hay phát sinh từ kinh nghiệm.
  • Tiến hành từ kinh nghiệm nhóm không nhắm nhiều đến thi hành các hoạt động hay ho, mà là đến biến chúng thành một kinh nghiệm cộng tác tích cực và có phê phán giữa tất cả các thành viên của nhóm, bằng cách tận dụng khả năng chuyên môn của từng người . Làm việc với nhau cho phép đạt tới bình diện sâu xa của việc làm nhóm. Không chỉ cái được làm mang lấy tính cách đào luyện, mà còn cả đến việc nó đã được làm như thế nào nữa. Ý thức nhóm phát sinh từ đó tạo nên sự thông hiệp tình yêu thương và các giá trị, mở ra các chân trời ý nghĩa mà một mình cá nhân không thể nào đạt tới được.
  • Học bằng việc suy xét một cách có phê phán trên các kinh nghiệm : đó là việc tiếp thu, biện phân và tự quyết định khi đứng trước các sứ điệp mà các kinh nghiệm ấy chứa ẩn ở bên trong. Điều này đòi hỏi các thời khắc suy nghĩ, trong đó mỗi người thi hành khả năng trực giác và trí hiểu, để sứ điệp của kinh nghiệm trở thành gia sản của nhóm và của từng người một cách có ý thức. Trong một xã hội cống hiến nhiều khả thể, các thanh thiếu niên có thể cho phép mình thực hiện nhiều kinh nghiệm có tính nhất thời, bao gồm cả các kinh nghiệm họp nhóm, tôn giáo, chí nguyện. Thường, họ đã « tiêu thụ » nhiều kinh nghiệm. Các sinh động viên có khi kinh ngạc bởi sự kiện là sau một hoạt động đào luyện, các người trẻ không nói lên được các xác tín hay các lý tưởng xứng tầm mức, cho dù họ rất sung sướng nhắc đến kinh nghiệm đã trải qua : nhưng đó chính là một hậu quả lô-gích của việc tiêu thụ « các cái mới » một cách không có phê phán.
  • Việc tận dụng các nội dung văn hóa và tôn giáo được đề nghị để đưa người trẻ đến một tổng hợp cá vị, bao gồm việc đừng để trôi qua hay đơn thuần trao phó cho họ cái mà kinh nghiệm làm nẩy sinh, mà còn phải giúp họ hình thành và hòa nhập vào trong cuộc sống của họ những ý tưởng, những điều họ đã chinh phục được, những cách sống.

Việc sinh động hóa không cống hiến những nội dung nằm cạnh bên kinh nghiệm, trái lại nó cống hiến các nội dung được hội nhập ở trong một kinh nghiệm : nó mời gọi nhóm hãy khởi sự từ các chờ trông và các trực giác của mình, để khám phá và tìm kiếm những giá trị còn dấu ẩn.

Như vậy các nội dung có thể được học biết một cách cụ thể, bởi biết rằng một đàng kinh nghiệm chuyển giao những giá trị ở trong thể nẩy mầm và biến chúng thành hấp dẫn ; đàng khác cũng cần có các thời điểm để sắp xếp lại các nội dung một cách có suy tính.

Việc học hỏi qua tìm tòi

Phương pháp nhóm còn gọi là « học hỏi qua tìm tòi ». Phương pháp tìm tòi đối lại với một nền đào luyện chuyển giao bằng miệng các chân lý đã làm sẵn. Nhưng nó cũng đối nghịch với giả thiết cho rằng cá nhân cần phải được để mặc cho sự hoạt động tự do và bộc phát của nó, nhất là khi liên can đến các chân lý và các giá trị lớn.

Sự tìm kiếm là con đường ăn khớp trong đó có thể phác họa lại các giai đoạn khác nhau. Toàn thể các giai đoạn này được biện minh dựa vào nguyên tắc cho rằng các nội dung phải được đề nghị một cách có ý nghĩa đối với chủ thể, bằng một cách thức sao cho chủ thể có thể tiếp xúc được với hành trình nhân bản và đức tin mà mình đang dấn bước.

Đây là một vài giai đoạn của việc tìm kiếm mà ta có thể kể rõ ra..

  • Khơi dậy các câu hỏi ngầm chứa trong cuộc sống của người trẻ. Do đó cần sự đồng chia sẻ hằng ngày với các người trẻ, bằng sự lượng định những quan tâm của họ, trực giác ra những trông chờ của họ, phân biệt ra những trông chờ hời hợt và những trông chờ sâu xa, những nỗi trông chờ do hoàn cảnh tạo nên, và những trông chờ có ở nơi chủ thể.

Điều này buộc sinh động viên phải nỗ lực giúp cho các người trẻ diễn tả bằng lời nói của mình và nêu đích danh các vấn đề, các câu hỏi còn mơ hồ, những nỗi khó chịu…

  • Chọn ra những nội dung văn hóa và tôn giáo. Giữa biết bao sứ điệp trong tầm tay, ta phải phát hiện ra những tài năng to lớn nói với trí lòng người trẻ, giống như một câu trả lời đầy thách thức cho những chờ trông và những câu hỏi của họ. Bởi thế cần phải chú tâm lo sao để điều mình đề nghị có sức soi sáng và có khả thể được hấp thụ. Bởi đó, cần phải có một sự hiểu biết sâu xa về các gút điểm nhậy cảm nhất là nơi giao liên và quy tụ về của biết bao sứ điệp.
  • Đề ra những nội dung văn hóa và tôn giáo không phải như là các công thức phải nhận hay từ chối, mà như là những nẻo đường hướng dẫn cuộc tìm kiếm của cá nhân và của nhóm. Tâm điểm của việc tìm kiếm là nỗ lực tìm ra sự hòa hợp giữa các câu hỏi và nội dung. Tiến trình này đi theo đường vòng tròn : từ các câu hỏi sang các đề nghị, rồi lại từ các đề nghị chuyển sang các câu hỏi. Các câu hỏi và các đề nghị soi sáng lẫn cho nhau qua một công việc kiên trì và có phê phán, chấp nhận sự có mặt của hoài nghi và đối chiếu kiên trì giữa những chờ trông và những đề nghị.
  • Tái xác định các nội dung một cách sáng tạo, và do đấy, tái nhắc nhở đến chúng bằng ngôn ngữ đặc trưng của nhóm. Chỉ có như thế các nội dung mới có thể trở thành một phần của gia sản văn hóa và tôn giáo riêng. Đàng khác cũng cần tìm ra các áp dụng có thể được của nội dung mới vào cuộc sống của cá nhân và cộng thể, cũng như của Giáo hội và xã hội. Chúng trở thành khởi điểm của một hoạt động mới, của một cách sống mới, của những dấn thân mới ở trong nhóm và ngoài nhóm.

Học tập một phương pháp hoạt động

Sau cùng phương pháp của nhóm cũng bao gồm một sự thí nghiệm và củng cố một phương pháp hành động đặc biệt để áp dụng trong đời sống xã hội và Giáo hội cũng như cho nội bộ của chính bản thân nhóm. Phương pháp hành động ở đây có ý nói đến một tiến trình của lý trí, được chứng nghiệm đầy đủ, nhằm can thiệp cách cụ thể vào mỗi hoàn cảnh đang yêu cầu khả năng  tự tổ chức, nhất là khi mục tiêu nhắm đến tạo ra một sự thay đổi.

Tiến trình này tiên liệu vài thời điểm mà nhóm phải học áp dụng xuyên qua một việc thực hành liên tục.

  • Phân tích và chẩn đoán. Đứng trước một hoàn cảnh, nhóm tìm cách để có được càng nhiều thông tin càng tốt, hầu có thể hiểu hoàn cảnh cách tương đối đầy đủ và khách quan. Từ phân tích, nhóm chuyển qua giải thích tổng thể xuyên qua một công việc chung cho tới khi tiếp thu được các vấn đề nền tảng và các nguyên do, các thách đố của nó, để đáp ứng.
  • Lượng định các dữ kiện do sự phân tích và chuẩn đoán cung cấp. Lượng định bao gồm việc nại tới các giá trị văn hóa và tôn giáo mà nhóm đã nhìn nhận là gia sản của mình, để soi sáng cho hoàn cảnh, thực hiện một phán quyết và mở những con đường mới cho tương lai. Các tiêu chuẩn lượng định như thế sẽ trở thành các tiêu chuẩn cho việc lên kế hoạch mới.
  • Việc lên một kế hoạch can thiệp có cơ cấu và hợp lý. Nhóm tiên liệu các mục tiêu phải đạt tới, các chiến thuật hay cách thức tổng quát để hoạt động mà mình phải theo, các sáng kiến cụ thể, việc tổ chức nhóm và phân chia các nhiệm vụ khi hoạt động, các giải pháp thay thế khi có những bất ngờ và thất bại, các chỉ dẫn để kiểm nhận xem các mục tiêu đã đạt được chưa.
  • Việc kiểm nhận một hoạt động đã hoàn thành cũng là thời điểm tái lập kế hoạch. Nhóm nên chín chắn nếu biết khách quan và có phê phán về các kết quả của mình, biết rút ra những bài học tích cực từ các sai lầm và các thất bại, biết tái làm lại với can đảm và tưởng tượng ra hành trình tiến lên phía trước, trong khi sử dụng kinh nghiệm đã làm và cố gắng đương đầu với các thách đố mới bằng phương pháp đã chinh phục được, hơn là chỉ nhắc lại quá khứ.
  • Sinh động viên : một người lớn nắm giữ vai trò chuyên biệt liên quan tới việc đào luyện của nhóm

Về sinh động viên, chúng ta đã nói tới trong chương trước, khi miêu tả dung mạo cá nhân, chỗ đứng của họ trong bối cảnh một cộng thể giáo dục, kế hoạch từ đó họ gợi hứng cho hành động của họ, cho sự chuyển động của các nhóm luôn nuôi dưỡng mình bằng các giá trị chung mà họ năng quy chiếu tới như là khuôn khổ cho hoạt động của họ.

Giờ đây chúng ta muốn nhấn mạnh tới vị trí mà sinh động viên có trong phương pháp nhóm, khi họ được coi như chủ thể đào luyện. Nhiệm vụ của họ có những lằn mức tương đối chính xác, nhưng cũng được dành cho một bên lề lớn cho sự tự do và sáng tạo. Sinh động viên tự giới thiệu cho các cá nhân cũng như cho nhóm như là một dung mạo đặc biệt.

Tương quan của sinh động viên với nhóm chứa những căng thẳng

Sinh động viên thiết lập với nhóm một mối liên hệ ghi đậm dấu của một số căng thẳng mà họ ý thức và vun trồng như là bí mật của các khả thể giáo dục của họ

  • Sự căng thẳng giữa khả năng đồng cảm và khoảng cách. Sinh động viên chứng tỏ sự tín nhiệm họ có với mỗi người trong sự tiếp nhận, trong ý muốn ở với các bạn trẻ ngay cả trong những giờ phút giải trí ; đồng thời họ duy trì một sự tự lập trong tương quan bằng hữu với từng cá nhân và với các tiểu nhóm. Họ là bạn của mỗi người, và đồng thời của mọi người. Họ là bạn của các người trẻ, nhưng không phải như cách của các người trẻ là bạn hữu với nhau. Họ duy trì được sự trung lập cho phép họ không là và cũng không lộ ra là một con người thu hút các con người khác vì mục đích riêng của mình ; đằng khác họ luôn luôn tự đặt mình như trung gian giữa các bạn trẻ và các giá trị.
  • Sự căng thẳng giữa việc chuyển đạt cái mà họ đã chinh phục được và sự tìm kiếm chung. Họ hé cho các bạn trẻ thấy cái thế giới đã từng có trước họ và cả cái sai lầm về văn hóa và tôn giáo mà họ muốn chia sẻ để giúp đỡ cho chúng. Đồng thời họ tỏ ra có nhu cầu phải lắng nghe chúng cách chăm chú và với sự tò mò muốn biết, họ xác tín rằng những trực giác của chúng sẽ làm phong phú cho mọi người.
  • Sự căng thẳng giữa uy quyền của sinh động viên có ý thức về sự bình đẳng. Họ đề nghị các giá trị mà họ tin tưởng và nại đến sự đáng tin cá nhân của mình để thúc đẩy kẻ khác cũng tin vào chính giá trị đó, dựa vào kinh nghiệm cuộc sống và việc phục vụ hiến không cho nhóm. Nhưng đồng thời họ cho lưu thông các thông tin với sự chân thật và không có sự hạn chế, khơi dậy sự đối thoại, tôn trọng sự độc đáo của mỗi người, để cho nhóm quyết định theo như năng động lực riêng của nhóm.
  • Sự căng thẳng giữa việc thi hành vai trò sinh động viên và tính cách cá biêt của họ. Như những chuyên viên kỹ thuật của nhóm, họ hành động theo các quy luật mà nhóm đã tiên liệu trước và họ là người phải làm cho mọi người tôn trọng các quy luật ấy ; họ không thiết lập tại nhóm các sức mạnh bất ngờ của các mối tương quan và các quyết định, cũng không dùng hệ thống che chở (paternalistico) : làm thế sẽ là phi giáo dục đối với các bạn trẻ.
  • Họ để cho mình được tiếp cận như những nhân vị và biết biểu lộ sức diễn tả của mình nơi trò chơi, nơi kinh nguyện, nơi đối thoại, trong các thời điểm trong đó họ biểu lộ niềm vui được ở các bạn trẻ.

Các cách thức giúp đỡ

Khả năng chuyên môn giáo dục của sinh động viên được các nhóm tiếp nhận khiến sinh động viên thi hành vai trò của mình bằng một vài cách  thế đặc trưng

  • Họ giúp tạo sự ý thức : nhóm có thực tại riêng của nó, có một bối cảnh hoạt động, có các khát vọng mà nó tìm cách đạt tới. Nó phải xác định các đợi chờ, nhận thức cách khách quan hoàn cảnh trong đó nó hoạt động nội tâm hóa kế hoạch thay vì « cho » các giải pháp hay « giải quyết » các vấn đề, sinh động viên giúp nhóm nhận ra bản thân nhóm, biết về mình có lấy ý thức, biết khám phá ra cái xẩy ra ở trong và ở ngoài bản thân nhóm.
  • Sinh động viên mở rộng chân trời của nhóm, qua việc cung cấp những thông tin, dựa vào kinh nghiệm cá nhân và vào văn hóa, một cách nào đó sinh động viên là nơi ký thác, dù không phải là độc nhất, của một truyền thống văn hóa. Họ cung cấp những thông tin và có khả năng chỉ ra nơi đâu có thể tìm ra các thông tin khác. Các thông tin nói đến các mối tương quan, đến cơ cấu, đến các hoài bão của nhóm, đến bối cảnh xã hội, văn hóa, đến các tiến trình cá nhân. Chúng có hai nhiệm vụ : giúp cho nhóm đào sâu điều nhóm đã ý thức được và thúc đẩy nhóm đi xa hơn nữa để có thêm hiểu biết về thực tại.
  • Sinh động viên dõi theo nhóm trong việc lấy quyết định. Chú tâm để khỏi thay thế cho nhóm, họ giúp nhóm lên tiếng trước các sự kiện. Họ cũng biết cho nhóm tái thảo luận các sự việc, khi các sự việc này không hòa hợp với ý muốn thâm sâu của nhóm, khi các lựa chọn được thực hiện vội vã, hay khi chúng lộ ra ngược với các chờ trông và các tuyên ngôn, khi chúng bị sách động bởi các áp lực hay bị tác động bởi các điều kiện ảnh hưởng nội tại và ngoại tại.
  • Sinh động viên nâng đỡ nhóm trong nỗ lực đi từ lời sang các sự việc, từ đối thoại sang hành động. Họ giúp cho sự phân công các nhiệm vụ, phối hợp các cuộc can thiệp, kiểm nghiệm lại công việc. Trong khi thi hành công việc này, sinh động viên phải vừa rất thông cảm, vừa đòi hỏi, luôn luôn kêu gọi hành động một cách có trách nhiệm.
  • Từ đấy cũng có thể phát sinh những giờ phút xung khắc, đau đớn, nhưng khi cần, sinh động viên biết kiên nhẫn nhìn nhận rằng các chuyện đã được quyết định là không thể thực hiện nổi. Trong trường hợp này họ giúp cho nhóm làm chín muồi các quyết định mới dựa vào những thông tin chính xác hơn.

Nhiệm vụ tổng quát và các bổn phận cá biệt của sinh động viên

Giờ đây, ta có thể xác định được vai trò tổng quát của sinh động viên và trong đó nêu ra những nhiệm vụ cá biệt..

Vai trò tổng quát của sinh động viên là đảm bảo, bằng sự có mặt và thẩm quyền chuyên môn của họ, cho sự duy nhất và cho phẩm chất của hành trình đào luyện của nhóm. Một nhóm được sinh động hóa cách thích đáng khi nhóm thành công đi qua một hành trình, trong đó dòng sự sống chuyển lưu của nhóm và các giai đoạn của một sự tăng trưởng nhân bản và đức tin hòa nhập vào nhau, thống nhất cùng nhau để tạo thành một hành trình duy nhất.

Từ từ, đi từ việc khởi sự quy tụ lúc ban đầu, nhóm tiến tới sự chín chắn của các mối tương quan, để rồi kết thúc khi chia tay, nhóm đã dần đi sâu được vào trong sự chín muồi văn hóa và vào trong suy tư của đức tin : nhóm đi từ sự trực diện đầu tiên với các chủ đề của cuộc sống, tới sự suy tư có hệ thống về đức tin và tới việc học tập về đời sống Kitô hữu, để triển nở thành quyết định ơn gọi.

Gắn kết với vai trò tổng quát này, là một số nhiệm vụ cần được nhấn mạnh cách riêng vì nó tác động tới sự phát triển của hành trình của nhóm.

  • Nhiệm vụ thứ nhất là giúp người trẻ trở thành nhóm, bằng cách phát triển một hệ thống tác động lẫn lên nhau cách hết sức tích cực đến mức có thể nói đến nhóm như một chủ thể giáo dục.
  • Nhiệm vụ thứ hai là làm trung gian giữa nhóm và môi trường giáo dục xã hội và Hội thánh, cổ xúy một sự trao đổi các kích thích và các kế hoạch để làm phong phú cho cuộc sống.
  • Nhiệm vụ thứ ba là giúp cho nhóm xây dựng một kế hoạch riêng để cảm nghiệm một phong thái sống mới và tạo khả năng cho mỗi cá nhân biết lập kế hoạch cho mình.
  • Nhiệm vụ thứ tư là giúp cho nhóm chăm lo tới sự trưởng thành hóa của từng người trong nhóm, cho tới khi khám phá ra được ơn gọi của mình trong xã hội và trong Hội thánh.

Những nhiệm vụ này sẽ đươc đào sâu trong những chương kế tiếp.

 

 

 

4

Nhiệm vụ tổng quát

Tiến trình sinh động hóa trong các nhóm trẻ

Vẽ…

Hành tình sinh động hóa trong các nhóm trẻ

Mỗi nhóm trẻ có chu kỳ đời sống với các giai đoạn của nó từ lúc khởi sinh cho tới lúc giải tán. Chu kỳ này có trước và độc lập khỏi mọi ý hướng giáo dục mục vụ. Nó có thể bị sao nhãng hay gắn kết với những mục tiêu thuộc loại khác ; ngay cả cho loại mục tiêu này, chu kỳ đời sống của nhóm cũng chứa đựng những mầm sống phong phú.

Đặc trưng của việc sinh động hóa là đem các mục của sự tăng trưởng văn hóa và tôn giáo tháp nhập vào diễn biến của nhóm, tạo nên một hành trình duy nhất mà nhóm theo đuổi một cách ý thức và có phê phán. Những giai đoạn lớn tạo thành hành trình của nhóm có thể được trình bày như sau :

  • Giai đoạn một : việc quy tụ và sự tiếp nhận.
  • Giai đoạn hai : việc thuộc về nhóm và tình liên đới.
  • Giai đoạn ba : sự đối chất đầu tiên và tình yêu cho cuộc sống.
  • Giai đoạn bốn : kế hoạch của nhóm và sự chọn lựa đức tin.
  • Giai đoạn năm : sự chín muồi năng động của nhóm và việc học tập sống đời Kitô hữu.
  • Giai đoạn sáu : sự hội nhập vào cộng đồng và ơn gọi cá nhân.

Hành trình tiên liệu trước sự trưởng thành hóa con người và một đề nghị Kitô hữu. Cần phải ghi nhận ngay là giữa các giai đoạn này không hề có sự tiếp nối theo nghĩa tuyệt đối, dù cho trong mỗi giai đoạn có thể có một sự nhấn mạnh riêng nào.

Toàn thể hành trình giống như một sự tăng trưởng của một hạt giống được phát triển xuyên qua hai tiến trình.

Tiến trình thứ nhất là tiến trình giáo dục, có trọng tâm là sự tăng trưởng nhân bản, tạo cho người trẻ có khả năng đảm nhận lấy cuộc sống một cách có trách nhiệm, với ý thức về ý nghĩa của nó, kể cả ý nghĩa tôn giáo và về các câu hỏi mà nó chứa đựng.

Tiến trình thứ hai là việc thông truyền tin mừng một cách minh nhiên và xẩy ra cùng một lúc. Nó đã hiện diện ở ngay trong nền giáo dục nhân bản, bởi vì cộng thể và sinh động viên cống hiến một chứng tá đã thực sự là một đề nghị của đức tin, dưới hình thức của sự tiếp nhận và tin tưởng lẫn nhau, phục vụ cho sự tăng trưởng. Nhưng cũng đã hiện diện ngay từ những giai đoạn đầu tiên của nhóm việc loan báo minh nhiên. Tin Mừng, sinh động viên cống hiến điều đó theo mức độ mà nhóm có khả năng hấp thụ được, để nhóm dần dần tới được sự hiểu biết đề nghị Kitô hữu và quyết định dấn thân cho Chúa Kitô và cho nước của Ngài.

Việc miêu tả các giai đoạn sẽ được thực hiện dưới hình thức vắn gọn của lược đồ, và có giá trị như là chứng từ để đối chiếu. Ai cũng đều biết rằng không phải mọi thành viên của một nhóm đều hành trình trên những giai đoạn y như nhau, cũng không phải tất cả mọi nhóm theo y nguyên một diễn tiến kế tục nhau như được trình bày ở đây hay trong các tài liệu khác. Vấn đề quan trọng là sinh động viên có một cái nhìn tổng quát của tiến trình, và có thể cắt nghĩa những triệu chứng và giúp nhóm đạt đến các mục tiêu giáo dục. Bởi đó chúng ta tìm cách phác họa ra những đặc điểm và những vấn đề của từng giai đoạn, nêu ra các mục tiêu chuyên biệt, chỉ ra vài phương hướng dõi theo các cuộc can thiệp và nhấn mạnh tới một số tư thế của sinh động viên.

  • Sự quy tụ lại và tiếp nhận

Các vấn đề

Hành trình của nhóm khởi sự từ sự hiện diện của sinh động viên ở trong đời sống hằng ngày của các bạn trẻ và từ sinh động viên say mê đọc các thực tại của giới trẻ với tinh thần phê phán. Điều đó có thể xẩy ra trong một môi trường giáo dục (trường học, nguyện xá), trong  một phong trào, trong một cộng đồng Hội thánh hay một lãnh thổ.

Không cần giả thiết trước là phải có các lời yêu cầu minh nhiên, sinh động viên sẵn sàng đưa ra các đề nghị, đáp ứng các nhu cầu, làm cho các hạt giống lớn lên.

Bối cảnh có thể đánh dấu bởi sự hờ hững của những người trẻ không mấy khát khao làm thành nhóm, giữ tư thế xa lạ với môi trường và các nhà giáo dục, vẫn ở trong tư thế thụ động trước các giá trị mà cộng thể muốn cho lưu chuyển.

Một sự hờ hững phải xét chính là nỗi hờ hững đối với đức tin : nơi đa số các bạn trẻ, ta không thể giả thiết trước là có một câu hỏi tôn giáo minh nhiên, và càng ít hơn nữa là có một đức tin chín chắn. Thường thì chỉ có một câu hỏi nghèo nàn, đầy nghịch lý, lẫn lộn, tuy nhiên, nó có đó, ngay cả ở nơi đức tin xem ra bị từ chối trên nguyên tắc.

Cũng không loại bỏ cả đến một khó khăn ban đầu của các bạn trẻ khi phải tác động lẫn trên nhau, và phải sống các mối tương quan bằng hữu và liên đới để vượt thắng được các cuộc gặp gỡ thoảng qua, chỉ có tính cách giãi trí. Họ là con đẻ của một khuynh hướng xã hội đòi hỏi gay gắt và thái quá về quyền lợi, và họ nuôi dưỡng nó nơi cõi lòng đến nỗi chẳng còn có khoảng không đích thực cho một sự học hỏi về việc chung sống xã hội.

Đằng khác cũng có những sự chống đối do đã xẩy ra trước đó các thất bại của các kinh nghiệm nhóm, gắn với sự nhận thức, có khi còn mơ hồ, về ý hướng và các sứ điệp của sinh động viên, với cái khó khăn là làm sao đưa vào được các mối tương quan với một người nào đó mà các bạn trẻ cảm thấy xa lạ.

Nhưng không thể loại bỏ là thực sự có những thực tại liên kết nhóm cho phép đọc và đề ra như dấu chỉ của một khát vọng muốn tìm kiếm cùng với nhau một phong thái sống, thể hiện những trực giác, tham dự vào đời sống của cộng thể giáo dục, Hội thánh và nhân bản.

Các mục tiêu

Công việc của sinh động viên hướng đến một số mục tiêu, mà nếu đạt được thì chúng có thể sản sinh ra một sự quy tụ đầu tiên :

  • Tạo nên ở bên trong bối cảnh giáo dục, một bầu khí tín nhiệm lẫn nhau kích thích cho các người trẻ lại gần nhau, để bắt đầu đối thoại, để bắt đầu cảm thấy nhu cầu được tụ họp với nhau ;
  • Phát hiện ra các hạt giống, dù còn rất nghèo nàn, của khát vọng liên kết nhóm, bằng cách diễn tả nên các niềm thích thú, các mối quan tâm, và khơi dậy sự tìm tòi và óc tò mò ;
  • Hình thành cùng với các bạn trẻ một khát vọng làm thành nhóm như là nơi để gặp gỡ nhau như bạn hữu và thực hiện những nỗi thích thú hay quan tâm riêng của mình.

Các hoạt động và các sự can thiệp

Với các mục tiêu ấy, cần có các hoạt động và các cuộc can thiệp theo một số hướng :

  • Chuỗi những can thiệp đầu tiên có mục đích làm cho các bạn trẻ cảm thấy ý muốn chăm sóc bản thân mình một cách toàn diện. Có lẽ bây giờ họ chỉ chú tâm tới một số khía cạnh có giới hạn của cuộc sống. Trực giác ra được rằng họ có thể làm một cái gì đó khác thường, trong đó họ đóng vai chính khiến họ quan tâm tới các bình diện khác, từ bình diện lo cho thân thể, đến bình diện trí tuệ, nghệ thuật và tôn giáo. Cái sở thích đối với cái mới, các cảm giác là thấy mình ở trong một môi trường giáo dục là nơi có tự do để hoạt động một cách sáng tạo vượt ra bên ngoài các giới hạn được biết, cho tới lúc đó, tất cả những cái đó thức tỉnh cái khát vọng đạt tới một sự trưởng thành muôn mặt đầy phức tạp của nhân cách.
  • Một chuỗi những can thiệp khác hướng đến phá vỡ sự cô lập và sự cô đơn, và tạo nên những cơ hội trong đó con người ta chạm đến được cái tích cực của việc ở với nhau và cùng nhau xây dựng : đó là các buổi lễ, các trò chơi, các sáng kiến văn hóa « mở rộng ». kể từ giờ phút trong đó sinh động viên có ý mời các bạn trẻ làm thành nhóm, họ sẽ tăng nhân các cơ hội gặp gỡ hào hứng và vui vẻ của ngày lễ, và giúp cho các bạn trẻ gặp lại được bản thân xuyên qua những nhiệm vụ cần tới sự tác động lên nhau và sự làm việc chung với nhau.
  • Một chuỗi những can thiệp thứ ba nhằm xác định và đồng quy những chờ trông và những quan tâm của những cá nhân. Bất kỳ mối quan tâm nào trong số những quan tâm trên theo nguyên tắc cũng đều thiết thân đối với sinh động viên. Bởi vì quanh các quan tâm xã hội, văn hóa, tôn giáo đều có thể nẩy sinh các sự cộng tác và các điểm tương đồng, mở ra cho một hành trình đào luyện nhân bản và đức tin. Sinh động viên tận dụng chúng một cách tích cực và tìm cách chuyển từ các quan tâm trực tiếp sang các chờ trông và các nhu cầu sâu xa hơn ở bình diện tình cảm và hiện sinh.
  • Sau cùng có những can thiệp và những hoạt động nhằm nêu ra cách minh nhiên đề nghị thiết lập nhóm. Sự gặp gỡ của các người trẻ với các nhóm đã có thể trở thành động cơ thúc đẩy với điều kiện là kinh nghiệm của các nhóm này phải có ý nghĩa và thực hành được. Sinh động viên mời gọi họ chia sẻ một số giờ phút hạnh phúc của nhóm và thăm dò xem họ có muốn tiếp tục tham gia không. Sinh động viên nêu lên lý do một cách tế nhị, cho các người trẻ thấy khả thể thỏa mãn những gì họ quan tâm và tập hợp được những lời kêu gọi của cộng thể giáo dục và của địa phương ước mong những có những việc phục vụ cá biệt. Quyết định bắt đầu tham gia nhóm thường xẩy ra sau những kinh nghiệm vui sướng của các hoạt động, dù rất đơn giản nhưng đã thành công tốt đẹp, do nhóm thực hiện.
  • Việc thuộc về và sự liên đới

Các vấn đề

Sau khi đã quy tụ lại, vấn đề tiếp đến là việc củng cố nhóm cho tới cái quyết định của các thành viên là thuộc về nhóm, nghĩa là dấn thân trong một kinh nghiệm chung, với tất cả những gì đòi hỏi của nó.

Cảm thấy mình được tiếp nhận, họ bắt đầu nói cách yên lòng, về các câu chuyện hằng ngày, sống nhiệt tình các mối tương quan liên vị, ngay cả trong những thời điểm xung khắc, thảo luận cùng nhau về điều mình muốn và về làm sao để đạt được.

Nhóm bắt đầu được coi như quan trọng để phát huy các lợi ích cá nhân và chân tính phức tạp của mình ; thế là họ bắt đầu thực hiện phân tích các vấn đề, và tìm ra các giải pháp, cố gắng làm sáng tỏ xem nhóm dựa vào những giá trị gì trong việc đánh giá và chọn lựa của nó.

Trong giai đoạn này, việc tiếp nhận nhóm trở thành thái độ có suy nghĩ và được coi là một giá trị của bản thân. Càng tiến sâu hơn, mỗi người dầu trực giác thấy việc chọn tham gia nhóm có cái giá của nó, không những vì thời giờ phải dành cho nó, và do đấy phải từ bỏ các hoạt động và các tình bằng hữu khác, mà cũng vì nhóm nhắm đến ảnh hưởng vào lối suy nghĩ và hành động của ta.

Và ta thấy một số vấn đề đặc trưng.

Tình bạn bộc phát và bầu khí vui vẻ của những thời điểm đầu tiên có thể gặp khủng khoảng, khi mà sự hiểu biết lẫn nhau tạo nên một sự chấp nhận thực tế hơn, nhưng cũng có vấn đề hơn. Sự thông tri đòi mỗi người phải tự bộc lộ mình một cách không hãi sợ và không tự vệ, nhưng thường sự thông tri tan vỡ bởi nỗi hãi sợ và sự tự vệ vẫn luôn còn đó, ở cuối chân trời, và can thiệp vào trong các tương quan dần dần được thiết lập.

Dần dần khi cái quyết định làm thành nhóm được mọi người chia sẻ một cách có ý thức, nhóm được tạo cho một cơ cấu, lúc đầu chưa chính thức, sau thì chính thức. Thế là bắt đầu cảm thấy nhu cầu phải lên chương trình cho cuộc sống của nhóm. Có người giữ các vị trí trung tâm trong màng lưới tin và có một sự nặng ký to lớn hơn trong việc lấy quyết định.

Càng tiến sâu trong sự thông tin, nhóm đưa đến sự thay đổi các tình cảm, các sự lượng định và các hoài bão, nhưng các người trẻ cảm thấy mệt nhọc khi đi vào chiều sâu của bản thân xuyên qua một hoạt động nội tâm đúng mức. Thật gian khổ việc tái hình thành và sắp xếp các thành quả của cuộc sống cá nhân và tập thể và gán cho chúng một ý nghĩa, bởi vì có vẻ rằng trong một thời kỳ như của chúng ta, nặng tính thực tiễn, việc dành sức lực cho một việc tìm tòi sáng tạo của cá nhân và của nhóm xem ra vô nghĩa.

Việc thông tin một cách chân thực và việc thuộc về nhóm đòi ta phải thay đổi, thích nghi cách thức hành động và suy nghĩ của mình. Trở thành nhóm cũng là tiếp nhận việc tìm kiếm các cách thức chung để suy nghĩ, lượng định và hành động, miễn sao bảo đảm được sự tự lập của lương tâm. Theo viễn ảnh này, mỗi người đều phản ứng lại bằng cách bảo vệ sự tự do của mình hay ẩn mình trong một sự thuộc về nhóm với các điều kiện riêng mà mình chọn.

Các mục tiêu

Mục tiêu mà sinh động viên có trước mắt là giúp tạo khả năng quyết định sống như là nhóm (esistere come gruppo) và giúp cho cá nhân thuộc về nhóm một cách có ý thức và sáng tạo cho tới độ có thể chọn lấy cái giá trị lớn lao là tình liên đới, một giá trị phát sinh ở trong nhóm và có hướng lan rộng ra từ nhóm.

Mục tiêu tổng quát này phân ra thành các điểm cá biệt sau đây :

  • Đạt đến trong nhóm một bình diện thông tri tới mức thỏa mãn được mọi người và cho phép thực hiện mục tiêu đồng chia sẻ trách nhiệm ;
  • Tạo khả năng cho nhóm « làm việc » cùng với nhau ( suy nghĩ, quyết định, hành động), với sự tham dự tích cực của tất cả ;
  • Giúp nhóm nhận ra mình như là nhóm trong đời sống của cộng thể giáo dục, địa phương hay xã hội- Hội thánh.

Các hoạt động và các sự can thiệp

Để đạt tới các mục tiêu này, cần có các hoạt động và các sự can thiệp theo hướng này.

Chuỗi hoạt động thứ nhất hướng đến việc dần dần cơ cấu hóa nhóm, nghĩa là bước chuyển biến từ sự qui tụ tự phát sang sự qui tụ có suy nghĩ. Đạt tới điểm này, có nghĩa là làm chín mùi sự tiếp nhận lẫn nhau. Khi càng biết nhau tốt hơn, người ta càng biết xác định rõ những giá trị nền tảng để đồng sẻ chia, đó là những mục tiêu và những hoạt động vì đó mà họ ở lại với nhau, các vai trò của từng người và các nhiệm vụ của sinh động viên, các tiến trình thực hiện các qui định.

Chuỗi các hoạt động thứ hai hướng đến giải phóng tính chất diễn tả, bằng cách cống hiến cho mỗi người khả thể chinh phục được việc làm chủ các ngôn ngữ. Điều đó gắn kết với nhu cầu thông tin giữa các con người nhưng cũng cho phép thực hiện một sự tiếp xúc phong phú hơn với các thực tại và đi xa hơn các dữ kiện mới chỉ được nhận thức cách trực tiếp.

Ngôn ngữ của các người trẻ thường nghèo nàn, cũng đồng thời là kết quả và là nguyên nhân của một mối tương quan với thực tại đã bị làm cho nghèo đi. Nếu ngôn ngữ thiếu xót, sẽ khó mà phân tích các sự việc, tìm ra được các nguyên nhân và các ý nghĩa, hình thành ra những yêu cầu xuất phát từ cái đã sống. Bởi đó thật quan trọng là phải thao luyện bản thân và sử dụng các loại ngôn ngữ khác nhau, cả loại lô-gich lý luận cũng như loại biểu trưng.

  • Một chuỗi những can thiệp khác giúp cho các cá nhân có khả năng suy nghĩ và đối thoại ở nội tâm. Các nghị lực mà nhóm cống hiến giúp cho người trẻ giải quyết một vấn đề lớn của họ : khám phá ra chính mình, nhận ra được rằng mình là độc đáo và phân biệt với những người khác và đồng thời hiệp thông với họ.
  • Để thành công trong chuyện này, cần phải tạo ra một loại hợp âm vang lại các sứ điệp đã được phát ra cách hỗn độn và tương phản : đó là những sứ điệp đến từ môi trường bên ngoài và những sứ điệp phát sinh từ cái tôi thâm sâu. Sự suy nghĩ vào những lúc cô tịch của cá nhân và sự đồng chia sẻ các trực giác và các ý tưởng ở trong nhóm, sự đánh giá các sứ điệp và việc thành công nhận ra mình nơi một số trong các sứ điệp đó, là những cơ hội cho người trẻ để hình thành nên một cái nhìn riêng về cuộc sống.
  • Sau cùng là một chuỗi những hoạt động hướng tới cổ xúy cho việc thuộc về, và cắm rễ nhóm trong sự liên đới. Ý muốn thông tri giữa các thành viên của nhóm, và giữa nhóm với sinh động viên và cộng thể giáo dục trở thành minh nhiên. Sự thuộc về thiết định, sự đồng trách nhiệm tròn đầy trong quyết tâm và trong hành trình tăng trưởng, theo phong thái của sự đồng chung sống. Người ta không cảm thấy hờ hững hay xa lạ với nhau, nhưng nhìn nhận nhau như một phần của cùng một cơ thể. Điều này yêu cầu trong nhóm phải có ý muốn là vai chính của các tiến trình đào luyện có tính quyết định cho bước tăng trưởng riêng, phải có sự quan tâm tới các hoạt động cho phép người ta nên liên đới với nhau, và cho phép nhóm dấn thân vào cuộc sống của môi trường.
  • Sự đối chiếu đầu tiên và tình yêu đối với cuộc sống

Các vấn đề

Khi việc tham gia nhóm đã có được đợt củng cố đầu tiên đầy đủ, nhóm cảm thấy có thể lấy lập trường liên quan đến các hoàn cảnh trong đó nhóm dấn thân và liên quan đến các thách đố mà cuộc sống liên tục đặt ra. Những vấn nạn xuất phát ở bên trong nhóm, những cuộc gặp gỡ với các chứng nhân thuộc các khuynh hướng khác nhau, những tiếp xúc với các sứ điệp cùng các đề nghị lưu hành ở trong môi trường thúc đẩy nhóm cố gắng tìm ra các lời đáp trả. Đó là lúc bắt đầu diễn tả ý nghĩa và tình yêu cho cuộc sống.

Tình yêu cho cuộc sống là xác tín có căn rễ cho rằng cuộc sống là một hồng ân ; nó chứa đựng bên trong nó những ý nghĩa và những khả thể khôn lường liên quan đến hạnh phúc của con người, bởi đó mà đạt tới kết luận cho rằng đời đáng phải trả giá bằng gian khổ, và ở cuộc chơi này phải tính đến cái phẩm chất, cái danh dự và sự tăng trưởng của cuộc sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Nói cho sâu sát, tình yêu cuộc sống không là gì khác ngoài việc tiếp nhận nỗi khao khát nhân loại nằm ở tận nền tảng của các mối phúc của tin mừng. Đó là điều có thể được ở trong mọi hoàn cảnh của con người, dù cho có nghèo hèn đi nữa ; hơn nữa, yêu cuộc sống còn giả thiết rằng mình có được cái ý thức về sự nghèo nàn hiện tại chính bởi vì ở nơi bản thân mình và xung quanh mình, trong thế giới gần và xa, người ta cảm nhận thấy các ước mong và các khát vọng ngày càng to lớn hơn.

Đạt tới được mức cùng nhau diễn tả ý nghĩa cùng tình yêu có ý thức đối với cuộc sống giả thiết ta phải vượt thắng một số các vấn đề đặc trưng của giai đoạn này. Quyết định cá nhân vì cuộc sống chỉ có thể có sau khi một đàng ta đã cảm nghiệm một số câu hỏi hiện sinh và đàng khác ta đã biết được, cái hạt nhân cốt yếu của các câu trả lời mà con người đã từng trả lời ở trong dòng lịch sử. Không có quyết định cho cuộc sống, khi người ta không có lấy cái ý thức về thực tại của mình và không có một sự tiếp cận với nền văn hóa nhân bản trong tổng thể của nó. Hai công việc : việc xác định các câu hỏi sâu xa của riêng bản thân mình và cái nhìn về các câu trả lời đang lưu hành – không phải là những công việc dễ dàng đối với các bạn trẻ.

Trong giai đoạn này, nhóm được gọi thực hiện việc lập lên một kế hoạch. Điều này thử thách chính cái khả năng, cùng nhau phân tích các vấn đề và đạt tới chuỗi các câu trả lời có ý nghĩa và được đồng chia sẻ. Điều ấy giả thiết một môi trường có khả thể tạo nên được một sự hòa nhập các giá trị ở giữa các thành viên của nhóm, ở giữa nhóm và sinh động viên, ở giữa nhóm và cộng thể giáo dục.

Nhưng xây dựng một cái gì đó ở bên trong môi trường vẫn chưa đủ. Còn cần phải đối chất giữa quyết định ở khởi mầm của nhóm vì cuộc sống với các cách thức đã được củng cố trong bối cảnh xã hội – văn hóa. Không có điều này, chúng ta sẽ liều sa vào những sự xiên xẹo và sự trống rỗng nghĩa cái ý nghĩa mà mình muốn gắn cho hạn từ « tình yêu cuộc sống ».

Cũng trong giai đoạn này vấn đề được nêu ra là làm sao biến cuộc sống thành nơi trong đó nhóm học và diễn tả ra được yêu cầu về tôn giáo. Đối với nhiều người trẻ, đức tin không có ở nơi cuộc sống cá nhân, bởi vì họ không có những câu hỏi tôn giáo để mà cắm neo đức tin vào đó. Sự đánh cuộc của hoạt động giáo dục của chúng ta chính là trong khi đào bới vào trong màu nhiệm của cuộc sống để tìm kiếm một ý nghĩa, ta có thể mở ra cho người trẻ bình diện tôn giáo của cuộc sống, đến độ họ có thể kêu cầu ơn cứu độ từ Đấng siêu việt.

Các mục tiêu

Đây là các mục tiêu được đề ra cho sinh động viên và cho nhóm ở giai đoạn này :

  • Đạt tới một sự hiểu biết nào đó và một việc có lấy ý thức và thực tại con người trong cái nghèo nàn và cái hữu hạn của nó ;
  • Cảm nghiệm một cách cụ thể rằng mình có thể thoát ra khỏi các vấn đề một cách danh dự, và khám phá ra các điều kiện cá nhân và nhóm để làm được điều đó ;
  • Thể hiện các kế hoạch hành động thực tiễn, bằng cách sử dụng một cách sáng tạo tất cả những gì kinh nghiệm nhân loại cống hiến như (môi trường, sự suy tư nhóm, các trực giác…)

Các hoạt động và các can thiệp

Nhằm đạt được các mục tiêu trên, ta có thể suy nghĩ các hoạt động và can thiệp sau đây:

  • Loại hoạt động thứ nhất nhằm làm cho cá nhân và nhóm, bén rễ nơi môi trường xã hội – văn hóa và Hội thánh trong đó họ sống, để họ tiếp súc và nội tâm hóa dưới hình thức có phê phán các đề nghị đến từ các môi trường ấy. Các người trẻ phải cảm thấy mình là một thành phần sinh động của một nền văn hóa đang hình thành, phải cảm thấy ý thức về các căn rễ của mình và về các lý chứng của sự hiện hữu của họ, để có thể sáng nghĩ ra các phong thái sống mới để kế tục quá khứ một cách sáng tạo.
  • Các hoạt động đưa tới cuộc gặp gỡ với môi trường này giống như đưa tới một sự tận dụng cách có phê phán các đề nghị dưới ánh sáng của các giá trị đang bao bọc lấy nhóm. Nhóm cũng đạt được cái khả năng tái suy nghĩ và vạch ra “trong các tài liệu”những chọn lựa và những trực giác được đồng chia sẻ để mà củng cố cái gia sản riêng và xây dựng cho mình một bản ghi nhớ.
  • Một loại các hoạt động thứ hai đưa tới sự tiếp cận với các hoàn cảnh đang khơi dậy, một cách hàm ẩn và minh nhiên, các vấn nạn về ý nghĩa của cuộc sống, và của các hoàn cảnh trong đó không có giá trị cái luật “cho để mà người ta cho lại”, của sự trao đổi: đó là các hoàn cảnh của đau đớn, cô đơn, nghèo khó, áp bức đang kêu xin hãy lấy một lập trường; hãy xác định chính chân tính của nhóm và hãy cho một câu trả lời vô vị lợi trong tư cách là các cá nhân cũng như trong tư cách là nhóm.
  • Qua sự tiếp súc dần dần với cái sống sượng của các hoàn cảnh, nhóm khám phá ra rằng mình phải cho một câu trả lời tập thể như thế nào về tình yêu cho cuộc sống. Điều này chỉ có thể xẩy ra nếu hoàn cảnh có tính cách gần gũi xét về mặt tâm lý, bởi chúng đụng đến các môi trường và các con người mà nhóm tiếp súc hằng ngày.
  • Chuỗi những can thiệp thứ ba muốn làm cho nhóm cảm nghiệm được khả thể lập kế hoạch, xuyên qua sự tham gia tích cực và ý thức của tất cả mọi người. Mỗi người đều được thúc đẩy hãy tự làm sáng tỏ cho mình là bằng cách nào Thiên Chúa và đức tin Kitô hữu đi vào trong quyết định tự đảm nhận lấy cuộc sống của mình. Thế là người trẻ tự mình đặt đối diện với chính bản thân mình, để làm chín muồi một lương tâm rộng lớn hơn bao gồm ngoài bình diện tâm lý và luân lý, còn cả đến bình diện hiện sinh và ít là một bình diện tôn giáo ở thể nẩy mầm. Họ tìm cách đạt đến một tổng hợp các nội dung được gợi hứng từ tình yêu cho cuộc sống. Đó là những chân trời, những tiêu chuẩn, những chọn lựa và những hoạt động có suy nghĩ, được quyết định và hoàn thành trong sự đồng trách nhiệm.
  • Sau cùng còn một loạt các hoạt động đưa nhóm tới việc học biết năng động lực và các điều kiện của hoạt động và tới việc cảm nghiệm thấy niềm vui của các kết quả. Mỗi nhóm lên chương trình cho các sáng kiến của mình: thể thao, văn hóa, tình nguyện. Việc đưa các sáng kiến này thành hành động thực tiễn, có một quyền lực đào luyện rất cao và mang với nó một nhiệt tình mới. Việc cảm nghiệm được sự thành công và nhìn thấy các kết quả rất đáng mừng về mặt chất lượng, dù cho chúng còn có giới hạn bé nhỏ, củng cố cho cái hình ảnh về mình và việc thuộc về nhóm. Vậy trong giai đoạn này, phải tận dụng tất cả cái cho phép nhóm gom các tiềm năng vào chung một con kênh các kế hoạch khả thi, kiểm tra các kế hoạch trong khi thể hiện chúng và kiểm nghiệm chúng.
  • Kế hoạch nhóm và sự chọn lựa đức tin

Các vấn đề

Nếu nhóm đã trải qua một cách thành công các giai đoạn đã nói ở trước, thì các mối tương quan và việc thuộc về nhóm đã đạt tới một mức chin muồi nhờ đó sự thông giao được thực hiện mà không có những căng thẳng dư thừa. Nhóm không phải tiêu hao các nghị lực trong các cuộc tranh cãi ít quan trọng, ngược lại nhóm thấy mình quyết tâm đưa các chọn lựa của mình tới đích.

Tình yêu cho cuộc sống, như là nơi của một câu hỏi tôn giáo độc đáo, phải được coi là lời loan báo đầu tiên của đức tin Kitô hữu. Giai đoạn mới này có mục đích làm sáng tỏ và đào sâu cuộc sống Kitô hữu trong đó nhóm tự nhận diện ra bản thân mình.

Sự chọn lựa đức tin đến làm phong phú hóa tình yêu cuộc sống bằng một ý thức mới, một ý nghĩa mới và những thái độ mới. Nó mở tình yêu ấy ra cho những chân trời khôn lường. Như vậy, việc chọn lựa đức tin này được nhìn nhận trong cấu trúc thâm sâu của nó như là nơi trong đó thần khí của Đấng Phục sinh được thông ban cho các bạn trẻ và họ đáp lại ơn này khi đảm nhận lấy cuộc sống của mình và của những người khác với trách nhiệm.

Người ta đếm với việc xác định đề tài tình yêu cho cuộc sống và với sự chọn lựa đức tin Kitô hữu xuyên qua một đề nghị, nghĩa là một tổng thể các hoạt động nhắm đến chuyển giao Tin mừng, như cho tới giờ cộng đoàn Kitô hữu đã hiểu và đã sống. Trong sự chờ đợi các thế hệ khác sẽ tiếp nhận và sẽ sống bên trong kinh nghiệm lịch sử của họ.

Đề nghị này khai mào ngay từ giai đoạn đầu tiên của hành trình sinh động hóa, trong mức độ nó đưa các bạn trẻ hội nhập vào trong lòng của Hội thánh hữu hình; nó cho họ cảm nghiệm được chứng tá hiến dâng vô vị lợi của sinh động viên và của toàn thể cộng thể giáo dục, giúp cho họ có khả năng lãnh hội các thái độ và các câu hỏi tôn giáo. Không có tất cả những điều này, sẽ không có ý nghĩa việc nêu ra các đề nghị ngoài miệng hay các đề nghị thuần túy chứa các nội dung giáo lý.

Nhưng  trong giai đoạn này lời loan báo trở nên minh nhiên và có cơ cấu xuyên qua việc kể lại niềm tin của Tin mừng. Đây là điều cần thiết để đưa đến hoàn thành hành trình các bạn trẻ đang thực hiện và giúp cho họ nhận ra mình ở nơi Đức Giêsu và ở nơi mục tiêu của Nước Thiên Chúa, là hạt giống của sự vẹn toàn sự sống giữa loài người.

Hành trình của giai đoạn này giả thiết phải giải quyết một cách tích cực một số vấn đề.

Những câu hỏi về ý nghĩa mà chúng ta gọi là tôn giáo, được nêu rõ ra và công thức hóa trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Là dung mạo huyền nhiệm vừa tự mặc khải, vừa tự ẩn dấu, ở bên trong và ở bên kia của các diễn tiến nhân loại. Mở bản thân ra cho Tin mừng giả thiết trước một đưc tin hay ít là một sự tìm kiếm Thiên Chúa. Có những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống vẫn chưa đủ. Điều quyết định là các câu hỏi này được hướng đến một hướng huyền bí trong đó con người thấy mình đứng đối diện không phải với chính mình  và các khát vọng của mình, mà với một sự hiện diện của Thiên Chúa Đấng tự hiến và tự thông ban chính bản thân mình.

Kế đến là việc trình bày dung mạo của Chúa Giêsu cho các bạn trẻ đã từng tiếp xúc nhiều năm với Tin Mừng và có lẽ họ đã tìm thấy Tin Mừng như có sẵn. Làm thế nào để tái tìm lại được sức mạnh của sinh động của Tin Mừng, cái mới của nó, khả năng làm chuyển biến cõi lòng con người của nó?

Câu hỏi được nhìn trên hai bình diện. Bình diện thứ nhất là hình thức ngôn ngữ: phải chăng đây là chuyện trình bày đức tin xuyên qua sự tiếp xúc với giáo lý, được hiểu như là việc trình bày có hệ thống chân lý đức tin? Đàng khác, đó là sách giáo lý nào? Một bản liệt kê các chân lý được coi là các khẳng định mà mình phải tin, hay là như các lời kêu gọi thực hiện một cuộc tìm kiếm?

Bình diện thứ hai là bình diện dung mạo Chúa Giêsu: Nếu dọc theo lịch sử, các nghệ nhân và các người rao giảng đã vẽ ra và trình bày vô số các dung mạo của Chúa Giêsu, để đáp ứng lại các câu hỏi của thời đại của họ, thì ngay hôm nay phải giới thiệu một dung mạo Chúa Giêsu nào?

Nếu đúng là toàn thể hành trình nhóm là một sự chọn lựa tiệm tiến đức tin, thì cũng đúng là có một cung thời gian trong đó đề nghị Kitô hữu trở thành cho mỗi người một lời kêu gọi hãy tiến tới một quyết định kể như vĩnh viễn. Làm thế nào để tạo khoảng không gian cho một tiến trình thuộc loại này? Làm sao xác định ở trong nhóm cung thời gian này, được coi là thuận lợi cho sự chọn lựa đức tin?

Và tiến trình quyết định hệ tại gì?

 Sau cùng còn phải định nghĩa cái cốt lõi chủ yếu gồm các giá trị và chân lý phải tiếp nhận để có thể tuyên xưng mình là Kitô hữu. Nhiều thanh thiếu niên cảm thấy một số luật lệ và việc thực hành Kitô hữu là khó khăn. Nếu việc trở thành Kitô hữu có ý nghĩa là phải ngay lập tức đảm nhận lấy gia sản các chân lý tín lý và luân lý, thì đối với không ít người, lấy một quyết định đức tin hầu như là chuyện không thể làm được. Đồng thời cũng không thể giảm thiểu đức tin Kitô hữu thành các ước ao riêng của bản thân, hay cắt xén bớt các sứ điệp Tin mừng hay tuyên xưng mình là tín hữu mà không chấp nhận Giáo hội. Làm sao để giải quyết các gút đầy vấn đề này mà không ngăn trở các bạn trẻ đang gặp khó khăn hơn cả tiến lại với đức tin, hay không chấp nhận rằng đức tin phải bị giảm thiểu đi để cho riêng ta được hài lòng?

Các mục tiêu

Sau đây là các mục tiêu mà sinh động viên và nhóm phải có trước mắt trong giai đoạn này:

  • Tìm sự hòa hợp giữa các câu hỏi cá nhân và kinh nghiệm của Đức Giêsu, bằng cách thiết lập giữa chúng một tiến trình trao đổi soi sáng lẫn cho nhau;
  • Kể chuyện Tin mừng như là lời kêu gọi vượt ra ngoài các câu hỏi nhân loại, như là tình yêu Thiên Chúa làm người, như là Nước Thiên Chúa hiện diện trên thế giới;
  • Đặt ra những điều kiện để đi tới một cử chỉ cá nhân và một sự chọn lựa sinh động dành cho Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài.

Các hoạt động và các sự can thiệp

Để đạt các mục tiêu này, cần các hoạt động theo các hướng khác nhau sau đây:

  • Một chuỗi những hoạt động hướng đến giúp có lấy ý thức minh nhiên về câu hỏi tôn giáo phát sinh từ cuộc sống và giúp hướng cuộc sống theo hướng của Thiên Chúa và của mầu nhiệm của Ngài, vừa hiện diện và vừa xa vắng. Tình yêu cho cuộc sống, được cảm nghiệm ở các giai đoạn trước, giờ đây được thể hiện như là một biến cố huyền nhiệm và dần dần được ý thức như là không có kết điểm nơi chính nó.

Tuy nhiên nhóm không tiếp thu câu hỏi như là bước chuyển tiếp có tính cách phương pháp, mà duy trì nó và đào sâu nó. Nhóm học tiếp thu một cách minh nhiên lời kêu xin ý nghĩa phát sinh từ biết bao diễn biến nhân loại, dù là bi thảm hay vinh quang. Nhóm tái lấy lại những câu hỏi và những lời kêu cầu này, mở ra một lời đối thoại của cá nhân và nhóm với Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong sự chiêm ngắm, trong im lặng, ở tại nơi có thể vang lên cái khôn tả.

  • Một chuỗi các hoạt động gắn với việc gặp gỡ cùng Tin Mừng. Hơn là việc nghiên cứu về lịch sử – phê bình hay suy tư thần học văn hóa, đây chính là một việc thực tại hóa hiện sinh các biến cố vĩ đại của cuộc sống Đức Giêsu. Đây chính là tiếp cận với Tin mừng như là “tường thuật”, tạo những khoảng thời gian và không gian của một tường thuật Tin Mừng được chính chúng ta sống; là những thời gian của cộng đoàn trong đó ta tái sống lại khởi từ niềm tin tràn đầy phấn khởi của người kể, các dữ kiện vĩ đại của cuộc sống Đức Giêsu, của hôm qua và hôm nay, những dữ kiện đến soi sáng, trợ giúp, an ủi, mở lòng người trẻ đi vào mầu nhiệm của dung mạo đích thực của Thiên Chúa và của con người. Thế là các người trẻ được khuyến khích dấn mình vào cuộc tìm kiếm để thấu hiểu và hòa nhập;
  • Một chuỗi các hoạt động khác tìm cách giúp cho người trẻ khả năng thực hiện chọn lựa của niềm tin. Cảm thấy phấn khởi còn chưa phải là chọn lựa, cũng như việc kín múc từ Tin Mừng một sự thúc đẩy tới một trách nhiệm luân lý to lớn hơn vẫn chưa phải là sự chọn lựa.
  • Khởi động một sự chọn lựa là gắn một tiến trình trong đó mỗi người đích thân trực diện với bài tường thuật biến cố của Chúa Giêsu và các câu hỏi và mong chờ của bản thân mình, cho dẫu mình có được nâng đỡ bởi nhóm đi chăng nữa. Có một sự hòa nhập khi Tin Mừng làm cho vang lên các sợi dây thâm sâu của cuộc sống cá nhân thúc đẩy ta dám đánh cuộc rằng trong Tin Mửng quả có chứa đựng câu trả lời hấp dẫn nhất và ở ngoài mọi hy vọng của mình. Đi vào một sự hòa nhập với Tin mừng như thế không phải là tự động, cũng không phải là dễ dàng. Nó không có các cơ hội hay các hình thức chính xác. Đó là sự dấn thân của con người và là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Đó luôn luôn là một biến cố độc đáo và đầy sáng tạo. Quyết định cho Chúa Giêsu và Nước của Ngài sẽ được hiểu khi ta dần dần để cho mình được thấm nhuần bởi Tin Mừng và khi ta bắt đầu sống một cách mới mẻ. Tin Mừng được sống giúp ta tiếp nhận Tin Mừng được tin.

Trong khung thời gian được coi là quan trọng để dấn thân vào một sự tìm kiếm tôn giáo và đào sâu sự chọn lựa đức tin, phải tăng cường những cuộc trực diện với ý nghĩa của cuộc sống, dưới ánh sáng của kinh nghiệm đã được làm cho chín chắn cho tới lúc đó, và những cuộc gặp gỡ với các nhân chứng ưu tuyển của sự chiêm ngắm thầm lặng Thiên Chúa, của đức ái Tin mừng trong việc phục vụ các người nghèo, của lời tiên tri đầy tin tưởng vào tương lai của thời gian của chúng ta.

  • Sau cùng một chuỗi các hoạt động khác hướng đến tạo khả năng diễn tả cái quyết định đức tin và ý muốn sống đức tin. Cần phải có biện pháp cho cái khó khăn mà người trẻ gặp phải trước tính chất quyết định của các chọn lựa, bởi lý do một số chân lý vẫn còn tăm tối và một số các đòi hỏi xem ra vượt trên sức của họ. Sinh động viên giúp cho họ tiếp thu lấy sự chọn lựa đức tin như là một mầm mống, như là sự khởi đầu của một hành trình mới đòi hỏi những sự lấy lập trường cá nhân luôn luôn mới mẻ. Sinh động viên cũng giúp họ hiểu rằng cũng có những cách khác độc đáo để diễn tả cái quyết định cá nhân của niềm tin.

Mỗi một con người và nhóm sẽ phải tìm ra cách thức riêng của mình. Người thì tăng cường kinh nguyện thân thiết tình cha – con với Thiên Chúa của Đức Giêsu; người khác thì cảm thấy phải dấn thân cách lớn lao hơn để làm biến đổi cuộc sống hằng ngày của mình, người khác thì quyết định tạo khoảng không trong cuộc sống của mình cho sự tình nguyện, bằng cách đảm nhận lấy các dấn thân tự hiến cho nhóm hay nâng đỡ các người nghèo và các người bị loại ra bên lề.

  • Sự chín chắn và việc học sống đời Kitô hữu

Các vấn đề

Nhóm, một khi đi tới sự chín muồi, thì có khả năng tự điều hành mình và trở thành chủ thể trách nhiệm. Cho dù không thiếu những đối kháng và những mất mát niềm phấn khởi nơi các thành viên khác của mình, nhóm vẫn được nâng đỡ bởi tái nhắc nhở cho mình các chọn lựa nền tảng và trực diện không sợ hãi với các vấn đề và các đối chất.

Các giai đoạn này có đặc điểm là sự dấn thân đào sâu và biến thành hiện thực, sự chọn lựa đức tin sao để làm biến đổi đời sống của cá nhân và của nhóm.

Chúng ta gọi việc nỗ lực này là việc học tập sống đời Kito hữu. Giống như tất cả mọi sự học tập, nó dựa vào một khế ước và vào một việc thực hành. Nó còn là sự hòa hợp giữa nhóm, sinh động viên và cộng thể giáo dục để giúp làm chín chắn một đức tin luôn luôn nhất quán và kiên vững, thấm nhập vào trong toàn thể cuộc sống, để không có gì thoát khỏi việc tái cơ cấu hóa và tái minh định trở lại theo như câu trả lời mà mình đáp trả lại cho Chúa Giêsu.

Giai đoạn này có một số những gút đặc trưng mà chúng ta tìm cách diễn tả. Việc sinh động hóa có nhiệm vụ giải quyết chúng một cách tích cực.

Sự chuyển từ một đức tin khởi mầm chỉ mới được diễn tả trong một số cử chỉ thôi và được chia sẻ trong nhóm, sang một đức tin trưởng thành, có khả năng thấm nhập từ từ toàn thể cách suy nghĩ, đánh giá và hành động, cho tới khi bộc phát thành một phong cách sống gợi hứng từ Tin Mừng, sự chuyển biến ấy đòi hỏi nỗ lực của toàn thể nhân vị. Quả vậy, cần phải đi từ, xác tín sinh động có thể nói là khôn tả, sang một đức tin phản tỉnh, tự ban  cho nó cái lý chứng của nó.

Sau lời đề nghị ban đầu, hiếm có khi đức tin được trình bày cho người trẻ những ngôn từ có suy nghĩ và có phê phán, và như vậy người ta cũng rất hiếm khi nại tới sức mạnh của lý trí để hiểu tất cả những gì hàm ẩn ở trong đời sống tư và công.

Trong thời điểm này, tăng bội nhu cầu tái xét lại các lý chứng cũng như các nội dung đức tin. Không chỉ có các mặt tối của đức tin yêu sách như vậy, mà còn có cả việc nhận thấy rằng tại nhiều môi trường văn hóa giới thiệu mình như là người tín hữu là một dữ kiện của một thiểu số và người ta cảm thấy cần phải trả lẽ cho các biến cố vĩ đại của đức tin Kitô hữu và của những lời khẳng định của nó trong các bối cãnh ghi đậm dấu của hờ hững và thiên kiến.

  • Một vấn đề nữa là nhập thể các đức tin vào các cử chỉ và các biểu tượng thuộc loại tôn giáo. Kitô giáo đã biến cách thức phức tạp của cuộc sống và của tình yêu đối với đồng loại thành nơi dành cho câu trả lời cho Thiên Chúa của Dức Giesu. Đàng khác đức tin cũng hướng đến nhập thể vào trong các chọn lựa thường nhật, trong các cử chỉ và trong các biểu tượng minh nhiên tôn giáo. Đức tin Tin Mừng hóa các biểu tượng và các thực hành tôn giáo, trong khi tái suy xét chúng ở trong biến cố Con Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng nhiều người trẻ, kể cả những người tuyên xưng mình là tín hữu, đều thấy khó khăn diễn tả đức tin trong các thực hành tôn giáo như cầu nguyện và phụng vụ, việc thuộc về cách minh nhiên một cộng đoàn cụ thể các Kito hữu, việc đọc kinh thánh một mình hay trong nhóm, việc vâng theo các truyền thống của Hội thánh.

Vấn đề này, nhìn từ phía người trẻ thực rất sinh động; nhưng nó tạo thành một khó khăn cho mỗi người tín hữu phải tái suy xét lại những thực hành tôn giáo ở trong một nền văn hóa bị trần thế hóa.

  • Các thanh thiếu niên nhận thấy cái khó khăn cảm nghiệm mình là thành phần của một Hội thánh. Không loại bỏ việc nhiều người trẻ chống lại việc chấp nhận Giáo hội, nhất là trong các khía cạnh cơ chế của nó. Bởi đó mới đặt ra vấn đề thực hiện một hành trình của nhóm được hiểu như là phòng thí nghiệm của Hội thánh, trong đó từ những khía cạnh lôi cuốn nhất, ta cảm nghiệm được những bình diện khác nhau của tính Hội thánh (sự hiệp thông, tham gia, phục vụ…)
  • Giai đoạn này, sau việc chọn lựa tổng thể đức tin, là một thời điểm để đi từ việc nhận ra mình ở trong nhóm là tiểu Giáo hội sang việc nhận ra mình ở trong đại Giáo hội. Ta phải tìm ra xem những trung gian nào là cần thiết giữa nhóm và đại Giáo hội
  • Gút cuối cùng của các vấn đề chính là cái khó khăn của người trẻ chuyển dịch đức tin đang được nội tâm hóa thành các thái độ và các hành xử luân lý. Khó khăn này do sự xa cách giữa các lời giáo huấn của Giáo hội và cách sống của các người trẻ, và cũng do gắng nặng của một bổn phận chất lên vai họ, bởi lẽ bổn phận ấy xem ra ngược đời với xã hội hiện tại. Ta có thể nghĩ đến luân lý giới tính, và cả đến luân lý liên quan đến thực tại xã hội và thế giới lao động.

Nhóm sẽ được giúp trực diện cách nghiêm chỉnh với các yêu cầu luân lý của Tin Mừng và với việc thực hiện của chúng về phần của cộng đoàn Hội thánh hôm nay. Cũng phải giúp tạo cho nhóm có khả năng thực hiện tác động tích cực lẫn lên nhau giữa lương tâm và luật pháp, giữa truyền thống luân lý và nhu cầu tái xác định lại các điểm của luân lý. Vẫn còn đó cái nỗ lực phải tìm tòi, phải phát minh ra xem người trẻ phải dấn thân thế nào trong một tiến trình hoán đổi chủ quan, liên vị, và chính trị gợi hứng từ Tin Mừng và từ các đòi hỏi luân lý của Tin Mừng.

Các mục tiêu

Sau đây là các mục tiêu của giai đoạn này.

  • Tiến hành việc làm cho Đức Giêsu Nazarét, như đã được gặp gỡ trong tường thuật của cộng đoàn Hội thánh, thành tiêu chuẩn và quy luật của cuộc sống, niềm hy vọng đưa ta chiến đấu cho một sự đổi thay cá nhân, văn hóa và chính trị;
  • Hình thành một phong cách cụ thể cho đời sống Kitô hữu có khả năng làm cho đức tin hội nhập vào trong các yêu cầu của người trẻ thuộc thời đại chúng ta;
  • Đi từ một đức tin diễn tả trong nhóm sang một đức tin được tiếp nhận và được sống do chính bởi từng chủ thể, có liên hệ tới các vấn đề của cuộc sống hằng ngày và các vấn đề của nền văn hóa của xã hội,

Các hoạt động và các sự can thiệp

 Các mục tiêu này đòi hỏi các hoạt động và các sự can thiệp theo các hướng sau đây:

  • Chuỗi thứ nhất các hoạt động hướng đến thực hiện một suy tư có hệ thống về đức tin, sao cho đức tin thành của mình, và đi từ một đức tin bộc phát sang một đức tin có lý luận và có lý chứng. Nhóm tìm và đào sâu những khía cạnh tăm tối của đức tin, nghĩa là các vấn đề khác nhau của mối tương quan giữa biến cố nhập thể, Thiên Chúa và dung mạo của Ngài, và con người của người hôm nay. Có những câu hỏi mà ta không thể lẩn tránh, cho dẫu nay mình đã là các tín hữu: đó là liệu Thiên Chúa có thực sự mặc khải chăng, nghĩa là Ngài đã làm cho mình Ngài hiện diện ở trong lịch sử nhân loại? Phải chăng Ngài đã “làm người” cách đích thực nơi Đức Giêsu – Nazaret? Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu có thể có ý nghĩa gì cho lịch sử của con người? Ta nói được cái gì về sự sống lại? Và còn nhu cầu của “ơn cứu độ của Người “ thì sao?

Những gút vấn nạn khác liên quan đến định nghĩa và nêu ra các điểm ăn khớp với nhau của vấn đề “là những Kitô hữu” có ý nghĩa gì: đâu là những “chân lý” chủ yếu của đức tin; người Kitô hữu phân biệt khỏi những người khác như thế nào; cái gì mà người Kitô hữu chứa ở nơi mình như là một lời sấm tiên tri.

Các hoạt động có thể làm được thì nhiều. Trong nhóm, ta có thể thêm vào với việc suy gẫm về Tin Mừng, một việc học hỏi có phê phán, một cuốn giáo lý hay, một bản văn thần học. Điều này đòi hỏi rằng các cuộc họp, các cuộc tĩnh tâm, các buổi trại học tập, các buổi nói chuyện và thảo luận phải được thực hiện với các chuyên viên dưới sự chỉ dẫn của một chương trình có cơ cấu được thực hiện trong thời gian. Ngoài nhóm ra,  còn khuyến khích tham dự các cuộc gặp gỡ văn hóa và tôn giáo, các trường lớp nhỏ dạy thần học cho các người trẻ, các lớp Kinh thánh và huấn giáo, giúp ta trực diện với các đề tài có liên quan đến đức tin và cuộc sống.

  • Chuỗi các hoạt động thứ hai gắn kết với việc học tập các bình diện tôn giáo vĩ đại của đức tin: kinh nguyện và việc phục vụ. Nhóm dạy ta làm cho đức tin bén rễ vào các thời điểm và các cử chỉ có tính chuyên biệt tôn giáo.

Vậy nhóm phải tiên liệu cho có được một trường học dạy cầu nguyện đích thực và đúng nghĩa, một sự tiếp xúc với Lời Thiên Chúa và với các cử chỉ của Hội thánh, tương xứng với hành trình đã thực hiện cho tới nay.

Với những thời điểm tôn giáo vừa kể trên, còn phải thêm vào các thời điểm khác nhắm đến xây dựng Nước Thiên Chúa ở giữa con người. Khả năng đảm nhận lấy những dấn thân tình nguyện để phục vụ các người bên rìa và các người nghèo là một hành động có tính quyết định nhằm diễn đạt đức tin của mình. Tuy nhiên nhóm không chỉ tự giới hạn ở nơi hành động mà thôi, mà còn phải suy nghĩ về ý nghĩa văn hóa, xã hội, chính trị và tôn giáo của nhóm và về khung tổng quát trong đó có các hoạt động can thiệp của nhóm tham gia vào.

  • Kế đến là các hoạt động hướng đến việc đối chiếu luân lý và đến sự dấn thân thực hiện việc hối cải của cá nhân và của nhóm. Một thời kỳ học tập muốn rằng nhóm, dưới ánh sáng của các giá trị Tin Mừng mà giờ đây nhóm đã đồng chia sẻ một cách có suy nghĩ, dấn thân vào một công việc tái duyệt xét kiên nhẫn về đời sống của mình và hình thành nên một kế hoạch được gợi hứng từ Tin Mừng. Kế hoạch này tiên liệu nỗ lực nhắm đến thay đổi môi trường và cả cách sống, cách tương quan, cách đương đầu với các vấn đề hằng ngày của từng người. Nhóm còn gắn kết mình cách keo sơn vào trong một công việc tu đức, được hiểu như là việc kiên trì làm cho các hành động hằng ngày của mình hòa hợp với Tin Mừng.

Để chiến thắng những sự chống đối và những chậm chạp, nhóm có trong tay nhiều yếu tố sau đây:

  • Đối thoại để phát hiện các tiêu chuẩn luân lý trên thực tế đang điều hành cuộc sống cá nhân và tập thể và tác động đến các lãnh vực giao tiếp, giới tính và tình thương, lao động và chính trị;
  • Đối chiếu với các chuyên gia luân lý để đào sâu mối tương quan giữa lương tâm cá nhân, các giá trị và các quy luật của Tin Mừng và của Hội thánh, để suy nghĩ về các con đường luân lý có thể được mà ngày nay được đề nghị ra ở các môi trường khác nhau của đời sống cá nhân và xã hội;
  • Duyệt xét đời sống giúp cho từng cá nhân xác định về các thái độ và các cách hành xử luân lý riêng của mình, và có được lòng can đảm đổi đời để thực sự trung thành với lòng yêu mến mà mình có đối với sự sống và Tin Mừng.
  • Sau cùng là những hoạt động đưa tới cái kinh nghiệm ngày càng sâu xa hơn là được – là – Giáo hội và làm – nên – Giáo hội. Nhóm đã là Giáo hội rồi, nhưng nhóm không phải là toàn thể Giáo hội. Để hiểu Giáo hội là gì, cần phải cảm nghiệm về các biểu hiện của Giáo hội. Điều này đòi nhóm phải tiếp xúc với các môi trường Hội Thánh khác nhau: cộng đoàn giáo xứ, Hội thánh địa phương, sự hiện diện của các Kitô hữu trong thế giới văn hóa hay lao động, các nơi truyền giáo, Hội thánh toàn cầu, Hội thánh “đang chịu đau khổ” vì đức tin và vì sự tự do.

Nó cũng đòi nhóm phải suy nghĩ về các khía nói lên thực tại sâu xa hơn của cộng động Hội thánh: Sự hiện diện của Chúa, ơn gọi của Hội thánh trong thế giới, mối tương quan giữa Hội thánh và việc xây dựng Nước Chúa, sứ mạng của Hội thánh.

  • Việc Hội nhập vào cộng thể và ơn gọi cá nhân

Các vấn đề

Giai đoạn học tập là thời điểm yên tĩnh và phong phú của đời sống của nhóm. Các hoạt động tiếp nối nhau với một sự đều đặn nhất định, không có quá nhiều khủng hoảng. Đây là lúc tăng trưởng khả thể thực hiện các phân tích của thực tại, hình thành và thể hiện các kế hoạch trong nhóm và trong môi trường xã hội và Hội thánh. Nhóm càng ngày càng ít đóng kín trong nội bộ của nó hơn. Nhóm cũng trở thành tự lập đối với sinh động viên. Nhóm luôn càng ngày càng là một kinh nghiệm do chính các bạn trẻ điều hành.

Nhóm cứ tiến hành theo cách thức ấy cho tới khi lộ ra các triệu chứng của giai đoạn mới và sau cùng: giai đoạn trong đó nhóm đưa tới hoàn thành chu kỳ tiến hóa của mình và hành trình đào luyện của mình. Dần dần nhóm đi đến chỗ giải tán để đi tới một sự tăng trưởng thuộc loại tự nhiên. Quả vậy, các trách nhiệm của các thành viên của nhóm gia tăng, họ giờ đây bắt đầu thiết lập những mối tương quan mình ưa thích hơn với những bối cảnh xã hội và Hội thánh khác. Hơn nữa lộ ra các quan điểm mới, do các sự dấn thân vào nghề nghiệp và do sự tiến hóa của chính các nhu cầu về các mối tương quan và về đức tin.

Cá nhân nhận ra rằng hành trình của nhóm đã là tối cần thiết cho các lựa chọn lớn của cuộc sống. Nhưng giờ đây, chính cá nhân muốn đi xa hơn. Bỏ nhóm là một thách đố mà chính chủ thể phải đương đầu dưới ánh sáng của các giá trị đã được hình thành nên cùng với nhau.

Xét trên quan điểm đào luyện, thời điểm này rất tế nhị. Nó đòi các người trẻ phải có khả năng tổng kết các gia sản văn hóa và tôn giáo đã được chồng chất lên trong nhiều năm và phải được mang theo với mình trong tương lai; nó cũng đòi sinh động viên phải chú tâm giúp đỡ mỗi người tìm thấy con đường của mình, ơn gọi của mình trong xã hội và trong Hội thánh.

Sau đây là một vài gút mà cách giải quyết ảnh hưởng đến thành quả tốt cho giai đoạn này.

  • Gút thứ nhất chắc chắn phải là khả năng trực diện, dưới ánh sáng của các giá trị văn hóa và tôn giáo đã chinh phục được ở trong nhóm, với các vấn đề mới của cuộc sống: việc hội nhập và lao động (hay ở nhàn rỗi), nghề nghiệp, sự dấn thân sống đôi bạn ngày càng chin chắn hơn cho tới quyết định cùng tạo lập với nhau một gia đình, sự tiếp xúc với các lãnh vực xã hội mới.

Cuộc sống và những thách đố của nó được nhận định một cách thực tế hơn, ít có tính che chở và bảo vệ đối với lứa tuổi thiếu niên. Sự đụng độ giữa các thước đo của xã hội với các giá trị cá nhân đã từng được làm cho chin muồi trong nhóm có thể trở nên gay gắt và làm cho các giá trị đã đạt tới tại nhóm này hiện lên như vô ích.

  • Kế đến là việc các phân tử của nhóm tìm tòi ra ơn gọi của bản thân mình như một người nam/ người nữ và như là các tín hữu. Vấn đề không chỉ được đương đầu ở trong giai đoạn này mà thôi. Toàn thể hành trình của nhóm đều giúp cho các ơn gọi. Tuy nhiên trong giai đoạn này, sự chọn lựa ơn gọi ngày càng nên thôi thúc hơn và chin muồi hơn. Đối với một vài người, đó sẽ là ơn gọi tới đời linh mục và/ hay đời tu sĩ; đối với những người khác, đó sẽ là ơn gọi vào đời gia đình hay vào nghề nghiệp.

Trong những lãnh vực rộng lớn này, sự lựa chọn hãy còn rộng mở, đáp lại những câu hỏi sau. Sự cộng tác tích cực của tôi nhằm xây dựng Nước Thiên Chúa và cộng đoàn Hội thánh hệ tại gì? Tôi sẽ gia nhập và trong các khung cảnh xã hội vào Hội thánh nào, một khi tôi dần dần đi hết hành trình của nhóm, để diễn tả tốt hơn cho tình yêu của tôi đối với sự sống và đối với Chúa của sự sống?

  • Một gút khác đến từ sự biến mất của nhóm, từ sự tiến hóa của nhóm để tái sinh lại dưới một hình thức khác, hay từ việc từng cá nhân xuất ra khỏi nhóm nếu nhóm vẫn tiếp tục là lời đề nghị cho các người khác. Tiếp nhận cái chết hay là sự chia cắt khỏi nhóm này không phải là một chuyện dễ. Ta cảm thấy tự nhiên là mình đi đến những mối tương quan liên vị và xã hội khác, bởi vì chính cuộc sống làm cho chúng ta gặp các bạn hữu khác và các tín hữu khác. Tuy nhiên ta nhận thức được rằng có cái gì đó của kinh nghiệm nhóm này phải tiếp tục. Vậy phải làm sáng tỏ là cái gì sẽ phải tồn tại như cái được coi là cốt yếu, và phải tồn tại như thế nào.
  • Sau cùng dần dần khi nhóm bị tan, thì sẽ hiếm các điểm hẹn gặp của đời sống Kitô hữu, nhất là của việc phục vụ tha nhân, của cầu nguyện và suy nghĩ với niềm tin về cuộc sống.

Vậy phải học khám phá biết bao phẩm chất mà nhóm cống hiến cách thường xuyên và cách dư tràn trong các cuộc tĩnh tâm thiêng liêng, các cuộc họp trại, các cuộc gặp gỡ với linh mục hay sinh động viên.

Giờ đây, trước ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành, quả có ít thời giờ. Khi mà các cuộc hẹn gặp của nhóm không còn nữa, sẽ dễ sao nhãng việc phục vụ người khác và việc suy tư về các biến cố Kitô hữu. Vậy phải hướng tới các điểm hẹn và các thời điểm tôn giáo nào để duy trì sinh động niềm tin của mình trong đời sống xã hội và với tư cách người lớn.

Các mục tiêu

Các mục tiêu và sinh động viên và nhóm quyết tâm đạt tới trong giai đoạn này là:

  • Nhìn nhận ý nghĩa tích cực toàn diện của hành trình sinh động hóa làm nên một tổng hợp.
  • Giúp sống cuộc sống như một ơn gọi, là tiếng Thiên Chúa gọi ta cách huyền nhiệm hãy luôn luôn mỗi ngày mỗi trở thành những người nam và người nữ tín hữu cách trọn vẹn hơn, bằng cách gặp gỡ Thiên Chúa trong chính diễn tiến của cuộc sống hằng ngày;
  • Cổ xúy việc các cá nhân hội nhập vào các môi trường khác nhau trong đó các người Kitô hữu trưởng thành hiện diện trong xã hội và trong Giáo hội;
  • Kích thích khát vọng và quyết tâm đào luyện trường kỳ về văn hóa và về niềm tin.

Các hoạt động và các sự can thiệp

Để đạt các mục tiêu này, cần có các hoạt động và các sự can thiệp theo vài hướng sau đây.

Chuỗi các hoạt động thứ nhất đưa nhóm thực hiện bước chuyển tiếp từ chỗ thuộc về nhóm sang quy chiếu về xã hội. Nhóm nhắm đến tiếp nhận các phần tử cho họ thuộc về mình là cái đã được sống cho tới nay. Còn nhóm chăm lo sự quy chiếu về xã hội là nhóm hay phong trào trong đó hoạt động của tổng thể chậm lại được tập trung vào ít điểm quyết định, để tạo khoảng không cho các trách nhiệm của các cá nhân, được tháp nhập cách trọn vẹn vào trong xã hội. Các mối tương quan, dù là ít thường xuyên, được nuôi dưỡng bằng ý thức là mình đang làm việc trong một kế hoạch duy nhất, cho dù trong các lãnh vực và trong các môi trường khác nhau.

Nhóm như một chủ thể duy nhất cũng trực diện với bước dẫn tới sự kết thúc của nó: nhóm thảo luận các vấn đề có liên quan tới đó, sáng tạo ra các hình thức tương quan liên vị mới, nhìn nhận những đòi hỏi của mỗi người, gặp gỡ lại cùng nhau cho những thời gian cầu nguyện, đào luyện, mừng lễ.

  • Chuỗi các hoạt động thứ hai hướng tới tập trung chú tâm của nhóm vào các vấn đề đôi lứa và gia đình, xã hội và Hội thánh. Nếu trong giai đoạn trước, sự chú tâm hướng tới việc hấp thụ đức tin và các nội dung của nó, thì giờ đây nó hướng tới dữ kiện để tìm cách phân tích, đánh giá và tái kế hoạch chúng trong ánh sáng của Tin Mừng. Bàn về cuộc sống, ta nói đến việc biện phân thiêng liêng, để nhận ra các dấu chỉ tích cực và mục tiêu cực của sự hiện diện của Nước Thiên Chúa. Việc duyệt xét đời sống trong ánh sáng đức tin, hiểu theo nghĩa tổng quát hơn, trở thành việc thực hành để đi từ các sự kiện tới các nguyên nhân và các ý nghĩa, để rồi lại tái hội nhập vào trong các biến cố với cái nhìn mới của đức tin.
  • Cuộc gặp gỡ và đối chất với các kinh nghiệm xã hội được tăng nhân để có được những kích thích mới và tìm ra các khả thể mới để hội nhập vào trong cuộc sống xã hội.

Sự đối chất với các kinh nghiệm Hội thánh khác được tăng cường. Ta tiếp xúc với các kinh nghiệm ấy trong ánh sáng của các hành trang văn hóa và tôn giáo được tích lũy, với cả một ý canh tân muốn học hỏi, cùng với sự tôn trọng to lớn đối với các chọn lựa khác với chọn lựa của riêng mình.

Cuộc gặp gỡ với các thực tại Hội thánh, không chỉ giảm thiểu trong cuộc đối chất các ý tưởng, mà còn phải lớn lên trong sự cộng tác đích thực xoay quanh các kế hoạch được cùng nhau nuôi dưỡng và đưa tới chin muồi.

  • Làm việc cùng với các nhóm khác và với cộng thể, cung cấp các việc phục vụ trong lãnh vực xã hội và Hội thánh khác thường, không kể cái kinh nghiệm về Hội thánh, tất cả các sự kiện trên là cơ hội và là sự kích thích giúp nhận ra ơn gọi riêng của mình.
  • Chuỗi các hoạt động thứ tư nhằm đến cổ xúy việc tìm kiếm và khám phá ra ơn gọi riêng và một sự chin muồi đầu tiên của việc chọn lựa ơn gọi. Đây là những hoạt động mang tính chất chuyên biệt tôn giáo, như những thời điểm cầu nguyện, những cuộc tĩnh tâm thiêng liêng. Đó cũng còn là những cuộc gặp gỡ với các nhân vật có ý nghĩa; các vị tiên tri của một xã hội mới, các người nam và người nữ mà với họ, ta nhận ra chính chân tính mình trong sự chọn lựa đức tin, còn có những kế hoạch tông đồ trong đó ta dấn thân và sự đối chiếu phải thực sự giúp chúng ta khám phá.

Việc chọn lựa ơn gọi còn là việc tìm kiếm của một cộng thể Kitô hữu trưởng thành trong đó ta được hội nhập. Nhóm có định mệnh là phải giải thể cách tự nhiên hay tái sinh lại dưới hình thức xã hội và Hội thánh khác, mang tính chất địa phương hay cá nhân, trong đó ta sẽ tham dự trong tư cách người trưởng thành.

Sau khi đã duyệt qua hết giai đoạn này sang giai đoạn khác, sự tiến hóa của nhóm bằng cách nhận ra các vấn đề, các hoạt động và các sự can thiệp, ta đã có thể thấu hiểu nhóm “sinh động” giống như một cơ cấu tăng trưởng, tự chiến đấu và có khi tìm cách để tiến hành giữa các nghịch lý.

Một nhóm có khả năng tái sinh vào trong các lãnh vực dấn thân đa diện và khác nhau chính là một nhóm đã thực hiện được một hành trình chin muồi đích thực. Mỗi người trẻ có trước mắt mình biết bao nhiêu con đường: phục vụ các bạn trẻ trong tư cách giáo dân, chia sẻ đam mê giáo dục của sinh động viên, ghi danh vào phong trào gia đình Salêdiêng to lớn được nhận thức như là cách thể là Hội thánh, theo một phong thái nhất định; đưa vào các bối cảnh xã hội khác một tinh thần đã được hấp thụ xuyên qua hành trình sinh động hóa; cống hiến cho thế giới lao động và chính trị một sự đóng góp của kinh nghiệm giáo dục đã giải phóng trách nhiệm, và trong lành hóa việc phục vụ khỏi những mục tiêu thứ yếu.

Mỗi người đều có nhiệm vụ quyết định ở trong lòng màu nhiệm của lương tâm của mình. Sinh động viên và nhóm đã từng giúp cho họ giải phóng trách nhiệm và trong lành hóa việc phục vụ khỏi những mục tiêu thứ yếu, sẽ theo dõi họ với tình liên đới đã được tạo ra bởi kinh nghiệm tăng trưởng trong nhóm.

GIÚP CÁC NGƯỜI TRẺ TRỞ THÀNH NHÓM

5

VẼ..

Giúp cho các bạn trẻ trở thành nhóm

  • Tạo thành nhóm: ước vọng và thực tại

Nếu nhận định cho kỹ thì làm thành nhóm đối với các bạn trẻ không phải là chuyện dễ, cho dẫu họ có khao khát và liên tục cảm thấy nhu cầu. Xác tín về khó khăn này, sinh động viên phải coi nhóm là đích tới của công việc đào luyện của mình, chứ không phải là tiền đề không thể thiếu để có thể đưa ra các đề nghị văn hóa và tôn giáo

Các khó khăn thật nhiều. Chúng ta cứu xét chúng cách sâu sát, phân biệt giữa các vấn đề thuộc bản chất tâm lý và các vấn đề thuộc bản chất xã hội, cho dẫu chúng có khi chồng chéo lên nhau.

  • Hoàn cảnh tâm lý của các người trẻ ở trước nhóm giống như hoàn cảnh nêu lên trong chuyện ngụ ngôn về hai người giầu có: một trong buổi tối lạnh và ẩm ướt, họ cảm thấy cần phải sưởi ấm cho nhau để qua đêm lạnh giá, nhưng mỗi khi họ tìm cách lại gần cùng nhau, thì họ lại châm chọc nhau.
  • Người trẻ cũng dập dờn giữa cái nỗi âu lo của cô đơn và nỗi hãi sợ lệ thuộc. Nỗi âu lo của cô đơn thúc đẩy họ tìm một chỗ để họ được hòa nhập cách tuyệt đối và sung sướng với những người khác, cách riêng với các bạn đồng lứa tuổi. Nhưng cái hãi sợ bị lệ thuộc làm cho họ cảm thấy ở cùng nhau là khổ sở, và thấy mình bất lực hiệp thông với nhau; họ không chịu được cùng nhau dấn thân, bởi vì việc đó xem ra xách động sự tự do và tự lập của họ. Như vậy, nhóm là một khát vọng, một nơi giải tỏa các căng thẳng chống lại bất cứ hình thức của giới hạn và mọi việc cơ cấu hóa mối tương quan với tha nhân.
  • Hoàn cảnh tâm lý ngày nay được sống một cách đầy bi kịch tính hơn trước bởi các bạn trẻ nay đang bị ngợp trong xã hội văn hóa là cái dưới nhiều khía cạnh đang ưu tiên cho lối sống cá nhân và việc tìm kiếm sự thành công cá nhân, sự tự khẳng định của chủ thể. Chính xã hội thúc đẩy tới một sự chuyển biến mau chóng cách thức suy nghĩ và hành động. Nó gợi ý hãy cẩn trọng chọn lựa và hãy uyển chuyển trong việc tham gia nhóm, sao cho đừng quá tự ràng buộc vào đó, đến độ loại bỏ những khả thể cho các chọn lựa khác.

Tất cả các điều trên thúc đẩy các người trẻ từ chối những gì đại diện cho các quy định và luật lệ, như những cơ chế xem ra có vẻ chận đứng hành trình của nhân vị và gắn chặt hành trình ấy vào quá khứ. Mỗi một việc thuộc về nhóm đều được sống tùy sở thích tuyển chọn của mình, tới mức người ta chẳng thuộc về nhóm nào, mặc dù lui tới rất nhiều nhóm

Cái khó khăn làm thành nhóm còn được nhận định đựa theo hướng của cơn khủng hoảng của các tiến trình xã hội hóa đầu tiên tại gia đình và trường học. Trong các bối cảnh này, người trẻ thường cảm thấy các cơn khủng hoảng của việc bị bỏ rơi, sống cô đơn, và nhất là họ không nhận được một sự đào luyện thích đáng về mặt tác động lẫn lên nhau giữa các con người và về việc thông tri của nhóm. Do đó họ nghèo nàn đi về khả năng thiết lập và các liên hệ vững bền và sâu xa, và nhất là khả năng hội nhập cách nghiêm chỉnh vào các sợi dây tương quan của cơ chế. Sự tìm đến nhóm do đấy mang lấy quá nhiều ý nghĩa: nào là tìm nơi trú ẩn, sự nâng đỡ, lãnh vực cho tình bạn, trốn lánh thực tại xã hội rộng mở…

Có lẽ do vậy mà các bạn trẻ cảm nghiệm thấy một sự khó chịu đặc biệt đối với các nhóm thuộc các cơ chế: nhóm lớp học, nhóm trong Hội thánh, và tất cả các nhóm (như nhóm tình nguyện, nhóm đảm trách nhiệm vụ chính trị và văn hóa) với một chương trình và một cách tiến hành vĩnh viễn từ trên ban xuống. Sự thuộc về một lớp học đi kèm theo sự chọn lựa thái quá các mối tương quan và có vẻ đóng kín giữa các nhóm nhỏ với nhau mà thôi, khiến lớp học không thể nào tạo thành một chủ thể giáo dục duy nhất cả. Cái khó chịu mà một số bạn trẻ có đối với các nhóm trong Hội thánh, biểu lộ ra nỗi đau đớn vì các sợi dây ràng buộc của nó: xem ra mọi sự như là sự áp đặt, và dù cho có các nhận thức sành điệu đi nữa, và xem ra chẳng có chỗ cho sự tự do, sự tìm tòi, và sự đối chiếu các ý tưởng.

Ý thức được điều này, sinh động viên nhận ra có một nhiệm vụ đặc biệt là tạo khả năng cho các phần tử của nhóm tạo ra được sức sống cho một sự tác động tích cực lẫn lên nhau. Sinh động viên theo đuổi mục tiêu này nhân danh bản thân mình và chia sẻ nó với nhóm.

Để hoàn thành nhiệm vụ này, họ làm việc xoay quanh vài yếu tố:

  • Sự thông tin trong nhóm.
  • Cơ cấu của nhóm.
  • Hoài bão của nhóm.
  • Sự thông tin trong nhóm

Ngay từ giây phút đầu tiên khi nhóm mới phát sinh, sinh động viên đã đứng trước một thực tại: giữa các bạn trẻ muốn cùng nhau xây dựng thành nhóm phát sinh một mối tương quan khác nhau và xẩy đến những phản ứng đa diện do các dữ kiện khác nhau, như tính tình của mỗi người, nỗi sợ hãi một trách nhiệm quá lớn, khát vọng thu lợi lớn nhất về cho mình, sự nhận thức còn mơ hồ về những mục tiêu đang theo đuổi.

Một số những dự kiện này tác động vào bước tiến hành của nhóm và bởi đó sinh động viên cần phải lưu tâm tới cách riêng: đó là những mong mỏi liên quan đến nhóm hoặc trong tổng thể, hoặc nơi các thành viên của nhóm; đó là những sự tự vệ phát sinh từ tính nhậy cảm và từ các quan hệ với nhau.

Những mong mỏi phải giải tỏa

Những mong mỏi chứa đựng ở trong niềm khát vọng làm thành nhóm chính là các biểu hiện của các nhu cầu riêng của chủ thể, trong số đó có thể nêu rõ một số sau đây:

  • Nhu cầu phải được nhìn nhận ở trong nhóm. Để phân biệt mình như các cá nhân, người trẻ cảm thấy cần được mọi người, cách riêng là các bạn đồng trang tuổi nhìn nhận và quan tâm đến. Việc sống trong – liên-hệ với gắn kết, với đòi hỏi phải được nhìn nhận. Được nhận ra với uy tín và với tầm quan trọng. Thật trọng yếu, sự kiện là họ được nhìn nhận như các cá nhân rõ ràng, với các đặc tính riêng;
  • Nhu cầu ảnh hưởng trên những người khác. Để khẳng định cá nhân của mình, người trẻ cảm thấy cần thi hành một thứ quyền hành nhất định nào đó. Điều đó bao hàm quyết định đảm nhận lấy cho mình một vai trò của người ra lệnh và người nhận lãnh, một quyết định không luôn luôn được nêu rõ ra.
  • Nhu cầu được thương mến. Giữa muôn hoàn cảnh bất ổn trong đó con người sống, người ta tìm tới nhóm và điều ấy luôn hàm chứa cái khát vọng được bộc lộ ra và đón nhận lấy tình bạn và tình thương yêu giữa các bạn đồng trang.
  • Sinh động viên đánh giá cách tích cực và với sự sâu sắc của nhà giáo dục, cắt nghĩa những chờ mong này. Họ biết rằng nhu cầu mà các bạn trẻ gắn kết với đó, thường lộ ra dưới cách thức đơn giản và nghèo nàn: muốn có bầu bạn, ước mong chơi đùa và tham gia thể thao, sự tìm kiếm chiến thắng nỗi nhàm chán của thời giờ nhàn rỗi. Có khi các chờ mong lộ ra chính xác hơn và phát sinh từ cảm nhận những nhu cầu nền tảng như khát vọng được nên chín chắn cùng với nhau, biết nhau tốt hơn, khám phá ra ý nghĩa của các sự việc và của đời sống.

Trong mỗi trường hợp, các bạn trẻ luôn tha thiết tìm kiếm mối tương giao với người khác, và nhu cầu tìm kiếm tương giao này càng trở nên sâu sắc ở nơi mà môi trường xã hội và Hội thánh, đặt các bạn trẻ vào cảnh cô đơn hay nhấn chìm họ vào trong khối đông, ở nơi mà khả thể đối thoại và kết tình bạn, khả thể được yêu thương và được nhìn nhận bị giàm trừ thành tối thiểu.

Đây là những bổn phận của sinh động viên

  • Có lấy ý thức về những chờ trông này và về câu trả lời nhóm có thể cống hiến. Trong nhóm, trên thực tế, người ta không đi tìm mối tương quan đôi lứa, hay một mối quan hệ nhất thời, hay tìm mối tương quan thuần túy của công việc, mà là cuộc gặp gỡ bền bỉ trong thời gian giữa các con người, tới mức sống một kinh nghiệm của sự hòa nhập hầu như thành một cơ thể mà thôi, mà không vì thế mà phá hủy đi nhân cách riêng của mình;
  • Giúp làm sáng tỏ các động cơ cá nhân thúc đẩy các bạn trẻ họp thành nhóm. Mỗi người đều có chuyện đời của mình, các kinh nghiệm sống cho tới giờ phút đó tại gia đình, tại trường học, tại xứ đạo. Khi khát vọng làm thành nhóm trổi lên theo hướng phải thi hành một nhiệm vụ, sinh động viên phải chú tâm làm lộ ra nhu cầu và khả năng kết tình bạn cá vị.
  • Tạo cho các bạn trẻ khả năng đọc các nhu cầu của người khác, sau khi chính mình đã giải mã được các chờ trông của bản thân mình. Sự mở ra cho người khác là điểm tới đòi hỏi nhiều gian khổ, hơn là một dữ kiện từ đó khởi hành. Sinh động viên, sau khi đã đánh giá sự chuyển động bộc phát đưa tới việc quy tụ lại thành nhóm, sẽ suy xét đến tính mỏng dòn, mập mờ của nhóm, và biết ghi nhận tính nhậy cảm thúc đẩy con người trẻ đi tìm các kẻ khác.

Rèn luyện khả năng thiết lập mới tương giao.

Nhưng ta không đạt được một mối tương quan cho phép tạo sự thông giao giáo dục sâu xa bao lâu còn chưa giải tỏa được những sự tự vệ: học thiết lập những liên hệ chân thành, là một sự tăng trưởng đòi hỏi nơi sinh động viên một đường lối hiện diện và những hiểu biết sư phạm.

Trong lúc  gia nhập nhóm, cộng với những nhu cầu, mỗi bạn trẻ đều mang nơi mình cả những âu lo và dè dặt đối với những người khác. Những yếu tố đó một đằng bảo vệ nhân vị riêng của họ; đằng khác chúng lại là sự biểu lộ những giới hạn của họ trong khả năng thiết lập những mối tương giao.

  • Các hình thức vặn vẹo của một tương giao không trực tiếp và cởi mở, mà được sống xuyên qua hình ảnh mà người ta muốn có về chính mình; các hình thức đó được coi là những chiếc mặt nạ. Những chiếc mặt nạ này được tạo ra bởi các nhu cầu đã nói tới ở trên (nhu cầu phải được kể đến ở trong nhóm, nhu cầu ảnh hưởng trên những người khác, nhu cầu được thương mến).

Do đó trong nhóm có thể có người:

  • Giữ thế thủ, đứng xa khỏi mọi người. Nỗi sợ không được biết đến hay cảm thấy mình không được biết đến thúc đẩy họ làm ra vẻ muốn một mình mình tự làm lấy công việc cả mình, hay đưa đẩy họ làm cho người ta thấy rằng những người khác không hiểu họ;
  • Đặt mình làm trung tâm chú ý: mối lo không được kể đến đưa đẩy họ đưa mình ra phía trước, đặt mình cho người khác thấy.
  • Lộ ra như chịu khuất phục: họ thà trốn chạy khỏi mọi trách nhiệm vì nỗi hãi sợ không biết đáp ứng những trông chờ của những người khác;
  • Tránh mọi mối giây ràng buộc quá chặt chẽ và cá nhân: họ khá thân ái với mọi người, nhưng rất chú ý không muốn ký thác tâm sự với ai. Họ không muốn làm phiền hay bị ác cảm.
  • Chỉ muốn tình bạn thân thiết và các mối tương quan rất sâu kín: họ nghĩ như thế sẽ được đánh giá tốt hơn, và cho thấy được mức chín chắn của họ.
  • Đứng trước các thái độ tự vệ này, nhiệm vụ của sinh động viên được tóm lại ở nơi một chỉ dẫn nền tảng này: rèn luyện từng người và cả nhóm thực hiện một sự thông giao thuộc các loại giáo dục.

Nhóm là một hệ thống của các tác động lên lẫn nhau. Chúng có thể đưa tới sự gây hấn, xung đột, đóng kín, tự thỏa mãn với mình, nhưng cũng có thể cổ xúy các giá trị tích cực. Sự thông giao có thể hỗn loạn và thiếu  minh bạch đến nỗi có thể tạo nên một mối khó khăn ghê gớm ngăn trở người trẻ thực hiện được một tổng hợp sinh động; nhưng nó cũng có thể có phẩm chất nhờ các nội dung, các cách thức và phong thái. Sinh động lực của nhóm do đó không chỉ được đo lường bằng tổng số các tác động lẫn lên nhau, hay bởi sự dồi dào của sự thông giao, mà còn bởi cả phẩm chất của chúng nữa. Do đó sinh động hóa một nhóm chính là giúp cho nhóm phát triển một sự thông giao tốt lành xuyên qua những tác động lên nhau tích cực.

Đây là nỗ lực của cả nhóm, nhưng cách riêng là nhiệm vụ của sinh động viên vì khả năng chuyên môn cũng như sự độc lập của sinh động viên đứng trước các đợt sóng thông giao của nhóm. Nhiệm vụ của sinh động viên là tạo các điều kiện để sự thông giao trong nhóm càng ngày càng có tính giáo dục hơn.

Ta có thể kể ra đây một số các điều kiện:

  • Nhìn nhận và tận dụng sự khác biệt và sự độc đáo của mỗi con người trong nhóm. Mỗi người trong nhóm mang với mình một hành trang văn hóa và một kinh nghiệm tôn giáo, một sự pha trộn cá biệt của các mối căng thẳng, các lý tưởng và các kế hoạch. Sự khác biệt tạo nên vốn liếng của sự thông giao, cái vốn đang lưu hành và được khuôn đúc thành một cái nhìn “chung”

Trong trò chơi của cái khác biệt, thì cũng có sự tham gia của cái độc đáo của sinh động viên. Họ là nhân chứng của nền văn hóa và của đức tin xuyên qua một tổng hợp từng được suy nghĩ và được sống bởi chính bản thân họ. Họ không là một thày dạy theo một bản văn và làm cho người khác học bản văn đó. Họ là một người thông truyền cái mình đang sống.

  • Cổ xúy sự sẵn lòng thông giao và làm cho các người khác được chin chắn trong khả năng này. Bầu khí tín nhiệm không điều kiện đưa đến việc ký kết một loại giao ước thông giao. Vì hiệu lực của giao ước này, không những không còn những nỗi hãi sợ kẻ khác, mà còn có cả ý muốn chia sẻ các mối tương giao, các tình cảm yêu thương, việc đào sâu văn hóa, những chọn lựa tôn giáo. Người ta thực sự quan tâm làm phong phú hóa cho người khác; rộng mở để cho mình đượ thêm phong phú bởi tình bạn của kẻ khác, bởi các giá trị và các kế hoạch mà ta nhìn nhận làm của mình. Sự thông giao chỉ có thực một khi nó là sự trao đổi lẫn cho nhau, một khi nó xẩy ra giữa các đối tác khác nhau, những người cảm thấy sự đối thoại và đối chiếu thực sự có ý nghĩa cho mình. Ta học để thông giao và tiến bộ trong thông giao. Đó là một con đường khổ hạnh liên quan đến các thái độ và ngôn ngữ, cũng như cả đến các thói quen của suy tư và của thẩm định;
  • Duy trì cho cái khát vọng học tập được sinh động và thoáng đạt, thay đổi các lược đồ suy nghĩ và đánh giá, thay đổi toàn diện cảnh sống. sự thông giao đạt tới mục tiêu của nó khi nó biến đổi các con người; khi các người này đan kết nên các mối dây liên hệ kiểu mới, có khả năng thăng hóa nhân phẩm của mỗi chủ thể, cùng nhau kiểm nhận các lý tưởng và các hoàn cảnh hực tiễn. tất cả các đối tác tham dự vào going lưu chuyển của thông giao, trong đó các sinh động viên, đều phải sẵn sàng cho sự thay đổi. chính nhóm cũng thực sự  giáo dục sinh động viên là người hiến dâng các nghị lực riêng của mình vào phục vụ cho nhóm.
  • Giúp nhóm tạo cho mình một cơ cấu.

Bởi nhóm không phải là một kinh nghiệm nhất thời nhưng liên tục, nên trong diễn tiến của nó, nó cần được cơ cấu hóa. Vào lúc đầu, có lẽ mới chỉ có các nỗ lực không theo một qui củ, một ước định; nhưng sau này nhóm phải là một sự chọn lựa có nghĩ suy.

Cơ cấu là một phác thảo độc đáo phân biệt nhóm khỏi nhóm khác. Sự tăng nhân các mối dây liên vị khởi nguồn cho một màng lưới các mối tương quan. Dần dần khi mạng lưới này được củng cố, thì nhóm được trao ban một dung mạo bên trong; và đồng thời có sự phân biệt giữa cái ở trong nhóm và cái ở ngoài nhóm.

Giữa các yếu tố của cơ cấu, một số nét có tầm quan trọng cách riêng, đứng trển quan điểm sinh động hóa;

  • Các hấp lực giữ cho nhóm đoàn kết và xác định tính chất chặt chẽ của nhóm;
  • Việc xác định ra một mục đích chung và do đấy các mục tiêu của nhóm;
  • Việc thiết lập một vai trò lãnh đạo được mọi người chấp nhận;
  • Sự có mặt của các quy luật được đồng chia sẻ, có khả năng làm cho mọi người tích cực dấn thân; các thủ tục hướng dẫn việc lấy quyết định.

Sự chặt chẽ của nhóm

Các hấp lực và kết quả của chúng – là sự chặt chẽ – giữ cho nhóm được đoàn kết, thúc đẩy các thành viên biểu lộ tư cách thành viên tham gia nhóm của họ, trong khi phân biệt mình một cách nào đó với những người khác.

Các hấp lực này thuộc ba loại: loại tình cảm, loại lý tưởng, loại hành động. Các hấp lực thuộc loại tình cảm là sự thiện cảm hay ác cảm giữa con người với nhau. Các hấp lực thuộc loại lý tưởng là các giá trị và quan điểm về cuộc sống má các thành viên đồng chhia sẻ, khi họ vun trồng cùng những giấc mơ “xem sau này, các hoài bão”. Các hấp lực thuộc loại hành động là các sức mạnh cho các con người thông đạt với nhau cùng một tiến trình hoạt động.

Sinh động viên quan tâm đến việc tạo nên hay không tạo nên một cơ cấu, và đến cái phác thảo đặc trưng của nhóm, tận dụng các sức mạnh tình cảm của lý tưởng và của hoạt động, và kiểm soát các sức mạnh tạo nên sự phân hóa của nhóm. Họ giúp cho mỗi thành viên để cho mình được thu hút bởi nhóm, cảm thấy mình là thành phần của nhóm, sẵn sàng chấp nhận các từ bỏ tham gia các tương giao và các hoạt động khác. Họ giúp cho mỗi người ý thức về cơ cấu màng nhóm phải đảm nhận, gòm cà cái cơ cấu được công bố và chính thức lẫn các cơ cấu không chính thực và ngấm ngầm, sao cho cả hai thứ cơ cấu bao có thể trùng hợp với nhau.

Mục tiêu của nhóm

Việc xác nhận các mục tiêu, làm rõ các hoạt động ưu tiên và các quan tâm mà nhóm mới triển khai, củng cố sự chặt chẽ và phác họa sâu sát hơn nữa cơ cấu của nhóm.

Một nhóm hiện hữu bao lâu nó thành công xác định mục đích chung của nó, có thể chia sẻ và trên thực tế được chia sẻ bởi mọi người. dẫu sao, nhóm vẫn luôn hiện hữu “vì”  một mục đích nào đó, dù cho điều đó không được minh nhiên công bố ra đi nữa. Các mục đích có thể rất khác nhau: từ các mục tiêu để có các bạn hữu nhằm qua thời giờ với nhau, cho đến các mục tiêu biểu lộ những quan tâm thể thao, văn hóa, tôn giáo, cũng như các mục tiêu nhằm làm việc cùn nhau như các người tình nguyện phục vụ cho những người bên rìa hay những người nghèo.

Đưa ra ánh sáng cái mục đích thực sự mà nhóm theo đuổi không phải là chuyện dễ, cũng như không dễ, trước đó nữa, việc đi đến xác định mục tiêu chung của nhóm. Sinh động viên phải liên tục dấn thân lo tìm ra các mục đích thực sự và đạt các mục đích đó dưới sự thẩm định có phê phán của nhóm, lo sao để làm cho chúng nên phong phú, và khám phá ra những sự bất đồng giữa các mục tiêu được công bố và các mục tiêu đang được theo đuổi.

Sự điều hành của nhóm

Mỗi nhóm tự nhiên làm phát sinh ra sự lãnh đạo cho mình. Sinh động viên đứng ra bảo đảm sao cho việc lãnh đạo, thay vì tập trung vào một người, đượ phân phối ra, để càng nhiều người chia sẻ ảnh hưởng trên nhóm, theo như các khả năng khác nhau và nhằm thực hiện các hoạt động khác nhau. Họ thấy nơi các người điều hành trẻ một sự trợ giúp quý báu cho một công việc sinh động hóa tốt đẹp của nhóm; bởi thế họ sử dụng một cách tích cực đến ảnh hưởng của những người này.

Để cho việc điều hành có thể được phân phối, sinh động viên xin nhóm giúp mỗi người khám phá ra nhiệm vụ riêng của mình khi đối chiếu với những người khác. Th61 là xuất đầu lộ diện một vài người với khả năng tổ chức và thực hiện các hoạt động; họ là người điều hành công tác. Một vài người khác thì lại có được sự nhạy cảm trong việc thiết lập các mối tương quan thanh thản với mọi người và tạo ra được bầu khí thuận lợi ở bên trong nhóm; họ là các điểm của sự đồng qui và thông cảm, nhất trí.

Các qui luật của nhóm

Sinh động viên lo sao cho nhóm biết tạo ra cho mình các qui luật: đó là luật liên quan đến các buổi hẹn, họp nhóm, nhật lệnh, sự phân phối chi li các nhiệm vụ. cũng có cả các việc liên quan đến việc lấy quyết định chung, đến việc lân chuyển các trách nhiệm. cũng có tầm quan trọng  các qui luật qua đó nhóm diễn tả lối sống hằng ngày của các thành viên của mình, ay qua đó nhóm dấn thân vào các lãnh vực nhất định hay các cách thức làm việc.

Sinh động viên chú tâm để trong khi phác thảo các luật của nhóm, nhóm thực sự thực hiện một hành trình giáo dục.

Thiết lập rồi chấp nhận các luật lệ có tham vọng ảnh hưởng đến đời sống cá nhân không thể coi là một dữ kiện kể như đã có sẵn đó rồi đối với các bạn trẻ, cũng không thể như các qui luật được áp đặt để đổi lấy các lợi ích khác.

Có thể xoay quanh các luật lệ ấy, trổi lên chuỗi các đối kháng, các tranh luận, các sự từ chối. đối với sinh động viên, một tiến trình như thế có chứa đựng các yếu tố tích cực cần phải làm cho chín muồi. đằng khác, các lật không có mục tiêu đảm bảo sự dễ dàng kiểm soát nhóm. Chúng chính là một cái giới hạn có tính xây dựng đặt ra cho chủ nghĩa cá nhân, là một cái phanh chận đứng lại thói rập khuôn của nhóm; chúng tạo điều kiện để có một mối tương quan có phê phán, tích cực, đối với những gì là cơ chế, luật lệ, bổn phận mình đảm nhận và bị bó buộc; chúng nhắc nhở tới sự hợp lý, chống lại việc hành xử tùy tiện các vai trò và sự ứng biến thiếu suy nghĩ các kế hoạch (improvrisazione dei progetti). Hành trình giáo dục của nhóm được sinh động hóa dẫn đến minh định sự tự do, nhưng cũng tận dụng cả đến các cơ chế nữa.

Các quyết định của nhóm

Các thủ tục lấy quyết định đáng ta quan tâm tới cách riêng. Nhóm được mời gọi trở thành, một chủ thể lấy quyết định duy nhất và dân chủ. Sinh động viên giáo dục nhóm tới một hành trình lấy quyết định đứng đắn, bằng cách lưu tâm đến bốn giai đoạn sau đây:

  • Nắm bắt về sự cần thiết và khẩn tương phải quyết định . Đây là thời điểm phân tích thực tại để ý thức được về tình thế không chắc chắn, đau khổ; lãnh đạm; về sự có mặt của một xung khắc, về một vấn đề của tổ chức. Thường thì nhóm không nhận ra hay rời lại các quyết định. Sinh động viên nhìn thấy được tình thế không chắc chắn ấy, giúp cho lưu chuyển các thông tin cho phép tất cả mọi người tiếp thu được vấn đề và nhu cầu phải quyết định. Đồng thời làm an tâm trước các nơi có thể sản sinh ra từ các quyết định, nhất là khi các quyết định ấy chạm sát tới con người.
  • Xác định đối tượng của quyết định. Nhóm phải thắng được cái cám dỗ dấu diếm vấn đề, nhất là khi vấn đề này xẩy ra vì thiếu sự can đảm đặt lại vấn đề về chính bản thân mình và về mối tương quan với những người khác. Điểm phải tới là việc miêu tả khách quan vấn đề, với những tin tức cần thiết để có thể quyết định.
  • Tạo ra và đánh giá các khả thể chọn lựa. Sau khi đã dọi ống kính vào vấn đề, thì cần phải tìm ra các giải pháp có thể có. Cần phải mở rộng trí tưởng tượng để tìm ra các khả thể chọn lựa hiện có. Sinh động viên giúp vượt thắng nỗi sợ suy nghĩ theo một lối khác, cái nguy cơ chỉ biết giới hạn mình trong việc tựa vào các giải pháp của người khác, trái lại họ kích thích các khóe nhìn và các đóng góp mà mỗi người có thể cống hiến.
  • Sự chọn lựa cuối cùng. Sau cùng nhóm lấy một quyết định giữa bao khả thể, chấp nhận sự kiện là mỗi quyết định đều luôn có giới hạn và có một phía thôi. Bởi vì quyết định không chỉ đề ra “cái phải làm” mà cả “cách phải làm” xuyên qua những sáng kiến nào và với các nhiệm vụ nào được dành cho từng người, và đây cũng là một thời điểm của học tập kiên nhẫn.
  • Những hoài bão của nhóm

Sinh động viên có một sự nhậy bén đặc biệt để đọc trong chiều sâu cái nhu cầu làm thành nhóm của các người trẻ, tới mức làm lộ ra từ đó một bình diện cho tới nay vẫn còn ẩn dấu: là tìm ra các lý tưởng làm cho cuộc đời đáng sống, dù là gian khổ, tìm ra một hoài bão ôm ấp toàn thể nhân loại.

Tìm kiếm sự gặp gỡ cùng chia sẻ với những người khác quả là hướng đến việc xây dựng một thế giới mới dù là nhỏ bé như ý mình muốn đi nữa, mang đậm các giá trị được đảm nhiệm cách sâu xa. Từ đấy phát sinh ra mục đích và các mục tiêu của nhóm. Tuy nhiên như thế không có ý nói là nhóm biết nhìn về phần thâm sâu của chính mình và nhận ra ở đó có các mầm sống cho các hoài bão đang có nguy cơ biến mất. Sinh động viên có nhiệm vụ phải tạo nên và tận dụng sức mạnh lôi kéo này của họ.

  • Sinh động viên cổ xúy trí tưởng tượng của từng cá nhân và của cả nhóm.

Tạo khoảng không cho trí tưởng tượng không chỉ có nghĩa là nói lên chuyện gì phải làm, mà còn là nâng bổng mình lên để tiến vào việc thông giao thuộc trật tự cao hơn, nơi ta được giúp để nhận ra điều gì là tốt và cần được đảm nhận. Khi việc “ở cùng nhau” và việc “phải làm gì” được soi sáng bởi hoài bão xem ra không thể nào đạt tới được, thì khi ấy chúng cho thoát ra cái sức mạnh giáo dục của chúng.

Việc quan trọng là nhóm phải biết đem các hoài bão của mình trở lại với cuộc sống hằng ngày. Điều đó vừa là như điều kiện để thực hiện các hoài bão, vừa là như nền giáo dục cá nhân mà mình phải tính toán với thời gian và với các sự vật

Ai chỉ tuyên bố có các mục đích cuối cùng hay các chân lý vĩ đại, mà không nhận ra các cản trở hiện tại cũng như các thuận lợi trực tiếp và thực sự, tất không thành công đưa mình vào trong bình diện của cái đang hiện hữu. Ai không có khả năng nhìn vào đích nhắm, bởi vì họ bị giam bắt tại đây và bây giờ, thì người đó không bao giờ biết phải đưa các bước đi nhỏ bé của mình bước về đâu.

Đối với nhóm cũng y như vậy: các lý tưởng, các mục tiêu, các hoài bão làm chuyển động các nghị lực nội tâm; đồng thời cái tính toán về các khả thể dạy ta đo lường bước đường ta đi.

  • Đàng khác, sinh động viên phải rèn tập cho nhóm đi từ hoài bão hay giấc mơ sang các chọn lựa ngày càng có ý thức hơn và quyết định đứng trước các thách đố, dù lớn dù nhỏ, của xã hội hôm nay. Đây không phải là chuyện nhắc đi nhắc lại hay khơi động thái quá các phân tích có phê phán, nhưng là việc vun trồng một thái độ, đưa vào một phản ứng làm cho họ có khả năng tham gia vào cả các vấn đề phức tạp mà thoạt nhìn ta như không thấy giải pháp trong một thời gian ngắn.

Con tim của quyết định là tình yêu đối với sự sống: xác tín cho rằng mỗi một mầm mống, dù trên bình diện cá nhân cũng như của nhóm, dù là trong thực tại của xã hội cũng như của Hội thánh đều đáng sống và đáng triển khai, bất chấp các giới hạn của nó.

  • Sinh động viên, trong tư cách người tín hữu, bằng lòng các sự kiện là các bạn trẻ bị thu hút bởi các lý tưởng lớn (sự công bình, sự liên đới, tình huynh đệ…) và bằng nỗ lực cụ thể làm chuyển biến thực tại. Họ giúp các bạn trẻ khám phá ra tính tôn giáo ẩn dấu bên trong cái yêu cầu về một nhân loại mới và bên trong cái khát vọng về một thế giới của công bằng, hòa bình và huynh đệ. Việc đào sâu này có thể tiến bước theo hướng lý tưởng của Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu sống và thực hiện.
  • Trong ánh sáng của biến cố này, sinh động viên thành công làm cho thấm nhập vào tâm trạng và cách hành xử của nhóm, cảm thức về niềm vui và cảm thức về cái giá mà các hoài bão này đòi hỏi. Nhóm khi ấy cảm thấy mình đang ở cùng nhau để thực hiện một cái gì đó rất quan trọng, vượt ra bên ngoài cái khát vọng sự tìm thỏa mãn tức thời, và dần dần học chiến đấu và học bước vào con đường khổ hạnh
  • Để thực hiện điều này, sinh động viên giúp nhóm tạo cho mình những khoảng không mới từng lúc một thoát ra khỏi áp lực của các việc phải làm. Để trong tư cách nhóm, khám phá ra được các giấc mơ và các hoài bão, cần phải tìm ra được thời giờ và các cơ hội để mà cùng nhau làm được điều ấy. Quả vậy trong môi trường vẫn có một cách hành động bao gồm chính việc giải phóng trí tưởng tượng, mà cái chất liệu đầu tiên cần tới, để nhờ đó mà con người có thể xây dựng và rồi xếp đặt các chương trình một cách hợp lý.
  • Sau cùng, sinh động viên biết rằng các hoài bão, các giấc mơ, các mục tiêu ảnh hưởng và phải ảnh hưởng đến sự chặt chẽ của nhóm. Với việc nhóm lần lần nắm bắt lấy các lý tưởng của mình và hòa hợp bản thân nhóm với các nội dung vĩ đại của tôn giáo và văn hóa về một hoài bão thực tiễn, nhóm đốt sáng lên các giá trị diễn đạt tình yêu của nhóm đối với cuộc sống và đức tin Kitô hữu.

Sự chặt chẽ, trước tiên được đặt nền tảng trên tình bằng hữu ban đầu, giờ đây bén rễ nơi những chọn lựa cùng được chia sẻ. Ta nhận mình là nhóm khi ta có một quan niệm chung về cuộc sống và một kế hoạch cho tương lai. Tuy nhiên sự đào sâu này không thể coi là một dữ kiện đã có được rồi. Sinh động viên nhắc nhở nhóm đừng có ảo vọng về tính kiên vững của mình, là đừng phủ lấp các khác biệt về suy nghĩ bằng sự từ bỏ chính bản thân mình, là phải tận dụng cách tích cực những tác động lẫn lên nhau mà nhóm đã thành công thực hiện trong hoàn cảnh cụ thể.

Giúp các bạn trẻ trở thành nhóm, bằng cách lột bỏ những mặt nạ và giải tỏa những mong chờ, là một nhiệm vụ chỉ xem ra dễ dàng khi chợt nhìn lúc ban đầu mà thôi. Xây dựng cái kỷ niệm chung, cái “chúng ta” của nhóm, làm trồi lên cái cơ cấu và giữ cho thức tỉnh cái giấc mơ nhóm đã làm khi quyết định một hành trình giáo dục chung là kết quả của sự đợi chờ kiên nhẫn, của một tình yêu sâu xa, của một niềm tin tưởng lớn lao nơi nguồn tiềm năng của mỗi người trẻ.

Hành trình đã trải qua cùng với nhau trong thời gian này, giữa những thời điểm của khó khăn, và có lẽ giữa những thời điểm của niềm vui cùng được chia sẻ, cống hiến cho nhóm và cho sinh động viên dịp cụ thể để khám phá ra rằng trong sự thông giao giáo dục nguyên tắc này giữ vững giá trị là: “chẳng ai tự mình giáo dục lấy mình cách đơn độc. Chúng ta tất cả cùng nhau giáo dục cho nhau”

6

NHIỆM VỤ THỨ HAI

 

TRUNG GIAN GIŨA NHÓM VÀ MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC, VĂN HÓA, GIÁO HỘI

Trung gian giữa nhóm và môi trường giáo dục, văn hóa và Hội thánh

  • Nhóm – môi trường: mối tương quan phải kích động.

Dần dần khi nhóm tự củng cố ở bên trong, thì xuất hiện một nhiệm vụ thứ hai: việc tác động lẫn lên nhau cách tích cực với môi trường để trao đổi với môi trường các đề nghị, các trực giác và các chờ mong.

Nhiệm vụ này, có tính quyết định trong mọi kinh nghiệm giáo dục, được coi là có tầm quan trọng nền tảng trong việc sinh động hóa Salêdiêng, đã từng luôn luôn là một khoa sư phạm của môi trường và tự đề ra cho mình mục tiêu là tạo khả thể cho người trẻ trở thành “Kitô hữu tốt và công dân lương thiện”, nghĩa là chuẩn bị để họ tháp nhập mình cách tích cực vào trong năng động lực của xã hội và của Hội thánh.

Trên thực tế, khoa sư phạm Salêdiêng tạo nên các môi trường trong đó các bạn trẻ một đàng cảm thấy mình ở nhà của mình, đàng khác tiếp nhận các đề nghị giáo dục kích thích họ thực hiện các việc chọn lựa và tham gia. Bởi thế, việc tiêu thụ các nghị lực ở bên trong nhóm, hay chỉ tự giới hạn vào việc lôi ra ngoài cái mà các thành viên của nhóm mang sẵn bên trong mình, các hoạt động ấy là chưa đủ xét như là  một hành trình giáo dục của nhóm.

  • Để hiểu tiếng môi trường, ta nên đem nó lại gần với tiếng khác: cộng thể giáo dục, cộng đồng Hội thánh, và tổng quát hơn, cộng đồng nhân loại. Cái hiện lên hiển nhiên trong các quan niệm này chính là cuộc gặp gỡ giữa các con người.
  • Môi trường và cộng thể tới lượt chúng lại có thể liên kết với các hạn từ cơ chế và lãnh thổ, tại đó ta nhấn mạnh đến khía cạnh cơ cấu, tổ chức, xã hội tính. Các hạn từ này liên kết chặt chẽ với nhau: môi trường là một hiện thân của một lãnh thổ, cũng như cộng thể là hiện thân của một cơ chế giáo dục hay mục vụ.

Có việc sinh động hóa khi các bạn trẻ sống tại một lãnh thổ và tham dự vào một cơ chế giáo dục , thành công để hội nhập vào trong đó, cho tới mức tương tác với những đề nghị giáo dục đang lưu hành tại đó, được nhập thể trong những con người và trong cách sống của họ

Sinh động hóa một nhóm là giúp cho các bạn trẻ sao cho họ đạt tới mức diễn đạt được tại môi trường và trong cộng thể các quyết định cá nhân như là một con người và như là người Kitô hữu.

Việc sinh động hóa cũng thành công đưa người trẻ hội nhập cách tích cực và có phê phán vào trong lãnh thổ và các cơ chế giáo dục và mục vụ qua con đường cộng thể, môi trường, các tương quan cá nhân và xuyên qua việc trao đổi các đề nghị, các trực giác và các đợi chờ.

Không khi nào chỉ có thuần túy việc trao ban hay chuyển giao từ phía môi trường hay cộng thể sang cho các thế hệ mới, bởi luôn luôn còn có  cả sự nhìn nhận và sự tận dụng các trực giác văn hóa và tôn giáo của các người trẻ nữa.

  • Sinh động viên đang đứng trước một tình thế phức tạp: các nhóm quả thực nay đang chịu cảnh bị bứng rễ khỏi môi trường.

Một vài môi sinh thể hiện việc xã hội hóa ban đầu (trường học, gia đình), nay không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của chúng nữa trong các tuổi ấu nhi, thiếu nhi, thiếu niên của các người trẻ. Do đó sự thông giao trở nên khó khăn và các thông tin trở nên không thể hiểu được. Thường người lớn và các nhà giáo dục, nói một ngôn ngữ, tuyên bố những lời quả quyết, hoàn thành các cử chỉ mà người trẻ xem ra không hiểu được, chứ không phải là họ không muốn chấp nhận.

Để vượt thắng cơn khủng hoảng có lẽ chẳng giúp gì việc cho các người trẻ có được thật nhiều các kinh nghiệm tham gia các nhóm thuộc nhiều giai tầng xã hội, hay tăng nhân các sứ điệp đang dội xuống trên các bạn trẻ từ tứ phía. Nếu các việc tham gia vào các nhóm xã hội, và các sứ điệp đưa ra các đề nghị sống không thể hòa hợp được với nhau thì giòng chảy quá đáng của các tin tức cũng chẳng cho phép họ tái xếp đặt lại một cách cá nhân tất cả những gì họ đã nghe và đã học được.

Sinh động viên hằng ngày nhận ra rằng nhiều bạn trẻ và nhóm trẻ hầu như từ chối hay hờ hững với cái gì là cơ chế và do đó với cái chuyển lưu các nghị lực nhờ vào các quy tắc và luật lệ. Họ rất khó chấp nhận mình bị hạn chế nhằm đạt đến cái tốt  thuộc trật tự cao hơn. Các bạn trẻ hôm nay chọn thuộc về các cơ chế như gia đình, trường học, giáo xứ theo ý của họ. Họ chọn các cơ chế đó và nhìn nhận giá trị của chúng bằng cách lui tới chúng, nhưng tại đó họ xem ra từ chối trực diện với các đề tài  nền tảng của đời sống. Họ xây dựng các đề tài này nơi chỗ riêng tư của họ.

Sinh động viên cũng ý thức được rằng đứng trước các vấn đề này, nhiều cơ chế giáo dục và mục vụ chưa được chuẩn bị. Các cơ chế ấy xem ra chưa ý thức được về sự mất rễ văn hóa của người trẻ, và vẫn tiếp tục nhai đi nhai lại những sứ điệp của muôn thời, và tệ hơn nữa, với các hình thức ngôn ngữ không tương xứng. Nền đào luyện các cơ chế ấy đề nghị chỉ cố gắng trao ban những nội dung làm sẵn hơn là tạo khả năng cho các người trẻ đối chiếu các giá trị của truyền thống với các trực giác và chờ mong cá nhân của mình để tạo nên một sự phong phú hóa cho cả hai bên. Cho nên các cơ chế ấy cảm thấy khó giúp cho các bạn trẻ tái khẳng định lại hôm nay các nội dung không thể từ chối được của kinh nghiệm văn hóa và tôn giáo của nhân loại:

  • Tất cả những gì được trình bày cho tới bây giờ giúp ta nhận thức được rằng nhiệm vụ thứ hai của sinh động viên – giúp cho nhóm trao đổi các đề nghị với môi trường – là rất quan trọng và gồm các sự can thiệp theo nhiều chiều hướng.

Ta có thể diễn tả khởi từ các môi trường đang cần tới sự trung gian để tiếp cận với nhóm trẻ: đó là gia đình, các cơ quan giáo dục, cộng đoàn Kitô hữu, lãnh thổ, môi trường văn hóa rộng rãi.

Chúng ta tự giới hạn mình trong việc nêu ra vài phương hướng:

  • Giúp cho nhóm rộng mở với môi trường văn hóa và tôn giáo;
  • Ảnh hưởng trên môi trường để các đề nghị được thực hiện phong thái sinh động hóa;
  • tạo các điều kiện để nhóm tham dự vào cuộc sống của môi trường giáo dục;
  • giúp các nhóm tương tác với các nhóm khác “ở bên trong” Phong trào giới trẻ Salêdiêng.
  • Giúp cho nhóm trở thành “rộng mở” cho môi trường văn hóa và tôn giáo

Nhất là khi nhóm đã được thiết lập để ở với nhau và để đồng chia sẻ một quan tâm hàng đầu, nhóm có nguy cơ trở thành, nếu không phải là đóng kín lại một cách có ý thức, thì cũng là điếc trước các thông tin có chất lượng nhất của bối cảnh.

Ta biết được rằng nhóm cống hiến sự bảo vệ tối thiểu chống lại cảnh không ai hay biết bản thân mình hay cảnh cô đơn, một khoảng không để đáp ứng nhu cầu nhân vị hóa. Vậy nhóm được coi là môi trường của tình bạn đối lại với môi trường bên ngoài và với các cơ chế xã hội và Hội thánh, mà nhóm đứng cách xa ra, bởi vì các môi trường bên ngoài ấy được coi là không biết đến tên tuổi của con người, nếu không phải là thù địch với con người.

Để đề phòng nguy cơ này hay phản ứng lại trước những biểu hiệu khép kín đầu tiên, nhóm cần được kích thích để:

  • Ý thức được về các triệu chứng tiêu cực có thể xẩy ra là không thông giao với môi trường: lãnh đạm đối với các đề tài lớn của môi trường, không sẵn sàng tiếp nhận hay đồng chia sẻ.
  • Ý thức được rằng đóng kín mình lại là nguyên lý của sự nghẹt thở, thiếu các ý tưởng và sinh động lực: làm chín muồi quyết tâm “sống thoáng đạt và rộng mở”, “ở ngoài trời”, ở nơi gặp gỡ của các cuộc hội thảo, hoặc để phác họa ra các nội dung, hoặc để thi hành các hoạt động, đó là điều tối cần thiết để sống tự do và sẵn sàng đối thoại.
  • Triển khai các cuộc gặp gỡ ăn khớp và đa diện với môi trường văn hóa và Hội thánh: tham dự vào các nơi chốn cộng đoàn của nó, trong các sự căng thẳng cảm nhận nhất của nó.
  • Thiết lập các liên hệ với những dung mạo có ý nghĩa, những người vì tầm mức, vì vai trò của họ hay vì chứng tá đời sống, cho phép nhóm, nhận thức một cách rõ ràng và sát với cuộc sống con người hơn vì sự phong phú của cộng thể, bởi họ đã thành trung gian giữa cộng thể và nhóm.

Việc kiểm soát các sứ điệp.

Với việc nhóm dần dần chin muồi trong ý thức là mình chỉ có thể sống trong mức độ mình liên tục đảm nhận các thông tin và các nghị lực từ môi trường, nhóm luyện tập để biết kiểm soát các sứ điệp và các đề nghị của môi trường xuyên qua các sự sàng lọc được cùng nhau thiết lập nên:

  • Thái độ phê phán: không có sứ điệp nào được đón nhận chỉ vì nó hấp dẫn hay được đề nghị dưới hình thức thuyết phục xuyên qua các xảo thuật nhà nghề. Nó phải được giải mã và thẩm xét bởi nhóm đang học để phân biệt giữa các đề nghị phổ biến rộng rãi tại môi trường và các đề nghị rõ ràng, chính xác, để tránh cho tiến trình của đề nghị và sự đáp ứng cá nhân xẩy ra một cách hầu như vô thức;
  • Tính ý nghĩa: giữa các sứ điệp được nhận là đích thực và khách quan, cách riêng nhóm được tiếp nhận những sứ điệp giúp cho tăng trưởng các nhân vị. Điều này đòi hỏi khả năng loại bỏ thiên kiến và tiếp nhận các đề nghị dù cho chúng có yêu cầu phải tái cơ cấu lại đời sống của cá nhân và của nhóm, họ phải tái duyệt xét các điểm quy chiếu đã chinh phục được;
  • Trách nhiệm: những sứ điệp kích thích ta đương đầu với cuộc sống cách can đảm, chiến đấu để tất cả có thể tiếp nhận được các thiện ích của cuộc sống và của văn hóa, thì được tiếp nhận. Còn các sứ điệp hướng ta tới lơi là trách nhiệm, đưa ta vào thái độ “khoanh tay nhìn đời”, “có làm cũng chẳng đổi chi” thì cần phải loại bỏ.

Phác họa ra các đề nghị

Nhóm không chỉ phác họa ra các sàng lọc tuyển lựa. Một khía cạnh khác của sinh động viên là phải giúp nhận ra rằng nhóm khi tiếp xúc với môi trường, phải đem tới, và trên thực tế có đem tới các câu hỏi, các đóng góp và các nỗ lực. Do đó sinh động viên kích thích nhóm:

  • Biện phân giữa các câu hỏi do các điều kiện của môi trường đem tới các câu hỏi phát sinh từ chính cuộc sống, thế rồi nêu rõ ra một cách đứng đắn các câu hỏi thuộc loại thứ hai này;
  • Nêu rõ ra một số giá trị làm nền cho việc tái hình thành và tái cấu trúc các sứ điệp tích cực và các đề nghị có giá trị của môi trường. Các giá trị này tạo thành khuôn mặt của nhóm này có thể là: tình yêu đối với cuộc sống, niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, việc phục vụ tha nhân. Đó là những giá trị dựa theo đề nghị của việc sinh động hóa;
  • Tiếp thu các trực giác khởi sinh xuất phát ở trong nhóm của mình hay trong các nhóm khác. Các trực giác này là câu trả lời hay là sự đóng góp độc đáo cho các vấn đề của môi trường.
  • Tái diễn tả lại bằng chính tiếng nói và các cử chỉ hoàn toàn độc đáo các sứ điệp mình tiếp nhận và nội tâm hóa, và biết rằng một nội dung không được tiếp thu bao lâu ta chưa có khả năng nói nó lên bằng lời lẽ của riêng của mình, dù cho cách thức ta diễn tả có còn rất nghèo nàn chăng nữa;
  • Xây dựng cho nhóm một “bản ghi nhớ” trong đó các nội dung và các đề nghị được ăn khớp với nhau và làm cho tác động lẫn lên nhau, để hàn gắn lại các nguy cơ nghe mà không biết đối chiếu, hay chỉ biết chất đống lên thôi. Trong trường hợp này các kinh nghiệm và các sứ điệp cứ nối tiếp nhau khiến nhóm không đi tới làm chin muồi cho mình một khung quan niệm có cơ cấu để mà đối chiếu.
  • Một môi trường trong phong thái của sinh động hóa

Nhiệm vụ của sinh động viên vượt qua biên giới của nhóm. Họ tìm cách thi thố ảnh hưởng của mình trên môi trường và cống hiến sự giúp đỡ cho bất cứ những ai, dưới những danh nghĩa khác, đến tương tác với các bạn trẻ và các nhóm, bằng cách đưa ra các đề nghị mang tính chất đào luyện. Với những người này, cũng như với bản thân, sinh động viên xin họ hãy hoạt động theo logich của việc sinh động hóa. Do đó họ đảm nhận và cho lưu hành giữa các nhà giáo dục, một số lưu ý liên quan đến cách thức đề ra các đề nghị.

  • Sinh động viên chú tâm để cho các đề nghị và các sứ điệp không chỉ là lời lẽ, mà còn là chứng tá của con người và của đức tin trong các cử chỉ và các mối quan tâm được sống hằng ngày của họ. Mỗi một chọn lựa của đời sống và mỗi một hành vi đức tin chỉ trở thành sự thông ban cái mới mẻ cho các người trẻ khi nào chính các người trẻ này gặp được một chứng tá đầy xác tín.
  • Sinh động viên chú tâm để các đề nghị được tạo nên xuyên qua một sự chọn lọc có ý nghĩa về các nội dung văn hóa và tôn giáo đáp ứng được cách tốt đẹp hơn cho các mong chờ và các vấn đề của người trẻ. Không phải mọi sự đều phải được truyền đạt hết vào cùng một lúc và với cùng một sự chăm lo. Mỗi một thời đại và mỗi một thế hệ đều nhìn nhận thấy có một vài nội dung có tính cách soi sáng hơn và có khả năng mở ra cách tiệm tiến cho chân lý toàn diện.

Tuy nhiên việc ưu tiên chọn lấy một vài nội dung hơn là cái khác không phải là một sự chọn lựa tư riêng của sinh động viên; đó phải là công việc biện phân của cả một cộng thể; cộng thể phải được kích thích để đặt ra câu hỏi này: Đối với các bạn trẻ này, đâu là những đề nghị có khả năng đặt vào trong đời sống họ một hạt giống chân lý và hy vọng và đồng thời mở lòng họ ra cho gia sản văn hóa của nhân loại?

  • Sinh động viên phải chăm chú để các đề nghị thực sự là những hạt giống gieo vào đất đã được chuẩn bị. Trước khi gieo, dù đất có thế nào đi chăng nữa, thì cũng cần phải cày bừa, phân bón, để đất đủ khả năng tiếp nhận hạt giống và làm cho hạt giống nẩy mầm và lớn lên. Trước khi cống hiến các câu trả lời hoàn hảo, thì cũng cần khơi dậy các câu hỏi và khơi lên và xác định các vấn đề văn hóa hoặc tôn giáo. Đồng thời vẫn biết rằng việc loan báo Tin mừng vượt ra ngoài những mong chờ và những câu hỏi của các bạn trẻ.
  • Sinh động viên chú tâm để các đề nghị được đề ra theo phương pháp tìm tòi, các đề nghị ấy phải được hội nhập ở trong các kinh nghiệm, hơn là được trình bày như “các hệ thống” tư tưởng hay các khung chứa đựng các quan niệm. Chỉ như thế chúng mới là một dụng cụ giúp cho việc tái tìm ra các ý nghĩa ở bên trong cuộc sống hằng ngày. Từ sự kiếm tìm và từ kinh nghiệm được chú giải, trổi lên những nội dung của văn hóa và của đức tin, có khả năng trả lẽ cho cuộc sống cụ thể và giúp tạo nên cho mình một khung đầy đủ các giá trị.
  • Đàng khác sinh động viên phải cộng tác để cho các môi trường cộng đồng ngày càng lớn rộng cũng hành trình dọc theo cùng những trục lớn của các đề nghị giáo dục dành cho các bạn trẻ. Chớ gì chúng ta đừng coi các trục lớn này như những sự chọn lựa tùy tiện của một vài người, mà như là các đòi hỏi ăn rễ sâu trong cơ cấu thâm sâu của sứ điệp và của bối cảnh văn hóa. Giờ đây chúng ta không ngừng lại trên các nội dung của đề nghị, bởi chúng sẽ được triển khai trong chương bảy sắp tới.
  • Sự tham gia của các bạn trẻ trong lãnh vực giáo dục

Khoa sư phạm Salêdiêng tìm kiếm sự trao đổi các giá trị, các chờ trông và các lối sống, giữa các con người, các nhóm và cộng thể, bằng cách cổ xúy sự đồng nhất của các người trẻ với môi trường giáo dục đã trở thành cho họ nơi của các cuộc gặp gỡ có ý nghĩa. Để đạt đến mục tiêu này, nó dùng đến một con đường độc đáo: là làm cho các người trẻ tham dự một cách sáng tạo vào đời sống cộng thể. Ý thức về điều này, sinh động viên cùng với nhóm tác động trên môi trường, để tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự tham dự. Đồng thời họ hướng dẫn nhóm tin tưởng mở rộng mình ra cho môi trường giáo dục, được hiểu như là cộng thể các nhân vị và như là “sự tổ chức” các vai trò và các hoạt động.

Nhóm trong cuộc sống của cộng thể giáo dục

Tiền đề cho một môi trường mang lấy phong thái của sinh động hóa chính là một cơ chế khai sinh ra một cộng thể giáo dục và hay mục vụ. Có các cơ cấu, các chương trình, các vai trò, các luật lệ là chưa đủ. Cái cần chính là cộng thể phải nổi lên như một yếu tố chính, một tổng thể những con người ở trong cái khung của một cơ chế tác động – dưới các danh nghĩa khác nhau – một sự thông giao giáo dục và của niềm tin

Các biểu hiện chính của sự tham gia tích cực vào đời sống của cộng thể là việc:

  • Tạo nên kế hoạch giáo dục – mục vụ.
  • Tham dự tích cực vào các thời điểm lấy quyết định.
  • Khai sinh ra các hoạt động riêng hài hòa với môi trường.
  • Sinh động viên thúc đẩy cộng thể tạo các khoảng không và các hình thức thích đáng để các bạn trẻ đã được quy tụ thành các nhóm, tham dự vào việc lập kế hoạch tổng quát của cộng thể. Họ hãy coi việc lập kế hoạch này là thời điểm cộng thể có tính quyết định cho cả sự chín muồi của các nhóm và của các cá nhân, bởi tại đó có sự đối chiếu với tất cả các nhà giáo dục, với tất cả các nhóm khác và với các thế lực văn hóa và tôn giáo hiện có ở chung quanh cơ chế giáo dục.

Đàng khác, sinh động viên kích thích nhóm:

  • Cống hiến phần đóng góp của mình vào việc lập kế hoạch của cộng thể.
  • Coi kế hoạch chung như điểm qui chiếu để lập kế hoạch riêng của nhóm và thực hiện một hành trình đào luyện đồng qui với hành trình đào luyện của cộng thể.
  • Tương đối hóa các chương trình và sự có mặt riêng của mình, coi chúng chỉ như là sự bổ sung với các chương trình của các nhóm khác và với những người khác để tạo nên một môi trường.
  • Thế rồi sinh động viên cho cộng thể ý thức được rằng tham dự, trước khi có nghĩa là có phần trong việc thực hiện các sáng kiến, còn có nghĩa là có thể quyết định về các sáng kiến. Cho nên việc thi hành các hoạt động được nghĩ rằng quyết định bởi một số người là điều chưa đủ…dù là các hoạt động đó rất có ý nghĩa. Tham dự là tham gia vào các quyết định từ đó phát sinh ra hoạt động và cách riêng, tham gia vào việc xác định các mục tiêu và các mục đích của các sáng kiến đó.
  • Cũng vậy không đủ là việc tham dự này chỉ là tùy dịp hay chỉ là cách để bày tỏ sự tín nhiệm cá nhân. Việc tham dự phải là một sự chọn lựa trên nguyên tắc, mà nếu không có nó, thì người ta quả đã ngăn trở các nhóm và các người trẻ không thể có được cái khả năng làm một kinh nghiệm bất khả thể và cực kỳ quan trọng. Quả vậy, có kinh nghiệm về việc đem sức lực của mình và trách nhiệm của mình để khai sinh ra một thế giới đã phức tạp, dù trong cái mức độ nhỏ bé của nó (trường học, nguyện xá, xứ đạo…) là chạm tới bằng tay mình nỗi khó nhọc của hành trình và dựng xây cùng với nhau. Sinh động viên ảnh hưởng vào cộng thể giáo dục bằng cả việc tham dự riêng của mình vào những thời điểm quyết định, để tăng nhân các thời điểm này, để tăng cường thích đáng năng động lực của chúng, để làm cho chúng phục vụ được cho các mục tiêu. Đàng khác, họ góp phần duy trì sinh động nơi tất cả mọi người cái ý thức về sức mạnh giáo dục của những quyết định được lấy cùng với nhau và họ cộng tác vào việc đương đầu cách khôn ngoan với những thời điểm chậm chạp không thể tránh hay với sự xung khắc mà phương pháp đồng tham dự có thể có.
  • Sinh động viên hết sức lo sao để nhóm không cảm thấy mình như là khách trong cộng thể, hay cam phận sang bên lề cộng thể, liều trở thành “hòn đảo”. Trái lại, họ tạo cho nhóm khả năng đảm nhận các thái độ và các cách thức tham dự, gieo vào nhóm niềm tin tưởng và hứng thú tham dự.

Điều đó tất nhiên đòi hỏi phải biết giải quyết một cách tích cực những bất đồng và khác biệt. Hiển nhiên là mỗi môi trường giáo dục đều có những giới hạn phát sinh từ các cơ cấu thiếu uyển chuyển, từ các thói quen của những con người, từ nhu cầu phải thực hiện những chọn lựa hòa hợp với mục đích riêng của nó.

Biết các giới hạn của nhóm không có nghĩa là chối tất cả những gì là tích cực nhóm, nhóm có thể cống hiến và nhóm có thể tái suy nghĩ và làm cho tốt hơn xuyên qua các con đường của đề nghị, và của các sáng kiến tuần tự. Sinh động viên có bổn phận giúp cho nhóm nhìn vào môi trường trong tổng thể của nó và cổ xúy việc tương tác: thực hiện các phân tích tổng quát, đạt tới các lượng định thanh thản mà không cam chịu, tìm các cách đối chiếu thấm đượm tôn trọng và thực tế

  • Dưới hình thức tổng quát hơn, cần phải biến nhóm thành nơi vang vọng và triển khai cái mà môi trường giáo dục cống hiến, vang vọng những yếu tố tích cực; triển khai cái mà môi trường chỉ mới cống hiến như những mầm mống, như những gợi ý.

Một phạm vi hay một cơ quan hay nhất không phát huy hết được mọi khả thể hay mọi bình diện giáo dục. Nhóm phải hoạt động trong sự tiếp nối với môi trường giáo dục, tiếp thu các lời mời gọi của môi trường, hoàn tất các đề nghị của nó, tổng hợp những gì nó cống hiến, dưới hình thức chưa thống nhất, trung hòa các giới hạn của nó.

Tiến trình giáo dục đòi hỏi những cái mới liên tục, và những sự phong phú hóa kế tiếp nhau. Các tương giao tăng nhân, các hệ phương pháp làm việc trở thành ngày một chính xác và hữu hiệu hơn. Khả năng phê phán và sự trình diễn luận giải lý thuyết tăng gấp bội, ngôn ngữ và các tổng hợp thêm xúc tích. Việc sinh động hóa phải biết tận dụng các đợt phong phú hóa liên tiếp được thể hiện này để tạo phẩm chất cho cuộc sống của nhóm và để cổ xúy sự tổng hợp giữa văn hóa và cuộc sống.

  • Môi trường giáo dục cống hiến các khoảng không gian tự do để đảm nhận và tạo hình thể cho những kích thích đến từ cộng đồng nhân loại (sự sống, hòa bình môi sinh) và để thỏa mãn những câu hỏi còn chưa được nhận định đầy đủ trong chương trình tổng quát (các cách biểu hiện, thời giờ nhàn rỗi…)Nỗ lực giới thiệu và đưa ra những câu hỏi này đặt nhóm vào trong năng động lực của cộng thể giáo dục và làm giàu cho cả môi trường.

Cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm để cảm thấy mình là cộng thể.

Sinh động hóa là một phương pháp hoạt động bằng các kinh nghiệm. Truyền thống Salêdiêng đã ưu tiên trong suốt lịch sử của nó một số kinh nghiệm đào luyện. Các kinh nghiệm này nếu được thể hiện ở trong cuộc sống giáo dục, sẽ có khả năng bộc lộ các giá trị nhân bản và của đức tin là nền tảng của tinh thần Salêdiêng. Đó là những kinh nghiệm – đề nghị mà cộng thể cống hiến để làm nơi học tập, trong khi chờ đợi chúng thấm nhiễm vào cuộc sống của mỗi người và nhập thể vào trong “kế hoạch” của từng nhóm.

Sau đây là các tiêu huẩn hướng dẫn cho sự chọn lựa chúng:

  • Chúng là những kinh nghiệm “trong hướng tích cực” nhắm làm cho các bạn trẻ và các nhóm gặp được với điều gì là đẹp, là chân thật, là tốt lành, hơn là làm cho chúng gặp gỡ với các khía cạnh tiêu cực của cuộc sống để rồi giúp cho chúng quyết định sống cho sự thiện. Đó chính là cái nhậy bén nền tảng của phương pháp dự phòng;
  • Chúng có thể thích nghi và liên tục được tái suy xét. Trong môi trường Salêdiêng, các kinh nghiệm không bao giờ được qui định hay được sống dưới hình thức cứng ngắc. Không hề có thủ bản cho hành động. Các người trẻ có khi được yêu cầu là hãy biết tính toán đến cái bất ngờ, đến những kinh nghiệm xuất hiện với họ dưới hình thức khác với cái mà họ chờ đợi.
  • Chúng tạo tinh thần trách nhiệm. Phải ưu tiên cho các kinh nghiệm lúc này hay lúc khác, khích lệ các bạn trẻ hãy diễn tả bản thân, hãy sáng tạo, hãy tham gia. Không quan trọng là các kinh nghiệm ấy có là “những thành công” hay không, nhưng điều nhắm đến chính là các bạn trẻ – nhờ sinh động viên giúp đỡ – được là những vai chính thức thực hiện các kinh nghiệm đó.
  • Chúng là những kinh nghiệm thúc đẩy sự thay đổi. Sinh động viên hướng tới các bạn trẻ tới các kinh nghiệm có khả năng vừa củng cố hành trình đang đi, vừa mời gọi và khích lệ họ hãy đi xa hơn nữa. Không phải vì thế mà các đề nghị nên dị thường và mâu thuẫn với nhau. Sự thay đổi đòi hỏi khả năng chuyển động theo cùng một chiều hướng, dù với những bước ngắn ngủi hơn là phân tán hay đảo ngược.
  • Các kinh nghiệm – đề nghị có thể qui về một số gút có liên kết chặt chẽ giữa chúng với nhau. Rất có thể là một kinh nghiệm kín múc ở hai hay nhiều gút kinh nghiệm mà chúng ta nêu ra bây giờ.
  • Gút thứ nhất liên kết các kinh nghiệm “hằng ngày ở với nhau” giữa các nhà giáo dục và người trẻ, không nhắm tới mục đích nào khác ngoài việc diễn tả sự nhìn nhận lẫn nhau. Đối với sinh động viên, kinh nghiệm này là thời điểm giáo dục, diễn đạt nguyên tắc hộ trực.

Cho dù biết bao hoạt động thúc bách và các trách nhiệm dồn dập, các nhà giáo dục và sinh động viên không chỉ ở giữa cái người trẻ vào lúc “làm việc” hay “hội họp”. Trụ sở của nhóm và sân chơi đều là những nơi giáo dục như nhau.

  • Gút thứ hai là kinh nghiệm về làm việc, gắn liền với truyền thống Salêdiêng là hoạt động không biết mỏi mệt của các Salêdiêng nam nữ đầu tiên, và được diễn đạt thành một linh đạo độc đáo. Các nhóm và môi trường theo phong cách Salêdiêng đều năng động, có khả năng tổ chức các sáng kiến riêng của mình và hoàn thành chúng. Điều chúng nhắm đề nghị xuyên qua “làm việc” là một quan niệm nghiêm chỉnh, dù không mang tính bi kịch, về cuộc sống. Kinh nghiệm làm việc được sống như là trách nhiệm của mọi người, việc phân công các nhiệm vụ tùy theo tài năng, và khả năng cưỡng lại sự mệt nhọc dù phải làm việc lâu giờ (nhưng vẫn phải tương xứng với sức lực của mỗi người.
  • Gút thứ ba là kinh nghiệm về trò chơi và ngày lễ. Làm việc và ngày lễ là hai trục tạo nhịp điệu cho cuộc sống hàng ngày. Không phải là sinh động hóa Salêdiêng cái lối sống, do áp lực của các công việc, không tìm ra cách để ngưng lại để các nhà giáo dục và các bạn trẻ sống cùng với nhau những giờ phút của vui tươi, ca hát, hoan hỷ. Các sinh động viên thấy trong ngày lễ một hình thức tái sinh lực, vượt thắng các xung khắc, thiết lập các mối tương quan cá vị. Nhưng nhất là họ khẳng định rằng ở cùng nhau mà không đòi hỏi hay trả giá, chỉ vì niềm vui cho không, vượt lên trên tất cả các khó khăn và nghịch lý, là quyền của tất cả mọi người, và rốt cuộc, là một hồng ân của đại lễ mừng sự sống lại của Chúa Giêsu.
  • Gút thứ tư là lời cầu nguyện hằng ngày và việc cử hành các bí tích. Kế hoạch cộng đoàn nhắm giáo dục người trẻ biết cầu nguyện “như một Kitô hữu tốt”, nghĩa là cầu nguyện dưới hình thức đơn sơ, cốt yếu và ai cũng làm được. Đồng thời kế hoạch này coi việc cử hành Thánh thể là nền tảng, giúp cho ta có thái độ nhìn nhận rằng mọi sự là ơn của Thiên Chúa, trong khi lãnh nhận bí tích Hòa Giải kích thích con người biết sống “dấn thân” và “nỗ lực”, và tái lập lại mối tương quan của họ với Thiên Chúa và những người thân cận
  • Gút cuối cùng gồm các kinh nghiệm “cùng làm với nhau”, nghĩa là đề nghị tất cả các kinh nghiệm vừa mới đề ra ở trên như hoạt động phải được thực hiện trong sự cộng tác. Môi trường và sinh động viên thúc đẩy hãy làm việc trong nhóm, theo ê-kíp. Hơn là làm việc riêng rẽ từng người một. Mục tiêu của mọi người trong nhóm không chỉ nhằm đạt được nhiều lợi nhuận hơn, hay bù đắp lại sự vô trách nhiệm của một vài người nào, mà là phát huy một tiến trình giúp cho từng người tìm được những đề nghị để suy nghĩ, hành động, biến đổi, quyết định. Không phải vì thế mà họ quên là có những nhiệm vụ cá nhân. Trái lại họ lo làm sao để cá nhân cảm thấy mình có được sự nâng đỡ và sự thúc đẩy có phê phán của những người khác, có tình liên đới với họ ở trong một cộng thể lớn, ở trong các nhóm, các ê-kíp, ở trong các cơ quan quyết định.
  • Sự tương tác và sự đồng qui giữa các nhóm

Các nhóm hoạt động ở trong một lãnh vực tương tác khác: đó là lãnh vực tạo nên bởi tổng thể các đoàn nhóm trong đó các người lớn và người trẻ thực hiện cùng một kinh nghiệm giống thế.

Cuộc sống đoàn nhóm nay đang ở trong một giai đoạn sôi nổi, có nhiều hội, nhóm đa diện – và có khi – cũng có sự xé lẻ của các hội, nhóm. Các nhóm có cùng một khuôn đúc, hay tìm thấy một điểm đối chiếu chung, cảm thấy có cái lợi của sự thông giao và có một sức mạnh to lớn hơn khi đảm nhận các trách nhiệm chung.

  • Nhiệm vụ của sinh động viên thật đa diện và hướng đến hai hướng: tới nhóm mà mình trực tiếp sinh động hóa và tới toàn thể các nhóm tạo nên phong trào giới trẻ Salêdiêng.
  • Nói chung họ duy trì sinh động các nguyên cớ tạo nên sự liên kết trên mọi mặt, dựa trên nền tảng của một sự qui chiếu chung. Sự rộng mở cho tất cả các thực tại hội, nhóm không phải chỉ là sự kiện nhất thời hay có tính chiến thuật đó chính là một đặc tính của nhóm.
  • Tích cực tận dụng các giá trị lưu hành trong các nhóm khác nhau và trong các trách nhiệm trong đó các người trẻ dấn thân, sinh động viên hãy kích thích khát vọng muốn làm phong phú hóa lẫn cho nhau; họ tập quen để cho mình bị chất vấn bởi những người khác, trao đổi với những người ấy kinh nghiệm riêng của mình, nới rộng các mối cùng quan tâm trong các cuộc gặp gỡ.
  • Trong khi nhìn nhận sự bổ sung cho nhau giữa các kinh nghiệm trong lòng sự hiệp thông của Hội thánh, sinh động viên giúp cho nhóm loại trừ những căng thẳng phát sinh từ sự ganh đua và từ khát vọng muốn nắm vai chánh.
  • Họ cổ xúy cách riêng các sáng kiến, các hoạt động đồng chia sẻ trên các bình diện suy tư và can thiệp. Việc đào luyện nhóm và các thành viên của nhóm phải xẩy ra trong chốn giao lưu và đối chiếu cách cởi mở. Việc bảo hộ, giới hạn, cắt xén, chẳng ích gì cho việc tăng trưởng của từng người và của nhóm.
  • Các nhóm có chung một linh đạo Salêdiêng tăng trưởng và trở nên đủ khả năng nói lên hành trình riêng của mình khi họ gặp nhau, biết nhau, đối chiếu cùng nhau. Sự tương tác giữa các nhóm này có một lịch sử và dựa vào thời điểm dành cho các mục tiêu trẻ, thời điểm khác dành cho các người thuộc về những nhóm giống nhau do các mối quan tâm, do tuổi tác, do loại dấn thân trách nhiệm.

Vậy sinh động viên phải:

  • Tìm hiểu về thực tại và bản chất của phong trào giới trẻ Salêdiêng: một điểm qui chiếu chung cho hành trình làm chin chắn đời sống Kitô hữu.
  • Cổ xúy sự tham dự vào các thời điểm chung; hoặc của các sinh động viên, hoặc của cả nhóm với những sự hiện diện và đóng góp có giá trị; chăm lo việc đào luyện cho các bạn trẻ có hướng trở thành các sinh động viên của các nhóm được nối kết với phong trào giới trẻ Salêdiêng theo như các đặc điểm của phong trào này;
  • Duy trì sự kết nối và thông tin với các trung tâm mục vụ đang tạo ra các sự khích lệ, các gợi ý và các chất liệu để tạo sự dễ dãi cho công việc giáo dục trong nhóm.
  • Nhiệm vụ trung gian giữa nhóm cộng thể giáo dục, môi trường xã hội – văn hóa và Hội thánh đòi hỏi rằng sinh động viên phải thống nhất và hòa nhập ở nơi bản thân mình các sự thúc dục đến từ các bối cảnh khác.
  • Họ được yêu cầu phải có khả năng làm cho mình là người mang các nhân tố khác nhau và không bao giờ buông lơi vất vả nhằm tạo nên các tổng hợp mới. Giữ cho nhóm rộng mở, làm cho nhóm đi vào cuộc đối thoại liên tục với môi trường, có nghĩa là không cho phép mình giới hạn các khóe nhìn ở trong các chân trời chật hẹp, dù là chúng có tạo nên nhiều dễ chịu hơn.
  • Bởi có khả năng nhìn “xa hơn”, sinh động viên giúp cho nhóm vượt ra khỏi các sự an ổn nhỏ bé riêng tư của mình để chấp nhận sự đối chất và các thách đố không bao giờ thiếu.

NHIỆM VỤ THỨ BA

GIÚP NHÓM LÊN KẾ HOẠCH LỐI SỐNG MỚI

7

VẼ

Giúp nhóm lên kế hoạch một lối sống mới

  • Lên kế hoạch: một sự khẩn trương đầy vấn đề

Việc lên một kế hoạch tạo thành một tiến trình nền tảng của hành trình đào luyện nhóm. Xuyên qua nỗi khó nhọc của việc tìm một lối sống trong một bối cảnh xã hội – và  – Giáo hôi, những thành viên của nhóm họ tự lên kế hoạch cho mình, nghĩa là đi xa hơn chính cuộc hiện hữu của mình;  họ học chọn lựa và xây dựng cho mình một phong thái sống. Tất cả điều đó được gồm tóm trong nhiệm vụ của sinh động viên là giúp cho nhóm lên một kế hoạch cụ thể, có tính toán đến thực tế và kích thích các người trẻ diễn tả một cách cá vị đức tin, bằng cách sống đức tin trong các hoàn cảnh và các hoạt động hằng ngày.

  • Mỗi nhóm bằng cách ít nhiều minh nhiên, đều được hướng dẫn bởi kế hoạch của mình: đó là tổng thể các giá trị, các lý tưởng mình muốn nhắm đến, các chọn lựa hành động, các kinh nghiệm đặc trưng tạo nên đặc điểm của nhóm.
  • Có khi kế hoạch được xây dựng bởi hội đoàn hay phong trào mà nhóm tham gia. Nhóm khi ấy cùng với sinh động viên có nghĩa vụ phải đảm nhận lấy các nội dung của phong trào.

Trong các trường hợp khác, nhóm chỉ có một số đường nét chân chính căn bản để mà đối chiếu, và những chỉ dẫn tổng quát về mục tiêu và phương pháp. Xoay quanh các đường nét lớn này, mỗi nhóm phải minh định hành trình riêng của mình theo mức độ mình có thể hé thấy được bằng cách giải mã hoàn cảnh của các chủ thể, bản chất của nhóm và những sự khuyến khích của môi trường trong đó nhóm hoạt động.

Nhóm theo phong thái Salêdiêng thuộc về loại cuối cùng này. Nhóm tìm thấy các yếu tố nền tảng của kế hoạch của mình ở trong kế hoạch giáo dục mục vụ của cộng thể là nơi trong đó nhóm được phát triển…Nhưng nhóm phát huy các yếu tố ấy một cách độc đáo, bằng cách lợi dụng các khả năng và các trực giác của các thành viên của mình.

  • Lên kế hoạch không phải là một thời điểm hay là một giai đoạn của nhóm. Đây là một công việc trường kỳ. Đó là chuyện phải viết và tái viết lại, ở một bình diện ngày một sâu xa hơn, những xác tín và những chọn lựa ngày một sâu xa hơn, để biên soạn chúng lại thành những tổng hợp cắt nghĩa và thực hành của đời sống. Nhóm biết rằng mình không thể nhắc lại những lược đồ của các nhóm khác và biết rằng hành trình không cho phép “nói lên cuộc sống” một lần là xong mãi, bởi vì nhóm ngày này qua ngày khác khám phá ra cuộc sống.

Phạm trù nền tảng của việc lên kế hoạch hay tự lập kế hoạch chính là phải biết thay đổi. Mỗi một tiến trình đào luyện có mục tiêu giúp suy nghĩ và hành động một cách luôn mới, nghĩa là cứ mỗi lần mỗi tiến xa hơn, với ánh sáng và kinh nghiệm nhiều hơn.

  • Nếu sự thay đổi là một bình diện quan trọng của từng giai đoạn của cuộc sống nhóm, thì nó trở thành một thời điểm (cruciale) then chốt một khi được tiếp xúc với các đề nghị mà bối cảnh trong đó nó sống, nó hiểu được rằng: là những tín hữu có nghĩa là dấn thân vào một cuộc hối cải chạm tới con người và đồng thời với cùng một sức mạnh ấy, nó bao gồm cả việc làm chuyển biến xã hội.
  • Phương pháp sinh động hóa có cái tham vọng của riêng nó là giúp vượt qua cái hiện tại, nhìn về tương lai cá nhân và tập thể, một tương lai cần phải được xây dựng dựa vào căn rễ của nền văn hóa.

Để đạt tới mục tiêu này, cần phải suy nghĩ tới:

  • Các điều kiện biến nhóm thành chủ thể và nơi của sự thay đổi; các môi trường trong đó lập kế hoạch tạo nên một phong thái sống mới.
  • Nhóm chủ thể và nơi của sự thay đổi

Những khó khăn cá nhân và của môi sinh

Sinh động viên thường đứng trước các dữ kiện khiến cho nhóm và các thành viên của nhóm xa khỏi ý muốn đổi thay và khỏi khát vọng hiện hữu đưa đến việc lập kế hoạch cho cuộc sống. đó là một số phản ứng rất thông dụng;

  • Sự suy sụp của niềm hy vọng và nỗi chờ trông một tương lai tốt hơn, tạo ra bởi sự ô nhiễm, sự áp bức các dân tộc và các nền văn hóa, những chi phí khổng lồ để nhằm thống trị hơn là nhằm phát triển con người, những nguy cơ của vũ khí hạt nhân, sự tồn tại và sự gia tăng các tai ương như chiến tranh, nạn đói, dịch hạch mới
  • Ấn tượng cho rằng sự tự do lương tâm và quyền tự quyết chỉ là thuần túy “trên danh nghĩa”: nhiều người trẻ, đứng trước các hệ thống to lớn nhằm vận động và lôi kéo, đành tỏ ra thúc thủ để cho mình bị sắp đặt theo chương trình có sẵn. Đối với họ việc tin tưởng rằng con người có khả năng thực thi các cử chỉ tự do xem ra thật xa vời, thật lạ hoắc.
  • Sự tuân thủ theo văn hóa và luân lý có sẵn – để mà sống hòa theo với quan điểm đang chiếm lãnh, với các mốt, các sứ điệp của phương tiện truyền thông đại chúng – làm cho nhận thức dựa vào bậc thang các giá trị trở nên khó khăn
  • Cảm tưởng như là “các trò chơi” đã dàn xếp xong một cách vô hình dung, ít là liên quan đến các chọn lựa có tính quyết định hơn cả. Con người và trí tuệ của họ, trí tưởng tượng và sức sáng tạo xem ra không đáng kể trên bình diện xã hội và chính trị.

Các hoàn cảnh này như là hệ quả của một cảm thức mất tin tưởng khiến con người không còn tin:

  • Vào sự thay đổi của riêng bản thân mình, nghĩa là vào khả năng tự xây dựng mình, bằng cách tận dụng cái độc đáo riêng của mình, tập trung các nguồn nghị lực của mình vào các mục tiêu, tự nhận các sai lầm của mình. Khoảng cách giữa các giá trị lý tưởng và phong thái sống hằng ngày xem ra không lấp đầy được,
  • Vào chính việc “làm thành nhóm” như là nơi trong đó các đổi thay mang lấy vẻ một cuộc hành trình chầm chậm, mà các bước đi xem ra không phân biệt với nhau, hơn là mang lấy vẻ của những cuộc hối cải thình lình;
  • Vào các cơ chế, từ trường học đến gia đình, từ các đảng phái đến các cơ cấu chính trị và xã hội lớn rộng (như quốc gia). Nêu các cơ chế giáo dục còn hiện ra cho các bạn trẻ, như là còn có chút ít sự rộng mở, thì các cơ chế xã hội lại xem ra bảo thủ và bất biến.

Quá trình chin muồi của một trạng thái tâm lý chấp nhận thay đổi

Sinh động viên biết rằng tất cả các hoàn cảnh này khiến cho việc sử dụng kinh nghiệm nhóm trẻ nên khó khăn. Nó có nguy cơ không sản sinh được các hiệu quả đào luyện mà mình hy vọng và chỉ còn là một kinh nghiệm thêm nữa được kết án là phải mai một đi. Bởi đó sau đây là một số những trách nhiệm hàng đầu của sinh động viên đối với việc lên kế hoạch.

  • Giúp cho nhóm nghiệm được mình có khả năng thay đổi, bằng cách nhận ra sự đổi thay ờ ngay trong hành trình đã trải qua. Từ giờ phút trong đó bắt đầu các cuộc gặp gỡ để diễn đạt một nỗi quan tâm hay để chiến thắng nỗi cô đơn, câu chuyện của nhóm làm sáng tỏ việc các phản ứng lẫn lên nhau được củng cố ra sao, các sáng kiến được tiến hành thế nào, một kinh nghiệm tham gia dẫn đến niềm xác tín chung về một vài giá trị được thực hiện như thế nào.
  • Giúp cho nhóm đảm nhận lấy sự thay đổi đã từng được cảm nghiệm như là tiêu chuẩn cho sự suy nghĩ và việc lập kế hoạch. Do đó sinh động viên cùng với nhóm tìm kiếm các cơ hội và thời điểm để khám phá ra các hoàn cảnh, đang đòi hỏi phải xác định ý nghĩa của việc thay đổi. Thế là sự đổi thay trở thành vấn đề của nhóm.
  • Giúp cho nhóm học cách đứng đắn mối liên hệ giữa sự thay đổi cá nhân và sự thay đổi của xã hội và của cơ chế dưới ánh sáng của kinh nghiệm mà mỗi cá nhân đã có được trước đó, cũng như của kinh nghiệm họ cũng đã trải qua với nhau ở trong nhóm. Sự lệ thuộc lẫn nhau giữa hai khía cạnh này phải đưa ta tới việc nhận định chúng là hậu quả và nguyên nhân lẫn cho nhau, theo đường vòng tròn. Đó không phải là để làm giảm thiểu đi trách nhiệm cá nhân, nhưng là để cho ta phải lưu tâm tới ảnh hưởng của khía cạnh xã hội và tầm quan trọng của các cơ cấu như những yếu tố ảnh hưởng đến các cá nhân.

Những thái độ và sự đổi thay đòi phải có

Việc đem ra thi thố tiêu chuẩn và ý muốn đổi thay là một khía cạnh tế nhị của việc chin muồi của một nhóm. Sự hồ hởi cũng như sự bỏ bê trách nhiệm rất dễ xẩy ra. Vậy phải rèn luyện các bạn trẻ tới một số thái độ.

  • Rộng mở với cái mới: với những thành phần mới gia nhập nhóm và tạo nên sự đổi thay trong một cách thức nào đó, các thói quen và các luật lệ; với những gợi ý xuất phát từ môi trường đang cần những câu trả lời có khi ngay lập tức; cho các đề nghị cụ thể của cộng thể đang phải đứng trước nhu cầu phải thay đổi các chương trình của mình.
  • Phải làm sao cổ xúy sự uyển chuyển của tư duy và cảm xúc để có thể thấy được cái tích cực của các hoàn cảnh, luôn thức tỉnh và tò mò trước những cái mới của văn hóa và xã hội, thực hiện những con đường mới và có khi đầy hiểm nguy.
  • Chống lại sự mệt nhọc: chẳng có một thay đổi nào mà không đòi hỏi lao nhọc và sự kiên gan trước nỗi mệt nhọc và đau đớn.

Sinh động viên chủ tâm khai sinh ra các kinh nghiệm cụ thể, dù là đầy dấn thân trách nhiệm và nặng nhọc, và đừng giảm nhẹ cho các cá nhân cũng như cả nhóm khỏi các trách nhiệm của mình và những lúc thất bại.

  • Khả năng tự bồi dưỡng vào những lúc thoải mái, nghỉ ngơi, mừng lễ. Nhất là khi gánh nặng của lao nhọc và của thất bại trở thành to lớn, cần phải tái tìm lại ý nghĩa của sự thư giãn, của việc họp mặt lại cùng nhau, của việc đánh giá bình thản, của việc hồi tâm.
  • Niềm vui thú vì được làm việc với nhau: sự thay đổi của cá nhân và nhóm, cũng như của xã hội và Giáo hội đều có thể được đương đầu theo lô-gích của cá nhân và theo lô-gích của nhóm. Trong phong cách Salêdiêng, chúng ta đề nghị làm việc như một ê-kíp các lực lượng tác động lẫn nhau vì một mục tiêu đồng chia sẻ. Mỗi cá nhân, cho dầu có đang dấn thân để thay đổi chính bản thân mình, cũng cảm thấy các sức mạnh tự tái sinh ở bên trong nhóm của mình và sự trợ giúp của tất cả mọi người tạo điều kiện dễ dàng cho việc đạt được các mục tiêu.
  • Các môi trường trong đó ta phải lên kế hoạch về một phong cách sống mới

Mục tiêu cuối cùng đánh dấu cho hướng thay đổi thật rõ ràng đó là làm chín muồi căn tính cá nhân, đặt kinh nghiệm cá nhân của người tín hữu trên các nền móng vững chắc.

Yếu tố làm lực đẩy cho sự thay đổi là việc đối chiếu khát vọng và tình yêu sự sống của chúng ta với sự hiện hữu và màu nhiệm của Chúa Giêsu; trong ánh sáng của mầu nhiệm đó, ta muốn tái tạo ý nghĩa và tổ chức lại chân tính của mình, và nhờ thế lại tìm lại được ý nghĩa của cuộc sống.

Ba lãnh vực trong đó sự đối chiếu này được thực hiện là những lãnh vực – trong tổng thể – hòa hợp với chân tính của mỗi cá nhân

  • Não trạng giúp đạt đến một sự hiểu biết độc đáo về cuộc sống theo cái nhìn văn hóa và đức tin;
  • Việc cá nhân hằng ngày thực hành tình yêu đối với cuộc sống và niềm tin vào Chúa của sự sống;
  • Việc phục vụ tha nhân, mà nhóm thực thi như là một kinh nghiệm đào luyện và như là một trách nhiệm xã hội.

Não trạng: từ “tôi tin vào cuộc sống” đến một “hiến chương về linh đạo”

Việc làm chín muồi một não trạng mới, từ quan điểm văn hóa cũng như chuyên biệt Kitô hữu, là lãnh vực thứ nhất trong đó sinh động viên dấn thân cùng với nhóm  để thực hiện một sự thay đổi.

Hành trình phải dẫn đến việc đích thân chọn lựa lấy cho mình một ý nghĩa cho cuộc sống và một số khẳng định nền tảng xác định cho sự chọn lựa ấy

Việc học tập lấy một lối suy nghĩ mới về cuộc sống xẩy ra hằng ngày ở nơi cá nhân hay ở trong nhóm đó là kết quả của một công việc suy tư và đánh giá chậm rãi và có phê phán về các kinh nghiệm và các sứ điệp khác nhau dưới ánh sáng của sự chọn lựa của chính Chúa Kitô. Chúng ta nói đến não trạng như là nơi hội tụ của các tiếp thu tiệm tiến phát sinh từ cuộc đối chiếu này.

Nhóm diễn tả não trạng mới trong một Bản tuyên ngôn linh đạo. Kinh nghiệm Salêdiêng được chin muồi trong những năm gần đây nói rằng Bản Tuyên ngôn linh đạo này có thể là một cách thức tiến hành giáo dục ở trong bước đường lên kế hoạch. Nhóm làm việc xoay quanh Bản Tuyên ngôn bằng cách sử dụng đến kết quả của các kinh nghiệm được tích lũy, một cách có phê phán và sáng tạo. Các nội dung đức tin và văn hóa được tái nói lên bằng ngôn ngữ của mình, như là câu trả lời cho các thách thức và thách đố của cuộc sống.

Việc nói về Bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến tính chất tạm bợ của các tổng hợp mà nhóm đạt tới, không phải bởi vì nó mà không quả quyết về các nội dung quan trọng, mà bởi vì nó thường hướng đến làm nổi bật một vài điều mới đạt được, mà lại làm hại đến bộ khung tổng quát. Trong một tuyên ngôn, người ta có thể nói thái quá, để làm lộ rõ các yếu tố có tính tiên tri, để rồi phải tái quân bình hóa lại trong các lần biên soạn kế tiếp. một tuyên ngôn đúng ra là một cái gì đó luôn phải tái viết lại, hoàn bị hóa và đem ra thảo luận. Nó đánh dấu hành trình của nhóm và sự đối chiếu của nhóm với các nhóm khác trong cộng thể giáo dục và trong Phong trào Giới trẻ Salêdiêng.

Bản văn của “tuyên ngôn” chỉ có ý nghĩa nếu nhóm đã làm chin muồi một sự chọn lựa của niềm tin và được nhìn nhận cách tích cực ở trong môi trường giáo dục Salêdiêng. Nhóm có thể đạt tới điều đó qua các nấc:

  • “Tôi tin vào cuộc sống” Sinh động viên trong các giai đoạn đầu tiên của hành trình, trước tiên sẽ giúp tổng hợp tổng thể các giá trị và các thái độ nói lên tình yêu đối với cuộc sống, trong đó nhóm học để nhận diện chính mình. Điểm tới của các bước chinh phục này, với tất cả những gì mà chúng phải có để đối chất với các cách thức hiểu khác về tình yêu đối với sự sống ngày hôm nay, chính là lời tuyên bố “Tôi tin vào cuộc sống”. Nhóm diễn tả ở đó giấc mơ của mình, các hoài bão, các lý tưởng của mình, và một sự nhắc nhở đầu tiên đến niềm tin Kitô hữu, để trả lời cho những thách thức lớn hay nhỏ mà cuộc sống đặt ra theo hành trình của nhóm.
  • Các mối phúc của người trẻ. Dần dần khi câu hỏi về tôn giáo và lời loan báo của Tin Mừng gặp gỡ nhau ở ngay tại kinh nghiệm của nhóm, tới mức làm cho mỗi người có điều kiện chọn Chúa Kitô một cách cá vị, thì sinh động viên sẽ tìm cách giúp cho nhóm làm chin muồi một suy tư minh nhiên và có cơ cấu về niềm tin Kitô hữu và về phong thái sống Tin Mừng.

Việc gặp gỡ Đức Kitô và việc đồng chia sẻ sự nghiệp Nước Thiên Chúa giữa những con người cho phép nhóm phong phú hóa và biến đổi giấc mơ và hoài bão của mình. Đồng hội tụ lại ở trong nhóm những sự đào sâu mới về ý nghĩa Kitô hữu của cuộc sống, những sự đào sâu này được chin muồi dưới sự thúc đẩy của các câu hỏi mà việc sống đời Kitô hữu hôm nay nêu ra và dưới ánh sáng đến từ việc tìm kiếm những câu trả lời ở nơi Đức Giêsu và ở nơi Lời của Ngài. Tổng hợp diễn tả giai đoạn này là bản hệ thống hóa   các kết luận trong mục “các mối phúc của người trẻ”

  • Bản Tuyên ngôn về linh đạo. Đi xa hơn nữa, sinh động viên lo sao để cho nhóm vượt xa hơn những gì đã đạt được và các tài liệu tới nay đã hoàn thành được, dấn thân vào một cuộc tìm kiếm đầy hào hứng về các đề tài vĩ đại của con người và của văn hóa dưới ánh sáng của sứ điệp của Chúa Kitô và của kinh nghiệm của nhân loại. Được tiếp xúc với một vài mấu chốt của các suy tư, nhóm và hay phong trào viết ra bản tuyên ngôn về linh đạo.

Các suy tư mấu chốt của bản tuyên ngôn linh đạo qui về ba bình diện:

  • Việc trình bày các dữ kiện phát sinh từ cuộc sống xã hội và văn hóa, trong đó các người trẻ sống và là cuộc sống mà họ đảm nhận lấy khi hình thành một lối sống ít nhiều tương xứng với nhân phẩm con người. Một tuyên ngôn trước tiên muốn là một câu trả lời tiếp nhận và có tính cách khiêu khích đứng trước các mong chờ và các câu hỏi, các trực giác và các nỗi hy vọng của người trẻ và của môi trường xã hội của họ;
  • Một tổng hợp các đề tài lớn của đức tin, như được sống, được hiểu và được loan báo hôm nay bởi Giáo hội. Chúa Kitô và cuộc sống của Ngài, như Giáo hội sống và cử hành hôm nay, là tiêu chuẩn và điểm qui chiếu tạo thành bất cứ nền linh đạo nào;
  • Việc trình bày có hệ thống, tương xứng với các sức lực cụ thể của nhóm, về tinh thần Salêdiêng đã được Don Bosco và Mẹ Mazzarello sống, đã được tái suy nghĩ lại và phong phú trong hơn 100 năm của “lịch sử Salêdiêng”

Việc chin muồi một bản “tôi tin vào cuộc sống”, và bản “mối phúc của người trẻ” được thể hiện ở trong đích nhắm của hệ thống dự phòng đã được coi là hình thức độc đáo của một nền linh đạo.

Vậy Bản tuyên ngôn có nhiệm vụ nêu rõ hơn và sắp đặt lại một vài yếu tố.

Dưới ánh sáng của các mối kích thích này, nhóm, lúc ban đầu hành động một mình, kế đến là với các nhóm khác, được kêu gọi thực hiện một công việc sáng tạo. Nhóm không nhắc lại quá khứ, cũng chẳng đơn thuần tóm kết lại hiện tại. Bản tuyên ngôn là một tài liệu độc đáo, được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm và sự thông tin mà nhóm cũng phải giữ vai trò nối dài kinh nghiệm và sự thông tin này.

Trên ba bình diện hay giai đoạn này mà nhóm trải qua để đào sâu chân tính Kitô hữu và Salêdiêng của mình, sinh động viên là người đến trợ giúp, khích lệ nhóm hãy tổ chức, giúp cho tìm các tin tức, đánh giá cuộc sống của cá nhân và của nhóm và khích lệ nhóm diễn tả lên cuộc sống đó.

Sinh động viên cũng kêu gọi sự đối chiếu với các nhóm khác: công việc có thể được đúc kết lại với nhau để đi đến một tuyên ngôn được đồng chia sẻ, cho dầu với những mức độ ý thức khác nhau, “ở bên trong” Phong trào giới trẻ Salêdiêng.

Bản “tôi tin vào cuộc sống”, “các mối phúc của người trẻ”, bản “Tuyên ngôn về linh đạo”: là đối tượng phải được đào sâu và tái đọc lại trong các trại – học hỏi, các cuộc hội thảo, các cuộc tĩnh tâm, các giờ phút suy tư, bởi vì chúng chứa đựng các điểm viện dẫn nhờ đó mà nhóm được nhận ra chính mình.

Phong thái của đời sống hằng ngày: làm việc và cầu nguyện

Một lãnh vực thứ hai trong đó cần phải giúp lập kế hoạch thay đổi chính là đời sống cá nhân hằng ngày. Cần phải diễn tả tình yêu đối với cuộc sống và niềm tin nơi Chúa Giêsu theo tinh thần  Salêdiêng

Tuyên bố mình là Kitô hữu cách chung chung, do việc mình được thúc đẩy bởi thiện cảm đối với con người Đức Giêsu, là một chuyện dễ. Nhưng chuyện nhỏ hơn chính là sống như là người Kitô hữu của ngày hôm nay, cởi bỏ mọi gút ràng buộc khiến cho cuộc sống có tính tiên tri của mình thành có vấn đề, và mở lòng ra cho các đòi hỏi thực tiễn của các mối phúc. Tính tiên tri chính là công bố cái mới, phản kháng cái cũ, dưới ánh sáng Lời hằng sống của Thiên Chúa.

Sinh động viên giúp cho nhóm hiểu được rằng mình có thể liên kết đời sống theo Tin Mừng với các đòi hỏi sâu xa của người thời đại với hai điều kiện: khổ hạnh và cầu nguyện.

Đó là hai điểm cần phải suy nghĩ và phải được gắn kết lại cùng nhau trong khi hình thành một phong thái sống cá nhân

Khoa khổ hạnh của công việc.

Khổ hạnh đưa ta tới các mục tiêu như tự chủ, ý thức về các tác động tiêu cực, các thái độ mau mắn và quảng đại đáp ứng tiếng gọi của sự thiện. Khổ hạnh ở chỗ sâu xa của nó chính là thánh giá. Don Bosco tóm tắt nó trong ba lời “làm việc, tiết độ, bổn phận”. nắm bắt ba danh xưng của Don Bosco này cách nghiêm chỉnh đòi hỏi phải biết nhận ra và diễn đạt chính xác các vấn đề luân lý làm cho các bạn trẻ khó mà có thể, và có khi hầu như không thể, sống Tin Mừng cùng các đòi hỏi sâu xa hơn cả của bản chất con người.

  • Các người trẻ nghiệm thấy mỗi ngày sự xung khắc giữa tự do cá nhân đang tăng trưởng và các đòi hỏi của Tin Mừng. Họ rất ganh ghen vì sự tự do của mình và vì lương tâm cá nhân của mình, một lương tâm có đó như là luật để hành động. Chấp nhận tái cơ cấu lại đời sống dưới ánh sáng của Tin Mừng được tiếp nhận trong đức tin, hiện lên cho họ như là một sự từ bỏ cái gì đó thuộc về họ trong tư cách một con người: đó là từ bỏ lý tính, cái khả thể quyết định hôm nay và ngày mai theo quan điểm riêng của mình. Sự xung khắc càng tệ hại hơn nữa do tác động yếu ớt của các viện dẫn tôn giáo và do não trạng “buông thả” xem ra đang ảnh hưởng đến một thành phần không nhỏ trong xã hội.
  • Các người trẻ nhận thức thấy rằng diễn văn về sự liên đới nằm ở trong mà mầu nhiệm Chúa Kitô và qui luật Tin mừng, xem ra ngược với các tham số cá nhân, thực dụng, và liên hiệp lợi ích đang hướng dẫn các mối tương quan xã hội. Chỉ có thể liên đới với người bên cạnh từng thời gian một, trong các lãnh vực nhỏ như gia đình và nhóm các bạn hữu; nhưng xem ra khó mà thực hiện liên đới trong công việc, trong các tương quan xã hội rộng lớn hơn, trong các lãnh vực quốc tế. Ngay cả các hoạt động tình nguyện vô vị lợi, tự nó rất gương mẫu, cũng không thể cân bằng hóa vẻ xa lạ của các mối tương quan đang được sống trên bình diện xã hội và quốc tế.
  • Các người trẻ cảm nhận vấn đề phải làm sao thực hiện được sự công bình trong thế giới và ngay cả trong từng quố gia, từng dân tộc. Họ ý thức được rằng nền chính trị và kinh tế của các dân tộc khác nhau, lệ thuộc vào nhau, và sự tự do của nhiều dân tộc ở mức độ rộng khắp đã bị chiếm đoạt và sự phát huy của nó bị đình trệ. Họ không đồng ý với việc trục lợi và đàn áp, nhưng họ không thấy, ngay cả giữa các cơ chế và các quyền lực to lớn, những mẫu chọn lựa cho phép đạt tới một thế giới công bình hơn và huynh đệ hơn; để đạt tới một thế giới như vậy nào đâu đã đủ các cuộc biểu tình, các lời phản kháng, các lời khuyên luân lý, hay việc phân phát tiền bạc.
  • Các người trẻ cảm thấy rất cam go việc tiếp nhận lấy thân thể của họ và diễn đạt thân thể theo như các đòi hỏi của Tin mừng và các chỉ dẫn của Giáo hội. Sống phái tính của mình theo tư cách người tín hữu trong một thế giới đang nêu bật các thái độ, các cách hành xử, các chọn lựa, các lượng định rất xa với các qui luật Phúc âm, có nghĩa là đi ngược dòng. Luân lý Kitô giáo xem ra ở khoảng cách không thể nào lấp đầy được đối với những thái độ xã hội đang lan tràn.

Sự tự do, tình liên đới. Sự công bình: là những giá trị được nêu ra ánh sáng trong kế hoạch. Cũng vậy, cần nêu bật sự dấn thân nhằm tôn trọng mọi sự sống trong tất cả các biểu hiện của nó: nơi mình và nơi những người khác. Sinh động viên giúp cho nhóm hòa hợp bản thân mình với các giá trị đó một cách triệt để, và tìm ra các con đường có thể để thực hiện chúng trong cuộc sống của nhóm; họ khích lệ nhóm tìm ra cách nâng đỡ nhau làm sao để bắt gặp với các vấn đề luân lý của mỗi ngày.

Kinh nguyện

Đối với sinh động viên Salêdiêng, nỗ lực qui hướng đứng đắn các nghị lực và hoạt động của bản thân được nâng đỡ bởi kinh nguyện và lệ thuộc khít khao và sự mở ra cho Đức Kitô hiện diện và hoạt động trong bí tích Thánh Thể và Hòa giải. Vậy sinh động viên hướng nhóm lên kế hoạch thực hành kinh nguyện cá nhân và trong mức độ có thể, cả kinh nguyện cộng đoàn nữa.

  • Họ giúp làm chin muồi lối quan niệm cầu nguyện theo phong cách Salêdiêng: tức là như thời điểm gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa, là cách diễn tả và tột đỉnh của điều xẩy ra xuyên qua các cử chỉ của cuộc sống hằng ngày, cách riêng là của việc phục vụ người nghèo; như là nơi cung cấp nguồn nghị lực mới, như là việc tái khám phá ra ý nghĩa của cuộc chiến để sống như người Kitô hữu hôm nay. Chính trong cầu nguyện, mà tình yêu và sự dấn thân vì cuộc sống lộ ra như là một ân sủng và như là một sự cộng tác của con người với công cuộc của Thiên Chúa.
  • Sinh động viên lên kế hoạch với nhóm về việc học tập cầu nguyện, học tập các thái độ nền tảng, các điều kiện thi hành việc cầu nguyện, các hình thức kinh nguyện khác nhau, bằng cách xếp đặt cà đến các phương tiện nữa (như trường lớp dạy cầu nguyện và các cuộc gặp gỡ với những người có khả năng khai sinh các kinh nghiệm…) Tóm lại, họ giúp cho nhóm đảm nhận lấy nhiệm vụ phải cầu nguyện cùng nhau như thế nào, và khi nào, bằng cách xác định các thời gian và phong cách cầu nguyện.
  • Cách riêng sinh động viên nêu bật các bí tích Hòa giải và Thánh Thể, bí tích Hòa giải đánh dấu và diễn tả hành trình hối cải và ý muốn thay đổi, biểu lộ ý thức về các giới hạn và về sự mỏng dòn, tái tìm lại lòng can đảm để lấy lại hành trình.
  • Phép Thánh Thể tái tháp nhập ta lại trong Đức Kitô và trong cộng đoàn các tín hữu mà ta đã liên đới trong việc tìm kiếm sự sống đích thực, dạy ta nhìn về tương lai với niềm trông cậy phát sinh từ màu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô.

Trong khi cử hành các bí tích, ta học đọc đời sống của mình và của thế giới qua tư tưởng chìa khóa của sự hiến ban, cho không, của ân huệ và ơn cứu chuộc. Vậy nên cả hai bí tích trên đánh dấu hành trình mà nhóm trải qua để học lên kế hoạch về mình theo tham số của Chúa Kitô.

  • Sinh động viên tỏ lộ cho mỗi người và cả nhóm biết đến sự hiện diện của Đức Maria. Tưởng nhớ đến Mẹ có nghĩa là học nhìn các biến cố dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ và ở lại trong tư thế ngợi khen Thiên Chúa (kinh Maguificat); Từ Mẹ, người tín hữu thứ nhất – ta kín múc sự sẵn sàng, dù vẫn ý thức được về sự nghèo khó của riêng bản thân mình; sự đón nhận khiêm cung và niềm tin nơi Chúa. Đấng có thể hoàn thành những điều cao cả ngay cả với các hạt giống bé tí ti “Bởi, Đấng toàn năng đã làm cho Tôi những điều phúc cả”
  • Nhóm trong tư cách nhóm đứng ra nâng đỡ từng người trong nhóm lên kế hoạch về cuộc sống hằng ngày được đánh dấu bằng công việc và bằng ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa.
  • Nhóm cống hiến cho mỗi người sự liên đới xây trên tình bạn và trên các giá trị để cưỡng lại với các áp lực xã hội; với kỷ luật của nhóm, nhóm giúp cho họ đảm nhận các trách nhiệm và thi hành chúng, cùng nhau đánh giá các tiêu chuẩn và các việc thẩm định về cuộc sống hằng ngày.
  • Nhóm trở thành bối cảnh phê phán và sửa bảo huynh đệ. Nhóm giúp cho từng cá nhân có lấy thế chủ động về lối sống riêng của mình, mà không đứng quá về phía tự vệ, bằng cách trao ban lòng can đảm nhìn nhận các sai lầm của mình, qua việc duyệt xét đời sống, nhóm giúp vượt qua khỏi các diễn từ chung chung và trìu tượng để chú tâm tới các dữ kiện của cuộc sống trong tính chất cụ thể của chúng; nhóm đưa lên bàn thảo luận những gì hằng ngày xẩy ra cho mỗi cá nhân, tại trường học, trong gia đình, trong các cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ khác.
  • Trong tất cả các thời điểm đó, sinh động viên không ngại đi vào trong xung khắc với nhóm hay với cá nhân của nhóm, dù rằng mình có đề ra các yêu sách của Tin Mừng. Đúng hơn, họ phải sợ ở trong tư thế phải chiều theo và như thể làm cho nhóm không có được chứng tá của họ.

Việc phục vụ trong cộng đoàn nhân loại và Kitô hữu

Lãnh vực thứ ba trong đó phải lên kế hoạch và phải học tập về sự thay đổi là cách thức hiện diện ở trong cộng đoàn và trong xã hội. Nhóm chọn việc phục vụ kẻ khác như là thái độ, tiêu chuẩn và việc thực hành. Đó là cách thức nhóm nói lên tình yêu đối với sự sống, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô ở ngay trong môi trường của mình. Đó cũng là một cách thức diễn tả linh đạo – vì các cách thức và các khoảng không nhóm ưu tiên cho hoạt động.

Chúng ta hãy nhận định về các việc phục vụ nhóm đảm nhận đối với bên ngoài, bởi lẽ ta coi như tất nhiên là các bổn phận và các trách nhiệm ở bên trong đã được hiểu ngầm ở trong việc thuộc về nhóm và trong việc sinh động hóa được mọi người đồng chia sẻ.

Việc phục vụ mà nhóm tự đề ra cho mình muốn giải quyết một cách hữu hiệu các vấn đề của con người hay các hoàn cảnh thiếu thốn chung. Nhưng đồng thời nhóm muốn là một kinh nghiệm đào luyện cho chính nhóm là người tiếp thu từ chính cuộc sống sinh động và học hỏi bình diện tự hiến cho không của cuộc sống. Tự đặt mình phục vụ cho các con người và các hoàn cảnh mà không đòi hỏi sự đền bù, ở ngay nơi môi trường trực tiếp hay sờ thấy được của cộng thể, nhóm học lên kế hoạch cho toàn thể cuộc sống của nhóm, sao cho nhóm trở thành kẻ tự hiến cho sự tăng trưởng của con người là hình ảnh của Chúa Kitô.

Sinh động viên chú tâm tới các kết quả của các việc phục vụ, bởi đó là điểm cho thấy mức thích đáng của các cuộc can thiệp. Nhưng còn phải chú ý nhiều hơn nữa tới các tiến trình minh định cho sự thay đổi trong đời sống của từng người và của cả nhóm.

Vậy nhóm phải thích ứng các kinh nghiệm phục vụ với các khả năng của nhóm. Nhóm phục vụ trực tiếp để cứu nỗi đau của người trẻ, và nhóm nâng đỡ và dõi theo sự phục vụ để khi nó đương đầu với các khó khăn, nó không rơi vào sự thất vọng.

Nhóm trẻ lên kế hoạch về việc phục vụ của mình:

  • Tuy vẫn để mở rộng cho muôn vàn hình thức, nhưng đồng thời phải làm cho xuất hiện các ưu tiên đồng huyết tính với tinh thần Salêdiêng,
  • Bằng cách học tập và áp dụng một phương pháp của mình

Các cách thức phục vụ

Các cách thức phục vụ có khác nhau. Cộng thể giáo dục và lãnh thổ cống hiến nhiều khoảng không đa diện và cụ thể. Tuy nhiên ta có thể xác định một số lãnh vực hoạt động diễn tả sự ưu tiên của chúng ta.

  • Việc phục vụ giáo dục ở giữa các bạn trẻ: nhóm đảm nhận các trách nhiệm đối với các trẻ nhỏ và các thiếu niên, trong lãnh vực của thời giờ rãnh rỗi, của các hoạt động thể thao văn hóa, của các lớp giáo lý; mỗi cá nhân có thể đảm nhận các trách nhiệm sinh động hóa các môi trường tiếp nhận hay đào luyện các nhóm.
  • Việc phục vụ nâng đỡ và cứu giúp: nhóm có thể cống hiến thời giờ an ủi người neo đơn, già cả, và các sáng kiến cứu giúp các người trẻ và người lớn trong các hoàn cảnh khó khăn.
  • Việc phục vụ sinh động hóa về văn hóa tại địa phương: nhóm có thể dấn thân, bên cạnh các cơ chế hiện có tại địa phương, vào việc làm sáng tỏ và cống hiến các giải pháp cho các vấn đề chạm tới cách gần gũi với tâm trạng và cuộc sống của dân chúng: Những mối tương quan xã hội, việc gạt một số người ra bên lề, việc tham dự vào các cơ cấu và vào các môi trường.
  • Việc phục vụ tình nguyện, cả dân sự lẫn truyền giáo: nhóm nâng đỡ những ai dâng hiến thời giờ và tài năng để hoàn bị hóa và thăng tiến sự đáp ứng xã hội đối với các nhu cầu của dân chúng địa phương (sống đời tư riêng hay xã hội) hay chọn con đường xuất ngoại để cộng tác vào việc thăng hóa và rao giảng Tin mừng cho một cộng đồng các con người.

Một phương pháp hành động

Ngoài việc mở ra một luồng gió lớn rộng cho các viễn ảnh và nhấn mạnh đến các ưu tiên dành cho một số lãnh vực, việc lên kế hoạch nhắm đến nâng đỡ và tạo sự tiếp thu lấy một phương pháp hành động. Chúng ta đã nói tới điều này ở trong một bối cảnh khác. Ở đây chúng ta chỉ nhắc lại các yếu tố nền tảng hướng dẫn cho các sự chọn lựa của nhóm.

  • Để chuyển quyết tâm tổng quát là muốn phục vụ sang các hành động và các sự can thiệp cụ thể, nhóm tự đảm nhận việc phân tích các nhu cầu và các yêu cầu đến từ địa phương, nhất là những gì có liên quan đến các người trẻ. Việc phân tích không chỉ bao gồm việc nêu ra các nhu cầu, mà còn cả đến sự chú tâm tới các nguyên nhân và sự lệ thuộc lẫn nhau hiện có giữa chúng cũng như với các yếu tố khác các bối cảnh. Không nên lẫn lộn sự phân tích với việc liệt kê đơn thuần.
  • Một khi các nhu cầu đã được phân tích, nhóm thảo luận về các mục tiêu phải và có thể đạt tới được, để trả lời cho những thách đố. Sinh động viên gợi ra những kỹ thuật thích hợp để đi tới các mục tiêu đã được đồng chia sẻ một cách đầy đủ, bằng cách phân biệt giữa các mục tiêu tổng quát liên quan tới tất cả mọi can thiệp và toàn thể kế hoạch, và những mục tiêu riêng biệt và trực tiếp hơn cả liên quan đến các cuộc can thiệp riêng rẽ, như đã được xác định trong thời gian. Tuy biết rằng hoạt động bắt đầu với những cuộc can thiệp riêng rẽ này, sẽ thiếu tính chất đào luyện nếu ta không biết đến hay không nêu ra các mục tiêu cuối cùng theo đó ta định hướng các hoạt động và các nỗ lực tư riêng.
  • Nỗ lực thứ ba, trước khi chuyển sang hành động và trong khi hành động, là làm sáng tỏ phong cách qua đó nhóm muốn sống sự phục vụ của mình với chữ “phong cách”, chúng ta muốn nói đến thái độ qua đó ta lại gần với những ai đang trong cảnh cùng khổ, việc có trao ban trách nhiệm hay không cho các người thụ hưởng các cuộc can thiệp, sự ưu tiên dành cho hoạt động của nhóm cũng như của các cá nhân.
  • Tại điểm này, ta có thể phác họa ra chiến thuật can thiệp: hoạt động trên các nguyên nhân trước khi hoạt động trên các hiệu quả; khơi động các trách nhiệm hơn là thế vào các trách nhiệm; lôi cuốn để cùng nhau hành động hơn là hoạt động cách riêng rẽ. Sự chọn lựa các hoạt động, các điểm chịu ảnh hưởng, các thời gian cần cho sự đạt tới các mục tiêu, tất cả các cái đó phải được khám phá ra trong khi lưu ý tới chiến thuật mà mình muốn sử dụng. Ta không nên chỉ bằng lòng với việc chất đống các sáng kiến; trái lại rất ích lợi cho việc đào luyện cá nhân việc phối kiểm các sáng kiến cho một kế hoạch hữu cơ.
  • Phương pháp cũng tiên liệu việc suy nghĩ về hành động sao cho có thể rút ra được từ đó các kết luận hữu ích cho con người cho nhóm và cho công việc làm chuyển biến đang được tiến hành. Việc tái đọc lại các dữ kiện với khởi điểm là Tin mừng rất quan trọng, để tiếp thu việc phục vụ như là yếu tố trung tâm của cách thức đi theo Chúa Kitô. Nhưng cũng rất quan trọng việc lo làm phong phú cho các khung qui chiếu có tính cách cắt nghĩa cho các thực tại xã hội và văn hóa, để giải mã mà không đơn giản hóa một cách ngây ngô các nhu cầu cần phải được đáp ứng bằng việc phục vụ. Và cũng không kém quan trọng việc đánh giá hậu quả cụ thể của loại hành động đang diễn tiến, để tái cơ cấu hóa nó trong các cuộc can thiệp kế tiếp!

Kế hoạch nằm ở giữa các hoài bão và cuộc sống hằng ngày

Lên kế hoạch cho một sự thay đổi còn chưa phải là thực hiện một sự thay đổi. Lên kế hoạch là ném mình ra hẳn bên ngoài cuộc hiện hữu và các giới hạn của nó, bằng cách vượt qua các khuynh hướng đón nhận một cách thụ động cái hiện tại của cá nhân và của xã hội.

Sự thúc đẩy tới việc đổi thay có thể kết thúc trong ước vọng xuông, trong việc loan báo xuông hay trong các nỗ lực ban đầu. Ý thức được điều đó, sinh động viên và nhóm tạo ra các cách thức tiến hành phức tạp để đi đến một sự thay đổi có thực về não trạng, về hành động hằng ngày, về việc phục vụ, bằng cách ôn hòa hóa một vài khuynh hướng và nuôi dưỡng một vài sự căng thẳng.

Các khuynh hướng cần được ôn hòa hóa

Cần phải phát hiện nơi môi trường và nơi nhóm các khuynh hướng hiện có, mà nếu phát triển sẽ đưa đến một hình thức suy nghĩ thông thường không được thích đáng, và làm cho kế hoạch thay đổi ra vô hiệu.

  • Chủ nghĩa duy hoạt động và thực dụng. Sự thay đổi được suy nghĩ thông thường theo các tham số của liên tục phải làm những chuyện mới, liên tục phải tổ chức các sáng kiến mới trong khi đánh giá thấp về các khung qui chiếu và về các mục tiêu cuối cùng phải đạt đến.
  • Chủ nghĩa duy hoạt động, cho dẫu ngay lập tức rất đáng phấn khởi, có thể sẽ nên vô hiệu quả cho một cuộc đổi thay đích thực của môi trường và của các cơ cấu, cũng như nó đã tỏ ra vô hiệu quả đối với sự thay đổi của nhóm và của các phần tử, những người đã không thể rút ra từ các hoạt động đang theo đuổi bất cứ một thái độ mới nào hay bất cứ một sự thấu hiểu sâu xa nào về thực tại.
  • Chủ nghĩa duy ý thức hệ và duy trí tuệ. Người ta có khi nhìn nhận – dù một cách vô thức đi nữa – rằng xã hội và con người sẽ nên chin chắn và có sự đổi thay chỉ khi họ thích ứng với một hệ thống khe khắt gồm các ý tưởng mà nhóm xét là chính đáng và dùng nó làm nền tảng để đánh giá hành động.

Điều này làm lẫn lộn các lằn ranh giới giữa cái thế giới của tư tưởng – và – lời nói và cái thế giới có thực, cho tới mức tin rằng sự thay đổi sẽ xẩy ra bởi vì người ta giảng thuyết về nó, và một vấn đề được giải quyết bởi vì người ta tố giác nó cách liên tục. Trước hành động thực tiễn, hai khuynh hướng này do sự bất lực không tìm ra nổi các trung gian giữa lý tưởng và thế giới cụ thể, đã đi đến chỗ làm tê liệt mọi sự đổi thay ở bên trong nhóm và mọi hoạt động có thể có ở nơi môi trường.

  • Chủ nghĩa duy thiêng liêng và chủ nghĩa lo tìm cuộc sống thâm thiết trong cõi lòng xét về mặt tôn giáo. Có thể xẩy ra là nhóm dấn thân thực hiện việc hối cải nội tâm để tái tìm lại một mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa, nhưng lại không dấn thân cách hữu hiệu để thay đổi hoàn cảnh đang đòi hỏi sự liên đới, tình yêu và sự công bình. Thế là có mặt một sự cách ly giữa lối sống hơi riêng tư và nơi nhóm với lối sống trong xã hội. Người ta đặt bên nhau, mà không làm cho tác động lẫn lên nhau, hai quan điểm khác nhau: lập trường tư riêng và của nhóm gợi hứng từ tình yêu cho cuộc sống và từ niềm tin Kitô hữu; và lập trường công cộng và chính trị, cam chịu hay có khi còn đồng lõa với “lối sống phản Tin mừng” mỗi lập trường đều có các luật của nó và các tiêu chuẩn đánh giá và hành động của nó.
  • Chủ nghĩa không tưởng và vụ luân lý có nguy cơ phán xét mọi sự từ quan điểm về sự hoàn thiện tuyệt đối hoặc đối với cái liên quan đến cách thức tiến hành, hoặc đối với cái có liên quan đến các kết quả. Điều ấy đưa tới việc không thấy được các hạt giống sự thiện lẫn lộn với các sự bất toàn của các nỗ lực khác nhau, và đóng cửa lòng lại với biết bao sự cộng tác, và dẫn đến tự kết án mình vào chỗ không hành động. Thiếu nghệ thuật làm ra cái có thể, nhóm cũng thiếu luôn tính thực tế của niềm tin của Tin Mừng cho phép sự nhìn nhận sự có mặt của Nước Thiên Chúa nơi cái nghèo khó của các cái con người thực hiện nên được.

Các căng thẳng cần phải nuôi dưỡng

Để duy trì đà thay đổi, nhóm, trong khi làm trung gian giũa các lý tưởng và thực tại hằng ngày, xác định ra một vài điểm hẹn gắn kết với việc thực hiện kế hoạch. Hơn là kể ra tất cả chúng ra ở đây – từ các buổi trại để học tập sang đến các cuộc linh thao, các khóa duyệt xét đời sống, các cuộc tụ họp định kỳ, các cuộc cử hành – chúng ta sẽ nhấn mạnh đến một số những căng thẳng xẩy đến lúc này hay lúc khác trong các điểm hẹn đó tùy theo sự thiếu vắng và thiếu bù đắp về mặt đào luyện thường được nhận thức thấy nơi đời sống của nhóm.

  • Sự căng thẳng giữa hoài bão và việc tìm kiếm các trung gian. Trong một vài thời điểm, cần thiết là phải nêu ra được các hoài bão; ngược lại trong một số thời điểm khác, lại phải lo sao kiên trì tìm ra được các hình thức cụ thể để thực hiện hoài bão đó ở đây và vào giờ này theo mức độ có thể.

Hoài bão và niềm hy vọng phát sinh và tái phát sinh trong nhóm xuyên qua việc tái khám phá ra sứ điệp Tin mừng, việc gặp gỡ với các tiên tri và các thánh của thời đại chúng ta. Việc cống hiến các khoảng không của thinh lặng và chiêm niệm, việc gặp gỡ với các kinh nghiệm thành công ở trong tầm tay của nhóm.

Hoài bão cũng phát sinh bằng việc giúp cho nhóm được khiêu khích bởi các hoàn cảnh nghèo nàn và cùng khổ, bởi những khối lượng cô đơn và bị gạt ra bên lề, với điều kiện là nhóm có khả năng chịu đựng những sự thách đố này.

Việc tìm kiếm các trung gian thực hiện đòi hỏi nơi nhóm trí tưởng tượng, lòng can đảm, tinh thần thực tế, sự kiên nhẫn, sự nhất quán, ý thức về sự cần đến thời gian lâu dài. Nó còn đòi có các cuộc họp được lên chương trình kỹ lưỡng và có tài liệu tham khảo đàng hoàng, đòi hỏi phương pháp làm việc nhóm, sự chú tâm tới sự đóng góp của mọi người, ý thức về giới hạn của nhóm  và về sức lực của nhóm, việc tham khảo với các chuyên viên từ bên ngoài. Không thể có sự thay đổi cá nhân hay xã hội, bao lâu người ta không xác định được một cách cụ thể phải thay đổi cái gì và thay đổi làm sao.

  • Sự căng thẳng giữa sự hấp thụ và sự đền trả, giữa việc tiếp nhận và sự cho đi. Sự bất lực hành động không phải luôn luôn là sự thiếu thiện chí hay thiếu các động cơ lý tưởng. Sự bất lực của nhóm trong sự lên kế hoạch và thực hiện sự thay đổi có thể phát sinh từ một sự bồi dưỡng văn hóa và thiêng liêng thiếu đầy đủ. Khi ấy nhóm cảm thấy cần phải tiếp nhận và hấp thụ các tin tức, các lời cắt nghĩa, các nội dung.

Đàng khác có thể có các nhóm liên tục sống tiếp thu các ý tưởng mà không trao ban cho kẻ khác cái vốn văn hóa và tôn giáo xuyên qua các cuộc can thiệp tương xứng

Vậy phải tạo nên những thời điểm cho nhóm tiếp nhận: việc dạy giáo lý, các dịp suy luận về văn hóa, các cuộc thảo luận bên trong nhóm với các chuyên viên, việc hình thành kế hoạch ở trong nhóm, việc gặp gỡ các nhóm khác.

Nhưng cũng có những thời điểm trong đó nhóm được kêu gọi trao ban sự kiểm nhận tính chặt chẽ giữa kế hoạch và việc thực hành thường nhật, giữa trung thành với các nhiệm vụ được trao phó, các việc phục vụ nhóm đảm nhận, và các trách nhiệm xã hội và Giáo hội. Hơn là nhắm đến các hoạt động trực tiếp của nhóm, tính cách tích cực của sự căng thẳng này cần phải được đánh giá bởi khả năng suy nghĩ và hành động mà nhóm có thể triển khai nơi các con người

  • Sự căng thẳng giữa trách nhiệm phải đổi thay nơi cá nhân và trách nhiệm phải thực hiện sự đổi thay xã hội. nhóm được kêu gọi tiếp thu sự lệ thuộc lẫn nhau của hai tiến trình trên, mà không lẫn lộn chúng với nhau. Trong hướng của sự thay đổi cá nhân nhóm tiên liệu các thời gian thực hiện việc xét duyệt đời sống, việc xét mình cá nhân và cộng đoàn, tận dụng Bí tích Hòa giải và kinh ngyện, tạo sự dễ dãi cho đối thoại với vị linh hướng.

Trong hướng của sự thay đổi môi trường, nhóm hướng đến việc phân tích văn hóa, tới hành động xã hội và chính trị, và tới việc đọc các hoàn cảnh để có thể phát giác ra các nguyên nhân, để thấy được các khả thể cụ thể và cái cảm thức là cần đến các cuộc can thiệp.

  • Sự căng thẳng giữa sự an ổn và các cơn khủng hoảng. nhóm được làm cho an lòng, mà cũng còn bị đặt trong cơn khủng hoảng. nhóm cần được an ủi trong hành trình mình đang thực hiện, mà cũng bị đánh động khi mà trên đường đi, nhóm bị chặn ngang lại hay đi lạc hướng.

Cần phải để cho nối tiếp nhau giữa các thời điểm trong đó nhấn mạnh đến các thực hiện tích cực của nhóm và các cuộc can thiệp qua đó sinh động viên và cộng thể giáo dục giáng đòn trên các sự quân bình đã đạt tới được để cho nhóm nghiệm ra được cách rành rẽ về sự nghèo nàn của sự dấn thân của mình.

Chính qua sự đan kết liên tục giữa các lý tưởng và cuộc sống hằng ngày, giữa sự thúc đẩy hành động và sự trở về với suy tư, mà nhóm học được việc lập ra kế hoạch đời sống mới, một kế hoạch đạt tới con người trong chiều sâu của lương tâm của họ, và đạt tới môi trường trong các phức tạp của những đòi hỏi của nó.

Để tạo khả năng lập kế hoạch cho mình, việc lập kế hoạch đối với sinh động viên và với nhóm, trở thành một nhiệm vụ, một sự dấn thân, một tiêu chuẩn thẩm định.

8

NHIỆM VỤ THỨ TƯ

DÕI THEO TỪNG NGƯỜI TRONG NHÓM

VẼ

  • “Cùng đi với”: một nhu cầu của các bạn trẻ

Nhiệm vụ thứ tư là nhắm vào sinh động viên: cùng đi với mỗi phần tử của nhóm trong hành trình tiến tới sự trưởng thành và trong những chọn lựa có tính cá nhân hơn.

Có hai lý do làm nền tảng cho nhiệm vụ này: tính chất giáo dục của nhóm và phong cách sinh động hóa Salêdiêng phản ảnh phong cách của Don Bosco.

Nhóm, vì là nơi giáo dục, đòi hỏi mỗi con người phải được gặp gỡ trong tính cách cá nhân của họ, ngay cả khi họ được hội nhập một cách tích cực vào một môi trường và một cộng thể. Việc thực hành giáo dục của Don Bosco  luôn luôn kết hợp việc ở với nhau trong sân chơi với lời nói “rỉ tai”; kết hợp việc gặp gỡ giữa mọi người với nhau trong những thời điểm đầy ngẫu hứng với cuộc đối thoại cá vị.

Sinh động viên có trong tay một số dữ kiện của nhận thức trực tiếp củng cố cho quan điểm này.

  • Đời sống của người trẻ không diễn tả ra trọn vẹn ở trong nhóm, cả khi họ coi đó là một kinh nghiệm quyết định và tuyệt vời. Nhận định này đưa đến quả quyết rằng chính nhóm sẽ có sức phong phú hóa với hai điều kiện: Một là nhóm phải mở ra đối với bên ngoài, hai là nhóm phải tung các phần tử của mình vào các môi trường trong đó các người trẻ làm chin muồi chân tính cá nhân của họ: đó là đời sống gia đình, kinh nghiệm xã hội và Hội thánh, các mối tương quan cá vị với những người trưởng thành, cuộc sống đôi bạn. Người trẻ cần ở lại trong nhóm, và đồng thời cũng cần vượt quá nhóm, vừa để làm phong phú hóa bản thân mình, vừa để tạo nên sinh lực cho chính nhóm của họ. Quả vậy, nhờ tiếp nhận mỗi phần tử với cái hành lý của các kinh nghiệm muôn vẻ của họ, nhóm mới có thể thi hành nhiệm vụ đối chiếu và xây dựng cách có phê phán và tổng hợp. Nếu ta không nghiêm chỉnh nhận định về sự kiện là đời sống của bạn trẻ không diễn ra trọn vẹn ở trong nhóm, thì có thể xuất hiện các hình thức tương quan không bình thường; sự đồng nhất mình một cách phi – phê – phán với nhóm, sự lệ thuộc thái quá, nhóm có tham vọng xác định chi ly về đời sống của mỗi con người.
  • Đời sống của mỗi người được ghi dấu ấn của những chọn lựa cá nhân. Bởi đó, dù đồng hành với nhau, nhóm chỉ có thể cống hiến cho các phần tử của mình một sự nâng đỡ bên ngoài, vừa thân tình, vừa thẳng thắn, chứ không thể làm gì hơn nữa. Các thời gian trong đó xẩy ra các cuộc chọn lựa không đồng đều cho tất cả mọi người, và các hoàn cảnh cùng các quyết định mà mỗi người phải đối diện cũng không giống hệt như nhau. Tuy nhiên ta có thể nêu lên một vài điểm mà tất cả đều phải gặp gỡ, và có quan hệ cả đến sinh động viên lẫn nhóm.
  • Thời gian trong đó, sau một cuộc hành trình nhất định cùng với nhóm, các phần tử được kêu gọi để diễn tả quyết định cá nhân của mình liên quan đến đức tin;
  • Thời gian trong đó người ta nhận ra rằng nhóm không còn đủ cho họ nữa; không còn biết hay còn có thể cống hiến các khoảng không gian và các câu trả lời cho các nhu cầu được cảm nhận;
  • Thời gian trong đó người ta tự định hướng một ơn gọi phục vụ trong Giáo hội và trong xã hội;
  • Thời gian trong đó người ta hướng đến cuộc sống đôi bạn.
  • Cuộc sống của nhóm có thể qui phục một kinh nghiệm vạch rõ các giới hạn, đặt ý nghĩa cuộc sống vào sự thử thách. Đó là những thời điểm mà các phần tử được gọi để trao ban cho cuộc sống của mình một lập trường mới và phong phú hơn, hay trong đó người ta cảm thấy một cảm thức của trống rỗng và của sự phân hóa nội tâm. Các dịp đó có thể là cái chết của một người thân, kinh nghiệm về ốm đau hay thất bại nghiêm trọng, một kinh nghiệm tôn giáo đặc biệt…hay những gì tương tự như thế.
  • Sinh động viên thi hành một việc phục vụ giáo dục chủ yếu đối với nhóm, nhưng không tách biệt sự phục vụ này khỏi chú tâm tới từng người.

Họ coi nhóm là nơi ưu tuyển của kinh nghiệm và việc định hướng, trong đó phẩm chất và cường độ của các tác động lẫn lên nhau tạo nên sự dễ  dàng cho các tiến trình tăng trưởng. Cho nên sinh động viên trước hết đối thoại với nhóm trong tư cách là nhóm. Họ đề nghị cho nhóm các con đường để đi. Họ thảo luận với nhóm các vấn đề. Họ cảm thấy có trách nhiệm khơi động nên trong nhóm một sự đối chiếu có phê phán và nghiêm chỉnh, mà họ tin chắc là phong phú và có giá trị.

Cuộc sống và các quyết định của nhóm không được đem ra đối chất xuyên qua một cuộc đối thoại cá nhân tách biệt. Đó chính là phương pháp của sinh động viên, một phương pháp có khả năng làm cho chính nhóm trở thành nơi hướng dẫn thiêng liêng cho từng người.

Tuy nhiên, điều ấy không loại trừ việc họ sống gần gũi với từng thành phần của nhóm. Hơn nữa họ thi hành nhiệm vụ của họ đối với từng người, và đồng lúc chú tâm tới:

  • Làm cho nhóm có khả năng đi theo từng phần tử của mình;
  • Mở ra cho các bạn trẻ những mối tương quan giáo dục đa diện;
  • Đảm nhận vai trò chuyên biệt của họ trong việc dõi theo các bạn trẻ
  • Nhóm vì cá nhân con người

Tận dụng kinh nghiệm cá nhân

Sinh động viên hướng dẫn nhóm đồng hành cách hữu hiệu với từng người, và giúp họ tận dụng những chọn lựa và những kinh nghiệm cá nhân.

Nhiều người trẻ tham gia nhóm xem ra dửng dưng với cái xẩy ra cho các đồng bạn mỗi ngày. Có khi họ nói tới, nhưng thiếu sự quan tâm. Đằng khác làm cho nhóm gánh lấy trách nhiệm về những chuyện xẩy ra trong khi vẫn tôn trọng mỗi cá nhân, bất chấp những sự thiếu mạch lạc và những khó khăn, cũng chẳng phải là chuyện đơn giản.

Sự tôn trọng đối với mỗi cá nhân không có nghĩa là chấp nhận nguyên tắc coi “mọi sự chọn lựa đều tốt như nhau” Ý thức được điều này, sinh động viên giúp cho mỗi người trẻ quan tâm tới cuộc sống của kẻ khác và biến nhóm thành nơi trong đó các kinh nghiệm được lắng nghe, tái đọc lại, tái cắt nghĩa và đánh giá, trong khi nâng đỡ cho sự tự do cá nhân và giúp cho họ học hỏi thêm kể cả từ các hoàn cảnh kém tích cực.

Sinh động viên giáo dục nhóm tôn trọng bình diện cá nhân; hết ngày này qua ngày khác, nhất là trong những thời điểm quyết định của cuộc sống mà chúng ta đã nói đến. Cũng còn phải có ý muốn thông cảm và tiếp nhận đối với cả những người không đồng ý kiến, nghĩa là đối với những người đã quyết định bỏ nhóm hay tách biệt mình với các chọn lựa của nhóm.

Các khoảng thời gian và không gian dành cho cá nhân

Sinh động viên giáo dục các phần tử của nhóm biết đảm nhận lấy các khoảng thời gian và không gian dành cho cá nhân. Sự chăm lo cho bình diện cá nhân của đời sống đòi hỏi nhóm lên chương trình và sống các kinh nghiệm đánh dấu cho bình diện này. Điều đó yêu cầu phải tạo ra các dịp để mỗi người thẩm định lại cuộc sống của mình và có lấy ý thức về hướng đi của bản thân mình.

Trên đường nét, này phải kể ra một số điểm hướng dẫn:

  • Các thời gian mà nhóm trong tư cách của nhóm dành cho mình để cầu nguyện, để đối chiếu với Tin mừng, để suy nghĩ. Các thời gian này, được sống cách chân thành và có tính cách động viên cả nhóm cách mạnh mẽ, sẽ trở thành các thời điểm nâng đỡ có giá trị cho chính từng cá nhân;
  • Những khoảng không gian dành cho sự cô tịch cá nhân mà các cá nhân và nhóm đều phải làm quen với, để nội tâm hóa những kinh nghiệm hằng ngày và giải mã các sứ điệp của chúng để họ được hòa giải với chính mình và tìm ra được sự an ổn nội tâm. Sự ngập chìm vào trong yên lặng và vào trong cảnh trí hấp dẫn của thiên nhiên, sự hồi tâm và suy gẫm là những thái độ và niềm sở thích mà nhóm phải tìm cách phát triển;
  • Các khoảng không gian và thời gian để mà tái gặp gỡ với gia đình của mình một cách tươi mới và giàu kết quả. Sinh động viên lo sao để nhóm và các hoạt động của nhóm không chiếm hữu lấy tất cả đời sống, mà còn có chỗ cho cha mẹ đến nâng đỡ cho sự tăng trưởng của con cái họ.
  • Những mối tương quan giáo dục đa diện

Nhu cầu phải có những tương quan cởi mở

Để trưởng thành, người trẻ cần phải thiết lập một mối tương quan giáo dục và đồng nhất mình một phần nào đó với các dung mạo người lớn khác nhau.

Mỗi một dung mạo người lớn này đóng góp một phần riêng của họ và để lại dấu ấn của nhân cách riêng của họ, của khả năng riêng của họ, và của vai trò riêng của họ.

Phương pháp sinh động hóa cổ xúy mối tương quan cá vị giữa thế giới của các người lớn và thế giới của các người trẻ xuyên qua chính sự trung gian của sinh động viên là người sống tiếp xúc hằng ngày với nhóm.

Vậy chính sinh động viên, dù vẫn ý thức về vai trò độc nhất và chuyên biệt của mình ở giữa các bạn trẻ, phải cổ xúy cho việc hình thành những mối tương quan giáo dục nhiều mặt, tất cả đều qui hướng về việc làm tăng trưởng sự tự lập của các cá nhân.

Các dung mạo khác biệt nhau trong cộng thể giáo dục.

Cộng thể giáo dục cống hiến nhiều dung mạo khác nhau để các người trẻ có thể mô phỏng theo một cách tích cực. Sinh động viên nhấn mạnh đến sự ích lợi của sự kiện này và nêu rõ cái nguy cơ của những ai lang thang mà không thực sự chẳng đi vào được trong đối thoại chân chính với bất cứ một ai.

Nhờ thế nhóm học để có thể đối chiếu mình với các dung mạo khác nhau:

  • Các chuyên viên về các vấn đề tâm lý xã hội;
  • Người lãnh đạo trong lãnh vực văn hóa và tôn giáo;
  • Những người nam và nữ có một kinh nghiệm nhân bản và Hội thánh trổi vượt.

Nhóm và các phần tử trong nhóm được tạo khả năng phân biệt giữa các nhà giáo dục khác nhau để mà tự đem mình đối chiếu và mô phỏng theo họ tùy theo những nhu cầu mình cảm nhận.

Có những nhà giáo dục là hiện thân của lý trí: họ là những người có khả năng cống hiến những phân tích hợp lý về các vấn đề xã hội, tâm lý, văn hóa, đồng thời có khả năng đáp ứng sự khao khát các thông tin về lý thuyết và về hoạt động kỹ thuật.

Lại có những nhà giáo dục khác diễn đạt trổi vượt hơn bình diện tôn giáo và thiêng liêng của cuộc sống; họ là những người biểu lộ một sự tập trung cao độ về kinh nghiệm Kitô hữu, qua các trách nhiệm như linh hướng, giáo lý viên, cha giải tội.

Sau cùng, cũng có các vị khác diễn tả cách mãnh liệt tình thương mến dịu dàng: họ ở gần các người trẻ, khích lệ chúng đừng cam chịu hay đầu hàng trước các khó khăn hằng ngày.

Đối với sinh động viên, dõi theo từng người trong các chọn lựa cá vị có nghĩa là giúp cho họ tự đặt mình cách tích cực ở bên trong mạng lưới thông tri, ở bên trong các mối tương quan độc đáo và khác nhau.

Sinh động viên mau mắn biết phân biệt làm sao giữa các vấn đề cá nhân khác nhau, nào là việc tìm kiếm các động cơ nền tảng để sống, nào là nhu cầu về sự sáng tỏ của trí tuệ, nào là khát vọng được cảm nghiệm sự tiếp nhận và sự nhìn nhận. Đồng thời họ hướng dẫn để tích lũy lại các sự trợ giúp từng phần đã được cống hiến và không đòi hỏi mỗi nhà giáo dục phải ban trọn vẹn những gì một người cần. Quả vậy ngay cả trong các cuộc gặp gỡ giữa người lớn và người trẻ, người ta cũng cảm nghiệm thấy được về các giới hạn.

  • Nỗ lực cá nhân của sinh động viên

Tiếp xúc riêng từng cá nhân với các bạn trẻ

Nhóm như là nơi của sự tiếp nhận và tình bạn, của đối thoại và biện phân, của sự soi sáng Tin mừng và sự nâng đỡ lẫn nhau, đã là dịp cho việc linh hướng rồi. Tất cả những gì chúng ta đã trình bày về sự khích lệ hãy lại gần với các người lớn, và hãy dùng lấy những phẩm chất và kinh nghiệm  của họ; tất cả cái đó đã là một sự dõi theo cá nhân rồi. Nhưng sinh động viên cũng biết được rằng mối tương quan của họ với các thành phần của nhóm là hoàn toàn cá biệt và khác với tương quan mà người trẻ có với nhà giáo dục khác. Sinh động viên đồng chia sẻ vào cuộc mạo hiểm của nhóm, họ gần gũi với các người trẻ, họ trực giác thấy các vấn đề của chúng, các nỗi lo lắng và các nghịch lý trong đó chúng phải chiến đấu. Cho nên những gì các bạn trẻ mong chờ nơi sinh động viên thật là cá biệt, và sự trợ giúp mà sinh động viên cống hiến cho sự trưởng thành hóa các nhân vị thật là có một không hai.

Khả năng để đáp ứng cho những trông chờ này được bén rễ ở trong toàn thể nhân cách của sinh động viên. Thay vì đi xuống các chỉ dẫn chi tiết, chúng ta loan báo một vài đặc điểm của việc thi hành nhiệm vụ của người sinh động viên.

  • Sinh động viên gần như là một nút giao lưu trong mạng lưới các tương quan mà người trẻ thiết lập với các dung mạo giáo dục khác nhau. Vậy sinh động viên có nhiệm vụ giúp cho người trẻ làm tổng hợp các kết quả đào luyện mà các nhà giáo dục khác, môi trường và nhóm cống hiến cho. Họ giúp đúc kết, tái hình thành trở lại, và phẩm chất hóa các kết quả đó, xuyên qua việc đánh giá và hấp thụ cá nhân. Bởi vậy sinh động viên là điểm đối chiếu, là người bạn đồng hành, là nhân tố phê phán cho các người trẻ trong nhóm.
  • Ngoài vai trò sinh động hóa họ có thể là điểm đối chiếu cho các bạn trẻ. Nhờ vậy, họ trở thành người cố vấn, người bạn, thầy dạy tinh thần. Quả vậy, chính chứng tá của họ, con người của họ, kinh nghiệm về cuộc sống của họ giúp cho người trẻ trong những trường hợp khó khăn nhất. Theo một nghĩa chân thật và sâu xa nhất, họ trở thành người có khả năng làm trung gian và cử hành trong hành trình của đời sống riêng của mình cuộc gặp gỡ huyền nhiệm với Thiên Chúa, và là người biết là bí tích của một tình yêu vĩ đại đón nhận và tha thứ.
  • Sinh động viên luôn có với người trẻ một mối tương quan so le, nghĩa là không trong tư cách người bằng vai với người bằng vai, mà trong tư cách người lớn với người trẻ. Sự không cân bằng được nhận thấy nhất là khi sự khác biệt về tuổi tác là đáng kể. Nhưng sự không cân bằng vẫn có đó khi sự khác biệt này là thấp. Chính do sự so le này, mà có những nhậy cảm, các giai đoạn cuộc sống và các kinh nghiệm so sánh giữa đôi bên khác biệt nhau, khiến cho sinh động viên và người trẻ có thể giúp đỡ nhau và bổ sung cho nhau. Đồng thời có những thời điểm cô đơn cho người này người kia. Mối tương quan đồng vai vế chỉ đến khi nào nhóm được lớn lên tới mức…tự giải tán để khai sinh ra những trách nhiệm mới. Khi ấy những con đường có lẽ sẽ tự phân chia thành nhiều nhánh và chỉ còn lại cái có liên hệ tới và cái là kết quả của việc dõi theo.

Một mục tiêu duy nhất trong cả một gam những cách thức.

Sinh động viên thực thi nhiệm vụ dõi theo cá vị trong vô số các hoàn cảnh, các cách thức và các cuộc can thiệp. Hành trình sinh động hóa cống hiến rất nhiều cơ hội và khả thể để đối thoại cá vị và thân mật. Các thời điểm tự nhiên và không chính thức của sự đồng chia sẻ thì phong phú hơn, nhiều ý nghĩa hơn là những dịp được ấn định, và được nhấn đến nhiều hơn trong phong thái sinh động hóa Salêdiêng.

Sinh động viên phải biết làm cho sự thông giao với từng người một sự kiện nặng về chất hơn về lượng. Khi ấy, cái rất đáng kể chính là chứng tá của con người và của niềm tin, các cử chỉ và sự yên lặng. Yên lặng có nghĩa là tự diễn tả xuyên qua các hoạt động của nhóm, trực giác thấy các sứ điệp của các hoạt động, của các sự vắng mặt, của các chuyện không được nói ra. Lời nói vào lúc này  không còn đủ nữa.

  • Các cách thức khác nhau mà sinh động viên chọn đề tài theo người trẻ cách cá vị, đều nhắm đến một mục tiêu duy nhất, dù cho có được tiến hành theo các khía cạnh khác nhau. Lập tức, mục tiêu ấy nhắm thiết lập một hoàn cảnh liên vị trong đó người trẻ:
  • Có thể nhận thức về mình cách tốt hơn, bằng cách có được một sự hiểu biết sáng tỏ về các khả năng của mình và về những nguy hiểm mà mình có thể gặp phải.
  • Có thể trở nên tự do hơn, làm cho mình có ý thức về các định hướng và các tổng hợp về cuộc sống mà mình đang hình thành và các viễn ảnh mà cuộc sống mở ra.

Đồng thời mục tiêu này mở rộng ra và phân chia thành các dấu nhấn khác nhau:

  • Củng cố sự trưởng thành cá nhân trong mọi khía cạnh.
  • Biện phân ra ơn gọi riêng của mình trong Giáo hội và trong thế giới; cứ mãi mãi lớn lên trong đời sống thiêng liêng tiến tới sự thánh thiện.
  • Sinh động viên biết được rằng trong môt số rất lớn các hoàn cảnh và các cuộc can thiệp khác nhau, cuộc gặp gỡ đàm thoại có giá trị của nó và nhiệm vụ riêng biệt của nó. Nó giúp để ngưng lại, xác định vấn đề, rút ra các kết luận, đưa vào thảo luận các vấn đề đã nhiều lần được bàn tới chỉ mới thoáng qua. Cuộc đàm toại thân mật, không nhất thiết phải theo qui cách, sẽ giúp cho người trẻ công thức hóa và diễn đạt những lập trường về cuộc sống và những xác tín mà họ đã đạt tới, nó cũng giúp cho họ nêu rõ ra các vấn nạn và các khó khăn mà họ cảm nhận ở nội tâm và thấy chúng ở độ canh xa cho phép họ thẩm định chung cách thanh thản.

Khả năng chuyên môn và sự sẵn sàng

Nên làm việc sinh động viên của một nhóm là chuyện không dễ dàng vì không đủ việc học một kỹ thuật rồi đem ra áp dụng nó, thì cũng chẳng thể nào đương nhiên mà có được cái khả năng dõi theo từng người theo đúng nhịp của hành trình tăng trưởng của họ.

Cho nên cần thiết phải có một sự chuẩn bị chuyên biệt và một sự sẵn sàng dấn thân to lớn.

  • Sự kiện việc dõi theo cá nhân được thể hiện trong các thời điểm khác nhau và được triển khai dưới nhiều hình thức không có nghĩa là toàn thể tiến trình được phó thác cho sự kết hợp tự nhiên của những cuộc can thiệp bé nhỏ và chỉ cần có được những kết quả từng phần và bé nhỏ là đủ để cảm thấy an tâm rồi. Sinh động viên cần phải có một quan điểm về đời sống thiêng liêng, cũng như một sự hiểu biết có suy nghĩ về sự phát triển và về tất cả từng năng động lực của đời sống thiêng liêng đó ở nơi các chủ thể.
  • Sự sẵn sàng của sinh động viên với nhiệm vụ này được biểu lộ ra nơi một số thái độ.
  • Sinh động viên phải sẵn sàng lắng nghe và tiếp nhận những lời tâm sự của người trẻ với lòng tôn trọng, không bao giờ ép buộc họ để đi vào trong chỗ thâm sâu của lương tâm của họ, kể cả khi việc đó là để có được một sự hiểu biết tốt đẹp hơn về người trẻ;
  • Họ phải biết sắp xếp cho có thời giờ để đối thoại. Đừng để cho mình bị quá tải bởi các bận tâm về tổ chức và bởi các hoạt động; họ hãy biết sống yên tĩnh, nơi mà việc trao đổi cá nhân không bị gián đoạn và làm cách vội vã;
  • Họ phải biết gợi lên cuộc đàm thoại, cắt nghĩa được những câu hỏi của người trẻ; biết khai triển nó tùy theo khả năng của người đối thoại với họ và để cho người đối thoại khả năng diễn đạt các hoàn cảnh, các vấn nạn, các giải pháp. Họ hãy biết là trong cuộc đàm thoại này, họ không giữ vai trò chính, mà biết thực thi một nhiệm vụ nâng đỡ cho trí tuệ đang đi tìm kiếm và cho ý chí đang trên đường rèn luyện để thực hiện những chọn lựa;
  • Họ tiếp nhận một cách sâu xa trách nhiệm giáo dục của họ là nâng đỡ các người trẻ trong nỗ lực tăng trưởng: cuộc sống của người trẻ. Cuộc sống của người trẻ chính là mối quan tâm của họ.

Đã hành trình bên cạnh người trẻ để giúp họ nhận ra con đường của mình chính là một kinh nghiệm nhân bản và của đức tin còn để lại một dấu vết trong đời sống của mỗi con người. Sinh động viên mang bên trong mình, ngay cả sau rất nhiều năm, câu chuyện đời của tất cả các thanh thiếu niên mình đã gặp gỡ, và họ sẽ rất sung sướng khi biết rằng các thanh thiếu niên này đã học đảm nhận lấy chính cuộc sống của riêng họ.

  • Nhóm như là nhóm sẽ học để không sống bằng hồi tưởng, nhưng bằng lên kế hoạch cho các kinh nghiệm cần được trao đổi để liên tục sản sinh ra sự sống mới.

MỤC LỤC

 

LỜI GIỚI THIỆU

DẪN NHẬP

  • Vấn đề
  • Mục tiêu của tập tài liệu
  • Tài liệu dành cho những ai?
  • Các tiêu chuẩn biên soạn
  • Những gợi ý để đọc tập tài liệu này
  • SINH ĐỘNG HÓA NHỮNG ĐỀ NGHỊ GIỮA NHỮNG TRỰC GIÁC VÀ THÁCH ĐỐ
  • Các trực giác nền tảng
  • Các chọn lựa hoạt động
  • Việc sinh động hóa nhóm
  • DUNG MẠO CỦA SINH ĐỘNG VIÊN THEO PHONG CÁCH
  • Sinh động viên ở trong cộng thể giáo dục
  • Sinh động viên Salêdiêng: linh đạo của họ.
  • Sinh động viên và kế hoạch giáo dục mục vụ
  • Hành trình đào luyện Salêdiêng
  • Sinh động viên và các nhóm trẻ
  • NHÓM: CHỦ THỂ VÀ NƠI CỦA VIỆC SINH ĐỘNG HÓA
  • Nhóm: chủ thể của việc đào luyện
  • Phương pháp đào luyện nhóm
  • Sinh động viên, một người lớn nắm giữ vai trò chuyên biệt liên quan đến việc đào luyện của nhóm.
  • HÀNH TRÌNH SINH ĐỘNG HÓA TRONG CÁC NHÓM TRẺ
  • Sự qui tụ lại và tiếp nhận
  • Việc thuộc về và sự liên đới.
  • Sự đối chiếu đầu tiên và tình yêu đối với cuộc sống
  • Kế hoạch nhóm và sự chọn lựa đức tin.
  • Sự chin chắn và việc học sống đời Kitô hữu
  • Việc hội nhập vào cộng thể và ơn gọi cá nhân
  • GIÚP NGƯỜI TRẺ TRỞ THÀNH NHÓM
  • Tạo thành nhóm: ước vọng và thực tại
  • Sự thông tin trong nhóm
  • Giúp nhóm tạo cho mình một cơ cấu
  • Những hoài bão của nhóm
  • TRUNG GIAN GIỮA NHÓM VÀ MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC
  • Nhóm – môi trường: mối tương quan phải kích động
  • Giúp nhóm trở thành “rộng mở” cho môi trường văn hóa và tôn giáo
  • Một môi trường trong phong thái của sinh động hóa
  • Sự tham gia của các bạn trẻ trong lãnh vực giáo dục
  • Sự tương tác và sự đồng qui giữa các nhóm
  • GIÚP NHÓM LÊN KẾ HOẠCH LỐI SỐNG MỚI
  • Lên kế hoạch: một sự khẩn trương đầy vấn đề
  • Nhóm chủ thể và nơi của sự thay đổi
  • Các môi trường trong đó ta phải lên kế hoạch về một phong cách sống mới
  • Kế hoạch nằm ở giữa các hoài bão và cuộc sống hằng ngày
  • DÕI THEO NHỮNG NGƯỜI TRONG NHÓM
  • “Cùng đi với”: một nhu cầu của các bạn trẻ
  • Nhóm vì cá nhân con người
  • Những mối tương quan giáo dục đa diện
  • Nỗ lực cá nhân của sinh động viên

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *