DON BOSCO VÀ THIÊN CHÚA

Don Bosco Và Thiên Chúa

  • Eugenio Ceria

TIỀN ĐỀ

Ý tưởng viết cuốn sách này đến với tôi khi tôi đang ở Frascati năm 1929, năm phong chân phước của Don Bosco. Nó đến với tôi khi đang đọc tường trình hằng năm của Don Philiphe Rinaldi, đấng kế vị thứ ba của Don Bosco, gởi đến các Cộng tác viên Salêdiêng nam nữ vào tháng giêng. Kết thúc lá thư, ngài nhắc nhở rằng một trăm năm đã qua, khi đó cha của chúng ta, một thiếu niên miền quê khiêm tốn và chăm chỉ, lúc đó chưa đầy mười bốn tuổi, đang làm thuê cho một gia đình nông dân khá giả, đã không quên làm việc tông đồ giữa các bạn cùng lứa tuổi, và nhất là cũng chăm chú cầu nguyện. Và như thế trong làm việc và cầu nguyện ngài đã trải qua hai năm tại đó.

Tôi nhớ một điểm mà cha Chautard dòng benedictin trong cuốn sách nổi tiếng của ngài L’âme de tout apostolat kể Don Bosco vào số các linh mục và tu sĩ thời đại mới, những nguời hiến thân hoàn toàn cho cuộc đời hoạt động, đã làm ích biết bao cho các linh hồn chỉ vì họ là những người có đời sống nội tâm sâu xa. Đức cha Virili, thỉnh viên phong chân phước cho cha Cafasso, cũng nhắc tới điều đó khi làm chứng trong án chân phước của Don Bosco. Ngài tuyên bố rằng Don Bosco là một vị thánh, không chỉ bởi những công cuộc đã thực hiện, mà còn bởi tinh thần cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Lúc đó, tôi tự nói với mình, đây là một khía cạnh mà có lẽ đã chưa được bàn tới, vậy cần phải lưu tâm làm sáng tỏ trong năm mà có lẽ ngài sắp được phong chân phước.

Nhiều người đương thời quá ngây ngất vì những việc kỳ diệu trong hoạt động của ngài, họ thán phục những gì lừng lẫy mà quên đi mất rằng tất cả vinh quang của ngài đã xuất ra tự bên trong. Ngay cả thế hệ tiếp sau khi ngài qua đời cũng thích nhìn nhiều hơn về những công cuộc của Don Bosco, họ nghiên cứu những cách thức và các sự phát triển mà không quan tâm tới cái nền tảng sinh động bên dưới, cái vốn là bí quyết của tất cả các vị thánh: tinh thần cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa.

Đừng có ai ảo tưởng mình hiểu về Don Bosco nếu đã không biết ngài như một con người cầu nguyện; những ai dừng lại qúa nhiều đàng sau những sự kiện tiểu sử mà không đi vào chuyển động nội tâm của ngài, thì khó lòng tìm được hoa trái từ cuộc sống kỳ diệu của ngài.

Vén được tấm màn này, tôi khám phá được tính cách giáo huấn quan trọng và có lẽ cũng đóng góp vào sự tôn vinh vị tân chân phứơc; tôi muốn nói tới tấm màn cuộc sống mà vẻ bên ngoài giống như nhau, nhưng lại ân giấu những kho tàng ân sủng và ân huệ siêu nhiên. Người ta có thể lập lại về Don Bosco những điều người khác đã nói rồi, rằng ngài giống như tấm bánh thánh, bên ngoài cái hình thức là tấm bánh, bên trong là Chúa Giêsu Kitô.

Suy nghĩ này làm tôi đã có thể đã rút lui yên ổn, viện lý những giới hạn; nhưng tôi muốn thử, hơn nữa vì biết rằng làm như thế sẽ là vâng lời bề trên cả Don Philiphe Rinaldi. Vì thế trong phạm vi thời giờ rảnh mà tôi có được giữa những bận bịu, trong tâm tình của người con, tôi trở về với mẫu gương và giáo huấn của người cha, ngắm nhìn vào những điểm đặc sắc mà tôi thấy cần phải lưu tâm về cuộc sống kết hiệp của ngài với Thiên Chúa.

Vì thế, tôi thu thập dần dần những chất liệu đầy đủ và chắc chắn để hoàn thành tác phẩm nhỏ này. Tác phẩm mà với sự khiêm tốn và niềm vui tôi đặt dưới chân vị chân phước thân yêu của chúng ta, khấn nguyện rằng là với lòng yêu mến và với hết năng lực, đào sâu vấn đề và để lại một tác phẩm đúng tầm mức. Chủ đề chắc hẳn đáng như thế.

Cuốn sách đã được nhiều khích lệ, bởi vì nó đã được in hai lần và đã có vài bản dịch. Giờ đây vì vâng lời một đấng kế vị khác của thánh Gioan Bosco, tôi viết lại, thêm vào hoặc sửa đổi đây đó, tuy nhiên trong cách thức không thay đổi hình thức nguyên thủy.

Nguồn tài liệu mà tôi kín múc, cách chung là bộ Memorie biografiche; cuốn Cuộc đời thánh Gioan Bosco do cha Lemoyne viết trong hai volume; Công báo về án phong thánh, và các tài liệu trong văn khố. Như tôi đã được lưu tâm, sao cho người đọc có thể chắc chắn về tính khả tín của những điều được trình bày, mà không cần phải làm nhiều nốt trích dẫn. Mỗi lần tôi phải nại tới những nguồn khác, tôi sẽ ghi trong nốt.

Liên quan tới tựa đề, thật thích hợp giữ lại tựa đề ban đầu; tựa đề này không làm giảm nhẹ sự vĩ đại của vị thánh mà dưới cái tên đơn giản Don Bosco, đã làm biết bao điều kỳ diệu và hãy còn kỳ diệu trong thời sau ngài. Chính Đức Pio XI tại đền thờ thánh Phêrô ngày 3 tháng 4, trong cuộc tiếp kiến các tín hữu hành hương do các Salêdiêng tổ chức trong ngày lễ phong thánh, cũng nghĩ như thế. Sau khi nhấn mạnh tới những phạm trù khác nhau cấu tạo nên gia đình Salêdiêng, khi nói về thánh Gioan Bosco, ngài thêm rằng nên tiếp tục gọi vị thánh là Don Bosco.

“Thật là đẹp vì giống như người ta hô khẩu hiệu xung trận, cuộc chiến diễm phúc, một cuộc chiến mà người ta có thể nói là do sự quan phòng muốn ban cho nhân loại khốn cùng, bù lại cho những cuộc chiến ác hại, gây tang thương khác”.

Lần xuất bản này có thêm năm chương mới và một số những thay đổi đây kia. Cũng bỏ qua lối phân chia ba phần trước đây.

Một buổi sáng tháng tám 1887 tại trường Lanzo Torino, tác giả, đang khi lên thang, may mắn gặp được Don Bosco đang đứng ở lưng chừng thang, như thể đang đợi ai đó. Quá sung sướng vì gặp ngài, tác gỉa cầm hôn tay ngài. Don Bosco hỏi tên. Nghe biết tên, ngài kêu lên trong một vẻ ngạc nhiên sung sướng: Ồ, cha rất hài lòng…  Đôi tai lo lắng trong hạnh phúc chờ đợi; nhưng câu nói chưa kịp kết thúc thì một người đã tới lấy ngài đi mất. Khi kết thúc sự lao nhọc khiêm tốn này, sẽ là thật sung suớng nếu được nghe lại từ đôi môi của người cha yêu mến đôi lời ngắn ngủi đó, nhưng với ý nghĩa của sự hoàn tất. Ngài hiểu được ý định tốt lành. Xin ngài chúc lành cho nỗ lực này và làm cho nó sinh hoa kết quả.

Linh mục Eugenio Ceria

Torino 31 tháng giêng, lễ thánh Gioan Bosco, 1946.

DẪN NHẬP

Đối với các tâm hồn đơn sơ, vị thánh là con người của các thị kiến, của các lời tiên tri và của các phép lạ; những điều này là những đặc sủng, không thiết yếu đối với sự thánh thiện, do Thiên Chúa ban trong Giáo hội ngay từ những buổi đầu để chứng tỏ tính cách thần linh của Giáo hội, và như là những phương thế ngoại thường để đánh thức hoặc để duy trì sống động trong tâm trí con người ý thức về những sự thần linh.

Vị thánh là con người thuộc trọn về Thiên Chúa; một con người mà theo lời diễn tả của thánh Phaolô,[1] sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; một con người tìm nơi Thiên Chúa nguyên lý và cùng đích của mọi suy tư, mọi tình cảm, mọi hoạt động của mình.

Tất cả những ai được tái sinh do bí tích thanh tẩy đều đã nhận được trong bản thân mình những yếu tố ân sủng của một sự sống vượt trên sự sống tự nhiên do lòng nhân hậu vô lường của Thiên Chúa rộng ban; nhưng trong thực hành không có nhiều tín hữu đang khi đáp trả một cách hoàn hảo sự thúc đẩy thần linh, đạt tới mức độ đời sống thiêng liêng khả dĩ áp dụng vào tất cả chiều sâu rộng lời thánh Phaolô: Không phải tôi sống nữa, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi.[2]

Bởi thế vị thánh trình bày cho chúng ta đúng như người sống một cách đầy tròn sự sống siêu nhiên được ban cho một tạo vật nhân linh; do đó, một cách thường hằng họ sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa: sống trên mặt đất nhưng là công dân của nước trời, tâm hồn luôn hướng tới nơi mà mình có của cải đích thực.[3] Tinh thần cầu nguyện hệ tại chính ở chỗ này, được hiểu như một sự nâng cao, một đà lực yêu mến của linh hồn hướng về Thiên Chúa,[4] chẳng có gì có thể tách rời đối tượng tuyệt đối này khỏi tình yêu của người ấy: ngay bây giờ đã sống cuộc sống mai sau, trong đó hưởng kiến Thiên Chúa cách trực tiếp, trong yêu mến và trong vĩnh cửu.

Ý thức điều này, cần phải can đảm thú nhận rằng, ngày nay chúng ta thấy hầu như khắp nơi, không luôn luôn Truyện các thánh chứa đựng thực sự cuộc đời các thánh. Chắc chắn rằng các vị thánh đều cho thấy một hành động được định vị trong khung cảnh các biến cố của những người cùng thời; trong chuỗi các sự kiện và những trào lưu tư tưởng, người tín hữu nhận sẽ ra bàn tay của Chúa Quan Phòng gởi đến đúng lúc và đúng nơi những vị anh hùng có khả năng nâng đỡ nhân loại bằng các sứ mạng tôn giáo và xã hội.

Dưới nhãn quan này lối viết hạnh các thánh hiện đại đã được giải thoát khỏi những định kiến cố hữu khi nhìn vào các vị thánh như là những vị từ trên các vì sao rớt xuống mặt đất, xa lạ với cuộc sống, nếu như không nói là bị ám ảnh, chỉ thích giới hạn trong thần bí; đó là do bị hạn hẹp vì sự thiếu hiểu biết về thần bí và do những ý định tán dương gán cho những hiện tượng một tính chất cao siêu.

Đúng là cần phải ca ngợi các đồ đệ của phương pháp lịch sử, nếu như trong một số bối cảnh nào đó hình ảnh của các vị thánh có thể gây nên sự ác cảm nơi một số người. Nhưng cũng không thể chối được rằng tính chất cá nhân của các thánh có nguy cơ bị biến mất, bởi vì khi lấy khỏi các vị cái hào quang thì cũng phải cho chúng ta thấy các vị ấy thực sự như thế nào.

Cần phải phân biệt hai khía cạnh mà không tách rời chúng. Tại sao khi nghiên cứu về các thánh lại tách rời khỏi sự thánh thiện? Khi nói về sự thánh thiện tức là nói về một thực tại mà khoa học thực nghiệm, dù là lịch sử học hay tâm lý học, chỉ khảo sát được chút ít, và đối với người không bao giờ để tâm nghiên cứu những sự kiện thuộc về bình diện cao hơn nơi mà nhân linh gặp gỡ thần linh tới độ kết hợp, thì điều này không thể.

Đây là lý do tại sao thật sai lầm quan niệm của các tác giả cho rằng khi viết về vị thánh thì không đáng phải nói tới sự kết hợp với Thiên Chúa hoặc nếu nói tới thì phải nói trong một cách thức dửng dưng. Và nếu như thế chúng ta sẽ có một cây các thánh được trần thế hóa.

Trở lại một nhận xét khác. Chúng ta đã nghe và đọc nhiều rằng Don Bosco là một vị thánh hiện đại. Xem ra đó là một khẳng định thận trọng và phải hiểu trong ý nghĩa chứa đựng; nếu không nó sẽ phát sinh ra những nghi vấn, rằng giống như mọi sự khác mang tính con người, sự thánh thiện cũng cần phải được hiện đại hóa theo thời gian.

Chúng ta không theo chủ trương cho rằng có hai loại thánh thiện, loại thứ nhất tốt cho một thời và loại thứ hai được tạo ra cho thời chúng ta! Hoạt động của ân sủng thần linh đã làm nên các vị thánh không thay đổi theo thời gian, theo những hoạt động đa dạng của con người vốn luôn ở trong tình trạng biến đổi để thích ứng với những thay đổi của thời đại và hoàn cảnh; cũng không phải rằng đang khi thể thức thay đổi, thì sự cộng tác của con người với hoạt động thánh hóa của Thiên Chúa ngày hôm nay thì khác với ngày hôm qua.

Tình yêu hoàn hảo của Thiên Chúa, yếu tố cốt thiết của sự thánh thiện, thì giống như mặt trời, ngay từ ban đầu khi được tạo dựng đã luôn làm quả đất sinh động khi chiếu sáng và sưởi ấm nó. Điều này không có ý nói rằng không thể chấp nhận những cách giải thích khác, miễn là đừng nói một cách độc chiều rằng vị thánh chỉ là con người của thời ngài và bởi đó thực hiện một sứ mệnh trong một thời điểm lịch sử, theo một chủ trương ngẫu nhiên cho rằng nếu trong thời đại khác thì hoá ra lỗi thời.

Dẫu rằng nhìn nhận căn tính của nguyên lý và của năng lực gợi hứng cũng như mục tiêu tối thượng của mọi công việc thánh thiện, chính phương pháp này lại chẳng có gì mới mẻ khi đề cao khẩu hiệu: thời nào sự thánh thiện nấy.

Đặc biệt có một sự hiểu lầm thô thiển khi nói rằng Don Bosco vị thánh hiện đại. Trong thời buổi lao động cuồng nhiệt hiện nay khi nói như thế ngừơi ta nghĩ đến một bầu khí muốn tự hào về một vị thánh của hành động, như thể rằng Giáo hội, từ thời thánh Phaolô cho tới hôm nay chưa bao giờ có những vị thánh hoạt động và như thể chỉ có ở thời chúng ta mới có một vị thánh hành động đi đôi với cầu nguyện.

Không thể gọi là thánh thiện nếu không có đời nội tâm, và không thể nói tới đời nội tâm mà không nói tới tinh thần cầu nguyện. Đây chính là cái linh đạo chân chính, hôm qua, hôm nay và mãi mãi: hoạt động và cầu nguyện thấm nhập vào nhau, không tách rời khỏi nhau, như thấy trong ngày Ngũ tuần.

Một người hiểu rõ về thánh Phaolô đã diễn tả cái cốt lõi trong hoạt động tông đồ của ngài,[5] diễn tả này chúng ta thấy áp dụng thật đúng cho Don Bosco: “Với một sự tài khéo tuyệt vời vị Tông đồ đã kết hợp chiều kích thần bí thật cao siêu với chiều kích tu đức thực tiễn; đang khi mắt ngài xuyên vào cõi trời thì chân ngài không hề rời khỏi cõi đất. Khi ngài nói mình chịu đóng đinh cho thế gian và sống chính cuộc sống của Đức Kitô, ngài biết cách nói sao cho lôi cuốn con cái yêu dấu của mình bằng những lời lẽ của niềm vui và ân sủng. Ngài ban ra những chỉ thị rất nhỏ nhặt về khăn choàng đầu của phụ nữ, về trật tự của cộng đoàn, về bổn phận làm việc, về việc chăm sóc cho bao tử yếu. Thế nên linh đạo của ngài cống hiến cho những tâm hồn khiêm nhường một của ăn luôn luôn có hương vị, và cho những tâm hồn được ưu tuyển một kho tàng không vơi cạn những suy niệm thâm sâu”.

Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo tới thời trung cổ, chúng ta tìm thấy người ta viết về thánh Bonaventura nhận xét này mà duờng như cũng viết về Don Bosco: “Thời buổi chiến đấu đòi hỏi những con người có một lòng tốt trổi vượt, đứng bên trên mọi phía đối kháng, có khả năng đem lại bình an cho các tâm hồn: những con người có một quan điểm rõ ràng, biết rõ cái mình muốn và thẳng tiến theo mục tiêu của mình; đó là những con người cầu nguyện để bảo đảm bình an trong tâm hồn mình và đạt được sự soi sáng và sức mạnh từ trên cao”.[6]

Đó chính là linh đạo của các thánh, luôn cổ kính và cũng luôn mới mẻ, không bị thay đổi do dòng thời gian cũng như tập tục.[7]

Có thể xảy ra là những người làm tông đồ và các Kitô hữu khi dấn thân vào các khoa học thánh, bị thúc đẩy tìm lý lẽ cho các sự việc thiêng liêng, qúa dễ dàng họ  bị ảo tưởng cho mình là chính cái mình nói; nhưng cái nói và cái làm qủa là khác nhau: người ta có thể diễn từ rất hay về đời sống thiêng liêng mà không sống một cách thiêng liêng.

Các linh mục hiến thân cho tác vụ thánh, trong những trang sau đây, nhờ vào Don Bosco, sẽ tìm thấy những chỉ dẫn và khích lệ thực hiện tổng hợp giữa làm và giảng dạy,[8] nghĩa là việc thực hành đi trước, cùng đi và theo sau giáo huấn. Thánh Bernardo nói rằng cần có chính bình chứa chứ không chỉ là những máng chuyển.[9]

Các giáo dân, giữa những lo lắng của cuộc sống nếu không đánh mất những quan tâm về tinh thần, sẽ tìm thấy không ít điều bổ ích nơi gương mẫu một người lao động không mệt mỏi, giữa biết bao trách nhiệm đã có được nghệ thuật biến đổi lao công của đôi tay mình thành lời cầu nguyện, trở thành một khả năng tự nhiên luôn cầu nguyện và đừng bao giờ chán nản.[10] Không cần phải nói tới các tu sĩ, bởi vì họ có trí hiểu về điều thiêng liêng, với một ít mà chúng ta trình bày, họ sẽ trực giác được rất nhiều điều mà mắt chúng ta chưa thấy.

Tinh thần cầu nguyện là bầu khí quyển của người Kitô hữu. Chúa nói rằng Ta sẽ đổ xuống trên nhà David và trên cư dân Giêrusalem thần trí ân sủng và cầu nguyện, và chúng sẽ hướng về Ta.[11] Sự tuôn đổ thần trí này đã bắt đầu trong ngày lễ Ngũ tuần, đã trải dài, trải dài và sẽ trải dài muôn đời trong cung lòng Giáo hội, tạo nên trong Giáo hội bầu khí nơi đó các tín hữu hít thở. Các thánh đã hít thở cái không khí ấy đầy phổi của mình.

Được làm cho sống và nên mạnh mẽ trong đời sống nội tâm[12] bởi sự tuôn đổ này, các việc làm của xác thịt được tẩy trừ như trong thư gởi tín hữu Galata và thay vào đó là hoa trái của Thánh Thần, bác ái, vui mừng, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, tiết độ, trung tín, khiêm tốn, tiết chế, thanh khiết.[13] Đây là điều mà thánh tông đồ gọi là sống bởi Thánh Thần và bước đi trong Thánh Thần; khi nói điều này thánh nhân muốn nói tới sự đổ đầy bởi sự tròn đầy của Thiên Chúa. Chúng ta có thể hiểu rõ điều này cùng với tất cả các thánh, đặc biệt ở đây với Don Bosco và theo cách thức của ngài.

Về thứ tự viết tác phẩm như sau: Nhờ Thánh Thần sự sống của người công chính được so sánh với ánh sáng từ lúc bắt đầu tỏa chiếu, và tiếp tục cho tới lúc chính ngọ. Là con cái thật của ánh sáng,[14] các thánh là vì sao giữa thế gian,[15] tiếp tục cho tới khi thành toàn, và khi lên trên trời họ phản chiếu vinh quang Thiên Chúa.[16]

Chúng ta sẽ đi theo cuộc đời Don Bosco từ buổi bình minh tới lúc xế chiều, từ bước đi trong Giáo hội chiến đấu tới Giáo hội khải hoàn. Sau cùng chúng ta sẽ bàn tới những ân huệ siêu nhiên. Dù rằng những ân huệ ấy không phải là những phương tiện cần thiết để đạt tới sự kết hợp với Thiên Chúa, nhưng đã tỏa sáng trong con người ngài và bộc lộ con người ngài.

Cõi lòng của chúng ta tràn đầy niềm vui, khi nghĩ tới cha chúng ta, từ chốn vinh quang, sẽ chiếu sáng bước đường lữ hành của chúng ta với giáo huấn và gương sáng của ngài, đồng thời cũng là đấng chuyển cầu cho chúng ta để chúng ta có thể đạt tới quê hương thiên quốc.

Chương I

TRONG GIA ĐÌNH

Trong đời sống thiêng liêng có những thời khắc ân sủng, trong đó linh hồn có được những trực giác tình cờ, mau lẹ và mang tính cưú độ. Tình cờ xét theo cơ năng nhận thức; nhưng dù Thần khí thổi nơi đâu Ngài muốn,[17] thì một cách thông thường khi nói tới trực giác người ta nói tới một hiểu biết không qua trung gian và giả định một dự thế bên trong hơn kém kéo dài sở dĩ tương ứng với những ân huệ siêu nhiên.

Lúc mười một tuổi, Gioan Bosco đã có một trong những ánh sáng mạc khải này. Do một khuynh hướng nhiệm mầu của con tim thúc đẩy, cậu qúy mến một linh mục và đặt một sự tín nhiệm con thảo nơi ngài. Những ngày học ngắn ngủi đã đem lại một giáo huấn không phai nhạt: tôi hiểu ngay “việc nguyện ngắm một chút mỗi ngày” qủa là cần cho linh hồn. Hai kết qủa phát sinh từ sự hiểu biết này là: “thưởng nếm được đời sống thiêng liêng là gì” và không hành động như trước nữa, nghĩa là “như một cái máy, không biết lý do tại sao làm”.

Chính ngài cũng viết lại như thế trong hồi sử do Đức thánh cha Pio IX truyền lệnh để mưu ích cho con cái ngài.[18] Nhưng đang khi trích dẫn lại ở đây, chúng ta không nên bỏ qua hai lời rất có ý nghĩa từ ngòi bút ngài. Lời thứ nhất là khi ngài viết rằng ngài bắt đầu không chỉ biết hay nghiệm thấy nữa, mà chính là “thưởng nếm đời sống thiêng liêng là gì”.

Đó chính là ân huệ tuyệt vời mà thánh Bernardo gọi là “sự nhận thức đầy hương vị” về những sự thần linh. Ân huệ của Thánh thần này đúng là một sự thưởng thức siêu nhiên khiến cảm nhận hương vị của những sự thần linh “nhờ một sự hoà nhập bản tính hay thiện cảm”.[19] Lời khác là không còn hành động “như một cái máy”.

Vậy là nơi cậu nhỏ này đã có ý tưởng về đường thiêng liêng, dù còn chưa rõ ràng nhưng đã phân biệt với cái gọi là vật chất tính trong hành động. Điều đánh động chúng ta đó là nhìn thấy ở cái tuổi còn nhỏ như thế nhưng đã ý thức về lòng đạo đức mà rồi sẽ trở thành của chính bản thân và trao lại cho những kẻ thuộc về ngài: sự hòa hợp giữa cầu nguyện và làm việc, nghĩa là cầu nguyện sinh động hóa hành động.

Trước hết, cậu đã học nơi bà mẹ thói quen yêu thích cầu nguyện. Trong gia đình thôn quê Piemonte thời bấy giờ, thói quen tốt lành Kitô giáo được giữ gìn và truyền lại qua các thế hệ ở bên lò sưởi, như cách diễn tả niềm vui thâm sâu, đơn sơ và phong phú. Cùng với nhau những người lao động chất phác kết thúc ngày sống của họ, đọc kinh Mân Côi trước tượng Đức Mẹ An Ủi.

Nhà của họ đáng được mang tên là cung thánh. Trong một môi trường lành mạnh như thế, nổi bật diện mạo một người đàn bà rất nhậy cảm, mẹ của bé Gioan Bosco, một bậc thày trổi vượt về lòng đạo sống động với sức mạnh giáo dục là chính gương sống đi đôi với lời nói của bà.

Bằng một sự tự phát của một thứ ngôn từ mẫu tử bà rót vào trong con của bà ngay từ khi còn tấm bé một cảm thức sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa, một sự thán phục trong sáng đứng trước các công trình của Ngài, lòng biết ơn về những ơn lành của Ngài, sự hòa hợp với thánh ý Ngài, sợ xúc phạm đến Ngài. Có lẽ chưa bao giờ nơi trường của bà mẹ lại gặp được người con dễ dạy như thế.

Như từ căn nhà nhỏ nơi sinh trưởng cậu dần dần tiến lên nhà của Chúa, trái tim của cậu nhỏ cũng từ từ vươn lên những sự trên trời. Cuộc sống của cậu làm chúng ta phải áp dụng lời của sách Giảng viên (Ecclesiastico): Ngay lúc còn thiếu thời, trước khi chưa rơi vào sai lầm, tôi đã cầu nguyện để tìm kiếm sự khôn ngoan. Tôi đã cầu xin trước đền thờ, và sự khôn ngoan đã sớm triển nở trong lòng tôi, như trái nho đầu mùa.[20]

Trong những ngày lễ, cậu luôn luôn vui sướng đi tham dự và niềm vui dịu dàng rung động trong tâm hồn cậu suốt tuần. Rất nhiều người biết cậu, đã làm chứng rằng giữa những công việc đồng áng cậu thường ngừng lại ngây ngất trong cầu nguyện và giọng cậu hát thánh thót những bài thánh ca vang lên trên ngọn đồi vắng vẻ. Giống như mọi đứa nhỏ, cậu cũng làm những bàn thờ nho nhỏ, trang hoàng ảnh Đức Mẹ với những bông hoa và cành lá. Nhưng không như các bạn cùng lứa tuổi, bao có thể cậu thường gọi các bạn tới cầu nguyện, hát và bắt chước làm những nghi thức nhìn thấy trong nhà thờ.

Lời Chúa thu hút cậu. Cậu không quên một lời trong giáo lý và các bài giảng. Mỗi khi có dịp quy tụ dân chúng, mặc bộ đồ nông dân khiêm tốn cậu đứng trên một ghế băng, dùng trí nhớ và đầy tự tin cậu lập lại bài giảng Chúa nhật của cha xứ hoặc thuật lại những câu truyện giáo huấn mà cậu đã nhớ thuộc lòng. Cậu cũng không quên thêm vào việc cầu nguyện và nếu trời đã chiều, cậu nói với đám đông đọc kinh chiều.

Tình yêu con thảo đối với Thiên Chúa đã khơi dậy trong lòng cậu bé lòng nhiệt thành làm việc thiện. Ngay khi cậu còn nhỏ lòng mến này không chỉ khiến trái tim cậu yêu mến Thiên Chúa, giữ nơi mình một tâm tình dịu dàng và gắn bó với Ngài, nhưng còn khao khát thấy Thiên Chúa được yêu mến và làm cho người ta yêu mến Ngài.

Các bậc thầy của đời sống thiêng liêng coi phương thế hiệu lực để cổ võ sự kết hợp với Thiên Chúa chính là việc hãm mình, mà điều này hệ tại chết đi cho chính mình để sống cho Đức Kitô trong Thiên Chúa. Những linh hồn cảm thấy mình được lôi kéo tới Thiên Chúa, đều thực hành hãm mình do một bản năng tình yêu.

Nhìn thấy các thánh vui mừng khi tự ý tước bỏ và chịu đau khổ, thế gian ngạc nhiên tự hỏi: – Sự mất mát này để được gì? Họ coi thường của cải và tiện nghi để làm gì? – Câu trả lời cũng cổ xưa như câu hỏi; từ thời xưa thánh Phaolô đã trả lời: Những ai thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh thân mình. Những ai sống lại với Đức Kitô tới đời sống trong Thánh Thần thì hiến tế xác thịt mình để sống theo Thánh Thần. Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng chính nơi đây tinh thần cầu nguyện được phát triển, và cũng chính nơi đây phát sinh hoa trái của hoạt động.

Tuy nhỏ, bé Gioan đã hiểu được bí quyết của sự hoàn thiện Kitô giáo trước khi may mắn gặp được vị linh mục mà sẽ dạy cậu nguyện ngắm; ngài viết trong “Hồi ký”: “Giữa nhiều cái khác, ngài cấm tôi làm việc đền tội mà tôi thường thực hành, bởi vì nó không phù hợp với tuổi và hoàn cảnh của tôi”. Vị linh mục khuyến khích cậu, thay vào đó, siêng năng lãnh các bí tích Cáo giải và Thánh Thể.

Năm trước cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó, cậu đã được rước lễ lần đầu. Năm ấy cậu mười hai tuổi. Đó là một ngoại lệ đối với thói quen khắt khe thời đó không cho bất cứ ai rước lễ trước mười bốn tuổi; nhưng bởi vì cậu tỏ ra đã chuẩn bị rất tốt nên cha xứ đã nhắm lại một mắt. Cậu nhỏ Gioan đã chuẩn bị bằng ba lần xưng tội và trong chính ngày diễm phúc đó không để tâm làm gì khác ngoài việc đọc mấy cuốn sách đạo đức. Sau này cậu viết trong cuốn “Hồi ký” đã đề cập bên trên: “dường như từ ngày đó có một sự thăng tiến trong cuộc sống tôi”.

Không may thay, sự thân tình thánh thiện với vị thừa tác viên, người đã dạy cho cậu lòng đạo đức và hiểu biết, bị cắt ngang bởi cái chết của ngài. Những thử thách lớn còn đang chờ đợi đứa con bé bỏng của bà Magarita. Cho tới bấy giờ cậu luôn ở nhà hoặc nhà thờ, giờ đây phải rời xa mái nhà của mẹ hiền, đi ở làm thuê cho một trang trại. Đầy tài khéo và có trí nhớ tuyệt vời, thế mà giờ đây buộc phải bán sức lực nơi công việc đồng áng. Thiên Chúa đã muốn thế để Ngài vun đắp nơi cậu thiếu niên này những nhân đức vững vàng trên nền tảng sự khiêm nhường. Sau này cậu thú nhận rằng điều này thật là cần thiết.

Cầu nguyên đối với cậu chính là của ăn và sự nâng đỡ. Mỗi ngày thứ bảy một cách kính cẩn cậu xin phép ông bà chủ để sáng hôm sau có thể đi dự thánh lễ sớm ở nhà thờ cách đó khoảng một tiếng đồng hồ đi bộ. Tại sao  cậu lại luôn quan tâm tham dự thánh lễ cũng như những cử hành khác của giáo xứ? Cậu đi sớm, để có thể xưng tội để rước lễ sốt sắng. Cậu luôn luôn trung thành tham dự mọi ngày lễ Chúa nhật và các ngày lễ trong suốt hai năm liền. Đây là một điều lớn lao đối với một đứa bé khi sống xa mọi người thân và ở trong một hoàn cảnh chẳng có nhiều gương sáng và sự thúc giục của người khác.

Tình yêu mãnh liệt dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể là dấu chỉ rõ rệt của một tinh thần cầu nguyện. Những dự thế nội tâm trong tâm hồn được tỏ ra một cách tự nhiên nơi cách cư xử, nơi những thái độ và nơi lời nói của đứa trẻ. Chứng từ của những người còn sống trong gia đình này về cậu bé đã làm công cho họ không cho phép người ta nghi ngờ về điều này.

Họ chưa bao giờ có một người làm công và cũng chưa bao giờ tưởng tượng được một người làm công rất mực vâng lời, chăm chỉ và gương mẫu nữa. Trong gia đình, họ cũng chu toàn các bổn phận Kitô hữu theo như thói quen thông thường của các gia đình miền quê; nhưng cậu bé luôn qùy gối khi cầu nguyện, cầu nguyện nhiều hơn và thường xuyên hơn những người khác.

Ngoài cánh đồng, đang khi cho bò ăn cỏ, cậu thu tâm trí trong lời cầu nguyện hay trong các bài giáo lý mà cũng đồng thời là sách nguyện ngắm của cậu; một lần thấy cậu qùy gối bất động, đầu trần dưới ánh mặt trời, say sưa tới nỗi gọi nhiều lần thấy bất động, người ta lay và bảo cậu không nên ngủ dưới ánh nắng mặt trời, cậu trả lời rằng mình không ngủ.

Một ngày nọ ông chủ từ ngoài đồng mệt nhọc trở về nhà, nhận ra cậu bé đang qùy gối lặng lẽ đọc kinh truyền tin, ông nổi giận và trách mắng cậu nghĩ đến thiên đàng mà quên lãng công việc bổn phận. Gioan sau khi sốt sắng đọc xong, liền khiêm tốn lại gần ông nói rằng: “Nếu cháu lười thì ông biết đấy. Nhưng chắc chắn người ta kiếm lợi nhờ cầu nguyện nhiều hơn là nhờ làm việc. Khi cầu nguyện, người ta gieo hai hạt và gặt được bốn bông lúa; khi không cầu nguyện, gieo bốn hạt gặt chỉ hai bông lúa”.

Thấm nhuần bởi những tâm tình đạo đức ấy, có gì đáng ngạc nhiên nếu, như những nhân chứng tận mắt nhìn thấy nơi cậu bé, sự thanh thản mà đồng thời cả sự vui hài, tinh tế trong các nhận xét, thận trọng trong cách cư xử, nhưng lại rút lui khi có thể, không chỉ cái đối với làm mất vẻ trong sáng của tâm hồn, mà dường như cả cái nhỏ nhặt đối với cậu bé thánh thiện này? Tại đây, cậu cũng không quên giúp đỡ các trẻ, giúp chúng vui chơi, dạy giáo lý, dạy chúng cầu nguyeăt”

Cha xứ, nơi cậu đến xưng tội các ngày Chúa nhật, cảm động đến rơi nước mắt khi nhìn thấy trong cảnh vất vả, thế mà nơi cậu bé lại nẩy sinh lên lòng đạo đức. Sự kiện là sau khi cậu tông đồ nhỏ đi rồi, cha xứ không có cách nào khác hơn là chính mình phải tiếp tục tụ họp một nguyện xá cho đám trẻ.

Khi viết về cậu bé mười hai tuổi, Đaminh Savio, thánh Gioan Bosco nói rằng ngài ngạc nhiên sửng sốt nhìn thấy ân sủng hoạt động nơi một đứa bé còn nhỏ tuổi như thế.[21] Chúng ta cũng cảm nhận một tâm tình như thế khi tìm hiểu về cuộc sống của bé Gioan Bosco, dựa theo những chứng từ tuyên thệ của những người đồng thời và của người cùng xứ sở.

Gioan rời bỏ nơi ấy bởi vì cậu ngày đêm khao khát được đi học; nhưng đường thánh giá còn dài và đau đớn. Giữa những thăng trầm của hy vọng và trở ngại mà cậu cảm nghiệm, quả ứng nghiệm lời thánh Bernardo: hãy nhìn lên ánh sao và kêu cầu Mẹ Maria. Từ nhỏ cậu đã học biết yêu mến trinh nữ Maria rất thánh. Trong những lúc quan trọng và những lúc khó khăn, mẹ cậu luôn khuyên nhủ – Con hãy tôn sùng Mẹ Maria! – Càng hiểu biết sâu hơn về những thực tại thiêng liêng, cậu càng cảm nghiệm được, với tất cả sự tín thác con thảo, sự ngọt ngào của lòng sùng kính mà các thánh luôn rao giảng và thực hành này.

Có một nhà thờ nhỏ kính Đức Mẹ Đồng Trinh trên một ngọn đồi cao thuộc Castelnuovo là nơi cậu thường tới kính viếng. Cậu tới đó khi thì một mình, khi thì cùng với các bạn. Những cuộc hành hương trong thời niên thiếu như thế đã in sâu trong ký ức của ngài, đến nỗi những năm cuối đời khi nghĩ lại thời gian ấy ngài luôn xúc động.

Trước khi bắt đầu đi vào khảo cứu của chúng ta, có lẽ nên mở ngoặc để bàn về ý niệm căn bản của lời cầu nguyện. Cầu nguyện là một sự cần thiết tối thượng trong đời sống Kitô hữu, không ai có thể nghi ngờ điều này; thánh Phaolô khi viết cho Timoteo đã nhắn nhủ điều đó trước mọi sự khác.[22] Cầu nguyện đã là và mãi là như thế. Cầu nguyện liên lỉ như chính thánh Phaolô nhắn nhủ khi ngài nói: hãy cầu nguyện liên lỉ.[23] Chắc chắn người ta không thể luôn hướng về Thiên Chúa cách thực tiễn, nhưng người ta có thể luôn đặt mình trong tư thế cầu nguyện nhờ vào đức ái; linh hồn của người công chính, luôn có ơn thánh hóa và đây chính là điều kiện cần thiết để lời Chúa Giêsu được áp dụng: Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.[24] Khi cầu nguyện liên lỉ, người ta tiếp nhận sự sống từ Ba Ngôi cực thánh thông truyền cho nhân loại.

Đây là việc cầu nguyện được hiểu trong tình trạng thông thường và chung, ngoài ra còn có trạng thái được nâng cao và xuất thần, được ban cho một ít người. Trong thực tế, việc cầu nguyện mặc lấy bốn hình thức, như chính thánh Phaolô dạy chúng ta khi ngài nói với Timoteo thực hành obsecrationes, orationes, postulationes, gratiarum actiones; nghĩa là, khẩn nguyện cho chính mình, thờ lạycầu xin cho người khác, và tạ ơn vì những điều đã lãnh nhận. Thần học về cầu nguyện tất cả đều cô đọng ở đây. Quan sát cách các thánh đã sống, chúng ta sẽ được giáo huấn và bị thu hút.

Chương II

TẠI TRƯỜNG HỌC

Cuộc sống của Gioan Bosco đã chịu một sự thay đổi mạnh khi bị tách khỏi nơi sinh trưởng, cậu phải đến sống ở Chieri, từ một đứa bé nhà quê lập tức trở thành người dân thành thị và học sinh. Chieri không phải là Torino, nhưng lại rất giống Torino. Trong một môi trường văn minh hơn thì cũng luôn có những cái mới lạ giăng cạm bẫy; tự lập hơn cũng như trong bầu khí tân tiến hơn.

Một cậu bé miền quê, lớn lên trong tầm mắt của người thân, hơn kém luôn sát bên cạnh trong tổ ấm gia đình, không biết gì ngoài những bận tâm và những vui thú đồng quê, chẳng quen ai ngoài những người dân chất phác, giờ đây thình lình ở ngay nơi một trung tâm được gọi là văn minh, từ cách ăn mặc cho tới thói quen hoàn toàn khác biệt, lạc lõng giữa những người không quen biết; rơi vào một hoàn cảnh thật nguy hiểm đối với tuổi đang lớn lên, cậu bé đã phải có một năng lực, một tinh thần mạnh mẽ như thế nào; chúng ta hãy tưởng tượng một cậu bé từ ruộng vườn ra ngoài thành phố như thế, chìm ngập trong đám người thuộc tầng lớp hạng hai hoàn toàn tự do kiểu thế tục như thế nào. Đứng trước những nguy hiểm thình lình ập tới như thế, Gioan đã chuyển sang thế tự vệ, không kể vì những mục tiêu thánh thiện và hoàn cảnh nghèo của, thì chính lòng đạo đức đã che chở cậu khỏi những tấn công thù nghịch.

Lòng đạo đức luôn sinh ích cho tất cả,[25] bởi vì nó phơi bày mọi sự trong ánh sáng thật,[26] ánh sáng thần linh. Lòng đạo đức ấy đã hướng dẫn cậu trong những bước đầu tiên đầy những hiểm nguy đó, đã giúp cậu biết và tìm ra những người bạn đầu tiên.

Cậu nhận định: “Người đầu tiên tôi quen là một linh mục mà tôi nhớ và tôn kính suốt đời. Ngài cho tôi lời khuyên để có thể tránh được những nguy hiểm; ngài mời tôi giúp lễ, và mỗi khi có dịp ngài lại cho tôi những gợi ý tốt. Chính ngài đưa tôi đến gặp hiệu trưởng trường học… và ngài giúp tôi làm quen với các giáo sư… Ngài giúp nhận định bạn bè thành ba nhóm: tốt, dửng dưng và xấu. Nhóm cuối cùng này phải tuyệt đối tránh ngay khi vừa biết họ; nhóm người dửng dưng thì đối xử theo sư lịch thiệp và theo sự cần thiết; còn đối với nhóm người tốt thì mới nên kết bạn, tuy nhiên sự thân tình chỉ nên với những người thật tốt khi đã biết rõ họ như thế. Đây chính là cách thế vững chắc… Tuy nhiên tôi đã phải đấu tranh không ít với những người mà tôi thấy họ không tốt… Sau mấy lần dần dần gặp gỡ tôi đã có thể khám phá ra chúng và tôi đã thoát được cái đám bạn buồn chán đó bằng cách trốn chạy chúng.

Chính lòng đạo đức đã dẫn dắt cậu tìm kiếm cái mà cậu ao ước, hướng tới những mối tương quan cần thiết hơn.

“Cuộc phiêu lưu của tôi thật là may mắn, cậu viết, tôi đã chọn được một kinh sĩ làm vị giải tội thường xuyên. Ngài luôn đón tiếp tôi với đầy lòng nhân ái. Hơn nữa ngài còn khuyến khích tôi xưng tội và rước lễ thường xuyên. Thời bấy giờ tìm được một người cổ võ việc thường xuyên lãnh các bí tích là một điều khá hiếm hoi. Ai đi xưng tội và rước lễ hơn một lần một tháng, đã được coi là rất đạo đức, và thường các cha giải tội không cho phép điều đó. Phần tôi, tôi cảm thấy mắc nợ vị giải tội này, không có ngài có lẽ tôi đã bị lôi kéo bởi các bạn vào những chuyện vô trật tự mà mấy đứa không có kinh nghiệm đã rơi vào tại các trường”. Các trường ở đây hiểu là các trường công.

Không chỉ các bạn không lôi kéo được cậu vào chuyện vô trật tự, mà chính cậu lại lôi kéo khá đông chúng vào con đường ngay lành. Một thiếu niên đạo đức trong các buổi chiều tại lớp học, không chút tâm địa xấu xa và chỉ cần một chút can đảm, đã chiếm được lòng của đồng bạn một cách quá dễ dàng đến độ không tin nỗi. Như thế chỉ trong thời gian ngắn, Gioan đã chiếm được sự kính trọng và qúy mến của đám trẻ Chieri, và cậu đã lập Hội Vui. Luật của hội này gỏn gọn bao gồm hai điều: tránh mọi câu chuyện, mọi hành vi ngược với người Kitô hữu tốt, và chu toàn xác đáng mọi bổn phận học hành và đạo giáo.

Mỗi thành viên có nhiệm vụ tìm các sách vở và trò chơi thích hợp để làm vui các bạn: cấm bất cứ gì gây ra những ý tưởng hay lời nói không hợp với luật Chúa. Trong các ngày lễ, các thành viên đi dự giáo lý trong nhà thờ của các cha dòng Tên; trong tuần tụ họp tại nhà của một thành viên, và ai trong số tham dự muốn thì tự do nói, rồi giải trí chung với nhau, thảo luận, đọc sách đạo đức, cầu nguyện và cho nhau lời khuyên, cũng như cách cá nhân giúp sửa lỗi cho nhau nếu người nào đó thấy hoặc nghe điều gì về bạn mình.

Ngoài các hoạt động thân hữu này, Don Bosco viết “chúng tôi còn đi nghe giảng, xưng tội và rước lễ”. Hội vui vì thế là một cách thức cậu dùng để phục vụ Chúa.[27]

Chúng ta không cần phải ca ngợi vì mục đích của hội chính yếu là nhằm giáo huấn, nhưng chính các sự kiện buộc chúng ta thán phục. Thực vậy, nếu các thiếu niên đạo đức gặp gỡ nhau thường xuyên thì đã phải tạ ơn Chúa; nhưng thật hiếm nếu thấy những thiếu niên có một lòng đạo đức năng động như thế, vì họ cảm thấy một sự thúc bách thường hằng, một nhu cầu phải mang Thiên Chúa vào trong linh hồn người khác, cần phải mang họ tới gần Chúa hơn.

Gioan Bosco nuôi dưỡng trong cậu một lòng đạo đức mang vẻ một điều thiện, mà người ta nói tự bản tính sẽ diffusivum sui (hữu xạ tự nhiên hương).

Nhìn thấy một người và nghĩ ngay tìm cách làm cho họ trở nên Kitô hữu hơn, đây sẽ trở thành chương trình hoạt động của đời sống linh mục của cậu sau này; tuy nhiên nó đã được nhìn thấy trước trong khuynh hướng của cậu trong những năm tuổi còn xanh này. Chúng ta thấy cậu luôn làm việc giữa các bạn cùng tuổi và các người theo cậu. Nếu muốn kể tất cả ở đây chúng ta sẽ phải lập lại không biết bao nhiêu, vả lại đây không phải là một cuốn tiểu sử: chúng ta chỉ mong muốn làm nổi bật cái đặc điểm trong đường thiêng liêng của ngài.

Ở điểm này, ai biết được? có những độc gỉa ngờ vực, nhìn thấy nơi cậu bé Bosco cái khuynh hướng bẩm sinh thích xuất hiện nơi công cộng và làm trò lừa bịp ồn ào, có lẽ sẽ bị cám dỗ đưa ra nhận định về động lực của những thứ trình diễn đó. Cái tham vọng làm thủ lãnh tí hon nổi tiếng không phải qúa khó mà hoà hợp được với những đòi hỏi của đời sống nội tâm và với trốn chạy sự ồn ào và tìm sự quên lãng của khoa tu đức truyền thống đó sao? Trước những nghi vấn đó, có lẽ việc tìm hiểu mục đích, cách thức, hoàn cảnh và các kết quả cũng đủ. Riêng chúng ta không bận tâm làm chuyện này. Chúng ta giới hạn trong những sự kiện.

Với tất cả mọi thứ người khác nhau, nơi cậu luôn có cùng một tinh thần sinh động: sự hăng say của một tâm hồn đạo đức, quan tâm đến ích lợi thiêng liêng của người khác. Đứa con trai nghịch ngợm số một của chủ nhà làm cho mọi người đều thất vọng; Gioan làm quen với nó, lôi kéo nó từ từ biết sống đạo, thân thiết với nó cho tới khi nó biết tự mình sống tốt.

Thường lui tới nhà thờ lớn, cậu làm quen với ông từ gia” muốn đi tu làm linh mục, nhưng ông đã lớn tuổi mà chưa được học hành, thiếu những phương tiện và bận bịu đủ thứ chuyện. Gioan chẳng bận tâm chuyện trả công, do đức ái thúc đẩy, giúp ông học mỗi ngày một chút trong hai năm trời để chuẩn bị cho ông thi mặc áo giáo sĩ. Cậu còn làm bạn với một thiếu niên Do thái khoảng mười tám tuổi, giúp anh ta lãnh nhận bí tích rửa tội, cậu dậy giáo lý cách bí mật, vượt qua những chống đối từ thân nhân và người cùng đạo, cho tới khi anh này tới bên giếng rửa tội.

Tất cả sự sung mãn đầu mùa của việc tông đồ đã thấy được nơi đây. Nó cũng cho chúng ta bằng chứng về sự kết hợp từ khi tuổi nhỏ với Thiên Chúa. Người ta đều biết rằng biết cách làm và nói chẳng giúp ích bao nhiêu nếu thiếu tinh thần cầu nguyện và thiếu gương sáng là điều không thể miễn chước trong những việc tông đồ.

Câu châm ngôn “hãy cho tôi biết anh đi với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai” cũng cố cho luận đề của chúng ta nếu chúng ta nhín vào tình bạn của cậu Gioan với một sinh viên thánh thiện. Tiếng tăm về sự thánh thiện đã tới Chieri trước cả khi Luigi Comollo tới nơi. Vừa khi biết tin Gioan nóng lòng muốn làm quen với anh ta; quen rồi Gioan khao khát có được tương quan; khi đã có được tình bạn với anh ta, cậu tìm thấy một thực tại còn lớn hơn sự trông đợi.

Chúng ta tìm thấy trong “Hồi Ký”: “Anh ấy luôn là người bạn thân của tôi… Tôi hoàn toàn tín nhiệm nơi anh cũng như anh ấy nơi tôi… Tôi để cho anh ấy hướng dẫn bất cứ nơi đâu và theo cách thức của anh ấy muốn… Chúng tôi cùng nhau đi xưng tội, rước lễ, nguyện ngắm, đọc sách thiêng, viếng Mình Thánh Chúa, giúp lễ”. Khi nhấn mạnh trên việc nguyện ngắm chúng ta thấy bằng việc thực hành này, cậu không ngừng muốn canh tân đời sống nội tâm. Thế còn những trao đổi của họ ra sao? Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng.[28] Họ nói cho nhau về những điều thiêng liêng.  “Bàn thảo và nói chuyện về những đề tài như thế với anh ấy, Don Bosco viết, anh ấy cảm thấy một sự an ủi lớn lao. Anh ấy cắt nghĩa với sự say mê tình yêu vô bờ của Chúa Giêsu khi ban thân mình cho chúng ta làm của ăn trong Thánh Thể. Khi nói về Đức Trinh Nữ rất thánh, anh trở nên như chìm trong sự cảm mến, và sau khi thuật lại hoặc nghe thuật lại những ơn lành phần xác của Mẹ ban cho, khuôn mặt anh bừng sáng và nhiều lúc bật khóc: – Nếu mà Mẹ đã thương ban ơn cái thân xác khôn khổ này, thì còn biết bao ơn huệ khác Mẹ sẽ ban cho linh hồn kẻ kêu cầu Mẹ? Ôi, nếu mà mọi người thành tâm sùng kính Mẹ Maria, thế giới này sẽ hạnh phúc biết bao!”

Về phía mình, Don Bosco cho rằng mình đóng vai người nghe; chắc rằng sẽ chẳng đóng vai dự thính thinh lặng mãi được. Dầu sao chăng nữa, sự tuôn trào cảm tính này sẽ chẳng có gì thật và càng không đáng lập lại nhiều lần, nếu từ hai phía không có cùng khả năng hiểu và cảm nghiệm.

Bốn năm trung học kết thúc với một kết qủa đáng tự hào. Các môn thi được điểm xuất sắc, các giáo sư kính nể và quí mến, các bạn bè thán phục, người dân có thiện cảm; chẳng có gì mà lại không có những dấu hiệu tiên báo, cũng như vào lúc bình minh người ta biết ngày sẽ ra sao. Nhưng ai biết đâu đã có biết bao lo âu, biết bao khó khăn, biết bao nguy hiểm, biết bao mất mát! Sự bền bỉ mà cậu có được chính là nhờ kinh nguyện, tìm thấy nơi nương tựa nơi Thiên Chúa của mọi niềm an ủi.

Sự quan phòng đã sắp đặt như thế, để một ngày kia ngài có thể an ủi những ai lâm cảnh gian truân.[29]

Dù là người bình thản, không khi nào bị phiền toái “bởi gió nồm đốt cháy sự nghèo khó khốn cực”, nói theo kiểu của Dante, thì trong năm thứ hai cậu cũng bị chịu một đám mây che tối. Trong lứa tuổi của cậu, người ta có thể gọi đó là một sự khủng hoảng về ơn gọi.

Từ lúc thiếu thời cậu đã khao khát làm linh mục, thế mà đến cuối năm trung học, có hai nỗi sợ đã tấn công cậu. Hai nỗi sợ này, càng đến gần thời khắc quyết định, càng đẩy cậu tới sự bối rối và lo âu. Một đàng cậu hiểu rõ hơn sự cao cả của chức linh mục và thấy mình bất xứng vì thiếu những nhân đức cần thiết; đàng khác biết rõ cuộc sống ngoài đời, sợ rằng mình sẽ thua cuộc nếu làm một giáo sĩ triều.

Nỗi đau tinh thần của cuộc chiến này lộ ra, khi nhiều năm sau ngài thốt lên trong “Hồi ký”: “Ôi giá mà khi đó tôi có được một người hướng dẫn quan tâm đến ơn gọi của tôi, đó sẽ là một kho tàng, thế mà kho tàng đó tôi lại không có”. Thật vậy, vị giải tội của cậu, muốn giúp cậu làm một người tín hữu tốt, nhưng về vấn đề ơn gọi ngài không muốn nói tới.

Cậu đành phải tự mình tìm tòi, tìm kiếm trong các sách bàn về chọn lựa bậc sống. Một tia sáng đã tỏa sáng cho cậu. “Nếu tôi làm giáo sĩ triều, cậu nghĩ, ơn gọi của tôi sẽ ở trong tình trạng nguy hiểm. Tôi sẽ chọn bậc sống cho Giáo hội, tôi sẽ từ bỏ thế gian, tôi sẽ đi vào một đan viện, tôi sẽ chú tâm học hành, nguyện gẫm, và như thế trong cảnh cô tịch tôi sẽ chiến đấu với các đam mê, đặc biệt là tính kiêu ngạo vốn ăn rễ sâu trong con người tôi”. Bởi đó, cậu xin vào dòng thánh Phanxicô, và nhìn thấy khả năng cũng như lòng đạo đức của cậu, nhà dòng đã nhận ngay. Thế nhưng trái tim của cậu lại không được yên hàn.

Còn những người tốt bụng và nghiêm chỉnh mà cậu cởi mở tâm sự với họ, họ tìm mọi cách ngăn cản ý định của cậu muốn trở nên thày dòng, họ khuyên cậu nên đi vào chủng viện. Thế là sự bất an của cậu càng gia tăng.

Chúa quan phòng đã khiến cậu tìm đến hỏi chân phước Giuseppe Cafasso, lúc đó còn là một linh mục trẻ nhưng đã là một người có tiếng về có ơn soi sáng. Don Cafasso lắng nghe thật chăm chú rồi bảo cậu cứ tiếp tục học cho xong trung học và đi vào chủng viện.

Đang khi có những lo âu nội tâm thì cuộc sống bên ngoài của cậu diễn tiến như không có gì xảy ra, giữa những môn học, việc đạo đức, hoạt động bác ái và công việc tay chân để kiếm sống, đến độ chẳng ai có cảm tưởng gì cậu đang có những ưu tư.

Suy tư về Thiên Chúa, khi thấm nhập vào một linh hồn, sẽ làm cho linh hồn đó biết làm chủ mình và thường hằng có sự thanh thản trong cách biểu lộ bên ngoài, dù rằng trong sâu thẳm cảm thấy bị đánh động.

Thẩm quyền của Don Cafasso đã làm cho những nghi vấn được yên lắng; nhưng sau đó, khi đọc lại các sách về ơn gọi, chính cậu đã lãnh lấy quyết định. Có lẽ cậu có thể đã gõ cửa các thầy Phanxicô lần nữa, nếu cậu thấy cần thiết trong giai đoạn đó, tuy nhiên chúng ta không biết việc này; cậu chỉ kể lại cho chúng ta rằng, dù biết bao trở ngại ngày càng nhiều, cậu quyết định kể tất cả cho Comollo. Cũng là ngạc nhiên khi thấy trong tấn kịch nội tâm này sao lại bỏ qua người bạn thân qua một bên, có lẽ cậu đã phải suy nghĩ nhiều lắm. Tuy nhiên sự thân mật tư nó không là một thẩm quyền trong những vấn đề tế nhị như vậy; hơn nữa, Gioan vốn là một người giầu về tư duy và có khả năng truyền thông, lúc này lại hoàn toàn không phải là người biện bác.

Thế là cùng nhau họ chuẩn bị, cùng nhau họ lãnh nhận các bí tích, cùng viết để bàn hỏi với một linh mục đáng kính, chú của Comollo. Vị linh mục này, vào đúng ngày cuối của tuần chín ngày kính Đức Mẹ, trả lời cho cháu: “Suy nghĩ cẩn thận về những điều trình bày, chú khuyên anh bạn của cháu hãy bỏ ý định đi vào đan viện. Hãy mặc áo giáo sĩ, và đang khi học anh ta sẽ biết rõ ý định của Thiên Chúa. Đừng sợ chi đánh mất ơn gọi, bởi vì với sự xa lánh đời cùng với thực hành đạo đức anh ta sẽ vượt qua mọi trở ngại”. Học hành, xa lánh đời, việc đạo đức: đó không phải là điều mà cậu vẫn làm ở Chieri hay sao? Giống như don Cafasso và như chú của Comollo, cha sở khuyên nhủ cậu vào chủng viện, hãy hoãn lại quyết định vào dòng tu tới một lúc chín chắn hơn. Tất cả những yếu tố này đã giúp cậu lấy lại sự thanh thản; thế nên, cậu viết: “tôi trở nên bình thản trong vấn đề này và tôi chuẩn bị cho việc mặc áo giáo sĩ”.

Mặc áo giáo sĩ đối với Gioan Bosco không chỉ thuần túy là một nghi thức. Thầy biết tập trung nhờ việc hồi tâm và kinh nguyện tuy không cô lập mình – thật vậy có khoảng năm mươi bạn thiếu niên đang đợi thầy, chúng quí mến và vâng lời như bố của chúng – một cách thiêng liêng thầy tách khỏi chúng để chuẩn bị vì hiểu rất rõ tầm quan trọng của nghi thức thánh. Những tâm tình đạo đức trong buổi lễ hôm đó còn rung động trong trang “Hồi ký” mà nhờ đó chúng ta biết được.

“Khi vị chủ lễ (prevosto) bảo tôi cởi áo thế gian với những lời: Xin Chúa cởi bỏ con người cũ của con cùng với các hành vi của nó, tôi nói thầm: – Vâng, áo cũ, cần phải cởi bỏ! Lạy Chúa, xin hãy xoá bỏ nơi con những thói quen xấu. – Rồi khi đưa cho tôi áo ngài thêm: Xin Chúa mặc cho con con người mới, được tạo dựng theo ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện, tôi cảm thấy xúc động và nói thầm: Vâng, lạy Chúa, xin làm cho con từ giây phút này bắt đầu cuộc sống mới theo thánh ý Chúa, xin sự công chính và sự thánh thiện luôn là đối tượng của suy nghĩ, của lời nói, của mọi công việc của con. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ là sự cứu độ của con”.

Kết thúc buổi lễ, thầy viết lại và soạn ra bảy điều luật sống; điều thứ sáu ghi lại như sau: “Ngoài những thực hành đạo đức thông thường, hằng ngày tôi sẽ không bao giờ bỏ nguyện ngắm và sách thiêng trong ít phút”. Và để cho những ý định tốt không trở thành chữ chết, thầy muốn cam kết một cách long trọng; vì thế qùy trước ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh, thầy đọc từng điều và sau khi cầu nguyện sốt sắng “tuyên hứa long trọng trước Đấng Bảo Trợ thiên quốc sẽ giữ những điều ấy với bất cứ giá nào”.

Cần phải nói đôi chút về những gì nói bên trên. Lòng đạo đức và tinh thần cầu nguyện gần như cùng là một và được dùng thay lẫn cho nhau. Tinh thần cầu nguyện thông thường tự diễn tả bằng những hành vi, nhờ đó người ta tôn vinh Thiên Chúa và trong cách nói hiện thời thường được gọi chung là lòng đạo đức; như thế như người ta muốn phân biệt, chúng ta gọi lòng đạo đức sâu xa, thường hằng là tinh thần cầu nguyện.

Vì chúng ta đã bắt đầu trong luận đề, chúng ta đưa ra thêm một nhận xét cần thiết. Trong thực hành đạo đức, người ta có thể nhấn mạnh một yếu tố nào đó hơn những yếu tố khác, chính lòng đạo đức cho phép được ghi khắc với những yếu tố chuyên biệt. Dưới cái nhìn này người ta tin rằng có thể xếp loại các dòng tu, chẳng hạn, lòng đạo đức benedictin với phụng vụ, Phanxicô với tâm tình, Đaminh với giáo lý, Chúa Cứu thế với người bình dân.

Dựa theo nguyên tắc đã đưa ra, trong thực hành đạo đức của Gioan Bosco đâu là điểm báo trước đặc điểm lòng đạo đức Salêdiêng? Dường như không còn xa lắm để thấy được những đường nét riêng biệt của lòng đạo đức được gọi là mang tính bí tích, đặc biệt với bí tích giải tội và Thánh Thể đó sao? Nhưng điều đáng nói là hai bí tích này không bao giờ được thường xuyên thực hành trước đây, vị sáng lập dòng Salêdiêng sẽ mở ra cho các trường của ngài dòng thác nguồn ân sủng.

Chương III

TẠI CHỦNG VIỆN

Chủng viện của tổng giáo phận Torino lúc bấy giờ đặt ở Chieri; Gioan Bosco vào đó ngày 30 tháng mười năm 1835 lúc hai mươi tuổi.

Là một người có óc quan sát và khôn ngoan, thầy chủng sinh trẻ thoáng nhìn đã có một ý tưởng chính xác về nơi chốn, con người và sự vật. Tại đây thầy chuyên chăm các thực hành đạo đức. Thầy dự thánh lễ, nguyện ngắm, lần chuỗi hằng ngày; xưng tội hằng tuần; rước lễ thì không được như ý vì chỉ được lãnh trong các ngày Chúa nhật và các lễ trọng.

Để rước lễ trong tuần cần phải phạm tội không vâng lời: thầy phải bỏ giờ điểm tâm và phải trốn đi qua cửa thông qua nhà thờ kế bên. Nhưng rồi vừa khi cám ơn xong, không còn nhiều giờ vì thầy phải đi học cùng với các thầy bạn; như thế cho tới giờ bữa trưa thầy chịu bụng đói. Sự phá luật này đã có thể bị cấm theo luật; thế nhưng các bề trên đã cho phép một cách im lặng, bởi vì họ hiểu rõ thầy và nhiều lần nhìn thấy nhưng họ không nói gì. Như thế thầy có thể tùy thích lãnh Thánh Thể mà thầy nói nhờ đó mà ơn gọi thầy được nuôi dưỡng.

Được nuôi bằng bánh các thiên thần, tinh thần Hội thánh của thầy chủng sinh được hình thành dưới ảnh hưởng dịu dàng của lòng sùng kính Mẹ Maria rất thánh. Thầy ghi sâu trong trí nhớ và trong lòng những lời của mẹ mình trước khi vào chủng viện.

Tuy là một người dân quê thất học, bà có một cảm thức về Chúa Kitô, Đấng là sự khôn ngoan từ trời, đồng thời bà có khả năng phán đoán một cách đúng đắn về những điều liên quan tới Chúa. Khả năng này người ta gặp thấy nơi nhiều tâm hồn đơn sơ, điều làm nhiều kẻ phàm tục sửng sốt, nhưng đối với những người hiểu về ơn huệ Chúa Thánh Thần thì không có gì ngạc nhiên.

thực vậy thầy Gioan, như ngài kể trong “Hồi Ký”, đã được mẹ yêu của thầy nhắn nhủ: “Khi con sinh ra, mẹ đã dâng hiến con cho Đức Trinh Nữ; khi con bắt đầu đi học, mẹ đã khuyên nhủ con tôn sùng Mẹ của chúng ta; bây giờ mẹ khuyên con hãy thuộc trọn về Người: hãy yêu mến những người yêu mến Mẹ Maria, và nếu con trở thành linh mục, con hãy khuyên nhủ và truyền bá lòng sùng kính Mẹ Maria”. Nhớ tới lời khuyên khôn ngoan của mẹ, thầy tìm làm bạn với “những người sùng kính Đức Trinh Nữ, chăm chỉ học hành và làm việc đạo đức”.

Nhiều người trong số các bạn này còn sống sau ngài, người thì làm chứng rằng thật khó mà cưỡng lại lời mời của thầy mời họ cùng thầy vào nhà thờ đọc kinh chiều hoặc một kinh gì khác kính Đức Mẹ, người thì làm chứng về lòng nhiệt thành của thầy để dịch và làm cho các bài ca về Đức Mẹ trở nên quen thuộc, người khác thì về sự dễ mến của thầy khi cử hành tôn vinh Mẹ bằng cách kể ra những mẫu chuyện có tính giáo huấn trong giờ chơi. Khi còn trong thời triết học cậu trân trọng cái lần đầu tiên được lên toà giảng nói về Đức Mẹ Mân Côi, bắt đầu cho biết bao bài giảng khác về Đức Mẹ vốn là niềm vui của thầy cho tới tuổi già.

Từ sau lần đó, Gioan Bosco, thầy tư giáo trẻ nhiều lần lên bục giảng: vì nhìn thấy nơi thầy sự chân thành, người ta chạy tới thầy trong khi gặp trường hợp cấp thiết trong mùa hè, thầy không tỏ ra khó chịu mà cũng không để người ta phải nài xin. Một sự kiện đáng ghi nhớ. Như một câu thời xưa nói rằng: mỗi người dễ đều nói hay về điều mình biết; một câu khác trái tim lên tiếng, như bổ túc cho câu thứ nhất, khả năng ăn nói xuất phát từ trái tim. Nơi thầy Bosco cả hai yếu tố này kết hợp với nhau và làm cho thầy trở thành nhà hùng biện thánh.

Trong số những quyết tâm khi mặc áo thầy ghi điều này: “Bởi vì trong qúa khứ tôi đã phục vụ thế gian khi đọc sách phàm tục, từ nay tôi sẽ chăm lo phục vụ Thiên Chúa bằng việc đọc những sách bàn về đạo giáo”. Về đạo giáo, vấn đề thiêng liêng dù không là khổ chế, đã không bao giờ bị lãng quên. Trong những năm trung học cậu đã đọc ngấu nghiến các tác giả Ý và Latin cổ điển để làm phong phú hiểu biết về văn chương và văn hóa đời, do sự nhạy cảm bởi một trí thông minh đối với tất cả những gì đẹp và lớn lao; trong chủng viện thay vào đó thầy lại tận dụng thời giờ để ngốn những tác phẩm dầy cộm về lịch sử Giáo hội, về giáo lý và hộ giáo.

Do có một trí nhớ tuyệt hảo, đối với thầy “đọc tức là sở hữu”; chính thầy đã công nhận điều đó. Mọi thứ đọc chỉ là một thứ thông thái khô cằn chết chóc không có gì ích lợi gì, nhưng trong linh hồn cháy lửa yêu mến Thiên Chúa thì đọc để “phục vụ Thiên Chúa”, những gì đã đọc sẽ biến thành sức nóng trong đức tin và lòng nhiệt thành. Nơi thầy sự hiểu biết về đạo giáo và về các thánh giúp thầy có nhiều thuận lợi; chẳng hạn lúc bất chợt phải giảng, thầy không bao giờ thiếu chất liệu cũng như sự nhiệt tình, chỉ cần một ít thời giờ để hồi tâm và cầu nguyện thầy đã cảm thấy sẵn sàng.

Ngoài những dịp này, Gioan Bosco có thường xuyên giảng không? Nếu bỏ qua một bên ý nghĩa chặt chẽ long trọng của động từ giảng, và nghĩ đến cộng đoàn tụ họp trong nhà thờ xung quanh toà giảng, đồng thời giới hạn vào yếu tố thiết yếu tạo nên ý nghĩa, tức là việc công bố lời Chúa, thì những người chuyên gieo hạt lời Chúa không phải là các nhà giảng thuyết sao? Theo nghĩa này, chẳng phải thầy tư giáo Bosco là một nhà giảng thuyết tài giỏi và không mệt mỏi sao! Chúng ta hãy xem.

Mỗi ngày thứ năm rất nhiều thiếu niên trong thành phố đến thăm thầy; thầy xuống với chúng, vui vẻ tiếp chuyện với chúng như trước đây, chuyện vãn với chúng về học hành cũng như về việc đạo đức, thầy không giải tán chúng mà không dẫn vào nhà thờ cầu nguyện một chút. Những gì chúng thấy, rồi chúng sẽ nhớ, thầy lập đi lập lại: “Cần phải luôn đưa vào trong những cuộc trò chuyện này vài suy tư về điều siêu nhiên; đó là một hạt giống mà khi đến thời sẽ sinh hoa trái”.

Đang khi gieo những hạt giống này, thầy luôn tìm thấy cơ hội để thêm vào những suy tư về bậc sống tu. Hơn nữa, người ta có thể nói rằng dạy giáo lý cho các thiếu nhi là niềm say mê của thầy; thầy không bao giờ bỏ qua dịp dạy giáo lý. Còn hơn nữa thầy còn tìm cách tạo ra các dịp như thế.

Thầy cũng là người gieo hạt giống Lời ngay cả ở nơi thánh. Trong các giờ giải trí dài, các thầy có hạnh kiểm tốt thường họp theo nhóm lớp; thầy rất thích thói quen này, bởi vì, ngoài việc học hành, thầy cảm nghiệm được ích lợi của việc đạo đức. Thầy tạo nên quanh mình một nhóm những bạn thân, một thứ hội có mục đích tuân giữ luật và giúp nhau học hành, nhưng nhất là giúp nhau tăng thêm nhiệt tình trong đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên ngay cả ngoài các buổi họp với bạn thân này, các cuộc trò chuyện của thầy cũng luôn kết thúc trong đề tài thầy ưa thích, như thể đạt tới mức độ mọi cuộc trò chuyện của anh em phải luôn đầy tràn ơn sủng.[30]

Một thầy bạn làm chứng: thầy luôn thích thú nói về những chuyện thiêng liêng. Thầy có cả một kho chuyện để mua vui và để thu hút. Một thầy bạn khác lớn tuổi hơn nói: Trong năm năm tôi là bạn học của thầy, thầy không bao giờ thiếu chuyện để kể vào khi lấy quyết định cuối mỗi lần họp, một mẫu gương lấy trong lịch sử Giáo hội, trong cuộc đời các thánh và trong vinh quang Mẹ Maria. Quyết định nói ở đây nằm trong chương trình sống. Nói tóm lại, cần có một tâm hồn tràn đầy Thiên Chúa để hầu như mỗi lần mở miệng có thể nói về Ngài như thế.

Người đều đặn thăm viếng thầy Bosco và được mong đợi hơn hết trong năm thứ nhất trong chủng viện chính là Luigi Comollo, lúc đó đang học năm cuối trung học. Cả hai không có gì mà không nói cho nhau; cả hai đều say mến Thiên Chúa, họ trao đổi cho nhau biết những kế hoạch riêng để hiến thân hoàn toàn cho phần rỗi các linh hồn. Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra tình thân giữa họ mà sau đó sẽ gắn bó họ với nhau trong chủng viện. Ở điểm này chúng ta thật may mắn có không ít nguồn chứng từ; vì thế chúng ta có thể trở ngược lại với hai người bạn này để tra cứu rõ hơn đời sống của chủng sinh Gioan Bosco trong những gì chúng ta quan tâm.

Sự đồng bộ khiến cho các ngày sống của một chủng sinh hơn kém giống nhau, nói chung, không có nhiều cơ hội bộc lộ những khuynh hướng cá nhân. Một giáo sư già nói, thầy Bosco tiến bộ rất nhiều trong học hành và trong lòng đạo đức, nhưng “không mang vẻ bên ngoài, sự khiêm tốn là điểm đặc sắc cuộc sống của thầy”. Do đấy trong chủng viện trước mắt nhiều người, người ta không hiểu thầy nhiều, cần tới những giai đoạn sau, họ mới hiểu được những điều mà trước đó họ chẳng hiểu và bởi thế họ nói như một giáo sư đã nói về thầy: “Tôi nhớ thầy khi còn là học trò của tôi; thầy thật đạo đức, chăm chỉ, gương mẫu. Chắc hẳn lúc đó chẳng ai biết trước về thầy như bây giờ. Nhưng tôi phải nói rằng cách sống của thầy thật đáng kính nể, sự chính xác của thầy trong bổn phận học hành và việc đạo đức là mẫu mực”.

Không may là con số những chứng nhân qúi giá như thế theo giòng thời gian mất dần đi, hoặc không còn nhớ được nữa! Đối với chúng ta, chúng ta sử dụng những điều biết được cách chắc chắn mà người ta có về tình bạn của ngài với thầy Comollo.

Học hành và việc đạo đức, nhà trường và tôn giáo: đây chính là nơi ý nghĩ của hai thầy chủng sinh hoàn toàn gặp nhau. Nơi các người trẻ tài giỏi, lòng yêu thích học hành đe dọa lòng đạo đức từ ba khía cạnh. Trước hết, hoạt động trí óc, khi thống lĩnh tinh thần sẽ đổ đầy tinh thần với những ý tưởng, sự gắn bó với chúng gây chia trí khi làm những việc đạo đức. Tiếp đến, kết quả cao thường gây nên sự kiêu ngạo của người trẻ, khiến họ dần dần đầu hàng và quên mất sự dịu ngọt của ân sủng. Sau cùng những người đam mê học dễ dàng rơi vào cám dỗ cắt ngắn thời giờ và tìm cớ để miễn chước cầu nguyện bao có thể, coi đó như làm mất thời giờ.

Trong các dòng tu, các thầy thường chuyển sang giai đoạn học hành sau một thời gian đã chuẩn bị thiêng liêng thích đáng, trong đó họ được dạy cho biết phải đặt lòng đạo đức lên hàng đầu; thế còn các chủng sinh, sau ngày mặc áo giáo sĩ họ bắt đầu ngay đời sinh viên, đến nỗi rằng nếu họ say mê sách vở và các bậc thầy, họ chẳng còn đầu óc nào dành cho nhà nguyện và các thực hành đạo đức nữa, hoặc ít là vất vả lắm để có được hứng thú đạo đức.

Thầy chủng sinh Bosco hơn người bạn về năng lực của trí khôn; nhưng trong nhiệt tình dành cho việc học và cho lòng đạo đức giữa họ có nhiều điều ngạc nhiên. Coi việc học như một bổn phận, họ cũng biết rằng giữa các bổn phận cũng có thứ bậc và họ đã dành chỗ nhất cho bổn phận đối với Thiên Chúa. Cả hai còn xác tín rằng đối với các giáo sĩ học hành là một phương tiện, tự nó không là mục đích, một phương tiện để sinh ích cho các linh hồn, vì thế phải hướng tất cả tới cuộc sống thánh thiện, không để cho tinh thần cầu nguyện hàng phục sự say mê học hành, và cả hai sẽ cùng giúp nhau tiến tới trong đời sống nội tâm. Don Bosco viết: “Cho tới lúc Chúa để cho người bạn vô giá này còn sống, anh ấy và tôi có tương quan rất thân mật. Tôi nhìn thấy nơi anh một vị thánh trẻ; tôi mến anh ấy vì có các nhân đức anh hùng; và khi tôi ở bên anh ấy, anh ấy bắt tôi học theo anh ấy đôi điều, và anh ấy cũng quí mến tôi, bởi vì tôi giúp anh ấy học”.

Một điều nhỏ nhưng lại cho thấy khác biệt. Gioan Bosco có cung cách riêng của mình. Luigi Comollo đặc biệt yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, thầy lên bàn thánh ruớc lễ với sự hồi tâm tột độ, biểu lộ xúc động mạnh; rồi khi trở về chỗ, dường như ngất trí, cầu nguyện giữa hơi thở ngắt quãng, rên rỉ và nước mắt, cứ như thế cho tới hết thánh lễ. Gioan có lẽ đã muốn bạn ngừng đừng để người khác thấy; nhưng thầy trả lời rằng nếu không để cho những tình cảm ấy thoát ra, thầy sẽ bị ngộp thở. Gioan tôn trọng sự sốt sắng nồng cháy đó, nhưng phần thầy, thầy cảm thấy đối ngược, xét vì điều đó tạo nên một bầu khí cá biệt và có thể khiến người ta thán phục mình.

Lòng đạo đức theo một cách thức khác cũng không kém nồng cháy. Khi lên rước lễ và khi về chỗ, không chút gì biệt lệ; rồi sau đó, khi cám ơn Chúa, thầy ở trong tu thế bất động, thân thể thẳng và đầu hơi cúi xuống, đôi mắt nhắm lại và đôi tay chắp lại trước ngực. Không một dấu hiệu nào của xúc động, dù là một hơi thở; chỉ đôi khi thầy mấp máy đôi môi, thầm thĩ một lời kinh nguyện. Tuy nhiên đức tin tỏa rạng trên khuôn mặt thầy.

Trong những tháng hè không ở chủng viện, hai người bạn thường xuyên viết thư và thăm viếng nhau, trong đó vấn đề thiêng liêng vẫn là chủ đề được yêu chuộng. Một trong những tài liệu đáng đề cập liên quan đến tương quan thánh thiện của họ là tiểu sử Comollo, qua đời trong tuổi còn rất trẻ vào năm thứ hai thần học; khi viết tiểu sử này Don Bosco đã dấu mình dưới cái tên không xác định “người bạn thân”.

Chuyện tiểu sử đang khi đề cao Comollo hiển nhiên luôn giữ yên lặng về tác giả khi trình bày “người bạn thân” này luôn như cái bóng mà thôi. Không thiếu những nguồn liệu bộc lộ sự thật và cho phép kết luận rằng trong sâu thẳm hai linh hồn đó đã nên một. Sự hoà hợp với nhau trong tinh thần đã làm cho họ nên anh em thân thiết.

Chúng ta đã đề cập tới các kỳ nghỉ. Don Bosco viết: “Các kỳ nghỉ là mối nguy hiểm lớn cho các thầy tư giáo, nhất là vì lúc bấy giờ kỳ nghỉ kéo dài bốn tháng rưỡi”. Thầy suy nghĩ trước để tìm cách thánh hóa chúng, tìm cách duy trì sự hăng hái của chủng viện. Trừ ra năm thứ nhất, năm đó thầy ở với các tu sĩ dòng tên ở Montaldo, học tiếng Hy lạp trong một lớp và giúp hộ trực phòng học chung, những năm sau thầy giữ một nhịp độ cao trong kỳ nghỉ mà người ta có thể tóm tắt trong hai chữ: tránh nhàn rỗi và thực hành các việc đạo đức.

Để không sống nhàn rỗi, thầy chia thời giờ để học, làm việc chân tay, vốn được khuyên cần thiết cho sức khỏe, coi lại bài vở. Những vùng lân cận các nhóm hay các học sinh riêng lẻ tìm tới với thầy để ôn lại những môn đã học hoặc để chuẩn bị tốt cho năm học sắp tới. Thầy tỏ ra là một thầy giáo giỏi. Và đây là chứng từ của một giáo sư, lúc bấy giờ là một người trong nhóm: “Bài học đầu tiên đó là học biết kính sợ Thiên Chúa và vâng theo các huấn lệnh Ngài, trước khi kết thúc học thầy luôn khuyên chúng tôi về sự cầu nguyện, về lòng kính sợ Chúa và xa tránh tội lỗi cũng như các dịp tội”.

Về thực hành các việc đạo đức, theo thói quen của thầy, thầy không làm những gì ngoại thường, nhưng trung thành giữ những gì của đời sống giáo sĩ: nguyện ngắm, sách thiêng, lần hạt, viếng Mình Thánh Chúa, dự lễ hằng ngày, xưng tội đều đặn, thường xuyên rước lễ. Sẵn sàng phục vụ trong bất cứ nghi lễ thánh nào. Tất cả các Chúa nhật thầy hăng hái tham gia dạy giáo lý cho thiếu nhi trong giáo xứ. Mỗi khi nghe chuông nhà thờ đổ báo đem Mình thánh Chúa cho kẻ liệt, thầy vội vàng đến nhà thờ ngay, mặc áo cotta (áo trắng ngắn bên ngoài dùng trong các nghi thức), lấy dù và đi theo Mình thánh Chúa. Thày cũng không miễn cho mình giúp trong giảng thuyết tại giáo xứ. Cuối cùng, ý thức về tầm quan trọng của gương sáng, thầy giữ mọi nơi và với mọi người một thái độ nghiêm chỉnh và không chê trách được, đó là điều mà những người cùng xứ sở với thầy luôn thấy rõ.

Tinh thần sống đời giáo sĩ của thầy thật vững vàng, biểu lộ sự thánh thiện từ bên trong tới bên ngoài. Về điều này có nhiều giai thoại thú vị trong tiểu sử ngài, tuy nhiên đây không phải là chỗ để đề cập, dù là sơ lược về chúng. Mục tiêu của chúng ta là tìm hiểu về những dự thế thiêng liêng mà thầy có khi chuẩn bị chịu các chức thánh.

Cuối thời gian học là việc chuẩn bị lãnh chức phụ phó tế, giây là lúc quyết định trong đời sống của một tư giáo, thầy để lộ cho chúng ta thấy tâm hồn của mình với những diễn tả mà từ đó chúng ta không phải biết phải thán phục thầy ở điểm nào hơn điểm nào. Hoặc đó là sự nhậy cảm trong lương tâm của thầy hoặc là sự kính trọng sâu xa của thầy đối với chức linh mục, cả hai vốn đều là hoa trái của sự liên lỉ nhìn mọi sự trong Thiên Chúa. Thầy viết: “Giờ đây tôi biết hiểu rõ những nhân đức cần thiết cho bước tiến tới quan trọng này. Tôi thấy rằng mình chưa chuẩn bị đủ. Vì không có người trực tiếp quan tâm đến ơn gọi của tôi, nên tôi đi bàn hỏi với Don Cafasso. Ngài bảo tôi cứ thẳng tiến và tin tưởng vào lời ngài.

Trong thời gian mười ngày tĩnh tâm tại Nhà Truyền Giáo ở Torino, tôi xưng tội chung để nhờ thế vị giải tội có thể có một ý tưởng rõ ràng về lương tâm tôi và cho tôi lời khuyên thích hợp. Tôi ước ao hoàn tất việc học, nhưng lại cảm thấy sợ trước ý tưởng phải ràng buộc mình cả đời; bởi thế tôi không muốn lấy quyết định dứt khoát nếu không có sự đồng ý của cha giải tội. Từ lúc đó trở đi tôi thực hiện với hết sức mình lời khuyên của nhà thần học Borel: -Với sự xa lánh thế tục và thường xuyên lãnh Thánh Thể, người ta giữ gìn và nên hoàn hảo trong ơn gọi-”. Vị linh mục tốt lành người Torino này đã trả lời cho thầy như thế trong một buổi giảng tĩnh tâm.

Cùng với những lời này, chúng ta còn có chứng từ của một người cùng lớp và là bạn thân, sau sẽ trở thành vị giải tội của ngài cho tới bên giường chết. Về việc chuẩn bị chịu chức linh mục của thầy phó tế Gioan Bosco, người bạn đó viết như sau: “Thầy chuẩn bị thật tốt. Cách đặc biệt, thầy được thấm nhuần lời Chúa bởi việc nghe giảng, và nhất là trong những gì liên quan đến phẩm chức mà thầy sắp lãnh nhận”.

Kỷ niệm về tuần tĩnh tâm đó, thầy viết xuống chín ý định. Ý định áp chót ghi thế này: “Mỗi ngày tôi sẽ dành thời giờ cho việc nguyện ngắm và cho việc đọc sách thiêng. Trong ngày tôi sẽ viếng và cầu nguyện trước Thánh Thể. Trước và sau thánh lễ tôi sẽ dành mười năm phút để chuẩn bị và cám ơn”.

Chương trình sống thứ hai này, thực ra, trên nền tảng không có gì mới so với chương trình đã làm trước, nhưng chỉ đưa ra một ích thay đổi phụ thuộc do hoàn cảnh đòi hỏi. Đó là vì Don Bosco không bao giờ làm gì một cách mù quáng, như người đi trong bóng tối ngay cả chút lý lẽ trí khôn cũng không có. Nếu mà được phép dùng một câu để diễn tả điều Don Bosco ưa thích, có lẽ chúng ta sẽ nói rằng ngài không ngần ngại như những người khác khi phải nhổ chiếc răng khôn. Thực vậy, từ lúc xuất hiện trong ngài đóm lửa đầu tiên của trí khôn, ngài đã mau chóng khám phá ra con đường ngay thẳng và đã đi vào đó ngay lập tức, tiến lên theo những cách thức và phương tiện mà khả năng phân định tự nhiên, được ân sủng trợ giúp, chỉ dẫn cho ngài. Cả hai chương trình sống này đều dựa trên bốn cột trụ, theo đó sự thánh thiện của Don Bosco sẽ được xây dựng: làm việc và cầu nguyện, hãm mình bên trong cũng như bên ngoài, và tiếp đến như cách ngài thích diễn tả, nhân đức tuyệt đẹp.

Trong chương trình sống mới ngài đề cao hơn khía cạnh hoạt động. Từ khi làm linh mục Don Bosco, theo những quyết định này, sẽ chẳng bao giờ đi dạo chơi, nếu không phải vì lý do rất cần thiết, chẳng hạn để thăm viếng bệnh nhân và những việc tương tự; sẽ lợi dụng cách nghiêm khắc thời giờ: “chịu đau khổ, làm việc, và hạ mình luôn luôn trong mọi sự khi lợi ích các linh hồn đòi hỏi”; sẽ không cho thân xác nghỉ ngơi hơn năm giờ mỗi đêm; trong ngày, đặc biệt sau bữa trưa, sẽ không nghỉ, trừ khi vì lý do đau bệnh. Nhưng hoạt động không bao giờ tách rời khỏi cầu nguyện; cũng như trong quá khứ, việc nguyện ngắm luôn có chỗ trong chương trình mỗi ngày. Vâng chính trong nguyện ngắm mỗi ngày mà người linh mục tìm được chính mình, và linh mục Bosco bận bịu suốt ngày sẽ kín múc được tinh thần hồi tâm cầu nguyện, nhờ đó luôn giữ được đức tin sống động và kết hợp thường hằng với Chúa Giêsu thượng tế, từ nơi Ngài sẽ lãnh nhận dồi dào ơn sủng để thực thi thừa tác vụ thánh.

Không khi nào Marta tách rời khỏi Maria trong đời sống linh mục của Don Bosco. Đó sẽ là Marta cầu nguyện và Maria hoạt động: là Marta cầu nguyện bao lâu ngài còn hoạt động còn mạnh mẽ, và là Maria hoạt động khi những hoạt động này bị giảm thiểu vì tuổi xế chiều; nhưng dù bất kỳ thời nào trong đời mình nữa, ngài không bao giờ quên: anh em hãy cầu nguyện liên lỉ.

Chương IV

KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG

Các nhà vật lý học, để xác định cấu trúc nền tảng của một ngôi sao, họ dùng một tiến trình đáng thán phục. Họ cho ánh sáng của một ngôi sao đi qua một lăng kính; những tia sáng nhiều mầu sắc kia khi đi qua lăng kính, sẽ tách ra và được chiếu trên một màn ảnh trắng gọi là quang phổ. Sự phân tích mầu sắc của quang phổ cho phép các nhà khoa học kết luận qua những dấu hiệu; người ta biết được những khoảng cách vô tận mà cho tới ngày nay không có phương tiện nào để biết.

Nơi Don Bosco, linh hồn tràn đầy Thiên Chúa, tinh thần cầu nguyện không có những biểu lộ sở dĩ cho ta một nhận thức trực tiếp về bản tính và cường độ của nó; để biết được tính chất và đo lường được nó, can phải kiên trì khảo sát những hoạt động của cuộc sống hằng ngày của ngài.

Có ít người phi thường trong cái vẻ bình thường như thế. Trong những cái lớn lao cũng như trong những cái nhỏ nhặt, người ta luôn thấy nơi ngài phẩm chất và không gì hơn khác hơn là một linh mục tốt.

Vào lúc ban đầu, chỉ có những người có tập quán mới có thể dễ dàng biết nhận xét trong bất cứ lúc nào, hoặc đó là một cuộc gặp gỡ, một tai nạn hay một công việc, và đồng thời có con mắt sắc bén để phân định hiệu quả công việc của ngài, nghĩa là người có một trực quan để phân biệt người này với người kia, như người ta nói về đức thánh cha Pio XI rằng ngài nhìn Don Bosco với tất cả sự thán phục. Vậy có gì ngạc nhiên khi thấy có một số người không hiểu Don Bosco lắm và thậm chí có người hiểu sai và lại có người hiểu ngược với nhóm này? Số người sau cùng này thật ra rất ít ỏi, và ngày càng ít cùng với dòng thời gian; nhưng trong thực tế đã có những người như thế.

Chúng ta phải nói rằng trong những năm hoạt động nhiều nhất trong đời ngài, không phải mọi người đều nhìn ra Don Bosco là một con người cầu nguyện; còn hơn nữa chúng ta có thể thêm rằng không phải luôn luôn những người viết về ngài, đã thấm được cái tinh thần cầu nguyện sâu xa của ngài, họ chỉ quan tâm viết về những sự kiện kỳ diệu mà thôi. Đối với chúng ta, chất liệu viết tiểu sử là dựa theo những điều tra của những người quan tâm khảo cứu về đời sống nội tâm. Chúng ta có thể khiêm tốn nhấn mạnh rằng đó là ý định mà chúng ta muốn làm trong những trang này.

Sự lan rộng tự phát của ơn sủng trong cõi lòng linh mục của Don Bosco bắt đầu với nguyện xá các ngày lễ. Ngài không sáng tạo ra một hình thức mới, không chế ra một ngôn từ mới. Lúc đó đã có sẵn hoạt động giáo lý ngày Chúa nhật cho các bạn trẻ ở các giáo xứ; đã có các nguyện xá của thánh Philip Neri và thánh Carlo Borromeo.

Don Bosco, khi thấy nhiều bạn trẻ do hoàn cảnh không tới được các giáo xứ, ngài đã tổ chức các nguyện xá để tụ tập đoàn chiên tản mác này. Ngài phối hợp nhiều hoạt động khác nhau cùng với giáo lý, dàn trải hết ngày Chúa nhật. Lòng mến Thiên Chúa đã làm phát sinh nơi Don Bosco một tâm tình phúc âm sống động: hãy để các trẻ đến với tôi,[31] và muốn chuẩn bị chúng đối diện với những cạm bẫy muôn mặt trong cuộc sống; ngài viết về thời gian đầu tác vụ linh mục của mình: “hạnh phúc của tôi chính là dạy giáo lý cho các bạn trẻ, sống với chúng, nói với chúng”. Dường như đến mức chính các bạn trẻ đó cảm nhận được sự thu hút của sự ưu ái thiêng liêng này; bởi vì khi ở Torino, ngài nói: “lập tức tôi gặp được ngay một số đông bạn trẻ theo tôi ngoài đường và ở nơi mấy chỗ công trường”. Nhưng quy tụ chúng đông đảo như thế không làm ngài mệt cho bằng không biết tìm nơi nào có thể quy tụ chúng.

Sự hăng say của ngài chỉ có một mục tiêu duy nhất: làm cho chúng gặp được Thiên Chúa qua việc sống theo các huấn lệnh Chúa và luật của Giáo hội. Bởi thế ngài lo cho chúng trước hết có thể giữ luật tham dự thánh lễ trong các ngày lễ nghỉ; rồi sao cho chúng có thể biết cách cầu nguyện sáng tối; sau cùng sao cho chúng được sửa soạn để xưng tội và rước lễ cách sốt sắng. Bởi thế ngài bắt đầu tổ chức dạy đạo giáo qua giáo lý và giảng thuyết phù hợp với tuổi tác của chúng.

Đồng thời ngài sáng kiến ra nhiều trò tiêu khiển khác nhau để hấp dẫn nhằm tăng thêm con số và bảo đảm sự tham dự đều đặn của các em; dù rằng sự thu hút lớn hơn cả vẫn là chính con người đầy lòng tốt của ngài. Như thế ngày lễ nghỉ trở thành đúng nghĩa ngày được thánh hóa. Chính vì lẽ đó mà những cuộc tụ họp được gọi là nguyện xá, như ý nghĩ của Don Bosco.

Từ ngữ Nguyện xá, vốn rất phổ biến tại Italy, như thế còn đang đợi một ý nghĩa mới trong các tự điển bên cạnh định nghĩa cũ như là một ngôi nhà! Nguyện xá của Don Bosco là một ngôi nhà thiêng liêng,[32] xây bởi những viên đá sống là hàng trăm thanh thiếu niên, quy tụ về từ khắp nơi trong ngày của Chúa để thờ phượng Chúa và học cách thờ phượng Ngài bằng cả cuộc sống.

Lòng đạo đức của Don Bosco đã trải ra trong chính khi thực hiện Nguyện xá của ngài. Bắt đầu vào ngày 8 tháng mười hai năm 1841 với một em nhỏ. Trước khi dạy cho em bài học giáo lý nho nhỏ đầu tiên, ngài quì gối và đọc một kinh Kính Mừng kính Đức Mẹ để xin Mẹ trợ giúp cứu giúp linh hồn này. Thật là một lời kinh cảm động và phong nhiêu. Bốn mươi bốn năm sau, ngày 8 tháng mười hai năm 1885, khi huấn đức cho các Cộng tác viên, nhìn lại và so sánh với tình trạng buổi đầu, Don Bosco sẽ tuyên bố rằng tất cả là công trình của Mẹ Maria Phù Hộ do lời kinh Kính Mừng “đọc sốt sắng với ý ngay lành” đó. Thật vậy, những thành qủa đầu tiên đã không phải đợi lâu.

Ngày Chúa nhật tiếp sau, em trở lại, không chỉ một mình, nhưng với một nhóm nhỏ các bạn của em. Đó là các trẻ nghèo giống như em, được Don Bosco tiếp nhận và đối xử với tất cả sự trìu mến của ngài. Từ tuần này sang tuần khác số các em học giáo lý ngày càng tăng, và tuy con số tăng, niềm vui và sử dễ dạy của các em không bao giờ suy giảm.

Đến lễ Giáng sinh năm đó, một số đông đã được rước lễ lần đầu; rồi tới lễ Đức Mẹ dâng Chúa trong đền thờ và lễ Truyền Tin, các ca đoàn thiếu niên do chính Don Bosco luyện tập, đã cất lên lời ca tụng Mẹ Thiên Chúa, và các nhóm đã học thì lãnh các bí tích. Don Bosco như sờ thấy thiên đàng.

Nơi tụ họp các nhóm trẻ là Học viện giáo sĩ Torino, một nơi để đào tạo cho các linh mục Piemonte mới chịu chức, họ đào sâu về thần học mục vụ và thực tập mục vụ, dưới sự hướng dẫn đầy tài năng của những chuyên viên trong đó có chân phước Giuseppe Cafasso. Trong một nơi như thế, dù không phải là nội cấm như của đan viện, thì những cuộc tụ họp ồn ào, ít ra cũng phá vỡ bầu khí yên lặng trong một lúc nào đó.

Vị tông đồ nhiệt thành của giới trẻ không tìm đâu được nơi để thực hiện sứ mạng của mình. Ba năm trôi qua thật sự đã góp phần hình thành nên tinh thần của ngài. Sự quan phòng của Thiên Chúa đã khiến Don Bosco ở gần vị thánh đào luyện các linh mục, không phải là vô ích.

Tại trường của vị chân phước này, Don Bosco đã hút lấy lòng đạo đức, điều mà khi còn nhỏ đã cảm nghiệm phần nào cùng với dòng thời gian, lòng đạo đức “tín thác tuyệt đối nơi sự tốt lành và lòng mến dịu dàng (amorevolezza) của Thiên Chúa đối với chúng ta”; từ các buổi huấn đức thần học và từ các buổi hướng dẫn thiêng liêng, Don Bosco học được cách lắng nghe giải tội với lòng “thương xót, hiểu biết và khôn ngoan”; trong các bài học về khoa hùng biện thánh ngài học biết rằng, tòa giảng không phải là nơi để phô trương sự tài giỏi mà là nơi để cổ võ “sự tuân giữ huấn lệnh Thiên Chúa, việc cầu nguyện, lòng sùng kính Mẹ Maria, sự chuyên cần lãnh các bí tích, sự xa tránh nhàn rỗi, các bạn xấu và những dịp tội, lòng bác ái với tha nhân, sự kiên trì trong lúc thử thách và không bao giờ kết thúc bài giảng mà không nói tới những chân lý vĩnh cửu”.

Cùng chia sẻ với Don Cafasso việc trợ giúp tôn giáo cho các tù nhân, tham dự các khóa tĩnh tâm của ngài, Don Bosco cảm thấy được thiêu đốt bởi lòng đạo đức bên cạnh các việc tông đồ của ngài. Ngay cả trong những cuộc trò chuyện hằng ngày, Don Bosco cũng hấp thụ được những lời khuyên khôn ngoan về “cách sống trong xã hội, cách xử sự với thế gian để không làm nô lệ cho nó, và trở thành linh mục đích thực với những nhân đức cần thiết, thành thừa tác viên biết trả cho Caesar những gì của Caesar và cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.

Nhưng người ta không thể miễn chước Thiên Chúa chỉ vì để trả cho Caesar một cách không thích đáng. Không may người ta luôn có thể bị ảo tưởng rằng phung phí sức lực cho tha nhân thì miễn khỏi bổn phận tìm kiếm Thiên Chúa cách nhiệt tình và nội tâm.

Về thời gian này, Don Bosco đặt thêm một điểm trong chương trình sống linh mục của ngài, phương châm này có lẽ do sự khôn ngoan của kinh nghiệm dạy mách bảo. Chúng ta trình bày ở đây như đọc thấy trong cuốn sách nhỏ của ngài: “Kinh phụng vụ và giải tội. Tôi sẽ chăm lo đọc kinh thần vụ cách sốt sắng và đọc một cách ưu tiên trong nhà thờ, trong khi viếng Mình Thánh Chúa. Tôi sẽ đi xưng tội mỗi tám ngày và sẽ chăm lo thực hành những quyết định mà tôi làm mỗi lần xưng tội. Khi được xin giải tội cho tín hữu, nếu là trường hợp khẩn thiết, tôi sẽ ngưng kinh thần vụ và cũng thế tôi sẽ rút ngắn giờ chuẩn bị và cám ơn sau thánh lễ, để có thể thực thi tác vụ thánh”.

Tinh thần cầu nguyện, khi được chuyển thành thói quen, tạo cho người ta có một dự thế thanh thản và một cảm thức luôn thức tỉnh dễ dàng lên khỏi những gì quá hời hợt. Đó chính là trường hợp của Don Bosco.

Tại Học viện giáo sĩ, các người có chức vị, các chính trị gia và những người qúy phái và có tiếng của Torino thường đến với chân phước Cafasso để được hướng dẫn thiêng liêng. Từ đám người lui tới này, Don Bosco khiến họ chú ý đến ngài, vì họ thấy ngài như “một con người thuộc về Chúa” và như “một người rất được kính trọng”, theo đó nhà viết sử về Don Bosco đã có thể thu thập trực tiếp từ lời kể một số trong các kẻ có chức vị này.

Chương V

GIAI ĐOẠN HAI TRONG SỨ MẠNG

Trong chủng viện Don Bosco may mắn quen biết được Don Borel, một nhà thần học ở Torino khi ngài đến để giảng tĩnh tâm. Don Bosco viết: “Ngài xuất hiện trong phòng thánh với nét vui tươi và lời nói khôi hài, nhưng luôn mang những suy tư đạo đức”. Như người ta nói, ước gì cái ấn tượng đầu tiên đúng; có lẽ thường không luôn luôn được như thế bởi vì có nhiều yếu tố chủ quan ở trong ấn tượng; nhưng cái ấn tượng hôm ấy thì rất đúng và tuyệt đẹp. Vị linh mục tỏ ra đúng là linh mục, nghĩa là người lo việc Thiên Chúa; đây chính là điểm người ta nhận ra ngài, hoặc linh mục là người có lòng đạo đức hay chỉ là một kẻ khốn khổ làm việc theo thói quen.

Thầy Bosco khi quan sát ngài “chuẩn bị và cám ơn sau thánh lễ, cử chỉ và sự sốt sắng khi cử hành”, nhận thấy ngay “lập tức” đó là “thừa tác viên xứng đáng của Thiên Chúa”. Đáng chú ý từ ngữ “lập tức” vốn làm chúng ta nghĩ ngay tới sự nhậy bén. Trong vấn đề đạo đức, thầy Bosco luôn là người hiểu nhanh nhậy. Khi nghe ngài giảng, thầy nhận định ngay qủa là “một vị thánh”; thế nên thầy muốn “tâm sự với ngài những việc linh hồn”. Vậy thầy muốn gì? Thầy muốn không chỉ xưng tội, nhưng muốn giãi bày, muốn có các cuộc đàm thoại thân mật và quan trọng với ngài; những cuộc đàm thoại này liên quan tới chuyện linh hồn, nghĩa là các nhu cầu của đời sống thiêng liêng.

Kỷ niệm của cuộc tĩnh tâm đó còn mãi sâu đậm trong tâm trí Don Bosco, đến độ ba năm tại Học viện giáo sĩ ngài cảm thấy hạnh phúc mỗi lần có dịp trao đổi với vị linh mục mẫu mực đó. Về phần mình, hiểu rõ Bosco, ngài sung suớng mời giúp ngài trong các phận vụ thánh, đi giải tội và giảng cùng với ngài: do lòng nhiệt thành vượt bực của ngài, những lần mời như thế không phải ít, gây nên cho thầy không ít lo lắng, khiến cho các đồng nghiệp của ngài gọi thầy là “lính biệt động của Giáo hội”. Họ trở thành hai tâm hồn sinh ra để thông hiểu lẫn nhau.

Don Bosco lúc này đã quen thân với nhà thần học và biết cả chỗ ở của ngài. Ngài gợi ý cho Don Bosco đến ở chỗ ngài. Điều này có nghĩa là đi khỏi Học viện giáo sĩ nơi đã ba năm sống tại đó. Một linh hồn thánh thiện khác, Don Cafasso, người cương quyết không cho Don Bosco đi khỏi Torino biết được ý tưởng hay đúng hơn sự gợi ý này.

Don Borel cư ngụ ở một nơi gọi là Khu ẩn náu (rifugio),[33] cái tên mà người dân Torino gọi khu nhà ở do Barolo, một nữ bá tước rất độ lượng xây dựng; ở đó ngài làm giám đốc và làm linh hướng.

Với sự vâng phục như đứa con với người cha linh hồn, Don Bosco nhìn thấy trong lời khuyên của Don Cafasso sự tỏ lộ minh bạch của thánh ý Chúa, ngài để lại sau lưng mọi suy tính khác, chuyển Tổ chức đang lớn mạnh của ngài đến Khu ẩn náu.

Gọi là Tổ chức xem ra là một từ ngữ qúa lớn nếu người ta áp dụng nó vào khu vực ở nhỏ bé được cống hiến cho ngài; nhưng người ta sẽ không nghĩ như vậy nếu biết rằng vị chỉ huy của đạo quân thiếu niên ấy đã ở đây cả ba năm trời. Sau cùng chúng ta phải nói rằng hoàn cảnh của ngài lúc bấy giờ hoàn toàn được hình thành do lòng bác ái, điều mà thánh Phaolô trong chương mừơi ba nổi tiếng của thư thứ nhất Corintho, nói là nhân đức cao trọng nhất.

Những gì xảy ra tiếp theo đều là những cơ hội nhắc ngài về đức ái thì kiên nhẫn. Ba bốn trăm trẻ náo động đụng tới thần kinh bà bá tước, khiến một ngày nọ, chịu không nổi nữa, bà buộc lòng bảo ngài phải đem chúng ra ngoài, và thấy ngài không có ý định bỏ công việc của mình, bà ra hạn chót cùng với lời dọa thu hồi vĩnh viễn việc sử dụng cơ sở của bà. Bọn trẻ đụng tới nhu cầu sống bình yên và sự nhạy cảm của những người sống trong vùng nơi mà cứ liên tục mỗi Chúa nhật ngài tụ tập đám trẻ lang thang này. Chúng đụng đến quyền bính dân sự và chính trị khiến họ ra lệnh trục xuất, buộc ngài phải mau chóng rời khỏi và coi ngài như một kẻ gây nguy hiểm cho trật tự xã hội. Chúng đụng đến cơ cấu của các giáo xứ, gây nên mối lo ngại về các hệ quả có thể xảy ra. Sau cùng chúng đụng đến những người ít nhiều có các mối lợi, họ muốn đẩy các cuộc tụ tập của ngài tới một cánh đồng, xa khỏi khu vực sinh sống.

Lo lắng nhưng không bị đánh bại, chịu khốn cực mà không nao núng, ngài đối diện những thái độ thù nghịch với một tâm hồn mạnh mẽ anh hùng vốn là ân ban của Thánh Thần. Một sự vững mạnh có nguồn mạch siêu phàm làm cho con người sẵn sàng chờ đón mọi sự, đứng vững trước mọi người và không hề bị lung lay, đây chính là trường hợp mà người ta có thể nói đúng cho Don Bosco. Chắc hẳn đó không phải là niềm vui, nếu nói theo kiểu con người, khi phải trải qua các ngày Chúa nhật giữa đám trẻ dốt nát, ồn ào, lộn xộn, vô danh tiểu tốt và quê mùa; chẳng có gì hứng thú để dạy đám trẻ thô thiển, thiếu suy nghĩ và vô công rỗi nghề như ngài đang làm. Ngày nay ngay cả các trẻ em ở điều kiện thấp kém nhất, trong các ngày lễ cũng có một vẻ tươm tất sạch sẽ; nhưng lúc đó đám trẻ vô học và bẩn thỉu lang thang trên các đường phố và công viên của các khu dân cư trong thủ đô vùng Piemonte. Đúng ra người ta phải thán phục hay ủng hộ hoặc ít ra phải để cho Don Bosco được bình an với đám trẻ nghịch ngợm mà ngài tự xưng là thủ lĩnh của chúng; thế nhưng các công việc của Thiên Chúa lớn lên như trở thành cái bia cho cả thù địch cũng như bạn hữu. Don Bosco chịu đau khổ trong sự bình thản, ngước mắt nhìn lên trời mong chờ sự trợ giúp và an ủi; từ đó càng những lúc gặp nhiều khó khăn và phải chiến đấu dường như ngài lại càng có vẻ dịu dàng và dễ tính.

Sự vững mạnh của các thánh khác với sự mạnh mẽ, cứng cỏi và không uyển chuyển của các nhà khắc kỷ: các thánh tín thác vào sự trợ giúp siêu nhiên nên các ngài cầu nguyện, kiên nhẫn và chiến thắng. Sự vững chãi triết học thì khô cạn trong sự thỏa mãn cái tôi; sự vững mạnh Kytô giáo trái lại kích thích tài năng để tìm ra những con đường mới, dù có khiêm tốn và phải hạ mình, miễn là đạt tới mục đích đã nhắm, chẳng có tham vọng nào khác là hơn là làm vinh danh Thiên Chúa và lợi ích của tha nhân.

Đám trẻ Nguyện xá từ buổi đầu, vốn không bao giờ xa rời Don Bosco, luôn sống gần với ngài, vẫn còn giữ nguyên cái kỷ niệm thời đầu anh hùng hình ảnh một người cha đích thực, thân thiết và tốt lành. Thân thiết bởi vì tốt lành, nhưng đó là sự tốt lành của Phúc Âm khi mà một thanh niên hỏi Chúa Giêsu: Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời? Một con người trọn vẹn như Don Bosco, lòng nhân lành không có phải cái thứ nhạy cảm thường làm con người nên yếu đuối, lòng tốt của Don Bosco được soi chiếu bởi sự thông minh và bởi đức tin và thường hằng được đốt cháy bởi sự tiếp xúc với Thiên Chúa, nên đã biến đổi thành lòng nhân lành siêu nhiên, đối xử như nhau với mọi người và để nâng cao tất cả mọi người.

Đó là tại sao giữa những thăng trầm, vào buổi ban đầu người ta hiểu lờ mờ và chỉ mãi sau họ mới hiểu được những đau khổ trong tâm hồn của ngài. Người ta thấy ngài luôn luôn bình thản và yên bình, trở nên tất cả cho mọi người để làm lan tỏa một tình cảm tác động và một đường hướng thiêng liêng. Như thế ngài chiếm được tâm hồn các thanh thiếu niên, đến nỗi nơi đâu ngài ngồi giải tội là chúng quên hết những vị khác, tụ lại quanh ngài trong một sự hồn nhiên và lòng tín nhiệm. Thế mới hiểu vì sao, bị đuổi khỏi mảnh đất bao bởi các bức tường ra ngoài cánh đồng trong mùa đông ở Torino, các bạn trẻ vẫn trung thành đến với ngài, mang theo đồ ăn khô và lưu lại với ngài cho đến khi mặt trời lặn. Những em đầu tiên đó, khi đã lớn, nhớ lại những gì mình đã thấy, thốt lên: ngài là thiên thần ở giữa chúng tôi.

Lời nhận định đó gợi chúng ta nhớ tới thánh Stêphanô tử đạo tiên khởi, người mà sách Công vụ tông đồ kể rằng giữa những lời tố cáo trong toà án, những người có mặt ở đó nhìn thấy mặt ngài như diện mạo một thiên thần, tỏa chiếu sự thanh thản, bởi vì ngài đầy ân sủng và sức mạnh.

Cách hành xử lạ lùng của Don Bosco giữa những nỗi quẫn bách không có một nguồn mạch nào khác. Các đền thánh kính Đức Mẹ thuộc ngoại ô biết ngài rất rõ, ngài dẫn đám thanh thiếu niên lang thang đó đi hành hương cầu xin ơn lành với những lời kinh và các bí tích; đặc biệt đền thánh Đức Mẹ Yên Ủi, nơi đây bức ảnh hay làm phép lạ đã nghe biết bao lời cầu nguyện của Don Bosco và con cái ngài, và đã ban cho ngài sự can đảm. Nhà thần học Borel và một số chức sắc giáo sĩ biết ngài, họ làm chứng về lòng nhiệt thành đạo đức mà ngài đã tuôn đổ vào trong lòng của đám trẻ lang thang ấy. Một số các bạn trẻ yêu thích cầu nguyện cũng biết ngài và được ngài dẫn đi cùng cầu nguyện riêng một chỗ với ngài để cùng vươn tới một đời sống hoàn hảo hơn.

Đó là những điều cần phải gợi lại nếu muốn hiểu cho đầy đủ những lời này trong cuốn “Hồi sử”: “Thật lạ lùng, làm thế nào một đám đông lại để cho điều khiển, đám đông mà trước đó tôi chưa biết, một đám đông mà phần lớn người ta có thể nói đúng về chúng giống như ngựa và lừa không có trí khôn.

Tôi phải thêm rằng giữa cái sự vô tri như thế, tôi luôn phải thán phục sự kính trọng của chúng đối với những gì thuộc về Giáo hội, đối với các thừa tác viên, và có biết bao điều về giáo lý và luật Chúa mà chúng cần phải học hỏi”. Thật sự đối với những con lừa và ngựa điên thì không có gì là xấu cả! Nhưng người dạy dỗ và người thuần phục chúng có dư dật khả năng trí khôn, khả năng mà chúng chưa có nhưng sau đó chúng đã có. Giờ đây chúng ta mới hiểu tại sao chân phước Cafasso trả lời phản bác các cáo giác chống Don Bosco mà người ta trình cho ngài. Don Cafasso luôn kết thúc bằng điệp khúc “hãy để cho cha ấy làm, để cho cha ấy làm”.

Nhưng ngày Chúa nhật chỉ là một ngày trong tuần, con sáu ngày khác ra sao? Đừng có ai nghĩ rằng Nguyện Xá ngày lễ chỉ quan tâm tổ chức trong ngày Chúa nhật. Nguyện xá như trong ý nghĩ của Don Bosco, là nơi của thẩm quyền tình phụ tử, nơi chiếm lấy tâm hồn của thanh thiếu niên, theo chúng khắp mọi nơi và trực tiếp can thiệp với cha mẹ, chủ, thầy cô, bất cứ nơi nào có thể để đạt được một ảnh hưởng tốt trên cách sống của chúng. Vì thế Don Bosco dần dần có các nhà dòng, có các trường học, trường nội trú, có nhà in và có nhà tạm trú: một lãnh vực hoạt động rộng lớn không biên giới.

Các hoạt động đa dạng một cách tự nhiên khiến ngài có tương quan với mọi hạng người, nhiều trong số họ rất cần đến công cuộc và lời nói của ngài, họ gần như săn tìm ngài bất cứ nơi nào ngài cử hành nghi lễ thánh. Một trong những quyết định do ngài viết lại năm 1845 cho thấy điều này; chúng ta trích ra nơi đây không phải để làm công việc của một tiểu sử gia nhưng vì nó giúp soi sáng chúng ta. Ngài nói: “Khi tới phòng thánh người ta thường hay hỏi để xin lời khuyên hay để xin xưng tội, vì thế tôi sẽ lo để có một sự chuẩn bị ngắn trước khi đi cử hành thánh lễ”.

Ghi nhận quí gía và có ý nghĩa này, đang khi từ ngữ “ngắn” không có nghĩa vấn nạn lương tâm, cho chúng ta thấy Don Bosco thay vì nại cớ tiện lợi bỏ Chúa vì Chúa, ngài thích chuẩn bị trước một cách sốt sắng thích đáng.

Một số thẻ giấy mà ngài đã dùng kẹp sách trong bốn mươi năm cũng cho thấy những suy tư vốn thân thương với ngài. Mười một câu từ Kinh thánh nói về sự Quan phòng, sự tín thác nơi Thiên Chúa, sự tránh các dịp tội, sự không dính bén với của cải, niềm vui của một lương tâm trong sáng, sự độ lượng của Chúa dành cho những ai quảng đại, sự suy nghĩ trước khi nói, sự phán xét của Thiên Chúa, lòng thương người nghèo, sự tôn kính xứng hợp dành cho các người trên, sự tha thứ những xúc phạm.

Năm câu từ các giáo phụ nhắc nhở về sự duyệt xét lương tâm thường xuyên, sự gắn bó khiêm nhường và trọn vẹn đối với giáo huấn của Giáo hội, sự giữ những điều bí mật, sự hiệu quả của gương sáng, lòng nhiệt thành vì linh hồn của người khác và của linh hồn mình. Ba câu khác từ Dante ở cuối các bài thơ, đưa con người lên chốn của “các vì sao”, nghĩa là những suy tư về thiên đàng. Sau cùng bốn câu từ Silvio Pellico cũng đáng đề cập, vì chúng có giá trị nhắc nhở ngài về chính trị mà người của Thiên Chúa phải theo đuổi trong một thời buổi đầy dẫy những trào lưu chính trị: chính trị của Ý phải là chính trị của đức tin, đức cậy và đức mến: Người Ý hãy tin vào nhân đức cao cả, nhà nước hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, và đang khi tin và trông cậy hãy yêu mến và tiến tới để chiếm lấy những gì chân thật vĩnh cửu.

Pellico và Don Bosco biết nhau rất rõ. Đối với Don Bosco nhà thơ đã sáng tác bài ca tụng tuyệt vời: Hỡi bé thơ của Thiên Chúa, và ngài nuôi dưỡng một sự kính trọng chân thành đối với ông. Là thư ký của bá tước Barolo, ông chắc hẳn biết rõ lá thư mà bà bá tước thông báo cho giám đốc của nhà Rifugio quyết định của bà về Don Bosco, trong đó bà lập lại các chữ mang tính ngoại giao cứng cỏi hoặc, hoặc mà bà đã thông tri cho ngài bằng miệng: hoặc bỏ Nguyện xá hoặc phải đi khỏi nhà Rifugio.

Lá thư dài, với chữ ký của một phu nữ qúi tộc, nhưng được soạn bởi lối văn đáng yêu của ông thư ký. Đoạn văn qúi giá sau đây qủa là một điểm soi sáng cho chúng ta: “ Tôi quí mến ngài (Don Bosco) ngay từ giây phút đầu tiên vì gặp thấy nơi ngài một vẻ cầu nguyện và một sự đơn sơ của các tâm hồn thánh thiện”. Người viết diễn tả sự phán đoán của người khác nhưng chắc hẳn tương hợp với phán đoán của ông.

Chương VI

NƠI ỔN ĐỊNH ĐỂ THỰC HIỆN SỨ MẠNG

Ngày nay khi nói đến Nguyện xá là đề cập đến một cơ sở rất phổ biến ở Ý đến độ người ta nghĩ dường như vẫn như thế từ xưa, không cảm thấy nhu cầu tìm hiểu xem với ai Nguyện xá đạt tới tầm mức của nó. Tên tuổi của Don Bosco không tách rời với một Nguyện xá, một Nguyện xá trổi vượt, Nguyện xá Valdocco.

Chính sự quan phòng nhiệm mầu của Thiên Chúa đã khiến cho trung tâm chính của các công cuộc Don Bosco mang cái tên Nguyện xá vì nó cho thấy nơi chốn để cầu nguyện. Một nơi chốn thì được định nghĩa bởi điều chính yếu mà người ta làm tại đó; nếu một nơi có nhiều hoạt động mà lại mang tên nơi chốn cầu nguyện, thì có nghĩa là trong các công cuộc của Don Bosco, trước hết phải có sự cầu nguyện rồi mới nói tới những việc khác. Chính những lời của Don Bosco hằng nhắc nhở cho chúng ta điều này.

Thực ra vào buổi đầu không thiếu những người tốt bàn tán có sự thích hợp không vì có quá nhiều các cử hành thánh và các thực hành đạo đức được đưa vào Nguyện xá. Don Bosco đã làm cho tất cả phải im miệng, ngài luôn trả lời bằng một câu: “Tôi đã đặt tên Nguyện xá cho nhà này để chỉ rõ, cầu nguyện chính là năng lực độc nhất, dựa trên đó chúng ta phải đặt sự trông cậy”.

Và người ta có thể cảm thấy được lòng đạo đức trong không khí tại Nguyện xá; lòng đạo đức đọc thấy được nơi khuôn mặt của các thanh thiếu niên; lòng đạo đức thúc bách trong mọi người và trong mọi việc. Mục tiêu của chúng ta dù không phải là bàn về điều này, chúng ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng ở đó phản chiếu chính tâm hồn linh mục của Don Bosco. Trong Giáo hội, một linh mục nhiều tinh thần sáng kiến có thể tổ chức để nặn ra rất tốt một cái tượng đất; nhưng nếu không có tinh thần cầu nguyện thì không thể thổi vào đó hơi thở sự sống.[34] Nếu không có người khác bù đắp sửa chữa cho cái khiếm khuyết ấy, thì những tổ chức như vậy chẳng bao giờ sống động được.

Đối với Don Bosco, Thiên Chúa chính là nguyên lý và đích điểm của mọi sự. Bận rộn với bao thứ việc, ngài không bao giờ để lâu giờ mà không cầu nguyện; mẹ ngài, ngủ ở phòng gần phòng ngài, cho biết rằng ngài thức một phần trong đêm để cầu nguyện. Trên lối vào căn phòng nhỏ bé của ngài có một tấm bảng như để mời ngài nói: ngợi khen Chúa Giêsu Kitô; phía trong có một tấm bảng khác trên tường nhắc nhở ngài chỉ một điều cần thiết, cứu rỗi các linh hồn; một tấm bảng thứ ba làm sống lại châm ngôn thân thiết của thánh Phanxicô Salê mà ngài áp dụng cho mình ngay từ những năm đầu đời linh mục: Da mihi animas catera tolle.

Những thao thức và mong ước về phần rỗi đời đời của mình và của người khác luôn luôn thường hằng trong ngài. Người ta phải nói gì về những biểu lộ của lòng đạo đức trong tâm hồn ngài: sự kính trọng, tình yêu và sự tôn kính đối với mỗi hành vi thờ phượng, đối với mỗi việc sùng kính được Giáo hội phê chuẩn và cổ võ? Các việc như á bí tích, làm các phận vụ thánh, đọc kinh Mân Côi chung, các hiệp hội đạo đức, đọc kinh Truyền Tin, đọc kinh trước khi ăn, đi đàng Thánh Giá. Biết bao sùng kính ngài đã nuôi dưỡng đối với các mầu nhiệm của sự thương khó và sự chết của Chúa Giêsu! Ngài suy niệm các nỗi đau đớn của Chúa với một tâm tình sống động. Khi diễn giảng ngài xúc động, lời của ngài không thốt ra được và khiến người nghe bật khóc.

Về các hội đạo đức, người ta không thể nói đến điều này sau khi ngài đã có được chỗ ở ổn định tại Valdocco, ngài ghi tên vào hội dòng ba Phanxicô, mang áo, làm nhà tập và khấn. Ngoài ra, trước mắt quan sát của mọi người, họ thấy một linh mục đạo hạnh mẫu mực, ngài đọc lớn tiếng, phát âm với giọng rung động hòa điệu, khiến người ta nghĩ ngay đến ngọn lửa bác ái trong tâm hồn ngài. Bởi thế một nhà thơ tí hon vào năm 1846 khi làm mấy câu thơ để phổ nhạc mừng Don Bosco khi ngài trở về sau cơn trọng bệnh, diễn tả cái tâm tình chung vào ngày ngài trở lại Nguyện Xá “người khôn ngoan, người đạo đức, người nhân đức”.

Bên cạnh ban hát lúc đó, sau này còn có nhiều tường trình của nhiều chứng nhân tận mắt đáng tin cậy. Don Bosco còn phải trải qua nhiều năm khó khăn nữa: làm sao để cho Nguyện xá ngày lễ của bảy trăm thanh thiếu niên có thể tiếp tục được; mở thêm hai nơi nữa ở Torino; mở các nhà trọ; mở cửa cho các chủng sinh nghèo bị giải thể vì lệnh đóng cửa các chủng viện, khiến cho căn nhà nhỏ của ngài đầy tới mức không tưởng tượng được; giải quyết bánh ăn hằng ngày; hoặch định nền móng cho Hội dòng tương lai; giữa những xáo trộn chính trị làm đau đầu thẩm quyền các cấp của Giáo hội, tinh thần phúc âm cao độ, ngài chia sẻ những lo âu của các Mục tử,…: tất cả những điều này từ sáng tới tối làm Don Bosco ở trong sự bất ổn và đầu của ngài dưới sức ép trở nên giống như một nồi nước sôi.

Một linh mục đáng kính nọ ở gần Don Bosco, khi nhìn thấy ngài như thế, đã nói rằng toàn thân Don Bosco toát ra cái ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, khiến người ta cảm nhận lời của thánh Phaolô: quê hương chúng ta ở trên trời. Ở mọi nơi, ngay cả ở bàn cơm và trong phòng riêng, người ta nhìn thấy ngài trong một thái độ thu tâm, đầu hơi cúi xuống, giống như khi ở trước Thánh Thể hay trước sự hiện diện của một nhân vật lớn. Người ta cũng thấy ngài trên đường đi cũng trong vẻ tập trung, nhưng sự chú tâm vào Thiên Chúa. Chính điều này làm chúng ta nghĩ tới khi thỉnh thoảng có kẻ đến xin ngài lời khuyên, dường như lúc đó ngài đang chia trí về cái gì đó hoàn toàn khác, ngài trả lời như một người đang chìm trong suy niệm về những sự vĩnh cửu.

Nhân chứng thứ hai, từng sống dưới sự hướng dẫn của Don Bosco trong những năm tháng đầu tiên của Nguyện xá. Quan sát Don Bosco khi cầu nguyện chung với các bạn trẻ, nêu lên rằng ngài phát ra lời kinh lạy Cha chúng con ở trên trời với tất cả sự cảm nếm, và giọng ngài nổi lên giữa tất cả với một cung giọng không tả được, làm xúc động người nghe. Dẫu rằng thái độ của ngài không làm ra vẻ gì khác thường, nhưng cũng không trốn tránh được con mắt của người chứng. Dù là trong phòng thánh hay trong nhà thờ ngài không bao giờ chống khuỷu tay, nhưng dựa cánh tay vào ghế hay bàn qùi, đôi tay chắp lại hoặc cầm một cuốn sách trong lòng bàn tay. Cả đến nhà luân lý học nổi tiếng, monsignor Bertagna cũng không thể quên được cử chỉ của ngài khi cầu nguyện, đến nỗi, khi muốn đưa ra một ý tưởng ngắn gọn chính xác, ông nói rằng Don Bosco khi cầu nguyện có “thái độ của thiên thần”.

Chúng ta không quan tâm đến dáng diệu bên ngoài của Don Bosco, nhưng từ những gì trình bày cho tới đây, cũng đủ giúp cho hiểu tinh thần cầu nguyện của ngài mà không cần thêm vào nhận xét nào. Các tác giả và mấy nhà vẽ kiểu thường tưởng tượng qúa mức vào tuổi thơ ấu, vào những nét bên ngoài của các Đầy tớ Chúa; như thế có một Don Bosco được nấu thành mứt ngọt ngào. Như đã thấy, chúng ta không cho phép nhìn một Don Bosco như thế; hơn nữa càng không thể tìm thấy một Don Bosco thực sự dưới dáng vẻ như thế.

Một con người sâu xa cũng đồng thời là vị đại thánh thì biết mỉn cười. Tuy nhiên không phải cái cười theo bản năng tự nhiên, vô nghĩa, đó là cái mỉn cười có ý và chứa đựng trong đó sự suy tư: một nụ cười hướng tới một mục tiêu, và biết rút lui vừa khi đạt tới mục tiêu. Nơi vị thánh, lòng tốt dịu dàng và đáng yêu không bao giờ tách rời khỏi tính bình tĩnh và thanh thản. Sự tốt lành và bình thản, yếu tố lưỡng cực này tạo nên một dấu hữu hình và hầu như một chứng cớ về sự hiện diện của Tạo hóa bên trong tạo vật. Vì thế, cái nhìn về một vị thánh thì nâng cao và làm người ta suy nghĩ.

Về Don Bosco, quả thật, người ta cũng nói tới một lưỡng cực, tuy nhiên kiểu nói này không còn chỗ đứng; vì thực ra cái này là chị em ruột với cái kia, nên không thể giảm lược lưỡng cực này theo nghĩa trong tự điển; chúng ta nên gọi đó là sự đơn sơ phúc âm, sự đơn sơ của có nói có, không nói không, được thêm gia vị là đức ái, nhưng luôn luôn vững mạnh. Con người mà bên trong nội tâm tương giao với Thiên Chúa sẽ phản chiếu trong cách cư xử của mình một sự bình an sâu xa. Điều này tỏ rõ nơi Don Bosco đối với bất cứ ai khảo sát các biểu lộ của nhân cách ngài.

Tương tự với cách cư xử là cách nói của ngài. Luôn luôn trao đổi với sự bình tĩnh, thong thả, xa tránh các thứ diễn từ phàm tục, tránh kiểu nói qúa phấn khích, kiểu diễn tả gây chú ý và khiêu khích, đồng thời luôn đặt tầm quan trọng cho từng lời nói ra. Một người đã từng sống trong gia đình, trong sự thân tình với người của Thiên Chúa viết rằng: “Chúng tôi thường nói với nhau: “Đến gần Don Bosco thật là thích! Nếu bạn nói với ngài một chút thôi, bạn sẽ cảm thấy hăng hái ngay”.

Nhưng chúng ta có một chứng từ khác còn giá trị hơn nhiều. Đó là của Đầy tớ Chúa Michele Rua, người đã nói trong án phong thánh: “Tôi đã sống cạnh Don Bosco trong ba mươi bẩy năm…  Tôi thật cảm thấy bị ấn tượng khi quan sát Don Bosco đang khi làm việc, ngay cả những việc nhỏ, đọc và suy gẫm bất cứ cuốn sách đạo đức nào”.

Đối với người có kiên nhẫn để đọc sách, họ không phải không thích đi đây kia một chút, nhưng chỉ khi có lý do. Tôi muốn trình bày ở đây một trích dẫn đáng chú ý, mà sẽ cho phép chúng ta dựa trên vài điểm nào đó bên ngoài của Don Bosco để khẳng định về cái bên trong của ngài. Và nếu có cách nào trực tiếp hơn để biết về ngài, có lẽ ai mà chẳng muốn làm điều đó? Thánh Vicente Phaolo trong một bài giảng ngắn và đẹp cho các tu sĩ Truyền giáo của ngài đã nhận xét: “Ngay cả khi các con không nói một lời, nếu các con thực sự ở trong Thiên Chúa, các con sẽ tác động vào trái tim người ta bằng chính sự hiện diện của các con… Các tôi tớ của Thiên Chúa có một vẻ bên ngoài phân biệt với những con người xác thịt. Đó là một thái độ khiêm tốn, tập trung và sốt sắng, những điều này tác động trên linh hồn của người nhìn vào họ. Ở đây có những người lòng tràn đầy Thiên Chúa, mà mỗi khi nhìn họ cha không khi nào không bị đánh động. Các hoạ sĩ khi vẽ hình các thánh, trình bày họ với các tia sáng: thực thế những ngừơi công chính, sống thánh thiện trên mặt đất này, toả chiếu quanh họ thứ ánh sáng riêng của mình”.[35]

Và cả nhà viết tiểu sử thánh Bonaventura, sau khi nói rằng “chúng ta thiếu những thông tin để biết về sự tiến bộ của ngài trong kinh nguyện và trong ơn chiêm niệm” đã chuyển sang cứu xét “các hoa trái của đời sống nội tâm và sự kết hiệp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa” đã đưa ra nhận định rằng: “Cuộc sống của thánh nhân ghi dấu của một sự bình an sâu thẳm, của ân sủng mà lôi kéo bất cứ ai nhìn ngài”. Khi nói điều này, tác giả đưa ra chứng từ của một người đồng thời, người mà khi nói về công đồng Lion nơi thánh nhân toả lan ánh sáng thiên thần sốt mến. Ông viết: “Chúa đã ban cho ngài ân huệ này, là tất cả những ai nhìn ngài đều cảm thấy yêu mến thân thiết với ngài”. Ở đây có lẽ câu nói này chỉ cần đổi tên là đủ đối với Don Bosco.

Vị thánh chuyên giảng tĩnh tâm cho các thầy sắp chịu chức và cho các linh mục cũng cho chúng ta biết về Don Bosco như là một người ngưỡng mộ việc thực hành của thánh Ignatio. Don Bosco yêu thích các buổi linh thao: ngài yêu thích vì ích lợi của người khác và của chính mình. Là người mở đường, năm 1847 ngài mở các khóa tĩnh tâm nội trú cho giới trẻ lao động; đưa vào trong các nhà nội trú Salediêng thói quen làm một tuần tĩnh tâm chuẩn bị lễ Phục Sinh, được chuẩn bị rất kỹ càng với những bài giảng và kết thúc trong niềm vui thánh thiện; trong Hội dòng ngài, ngài cũng tổ chức không kém gì các đấng sáng lập khác. Ngài là người cổ võ hăng say, và chính ngài cũng thực hành nữa.

Bao lâu hoàn cảnh không ngăn cản, hằng năm ngài tới đền thánh Ignatio thuộc Lanzo Torino nằm trong vùng núi alpine, nơi đây trong cô tịch và bình an của các ngọn núi, ngài bồi dưỡng tinh thần trong kinh nguyện và suy gẫm về những chân lý vĩnh cửu. Trong một tờ giấy mà ngài giữ rất cẩn thận, chúng ta xúc động khi đọc “những quyết định của tuần tĩnh tâm 1847” như sau:

Mỗi ngày: viếng Mình Thánh Chúa.

Mỗi tuần: một hy sinh và xưng tội.

Mỗi tháng: đọc kinh dọn mình chết lành

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con điều Chúa truyền,
và hãy truyền cho con điều Chúa muốn.

Linh mục là bình hương của Thiên Chúa (Teodoto).

Là lính của Chúa Kitô (thánh Gioan Crisotomo).

Kinh nguyện đối với linh mục thì giống như nước đối với cá,
không khí đối với chim, nguồn nước đối với nai rừng.

Người cầu nguyện thi giống như người đi gặp Đức Vua.

Chúng ta đã xem lần thứ ba các quyết định của Don Bosco liên quan đến đời sống cầu nguyện, dù biết rằng từ cái nói đến cái làm cách xa nhau như biển cả. Tuy nhiên cần lưu tâm hiểu cho đúng tính tình của Don Bosco. Don Bosco không phải là người thiên về lý trí, cũng không phải là người duy xúc cảm; ngài là người của ý chí, xuất phát từ những ý tưởng rõ ràng và những tình cảm trong sáng. Tương tự như những người có chí khí, vững chãi và mạnh mẽ, khi nào họ muốn là muốn. Không như những người thích trình diễn, những giải pháp của họ chỉ bay bổng trên không trung; không như những người xúc cảm, có giải pháp nhưng không bao giờ có thể giải quyết được chuyện gì, bởi vì các ấn tượng cũng thay đổi như lông chim trước gió. Don Bosco khác hẳn, ngài có một ý chí bằng sắt.

Giờ đây lại xảy ra một vấn đề khác. Nhìn nhận rằng sự làm chủ bản thân là đặc điểm của những con người sống theo ý chí, vậy thì giải thích ra sao khi người ta nhìn thấy Don Bosco khóc không ít lần? Ngài đã khóc khi dâng lễ, khi trao Mình Thánh Chúa, khi ban phép lành cho dân chúng sau nghi thức thánh; ngài khóc khi nói cho thanh thiếu niên sau giờ đọc kinh tối, khi ban huấn đức cho những người cộng tác với ngài và khi ban những kỷ niệm tuần tĩnh tâm; ngài khóc khi nói về tội, về gương xấu, về sự tiết độ, khi nói về sự vô ơn của con người trước tình yêu của Chúa Giêsu và khi bày tỏ nỗi lo lắng cho phần rỗi đời đời của một ai đó.

Một chứng nhân đáng tin cậy khác, hồng y Cagliero nói: “Khi Don Bosco giảng về tình yêu của Thiên Chúa, về sự hư mất của các linh hồn, về sự thương khó của Chúa Giêsu trong ngày thứ sáu tuần thánh, về bí tích Thánh Thể, về sự chết lành và niềm cậy trông thiên đàng, tôi nhìn thấy nhiều lần, cả các bạn tôi cũng thấy, ngài khóc vì tình yêu, khóc vì đau đớn, khóc vì vui; và rung động khi nói về Đức Trinh Nữ rất thánh, về lòng nhân lành và về sự trinh khiết vô nhiễm của Mẹ”. Cả trong những nhà thờ công cũng xảy ra cho ngài như thế. Một chứng nhân đã thấy ngài bị ngừng lại vì khóc tại đền thánh Đức Mẹ An Ủi khi giảng về phán xét chung, đang khi nói về sự phân tách kẻ vị nguyền rủa khỏi những người được chọn; chứng nhân thứ hai cho hay thấy ngài khóc nhiều lần nhất là khi nói về đời sống vĩnh cửu, đến độ làm cho những kẻ tội lỗi cứng đầu phải hối cải, tìm đến ngài xưng tội sau khi nghe giảng.

Cuối cùng, người viết tiểu sử tinh thông về Don Bosco nói: “Chính chúng tôi, những người viết những trang này, chúng tôi là nhân chứng cùng với hàng ngàn người khác về ân huệ thần linh mà Don Bosco đã được ban, từ lúc ngài lập nên Nguyện xá, mà ngay cả trước đó nữa, và kéo dài cho tới khi ngài qua đời”.[36] Vấn đề là nếu như đó thực sự là tặng ân thần linh và trong trường hợp xác quyết như thế, nó có cho phép chúng ta khẳng định rằng Don Bosco có ơn cầu nguyện thụ động này không. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau, bây giờ chúng ta giới hạn trong những hoàn cảnh vừa kể trên để nêu lên rằng, việc Don Bosco khóc là một biểu lộ sự kết hiệp với Thiên Chúa; và bởi vì kết hợp với Thiên Chúa chính là cầu nguyện, người ta nhận thấy tinh thần cầu nguyện chắc chắn thúc đẩy Don Bosco ngày thêm hăng hái trong hoạt động.

Phần sức mạnh trong đường tu đức của Don Bosco chính là nơi Thánh Thể mà suốt cả đời ngài yêu mến, đó cũng là đối tượng vĩnh hằng của lòng nhiệt thành linh mục của ngài. Một ngày qủa tràn đầy niềm vui khi vua trời ngự trị trong Nguyện xá của ngài. Đó là ngày của ân sủng trong năm 1852 sau khi dựng được nhà thờ kính thánh Phanxicô Salê. Từ lúc đó căn nhà thánh thiêng này trở thành trung tâm của tất cả mọi tâm tình của ngài. Người ta không thể tả được niềm vui khi ngài loan báo cho học sinh tin vui này. Từ đó trở đi mỗi khi được nghỉ để hít thở một chút, ngài liền vào nhà thờ để thờ lạy Chúa Cứu Thế, và ở trong đó với dáng điệu của một thiên thần hơn là của một con người.

Tất cả những gì liên quan đến tôn thờ Thiên Chúa, ngài đặt tầm quan trọng tối thượng, luôn luôn quan tâm đòi hỏi để cho các đồ thánh luôn sạch và thứ tự; luôn để tâm sao cho đèn nhà tạm luôn luôn cháy sáng; luôn nhắc nhở mọi người suy nghĩ đến Đấng ở trong nhà tạm; ngay cả thích quét màng nhên, quét bụi bàn thờ, quét sàn nhà thờ, lau chùi chân bàn thờ. Chẳng có gì cần thiết để trang hoàng xứng đáng cho các cử hành thánh mà ngài lơ là; trong những ngày lễ trọng, ngài không muốn các nhạc sĩ đời, vì họ không quen với nhà Thiên Chúa, họ không đủ kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người viết tiểu sử ngài viết rằng trong nhà thờ người ta nhìn thấy đức tin và đức mến hiện trên khuôn mặt của ngài.

Cầu nguyện thế nào thì cử hành thế ấy? Ngài cử hành thánh lễ  trong thái độ sốt sắng, tập trung và chính xác, đọc từng lời với sự rõ ràng và trang trọng, tỏ ra sung sướng khi phân phát Mình Máu Thánh Chúa, không dấu nổi sự hăng say trong tâm hồn mình. Tuy nhiên ngài không gỉa tạo bày trò trước mắt: không kéo dài lê thê mà cũng không làm cho mau chóng, từ đầu đến cuối ngài tiến hành trong sự bình thản và tự nhiên trong mọi cử chỉ. Những tín hữu dù không quen biết ngài cũng đều thấy sốt sắng; còn những người đã biết, thì nơi đâu ngài sẽ cừ hành, họ tìm đến tham dự; các gia đình có đặc ân có nhà nguyện trong nhà, họ tranh nhau để mời ngài đến cử hành thánh lễ.

Nhiều lần ngài trở lại qùy gối trước bàn thờ nơi ngài cử hành thánh lễ đầu tiên trong nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, thuộc về Học viện giáo sĩ, để canh tân những quyết định khi chịu chức. Người ta còn lưu giữ bản Rubricae missalis cũ kỹmà ngài thường đem theo mình để sử dụng; có khi ngài cũng xin những người gần gũi với ngài vốn hay để ý lúc ngài cử hành lễ, xin họ canh chừng phòng khi ngài bị té.

Buổi sáng khi đi từ phòng ra nhà thờ, nếu gặp ai đó chào ngài và hôn tay ngài, ngài đáp lại bằng một nụ cười, nhưng ngài không nói gì cả, ngài hoàn hoàn để tâm vào thánh lễ sắp cử hành. Khi phải du hành, ngài cũng không bỏ qua thánh lễ, ngài rút ngắn giờ nghỉ, cử hành lễ vào sáng sớm; hoặc khi vì quá bất tiện, ngài cử hành vào lúc rất muộn. Đó là điều mà các Salêdiêng thế hệ đầu tiên đã nhìn thấy nơi ngài và chúng ta cũng đã tìm hiểu.

Trong đời sống thiêng liêng, trái tim của Don Bosco, do được đào tạo trong tình yêu nung nấu và vững bền đối với Thánh Thể, tự nhiên ngài trở thành vị tông đồ cổ võ lãnh Thánh Thể thường xuyên. Sứ mạng thánh này ngài đã thực hiện với biết bao nhiệt thành.

Ảnh hưởng giansenist khi đó còn phủ bóng tại Piemonte. Tuy nhiên trong Học viện giáo sĩ người ta cung ứng một giáo lý lành mạnh, nhắm tẩy trừ ảnh hưởng này khỏi tâm trí của các giáo sĩ; nhưng cánh đồng truyền giáo này có lẽ sẽ phải tiếp tục lâu dài nếu đã không có Don Bosco. Ngài hành động nhưng không gây nên tranh luận. Cách cá nhân ngài đã giải quyết được vấn đề về sự thường xuyên rước lễ, thừa tác vụ của ngài phản chiếu một suy tư rõ ràng về vấn đề này.

Đoạn văn sau đây trong “Hồi sử” để lại cho chúng ấn tượng: “Bắt đầu năm thứ hai triết học, một ngày nọ đi viếng Mình Thánh Chúa và không có sách kinh, tôi liền đọc cuốn Gương Chúa Giêsu, đọc mấy mục về Bí tích Thánh Thể”. Tôi bị đánh động bởi “sự cao vời của các suy tư” và bởi “sự sáng sủa cũng như do thứ tự và lưu loát trong cách trình bày những chân lý vĩ đại”, từ đó ngài say mê cuốn sách vàng này, và cuốn sách trở thành một trong những bài đọc được ưa chuộng của ngài.

Ngài đọc đi đọc lại phần nói về Bí tích trên bàn thờ, nhất là tiết thứ hai của mục thứ mười, trong đó đang khi biết rõ đâu là các hiệu quả của việc rước lễ, tác giả coi như là kẻ thù, việc tỏ ra điệu bộ để lôi kéo các tín hữu và các người đạo đức, tức là không chỉ các tín hữu đơn sơ, mà cả những linh hồn đạo đức và thánh hiến cho Thiên Chúa.

Quả là tai họa lâu đời cho Giáo hội, ngài tự nói với mình, thứ bệnh dịch giả hình của ma qủy! Còn hơn nữa, say sưa với sự ngọt ngào của cuốn sách, nó biến thành sự sống của ngài, khiến ngài khao khát trở thành người truyền bá việc rước lễ cho giới trẻ trên khắp thế giới. Ngài muốn truyền bá Thánh Thể giữa giới trẻ; và để không xây dựng uổng công, cần phải đưa giới trẻ từ những hoạt động đến với bàn tiệc Thánh Thể, đưa càng nhiều giới trẻ và càng thường xuyên càng tốt, đồng thời phải làm cho dân chúng quen nhìn thấy lối thực hành này. Và Don Bosco đã thực hiện điều này.

Gặp nhiều phê bình nhận xét từ nhiều người, nhưng Don Bosco không mất thời giờ để tranh cãi với họ. Ngài chuẩn bị lớp lớp những trẻ em rước lễ lần đầu, gia tăng cho rước lễ ngày thường, lập các hiệp hội với mục đích làm cho các thành viên có thói quen rước thường xuyên hằng ngày, và ngài dành biết bao giờ để giải tội cho các nhóm rước lễ này. Chỉ mình Chúa mới biết được mức độ hy sinh của Don Bosco để cổ võ một cách hiệu lực các thiếu niên tới bàn thánh thường xuyên. Ngài đã cảm nghiệm được niềm vui trào dâng khi nhìn thấy những hàng dài bất tận thiếu niên tới bàn thánh rước lễ. Một người sống tinh thần yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể còn có được niềm vui nào lớn hơn điều này chăng?

Chương này còn sẽ thiếu một yếu tố quan trọng, nếu chúng ta không bàn đến cách thức Don Bosco giải tội trong những năm này. Trong đời sống thiêng liêng, việc chọn một vị giải tội tốt là điều kiện thông thường để có thể tiến bộ.

Thánh Bernardo giải thích điều này khi nói: lấy chính mình làm thầy dạy mình là tự biến mình thành đồ đệ của một kẻ ngu ngốc. Vị thánh tiến sĩ viết không phải cho một tập sinh, nhưng cho một giáo sĩ; còn hơn nữa, ngay trong bức thư đó ngài khẳng định giáo thuyết này bằng chính kinh nghiệm của mình: “Tôi không biết người khác nghĩ gì về chính mình trong vấn đề này; tôi nói dựa theo kinh nghiệm, tôi thấy an tâm và dễ dàng khi phải ra lệnh cho người khác hơn là khi phải hướng dẫn chính mình”.[37]

Cha Scaramelli, một bậc thầy về hướng dẫn thiêng liêng, dựa vào thẩm quyền của thánh Basilio, khẳng định rằng: “sau cái khao khát đầu tiên sống trọn lành và sau những quyết định làm ra để theo đuổi, phương thế cần thiết nhất để có những tiến bộ trong hành trình thiêng liêng đó là việc chọn một vị hướng dẫn tốt”.[38]

Don Bosco đã từ lâu tỏ ra hiểu sự cần thiết này, nên khi vừa chuyển đến ở Torino, ngài đặt mình dưới sự hướng dẫn của chân phước Cafasso, hằng tuần đi bàn hỏi với ngài. Don Bosco tìm ngài ở trong nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, tại tòa giải tội, nơi các hối nhân đợi phiên mình. Qùy gối xuống đất gần một cái cột, dọn mình, đợi để cha giải tội thấy mình. Cha giải tội không để Don Bosco không phải đợi lâu, ngài vén màn lên, ra hiệu; và Don Bosco trong cử chỉ hơi cúi đầu và đạo đức tiến lại tòa giải tội, quì gối, xưng tội trước sự hiện diện của nhiều hối nhân khác. Qủa là một thầy và một đồ đệ thánh thiện.

Chương VII

THỜI KỲ SÁNG LẬ

Trong thời kỳ này tên tuổi của Don Bosco được nhiều nơi trên thế giới biết đến. Các toà báo đủ mọi loại, các tác phẩm nhỏ, các bức hình được người ta tìm kiếm chuyền tay, các cuộc học hỏi, nói tóm lại tiếng tăm ngài phổ biến vì các công cuộc của ngài. Chưa có vị tông đồ nào lại có nhiều phương tiện quảng cáo cho công cuộc của mình như ngài.

Những thành công đến phiên chúng lại đem vinh quang cho công việc, khẳng định cho những ý kiến cho rằng ngài là một vị thánh hoặc là một vĩ nhân. Người ta thêm rằng chính ngài đã làm tiếng tăm mình ra tầm mức hoàn vũ để quảng bá sứ mệnh của mình, ngài ngỏ lời, viết cho mọi hạng người và quốc gia láng giềng trong nhiều ngôn ngữ. Chủ trương khiêm tốn yên lặng không phải là phương pháp làm việc của ngài. Không thiếu người coi đó là gương xấu: nhưng gương xấu này không đáng kể, đến độ chính những người kiểm duyệt lại phải học phương pháp của ngài.

Chúng ta có một nhận định của Don Cafasso vào năm 1853 trình bày các sự việc trước các vị giáo sĩ có tiếng giỏi giang đang than phiền về Don Bosco. Nhận định này vượt lên những vấn đề vặt vãnh nhỏ bé được nêu ra. Vị linh hướng của Don Bosco nói: “Chắc hẳn các vị biết Don Bosco rất rõ? Đối với tôi, càng tìm hiểu về ngài, tôi càng không hiểu gì! Tôi chỉ thấy ngài là người rất đơn sơ và lại rất phi thường, khiêm nhường mà lại vĩ đại, nghèo khó và bận rộn trong biết bao kế hoạch quá lớn dường như không thể thực hiện, thế mà đã trải qua tất cả, nên tôi phải nói rằng tôi không thể hiểu, sao ngài lại thành công qúa xa như thế. Đối với tôi Don Bosco là một mầu nhiệm! Nhưng điều tôi chắc chắn là ngài làm việc vì vinh danh Thiên Chúa, Thiên Chúa hướng dẫn ngài, chỉ mình Thiên Chúa mục đích của mọi hành động của ngài”.

Chúng ta có thể hiểu chân phước Cafasso là người thận trọng; nhưng khi tiếng tăm về Don Bosco như là một vị thánh đã quá phổ biến, ngài chẳng cần phải giữ yên lặng nữa. Tuy nhiên tiếng tăm đang khi đến tai những người ở xa, không luôn luôn được nhận ra trước mắt những người ở gần vì thực tại nhỏ bé của nó. Đúng như một châm ngôn của chúng ta nói rằng sự thân cận làm mất sự kính nể (gần chùa gọi bụt bằng anh), hoặc như người Pháp nói: “chẳng có ai vĩ đại khi đứng truớc người giúp việc của mình”.

Nhưng đây là cái riêng biệt của Don Bosco: tất cả những ai biết ngài, họ đều đồng thanh làm chứng rằng càng gần gũi với ngài, họ càng xác tín rằng ngài thực sự là một vị thánh. Chính những người này, do nhiều năm sống với ngài, có tất cả cơ hội để tra cứu trực tiếp mức độ mạnh mẽ đời sống nội tâm của ngài, cảm thấy kính trọng gần như tới mức tôn kính (culto) ngài.

Chúng ta không nên để sự thân quen làm chúng ta coi thường sự ưa thích của những người chúng ta chưa biết, giảm lược tiếng nói của dân chúng vào tầm mức qúa nhỏ bé. Ngày nay, bất cứ ai không là người phàm tục đều biết hai điều về đời sống thiêng liêng: chẳng có sự thánh thiện nào có thể hình thành và tồn tại, nếu không tỏ ra như một con người cầu nguyện; và để mất tín nhiệm vào người đó, không cần chi nhiều, chỉ cần nhìn thấy người ấy làm dấu thánh giá một cách cẩu thả là đủ.

Don Bosco sống trong tầm mắt của rất nhiều người, bởi thế các điều ngài làm đều có thể được dò xét bởi những người quan sát biết điều cũng như những người bất cẩn; nhưng tại Nguyện xá ai cũng nhìn nhận có một lòng đạo đức đích thực. Tinh thần cầu nguyện nơi Don Bosco là của một thủ lãnh tốt với tinh thần gan thép, đang khi nơi một nghệ sĩ hoặc một nhà khoa học đó là tinh thần của sự quan sát: một dự thế thường hằng của linh hồn, khiến dễ dàng, vững bền và thích thú để thực hiện.

Trong số các em lớn lên tại nhà của Don Bosco cần phải đề cập đặc biệt tới những em, ban đầu được chính ngài từ từ huấn luyện, rồi trở thành cộng tác viên của ngài, sau đó thành những viên đá nền móng của Tu Hội Salêdiêng. Chúng tôi biết những người đó, họ khác nhau về tài năng và văn hóa, họ khác nhau về khả năng; nhưng nơi tất cả đều có những nét chung mà sẽ tạo thành những đường hướng cho một sự khởi nguồn.

Bình thản trong cách ăn nói và hành động; có những cung cách thể hiện của tình cha; và nhất là, liên quan đến đề tài của chúng ta, có lòng đạo đức, đó là điều được coi là điểm tựa của đời sống Salêdiêng.

Họ cầu nguyện nhiều, cầu nguyện rất sốt sắng; điều quan trọng với chúng ta là họ cầu nguyện và cầu nguyện tốt; dường như họ không phân biệt ra nơi công cộng và nơi riêng tư, mà không có mặt để cầu nguyện. Tuy nhiên, trừ ra trường hợp của Don Michel Rua, một diện mạo đời khổ hạnh cùng với những giây phút thần nhiệm của ngài khiến người ta phải cung kính, những người khác không biểu lộ những đặc ân cầu nguyện phi thường; thật vậy, chúng ta thấy, với lòng đạo đơn sơ chân chính họ chẳng thực hiện những gì hơn với các thực hành do Hiến luật và truyền thống chúng ta đề ra.

Thế nhưng họ luôn chuyên cần trong cách thức tiếp xúc với Thiên Chúa! Và với sự tự nhiên khi nói về những sự cao siêu, họ khơi dậy đức tin! Họ đã sống lâu với Don Bosco, và sự gần gũi này để lại nơi họ những dấu ấn không phai mờ. Có lẽ giống như trường hợp thánh Phaolô tông đồ viết cho tín hữu Corintho: anh em chính là lá thư của chúng tôi, được viết trong chính trái tim của chúng tôi, và được mọi người biết và đọc. Thực vậy anh em chính là lá thư của Chúa Kitô do chúng tôi sáng tác, không phải bằng mực nhưng bằng Thần khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải trên những phiến đá, những trong trái tim bằng thịt của anh em.[39] Ai muốn biết tinh thần cầu nguyện của Don Bosco như thế nào, thì đây hãy nhìn xem các môn đệ của ngài, giống như lá thư đích thực của ngài, nơi đó họ sẽ thấy ngài ngỏ lời.

Khi nêu lên vấn nạn về phẩm chất việc cầu nguyện, người ta bàn cãi về giờ giấc và tâm trí Don Bosco, đặt nó trong bối cảnh của bao hoạt động không mệt mỏi của ngài. Sự thiếu vắng những hình thức lớn lao bên ngoài như người ta thường thấy khi các thánh cầu nguyện, không thể phủ nhận được nơi Don Bosco tinh thần cầu nguyện ngay cả trong những khi bận bịu nhất trong đời ngài. Trong tâm hồn ngài sự hiện diện của Thiên Chúa đã ăn rễ qúa sâu, làm sao một khối các công việc lại có thể cản trở ngài gặp gỡ thường hằng và thân tình với Thiên Chúa. Hơn nữa sự cảm nghiệm Thiên Chúa luôn hiện diện khiến cho ngài luôn tỉnh thức và hoạt động chỉ vì một mục đích duy nhất là phục vụ Thiên Chúa. Cũng chính sự hiện diện của Thiên Chúa trở thành nguồn đem lại sự vui tươi giữa một đại dương công chuyện; tất cả mọi hoạt động của ngài không làm gì khác hơn là tìm cách thực hiện một cách hoàn hảo ý Thiên Chúa.

Bởi thế, khi viết cho một linh mục đạo đức để xin ngài giúp một tay điều hành cơ sở đông đúc học sinh của mình, Don Bosco dùng lời khôi hài theo kiểu các thánh: “Xin đến để giúp tôi có giờ đọc kinh phụng vụ”.

Chuyển từ việc này sang việc khác không nghỉ ngơi, đối với Don Bosco giống như đọc kinh liên tục, bởi vì trong mọi sự ngài làm, Don Bosco luôn ngợi khen Thiên Chúa, tận tâm tìm thực hiện ý Ngài. Trong thực tế, cuốn sách kinh mà người linh mục phải giở để đọc, ngài nói rằng ngài cũng giở nó ra như phải làm các hoạt động tông đồ khác trước mặt Thiên Chúa trong tinh thần cầu nguyện vậy. Hình ảnh này gợi nhớ lại thánh Augustino. Vị đại tiến sĩ muốn người tín hữu biến toàn bộ cuộc sống của mình thành bài ca ngợi khen vinh quang Thiên Chúa: đừng ca ngợi Thiên Chúa chỉ bằng miệng luỡi mà thôi, nhưng bằng cả thánh vịnh của các việc làm của đôi tay nữa. Vâng, đây chính là cuốn sách kinh của Don Bosco.

Đúng ở điểm này người ta đọc diễn từ của Đức thánh cha Pio XI ngày 19 tháng ba năm 1929 trong sắc lệnh nhìn nhận các phép lạ của Don Bosco và trong diễn từ có một kỷ niệm cá nhân. Đức thánh cha nói rằng ngài đã có một vài ngày với Don Bosco, dưới cùng một mái nhà, cùng một bàn ăn, vui hưởng ở đó nhiều lần niềm vui vì có thể nói chuyện với vị Đầy tớ Chúa, dẫu rằng luôn bận rộn, ngài có một đặc tính khiến người ta có ấn tượng khó quên: “vô cùng thanh thản, hoàn toàn làm chủ thời giờ, và lắng nghe tất cả mọi người tìm gặp ngài với tất cả sự bình tĩnh như một người không có việc gì khác phải làm”.

Nếu muốn kể lại tất cả các sự kiện và nêu ra tất cả các nhân chứng xác minh cho nhận xét này, có lẽ sẽ phải viết một cuốn sách rất dầy. Nhận xét này liên quan không chỉ đến chuyện làm chủ thời giờ, mà ngay cả làm chủ mình trước sự bất tiện nữa; bởi vì chính sự bình thản và điềm tĩnh giúp ngài đứng vững trước những chướng ngại, trước những khó khăn và những sự không may, dù có nghiêm trọng đến mấy cũng không làm ngài nao núng.

Kỷ niệm còn rất sống động đối với chúng ta lời mà người kế vị thứ nhất của Don Bosco thường hay lập lại, đó là khi cha chúng ta tỏ ra vui và hài lòng hơn thông thường, thì các cộng tác viên thân nhất của ngài thường nói nhỏ với nhau: “Hôm nay chắc chắn Don Bosco gặp phải chuyện gì khó khăn nghiêm trọng, bởi vì ngài tỏ ra vui hơn bình thường”. Don Rua trình bày trong án phong thánh: “Trong những hoàn cảnh như vậy, sức mạnh của ngài là kinh nguyện”. Thực vậy, ngoài chứng từ này, không có một giải thích nào thỏa đáng.

Vị tác giả đạo đức của cuốn “Gương Chúa Giêsu” cho thấy sự bình an và sự điềm tĩnh trong tinh thần chỉ xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất, đó là sự phó thác mình cho Thiên Chúa. Ngài làm cho trái tim thanh thản, bình an và tràn trề niềm vui.[40]

Chứng từ đẹp về sự kết hiệp thường hằng với Thiên Chúa đó là ngài cảm thấy dễ dàng nói về Thiên Chúa với những tâm tình chân thực. Con cái ngài nhớ tới câu ngài thường thốt ra: “Chúa tốt dường nào, Ngài chăm sóc chúng ta!”. Thiên Chúa là người cha tốt lành, không để chúng ta bị thử thách qúa sức chúng ta. Thiên Chúa là một ông chủ tốt, không để ai mất phần thưởng dù chỉ cho Ngài một ly nước lã vì yêu. Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến Ngài! Hãy xem Chúa đã tỏ ra tốt với chúng ta dường nào! Ngài đã tạo dựng tất cả cho chúng ta, đã lập bí tích Thánh Thể để ở với chúng ta, mọi lúc Chúa đều đổ tràn ân lành cho chúng ta! – Khi nói về việc phục vụ Thiên Chúa vì Ngài là người cha tốt lành, hẳn rằng phải sẵn sàng làm một hy sinh nào đó. Các con hãy nhớ rằng đức tin không có việc làm là đức tin chết – Chúng ta hãy làm hết những gì có thể để vinh danh Chúa hơn!”. Cả những bận rộn trong những vấn đề vật chất cũng không làm ngài đánh mất sự dễ dàng nói về Chúa.

Don Rua nói: “Đôi lúc, trời đã khuya khi chúng tôi đưa ngài đi nghỉ, ngài dừng lại ngắm bầu trời đầy sao, ngài miên man, quên hết mệt nhọc, nói về sự vô biên, sự toàn năng và khôn ngoan của Thiên Chúa. Những lần khác ra ngoài miền quê, ngài làm cho chúng tôi biết chiêm ngắm vẻ đẹp của những cánh đồng và cỏ cây, sự đầy tràn và phong phú của các loại, và như thế ngài nói về sự tốt lành và sự quan phòng thần linh, đến độ ngài thường thốt lên như những môn đệ trên đường Emmaus: Lòng chúng ta đã chẳng cháy lên khi Ngài cùng đi và nói chuyện với chúng ta sao? Cũng một sự dễ dàng tương tự ngài tỏ ra đối với những người lạ mặt, lúc trong nhà cũng như khi ở ngoài, dù họ là những người khiêm tốn hay tự đắc, dù là giáo sĩ hay giáo dân. Ở Marsiglia trong nhà một bà ân nhân có uy tín, đưa cho bà bông hoa pensée ngài nói với bà: “Thưa bà, tôi muốn cho bà một suy tư về sự vĩnh cửu”. Có bông hay không, ngài không bao giờ quên để lại những suy tư tương tự cho người gặp ngài. Một trong những phương châm của ngài là: “Linh mục không bao giờ tiếp xúc với ai mà không để lại cho họ một suy tư tốt”.

Một chứng từ khác nữa về sự kết hợp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa đó là sự dễ dàng và thích thú nói về thiên đàng. Hồng y Cagliero khẳng định rằng Don Bosco “nói về thiên đàng với tất cả sự sống động, thích thú, khiến cho người nghe cảm thấy yêu thích”. Ngài nói về nó như người con nói về nhà của cha mình; ước muốn ở với Thiên Chúa thì mạnh hơn mong muốn phần thưởng Ngài hứa”.

Khi nghe những lời ca thán về các khó khăn, vất vả, bổn phận, ngài khích lệ họ: “Con hãy nhớ rằng con đau khổ và cực nhọc cho một ông chủ tốt bụng là Thiên Chúa. Con hãy làm việc và chịu đau khổ vì yêu Chúa Giêsu, Đấng đã cực khổ và đau khổ vì con. Chỉ cần một chút thiên đàng cũng đủ chỉnh đốn tất cả những điều này”. Đối với người tỏ ra bực bội và có thái độ thù nghịch, ngài trả lời: “Những điều này, không có trên thiên đàng! Những đau khổ trong cuộc sống này chỉ mang tính tạm thời, còn niềm vui trên thiên đàng thì vĩnh cửu”.

Một ông nhà giàu có hạng kia vốn chẳng tin tưởng gì, một hôm đến thăm Don Bosco vì tò mò, trước khi chia tay ngài nói với ông: “Chúng ta hãy làm sao đến một ngày ông cùng tiền bạc của ông và tôi cùng với sự nghèo khó của tôi chúng ta có thể gặp nhau trên thiên đàng”. Khi nghe nói tới kỳ nghỉ mùa thu, ngài hay lập lại khẩu hiệu này: “Chúng ta sẽ nghỉ ngơi trên thiên đàng”. Sau những mệt nhọc vì công việc từ thành phố trở về, người ta nói ngài nghỉ một chút trước khi đi ăn hay đi giải tội, ngài trả lời: “Cha sẽ nghỉ trên thiên đàng”. Sau những cuộc tranh luận dài, ngài kết thúc: “Trên thiên đàng sẽ không còn những đối kháng, tất cả chúng ta sẽ có cùng một suy nghĩ”.

Ngài thường kêu lên: “Thích biết bao, khi tất cả chúng ta ở trên thiên đàng! Chỉ cần sống tốt là đủ, không phải sợ chi! – Mà các con tin rằng Chúa dựng nên thiên đàng để rồi để nó trống rỗng ư? Nhưng nhớ nhé thiên đàng phải trả giá bằng hy sinh”. Đối với một nhà thần học giàu có có tiếng tham lam kia, ngài say sưa nói về thiên đàng, đến nỗi ông ta chạy đến két sắt, lấy mấy lá vàng và trao chúng cho Don Bosco trong một cử chỉ hết sức thân thiện.

Một ngày nọ, đang khi ăn ở ngoài với một số linh mục, người ta thích thú bởi sự tốt đẹp của một số thành qủa đạt được trong bàn ăn, ngài bắt đầu nói về thiên đàng cách hăng hái, đến nỗi các vị đồng bàn ngừng ăn say mê lắng nghe. Một người trong số đó khẳng định rằng: “Nếu có ai lúc đó hỏi ngài: – Don Bosco, chúng ta đang ở đâu đấy? hẳn ngài sẽ trả lời: – Chúng ta đang ở trong thiên đàng”. Thánh Augustino nói: niềm khao khát thiên đàng chính là sự kéo dài của kinh nguyện.

Chứng từ khác về sự thường hằng kết hợp với Thiên Chúa đó là sự luôn dễ dàng nói ra lời tốt lành. Đấng kế vị thứ hai của Don Bosco nói rằng ngay cả trong những trường hợp bất ngờ, phải lo vê chuyện gì đó, dường như ngài cắt đứt cuộc đàm thoại với Thiên Chúa để tiếp chuyện và lấy từ Thiên Chúa những suy nghĩ và sự khích lệ”. Về sự dễ dàng nói về Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn, có rất nhiều thí dụ; nhưng chúng ta giới hạn ở đây với một nhà viết tiểu sử đặc biệt mà thôi.

Các linh mục của Nguyện xá, nhất là các bề trên, thường đến với ngài để xưng tội trong các giờ dành để giải quyết các vấn đề trong ngày và các công việc vật chất. Tuy thế, Don Bosco luôn luôn nghe xưng tội với cùng những tâm tình và sự hăng say, như thể ngài vừa mới làm lễ xong.

Giống như khi nói cũng như thế ngài làm. Khi nghe ngài nói, người ta cảm thấy một thường xuyên tiếp xúc với Thiên Chúa; khi ngài làm người ta thấy một linh mục nhiệt thành. Nhiệt thành có nghĩa là một sự hăng hái trong tâm hồn, và trong ý nghĩa Kitô giáo nó được thánh Ambrogio đưa vào khi ngài dịch chữ fidei vapor và devotionis fervor. Lòng nhiệt thành vì thế có nghĩa là sự phát ra ngoài cái đức tin bên trong: một đà lực của lòng đạo đức hướng tới Thiên Chúa, đà lực mà tự nó nung nấu và phát ra sức nóng và sức mạnh. Tuy nhiên, lòng nhiệt thành không phải là sự nhiệt tình, nghĩa là sự hứng khởi khác thường mà rồi sẽ cạn kiện. Lòng nhiệt thành có một nhãn giới cao hơn, hoạt động liên lỉ và tiệm tiến, dù có bất cứ cản trở nào từ phía con người hay sự vật.

Lòng nhiệt thành của Don Bosco rập khuôn theo lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu, nung đốt bởi vinh quang Thiên Chúa qua hoạt động cứu rỗi các linh hồn và chiến đấu chống tội lỗi; cách thức của nó là luôn dùng đến lòng tốt để chinh phục trái tim mọi tâm hồn. Các thanh thiếu niên của Nguyện xá hạnh phúc, chúng diễn tả trong một câu cho thấy đức tin và lòng đạo đức của nơi chúng ở: “Don Bosco giống Chúa”.

Qua lời này chúng ta hình dung ra Don Bosco là người hoạt động, đi lại, làm việc với chân trên đất, với đôi tay làm việc, và với đôi mắt đăm nhìn ánh sáng từ trên cao, soi sáng toàn thể con người và toả chiếu trong suốt cả cuộc đời.[41] Ở điểm này cần phải tìm kiếm nơi chính Don Bosco trước khi tìm vào những công cuộc của ngài.

Thánh Bonaventura phân biệt ba loại kinh nguyện, chung, riêng và trải dài; ngài khuyên đặc biệt các bề trên, là những người vốn có nhiều công việc, về kinh nguyện thứ ba này. Kinh nguyện trải dài đòi hỏi ba điều: thứ nhất luôn hướng suy tưởng lên Thiên Chúa giữa các lo lắng; tiếp đến linh hồn phải luôn tìm kiếm tôn vinh Thiên Chúa; thứ ba thỉnh thoảng âm thầm dâng lên tâm tình cầu nguyện. Theo nghĩa này, từ dấu thánh giá cho tới thánh lễ, từ những phương châm sống cho tới những bài giảng, từ những việc nhỏ trong nhà cho tới những công việc to lớn, mọi hành động của Don Bosco đều thấm nhập lời kinh nguyện; tuy nhiên trong những công việc lớn, tinh thần cầu nguyện này trở thành một sức mạnh thúc đẩy ngài hoạt động vì vinh quang Chúa.

Trước khi bắt đầu để tâm vào sâu trong bất cứ hoạt động nào, ngay cả khi phải tính toán xem có hay không các phương tiện cần thiết, ngài luôn canh chừng mình khỏi kiểu tính toán khôn ngoan thuần tuý nhân loại. Ngài nói: “Tôi luôn tuân theo tiêu chuẩn này trong mọi công việc của tôi. Trước hết tìm xem công việc đó có vì vinh danh hơn cho Thiên Chúa và ích lợi cho các linh hồn không. Và nếu đúng như thế, tôi tiến tới trong sự vững tâm rằng Thiên Chúa không bao giờ để thiếu sự trợ giúp của Ngài; còn ngoài ra nếu thấy rằng điều tôi tưởng nghĩ ra đó, hoặc điều tôi tin đó có ra mây khói, tôi hoàn toàn hài lòng”.

Ngài biến đổi điều đó cho mình thành hạnh phúc. Nếu chúng ta muốn biết ngài đã phản tỉnh thế nào, đây chúng ta có chứng từ của một lá thư ngài trả lời cho cha Felice Giordano dòng Tận Hiến Đức Mẹ Đồng Trinh, cha này là người tò mò muốn biết các công cuộc của Don Bosco dù to lớn như thế làm thế nào mà tiến triển tốt đẹp được. Don Bosco nói: “Xin cha hãy biết rằng tôi chẳng có vai trò nào cả. Chính Chúa làm mọi sự; khi Ngài muốn cho thấy một công cuộc là của Ngài, thì ngài sử dụng công cụ không thích hợp. Đó chính là trường hợp của tôi. Nếu Ngài tìm thấy một linh mục nào đó khốn khổ hơn tôi, Ngài sẽ chọn nguời đó để làm, và để Don Bosco thấp kém này làm một cha sở họ lẻ miền quê”.

Thế gian nói về những chuyện của ngài, còn chính ngài thì nói về việc của mình cho thế gian. Ngài mặc họ muốn nói sao thì nói. Ngài thường hay nói: “Người ta tôn vinh công cuộc của Chúa, chứ không tôn vinh việc của con người. Còn nhiều điều kỳ diệu hơn nữa Chúa đã có thể thực hiện, nếu Don Bosco đã có đức tin hơn!” Quy tất cả công lao cho Thiên Chúa là điều rất tự nhiên khi ngài dùng những hình thức quảng bá. Ngài có một tiêu chuẩn thực tiễn đó là: “Thật là phải lẽ khi những người làm việc bác ái biết việc đó kết quả ra sao. Chúng ta sống trong một thời mà thế giới đã trở nên vật chất, người ta muốn thấy và sờ bằng tay; bởi thế hơn bao giờ hết cần phải làm cho những công việc tốt của chúng ta được biết đến, để Thiên Chúa được tôn vinh”.

Trong khi thủ tục phong thánh tại tông tòa có rất nhiều nhân chứng đã chính mình nghe kể những thăng trầm của đời ngài, tất cả họ đều diễn tả cùng một suy nghĩ, rằng khi nói như thế, Don Bosco nghĩ xa hơn chính bản thân mình. Sự xác tín rằng mình là một dụng cụ khiêm tốn của Chúa quan phòng đã nâng đỡ ngài trong những thời khắc cực kỳ tế nhị; bởi vì Thiên Chúa đã cho phép con người phán xét không lập tức luôn thuận lợi về công cuộc thực hiện. Chính thẩm quyền tối cao của địa phận cũng chậm hiểu về Don Bosco, dường như tin rằng sẽ làm tôn vinh Thiên Chúa khi đối kháng lại ngài. Qủa là một chén đắng cho một Don Bosco khốn khổ! Lời than trách duy nhất từ cửa môi ngài thốt ra hoặc do ngòi bút nào đó gán cho ngài trong cơn thử thách đổ máu này cho thấy sự khó chịu vì đã buộc ngài mất nhiều thời giờ, đang khi có thể làm nhiều điều tốt vì vinh danh Chúa, vốn là mục tiêu duy nhất của Ngài.

Một ngày nào đó cuốn bút ký dầy cộm của ngài sẽ chứng minh sự khao khát vô tận của ngài muốn làm vinh danh Thiên Chúa và muốn nhóm lên khao khát này trong lòng các linh mục của hàng giáo sĩ triều và dòng có liên lạc thư từ với ngài, đặc biệt trong lòng con cái ngài. Cho các con cái ngài, đó là những lời cảnh tỉnh đầy tình cha viết trong khung cảnh của lòng đạo đức, ghi dấu về điều này: “Trong những chuyện thiêng liêng, các vấn đề phải được giải quyết để vinh danh Chúa hơn. Công việc, sự ương ngạnh, tinh thần báo thù, lòng yêu bản thân, lý luận, tự phụ và cả danh dự nữa, trong trường hợp này tất cả đều phải hy sinh”. Đây chính là ngôn từ của người đã quen sống giữa con người với tâm trí gắn liền vào Thiên Chúa.

Thánh Phaolô nói rằng mọi người Kitô hữu không phân biệt, tùy theo ơn gọi riêng của mình, có bổn phận tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa.[42] Nếu thế thì sứ mạng của linh mục, thừa tác viên của Đức Kitô, không thể khác với sứ mệnh của Chúa, nghĩa là cứu các linh hồn: Con người đến để tìm kiếm và cứu những kẻ hư mất.[43]

Từ ngày chịu chức thánh Don Bosco không ước muốn là gì khác hơn là linh mục, về các chức vụ khác ngài cũng chẳng ao ước nếu như nó không gắn liền với tính cách linh mục. Ngài không có một tham vọng về một tước vị nào đi trước tên của mình trừ ra chữ linh mục. Ngài cũng không chấp nhận một huy hiệu nào khác trừ ra những cái cho thấy ngài là linh mục. Ngài không nghĩ tới một kiểu nào khác để tôn vinh Thiên Chúa nếu đó không nằm trong sự phục vụ của linh mục. Nói chính xác hơn, đó là những công cuộc làm vinh quang hơn cho Thiên Chúa, điều mà Pseudodionisio nói:[44] việc thần linh nhất giữa các việc thần linh, đó là cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ các linh hồn.

Chính ở điểm này các Salêdiêng lãnh nhận từ Don Bosco giáo huấn thẩm quyền và sẽ trở thành gia sản của truyền thống gia đình. Don Bosco nói thế này: “Một linh mục luôn là một linh mục, và phải chứng tỏ là như thế trong mọi lời nói của mình. Thế nên là linh mục nghĩa là có bổn phận liên lỉ tìm ích lợi của Thiên Chúa, tức là cứu rỗi các linh hồn.

Một linh mục không bao giờ được để ai đến gần mình để rồi ra đi không được nghe một lời nhằm phần rỗi đời đời của họ”. Từ mục đích linh mục này ngài ấn định trong các nhà của ngài, bắt đầu từ ngôi nhà được gọi là nhà mẹ. Ngài giảng cho con cái ngài: “Các con hãy nhớ rằng Nguyện xá đã được lập ra do Đức Trinh Nữ rất thánh vì một mục đích duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Vâng, đó lý do tại sao trong huy hiệu Salêdiêng ghi khắc khẩu hiệu: Da mihi animas. Đây là mệnh lệnh trong cả cuộc đời ngài.

Chúng ta không thể kể lại từng chút cuộc đời của Don Bosco. Giáo huấn của ngài cho các hội viên có chức linh mục nếu thu góp lại thật vô cùng rộng lớn: sự làm việc không mệt mỏi của ngài, các mệt nhọc ngài đã chịu đựng, và các hy sinh anh hùng mà ngài đã trải qua, những lời rên rỉ, ao ước và cầu nguyện của ngài. Vâng, nhất là các lời cầu nguyện, không có điều này ngài đã không thể có sức mạnh để đi gieo giữa biết bao nước mắt, mà cũng đã không thể có được mùa gặt dồi dào.[45]

Một trong các nhà thần học hiện đại nói: “Nơi đâu thiếu đời sống thiêng liêng, hoạt động bên ngoài chẳng gặt hái được gì trừ ra những kết qủa so bại, bởi vì ân sủng của Thiên Chúa không ban xuống để làm phong nhiêu một tác vụ mà trong đó kinh nguyện không có chỗ đứng; vì thế cần phải bắt đầu các công cuộc bên ngoài với tinh thần cầu nguyện…”.[46]

Kẻ thù lớn của Thiên Chúa là tội lỗi, vì nó làm các linh hồn xa khỏi Ngài; nó cũng là kẻ thù của linh hồn vì nó đẩy linh hồn vào hỏa ngục. Don Bosco dấn thân cả đời chống lại tội lỗi. Một đêm nọ ngài không thể ngủ được vì biết rằng một học sinh của ngài đã phạm tội; chiều hôm sau, đứng trên bục cho huấn từ tối, cả con người ngài tỏ ra buồn rầu… Nghĩ về tội trọng nơi những kẻ thuộc về mình, ngài cảm thấy đau đớn tận trong linh hồn,[47] như lời thánh Phaolô khi nhìn thấy dân Athen thờ các ngẫu tượng.  

Khi giảng về sự nặng nề của tội trọng, ngài thường nghẹn vì khóc, đôi lúc ngài không thốt lời ra được, buộc phải ngưng buổi huấn đức; ngay cả trong những cuộc đàm thoại thân tình, khi nói tới sự xúc phạm tới Thiên Chúa, khuôn mặt ngài tái đi và giọng ngài tỏ lộ sự đau đớn. Thậm chí ngài đau đớn về thể lý đối diện với các hành vi tội lỗi, hoặc khi nghe tố giác về những tội nghiêm trọng; cũng thế khi nghe lời lộng ngôn ngài như bị ngất xỉu, và khi ngài nghe xưng tội về sự bất trinh ngài cảm thấy bị tình trạng muốn nôn mửa hoặc như ngửi thấy mùi hôi thối hay ngộp thở.

Một ngày nọ Don Francesia nhìn thấy ngài bất chợt đau đớn nơi hai tai, liền hỏi ngài trong tâm tình con thảo, xem ngài đêm hôm trước có làm việc qúa mức không, và người cha tốt lành đã trả lời rằng ngài đã đi giải tội trong tù nhưng ngài không thể ra việc đền tội được, nên chính ngài làm việc đền tội thay cho các hối nhân. Qủa thực người ta có thể mường tượng tội lỗi đã làm ngài thành vị tử đạo như thế nào; nhưng nó cũng làm cho ngài tăng gấp trăm lần sự nỗ lực, đến độ như ngài nói, nếu có một đạo quân chống lại ngài, ngài cũng không bao giờ đầu hàng.

Khi tội đã xảy ra, nhất là trong trường hợp gây ra gương xấu, nó làm ngài ớn lạnh, khiến ngài thốt lên cách đau đớn: “Ôi, tai hại! Tai hại!”. Tội lỗi mà ngài sợ khiến ngài bất an, vì lẽ đó ngài nói rằng nếu Nguyện xá không còn tương ứng với mục tiêu ngăn cản tội lỗi thì thà nhìn thấy nó bị phá hủy còn hơn. Một trong những tuyên bố cá nhân khá hiếm hoi của ngài được nghe thấy: “Don Bosco là một người tốt bụng nhất trên thế gian này. Các con có thể phá phách, hò hét, nghịch ngợm, ngài sẽ thông cảm với các con, bởi vì các con còn trẻ. Nhưng đừng gây gương xấu, đừng hủy hoại linh hồn các con và linh hồn người khác với tội lỗi, bởi vì ngài sẽ không khoan nhượng đâu”.

Con người cầu nguyện biết biết nại tới những biện pháp mạnh riêng của mình để ngăn cản sự xúc phạm tới Thiên Chúa, những biện pháp mà người khác có lẽ ngay cả không nghĩ ra. Trong nhà của một số người qúy phái kia, có một đứa trẻ năm tuổi làm lật cái xe đẩy mà nó đang chơi, nó liền nổi giận kêu tên Chúa Giêsu một cách bất kính. Don Bosco gọi nó lại với ngài, bảo nó một cách dịu dàng: – Sao con lai kêu tên Chúa một cách bất xứng như thế? – Bởi vì cái xe không muốn đi theo ý con. – Nhưng con không biết rằng không được kêu tên Chúa mà thiếu kính trọng và thiếu lòng đạo đức hay sao? Nói cho cha biết, con có biết các điều răn không? – Biết – Tốt lắm, con đọc cho cha nghe được không? – và đứa nhỏ vâng lời ngài. Don Bosco để nó đọc tới điều thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ, ngài ngưng nó lại và hỏi: – Con có biết không kêu tên Chúa vô cớ nghĩa là gì không? Con à, nó có nghĩa là không cần phải kêu tên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, nếu không có lý do chính đáng và thiếu lòng tôn kính; nếu không chúng ta sẽ phạm tội, nghĩa là làm mất lòng Chúa, đặc biệt là kêu tên Ngài lúc tức giận như con đã làm đó. – Đứa bé đáp lại: – Ba con vẫn kêu như thế! Cha đứa bé đang đứng đó cảm thấy hối hận, liền ngắt lời: – Nhưng từ nay ba sẽ không nói nữa.

Một lần khác, đang khi đợi xe lửa khởi hành, ngài nghe thấy đứa nhỏ con của một công nhân thỉnh thoảng cứ kêu lên: Chistô! Chistô! Ngài vẫy tay ra hiệu gọi nó: – Lại đây, chú bé. Con có muốn cha dạy con phát âm cho đúng không? Này nhé, con bỏ mũ ra và thật chú ý. Người ta đọc là Kitô không đọc là Chistô. Con xem này: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. Chú ý nhé: không phải Chistô mà Kitô.

Tháng năm năm 1860 ngài bị một cuộc lục xét bất ngờ không mấy thích thú. Khi Don Bosco đang mở cửa phòng, một trong ba người thanh tra đọc mấy lời viết trên cửa với giọng diễu cợt: Hãy luôn luôn chúc tụng thánh danh Giêsu và Maria. Don Bosco quay mặt lại, ngăn chặn ông và đọc lại: Hãy luôn luôn chúc tụng thánh danh…, ngài ra lệnh cho cả ba người bằng một giọng truyền lệnh nghiêm khắc: – Hãy bỏ mũ ra. – Nhưng chẳng có ai trong bọn nghe lời. Ngài ra lệnh lần nữa: – Các ông đã bắt đầu, thì phải kết thúc với sự kính trọng xứng hợp. Và ngài ra lệnh cho từng người bỏ mũ xuống. Lần này uy thế người của Thiên Chúa đã áp đặt họ. Bọn họ tỏ ra cung kính. Lúc đó ngài tiếp tục câu bỏ dở: … thánh danh Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.

Đó là những lời nói và sự kiện đó giải thích cho bao điều khác, chẳng hạn, những giờ dài vô tận ngài giải tội; những tấm hình của Đaminh Savio với hàng chữ thà chết chứ không phạm tội; phương pháp giáo dục nhằm ngăn chặn tội lỗi.

Chúng cũng giải thích lý do tại sao trong Nguyện xá có một bầu khí sợ tội, không chỉ là tội trọng mà ngay cả tội nhẹ; tại sao có một tinh thần sửa chữa khiến nhiều bạn trẻ đền bù tội của những kẻ khác không chỉ bằng việc cầu nguyện mà ngay cả bằng sự hãm mình; tại sao luôn có khắp nơi một sự lưu tâm hằng thúc đẩy các em tốt hơn biết canh chừng để ngăn ngừa tội lỗi thấm nhập vào các bạn của chúng.

Điều gây cảm động là trong diễn tiến án phong thánh người ta thấy một sự đồng tâm mà các chứng nhân, giáo sĩ cũng như giáo dân, những người đã từng sống trong môi trường đó, nêu lên về sự nhiệt thành của Don Bosco, không phải với một thứ ngôn ngữ đã cũ kỹ khi gợi lại từ trong trí nhớ những kỷ niệm xưa, nhưng với cung giọng của những người cảm thấy mình còn đang sống những ấn tượng thâm sâu và thân thiết.

Một đoạn văn của thánh Toma sẽ soi sáng cho vấn đề này. Vị tiến sĩ thiên thần lập luận rằng: “Tình yêu của những người bạn hữu có đặc tính này, đó là tìm điều ích lợi cho người mình yêu. Bởi thế khi tình yêu này nồng cháy, nó làm người bị thiêu đốt phải chuyển động, phải phản ứng chống lại tất cả những gì đối kháng với ích lợi của bạn mình; theo nghĩa này người ta nói: ai tìm tòi để ngăn ngừa những gì có thể gây hại, dù là lời nói hay hành vi, cho bạn mình, đó là người thương yêu bạn.

Một cách tương tự người ta gọi là người nhiệt thành đối với Thiên Chúa, những ai dùng hết sức mình để chống lại những gì đối kháng lại danh dự và ý muốn của Thiên Chúa, và chúng ta gọi những người làm hết sức mình để chữa trị những sự dữ hoặc những người phải than khóc vì không thể chịu đựng sự dữ, là những người bị tiêu hao vì lòng nhiệt thành thánh”. Đây là lý do tại sao tội lỗi làm thương tổn và làm đau đớn trái tim của Don Bosco.

Don Bosco cháy lửa tình yêu Thiên Chúa và ngài cảm thấy mọi tội lỗi là một sự xúc phạm đến Chúa của mình. Không ít lần người ta nghe ngài thốt ra những tình cảm tương tự như sau: “Làm sao có thể một người khôn ngoan, tin nơi Thiên Chúa, mà lại để mình xúc phạm tới Ngài như thế được?… Tai sao lại cư xử như thế đối với Chúa?… Nhưng các con thấy Chúa tốt dường nào! Ngài tuôn đổ trên chúng ta ơn lành mỗi ngày. Tại sao lại xúc phạm đến Ngài? Phải nói rằng người xúc phạm đến Chúa, tỏ ra không còn là chính mình nữa”. Những diễn tả như thế thốt ra nơi miệng ngài, nhưng ai là người kể lại cho chúng ta những ấn tượng trong tâm hồn say mến Thiên Chúa của ngài?

Cạnh ngôi nhà sinh trưởng của Don Bosco có một nhà nguyện, đó là một biểu tượng. Chính ngài đã sửa soạn nó vào năm 1848 cho chính mình và cho các thiếu niên, khi thì một mình, khi thì có vài em đi theo ngài từ Nguyện xá về đó vài ngày để hít thở không khí vùng quê sinh trưởng. Nơi đây được giữ lại nguyên vẹn như thưở ban đầu.

Phía tường bên phải, người bước vào nhìn thấy một chiếc ghế mà ngài đã ngồi giải tội; phía trước mặt, ngay chính giữa là bàn thờ, nhà tạm không trang hoàng nhưng chắc chắn để lưu giữ Mình Thánh Chúa; phía trên là bức tranh Đức Trinh Nữ rất thánh. Ba yếu tố chính yếu và hữu hiệu mà Don Bosco dùng để thánh hóa chính mình, các kẻ thuộc về ngài và cho tất cả mọi người: thường xuyên xưng tội, thường xuyên rước lễ, sùng kính Mẹ Maria rất thánh. Mẹ Maria chính là người kêu mời đến với Chúa Giêsu qua bí tích Hoà giải và bí tích Tình Yêu.

Trong một là thư đề ngày 13 tháng hai năm 1863 Don Bosco thưa với Đức Pio IX: “Xin Đức thánh cha hãy theo đuổi ý tưởng mà Thiên Chúa soi sáng trong tâm hồn Đức thánh cha, công bố mọi nơi rằng có thể tôn kính Thánh Thể Chúa và lòng sùng kính Đức Trinh Nữ rất thánh, vốn là hai cái neo của ơn cứu độ cho nhân loại khốn cùng”. Những hoạt động vô kể trong những năm lập các công cuộc quan trọng để lan vào các vùng lân cận và quảng bá tới tận cùng trái đất lòng tôn sùng con thảo đối với Đức Trinh Nữ rất thánh sẽ không có đủ lý do, nếu tự bên trong ngài không có một lòng sùng mộ bừng cháy đối với Mẹ của Thiên Chúa. Thực vậy lòng sùng kính này góp phần rất lớn vào sự đào luyện thiêng liêng của ngài và vào sự phát triển của đời sống nội tâm ngài.

Vị thánh mà Giáo hội gọi là thầy của các bậc thầy về lòng sùng kính Đức Mẹ khuyên chúng ta: hãy nghĩ tới Maria, hãy kêu cầu Maria. Chiêm ngắm Maria, kêu cầu Maria không khi nào tắt trong trái tim và trên môi miệng của Don Bosco; chính nơi đây lòng đạo đức của ngài tháp nhập vào trong truyền thống Công giáo chân chính.

Môi miệng Don Bosco hằng đọc những kinh xưa cũng như kinh mới để tôn vinh Mẹ, nhằm rót vào mọi người sự tín thác con thảo mà trái tim ngài nuôi dưỡng đối với Mẹ. Người ta thấy ngài luôn kêu cầu trong tâm tình con cái đối với Đấng Bảo Trợ từ trời cao, và người ta thường thấy ngài luôn miệng cám ơn cách công khai về những ơn vô số mà Đức Mẹ Phù Hộ đã ban cho ngài. Ngài thốt lên với giọng dịu dàng trong biết bao dịp khác nhau: “Mẹ Maria tốt biết bao!”. Khi được khen ngợi về các công cuộc, Don Bosco đau lòng và nói: “Đám người này không biết Don Bosco là ai cả; người làm tất cả, đó chính là Mẹ Maria Phù Hộ”.

Khi giảng về sự vĩ đại quyền năng của Mẹ Maria, ngài xúc động đến độ bật khóc. Người ta kể rằng ngài thường nhấn mạnh luôn rằng ngài đã không đi một bước mà không chạy tới Mẹ Maria. Để được ơn soi sáng trong những giây phút quan trọng, ngài đã hành hương ít là ba lần tới đền thánh nổi tiếng ở Oropa – Biella.

Trong các thư của ngài, ngài thường luôn dùng câu này: “Xin Đức Trinh Nữ rất thánh gìn giữ chúng ta mãi thuộc về Người”. Kết thúc một bài viết về Đức Mẹ không rõ tác giả, bản in thử này hiện vẫn còn được lưu giữ, Don Bosco để lại dấu ấn của mình trong một lời khuyên bức xúc không phải từ nét viết mà từ con tim của ngài: “ Bạn đọc thân mến, bất cứ bạn ở đâu, làm bất cứ việc gì, bạn có thể chạy tới Đức Trinh Nữ rất thánh bằng lời cầu nguyện. Nhưng hãy tới với Mẹ bằng đức tin, vì Mẹ là người mẹ thương xót hằng muốn và luôn có thể làm điều lành cho con cái ngài. Hãy cầu nguyện với Mẹ bằng trái tim, cầu nguyện kiên trì, và hãy tin chắc rằng Mẹ chính là sự quan phòng của Thiên Chúa cho bạn, là sự cứu trợ khẩn cấp khi bạn có những nhu cầu thiêng liêng và vật chất”.[48]

Người ta kể lại việc Đức Mẹ hiện ra cho thánh trẻ Stanislao Kostka khi truyền lệnh cho ngài gia nhập dòng tên; cũng tương tự Don Bosco thêm vào trong bản in: “Hỡi các Kitô hữu muốn trở thành thân thiết của Mẹ Maria, hãy cầu nguyện với Mẹ bằng trái tim để được ơn thánh hiến mình cho Thiên Chúa. Hãy xin với Mẹ cất các bạn khỏi những nguy hiểm của thế gian; xin Mẹ làm cho các bạn như Mẹ đã truyền lệnh cho thánh Stalisnao, và cho các bạn sẵn sàng vâng nghe. Ơn được kêu gọi vào đời sống tu sĩ là điều mà Đấng đáng kính Carlo Giacinto đã xin Mẹ Maria từ thời còn nhỏ”.[49] Cả hai đoạn văn trích thuật đều là những tâm tình tự phát sống động của lòng đạo đức hướng tới Đức Mẹ.

Như trái tim của Don Bosco cảm thấy hạnh phúc mỗi khi nghĩ về Mẹ Maria, tâm hồn chúng ta cũng vui sướng suy nghĩ về tầm quan trọng của nó, càng ham thích thì càng không quên người khác trong các hoạt động của ngài. Tuy nhiên có những hoàn cảnh trong đó, mặc dù tính tình kín đáo, cảm xúc tự nó bộc phát.

Lá thư của Don Bosco đề ngày 6 tháng tám năm 1863 cho “các học sinh nhỏ rất yêu dấu” bộc lộ một tình cảm dạt dào. Người cha tốt lành mời tất cả chúng chia sẻ với ngài trong tinh thần những cảm nghiệm ngọt ngào mà ngài có khi tin tưởng vào Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Lòng đạo đức của môi trường được thấm nhiễm bởi tinh thần suy niệm của ngài; ngài thấy sung sướng khi được nhìn thấy lòng sốt mến đối với Nữ vương thiên đàng tràn ngập; và cảm thấy cần phải làm cho con cái ngài cảm được chính cái cảm xúc của mình. “Ô, các con thân mến, nếu các con ở trên ngọn núi đó, chắc chắn chúng con sẽ xúc động. Đó là một khu lớn, mà ở trung tâm có một ngôi nhà thờ, người ta gọi đó là Đền thánh Oropa. Nơi đây luôn luôn có người lui tới kính viếng. Người thì đến tạ ơn Đức Trinh Nữ vì các ơn đã nhận được, người thì xin ơn để thoát khỏi một sự dữ tinh thần hay vật chất, người thì cầu nguyện để được bền đỗ trong đường ngay lành, người thì xin cho được ơn chết lành. Tại đó người ta thấy liên lỉ từng đoàn người, già có trẻ có, giàu có nghèo có, nông dân có qúi tộc có, công tước bá tước có dân lao động có, thương gia, đàn ông đàn bà, cha xứ, học sinh, các tầng lớp đều có, đến xưng tội và rước lễ rồi sau đó đến chân tượng Mẹ Maria rất thánh thành tâm khẩn cầu”.

Tuy nhiên niềm vui của ngài cũng pha với nỗi buồn, bởi vì ngài không được vây quanh bởi đám con cái như tại Nguyện xá, để dẫn chúng tới tỏ lòng tôn kính với Mẹ diễm phúc. “Thế nhưng giữa dòng người này, trái tim cha cảm thấy buồn. Vì sao vậy? Bởi vì không nhìn thấy các bạn trẻ học sinh yêu dấu của cha. Đúng vậy, sao cha lại không thể có các con yêu qúi ở đây để dẫn tất cả tới chân Mẹ Maria, để dâng chúng cho Mẹ, để đặt chúng dưới sự bảo vệ quyền thế của Mẹ, để làm cho chúng trở nên như Đaminh Saviô hoặc như thánh Luigi nhỉ?”.

Trước sự tiếc xót vì không thể tôn vinh Mẹ một cách long trọng cùng với con cái mình, Don Bosco tìm được sự nâng đỡ trong lời hứa khi cầu nguyện. “Để tìm lại sự an ủi cho lòng mình, cha đã tới bàn thờ Mẹ và đã hứa rằng, khi về đến Torino, sẽ làm những gì mình có thể để nung đốt nơi trái tim các con lòng sùng kính Mẹ Maria. Và phó thác mình cho Mẹ, cha đã xin ơn đặc biệt này cho các con. Cha đã thưa: – Lạy Mẹ Maria, xin chúc lành cho tất cả nhà của chúng con, xin đẩy xa trái tim của các bạn trẻ bóng tối tội lỗi; xin Mẹ là người hướng dẫn các học sinh, xin hãy trở nên là tòa Đấng khôn ngoan cho chúng. Xin cho chúng thuộc về Mẹ, thuộc về Mẹ luôn mãi, như những đứa con nhỏ và như những người yêu mến Mẹ. – Cha tin rằng Đức Trinh Nữ rất thánh nhận lời cha và cha mong rằng các con giúp cha một tay, để chúng ta có thể đáp lại lời Mẹ Maria, đáp lại ơn thánh Chúa”.

Sau cùng trái tim Don Bosco yên hàn trong niềm tín thác như thể thấy rằng Mẹ Maria đã nhận lời, từ trên ngọn núi Oropa đã giơ tay chúc phúc cho Nguyện xá Valcocco thân yêu, đã trải khăn choàng để bảo vệ tất cả những ai cư ngụ trong đó. “Xin Đức Trinh Nữ rất thánh Maria chúc lành cho cha, cho tất cả các linh mục, tu sĩ và mọi người đang làm việc vất vả cho ngôi nhà chúng ta, và cho tất cả các con. Từ trời, xin Mẹ phù giúp chúng ta, và chúng ta phải làm mọi sự để xứng đáng được Mẹ che chở khi sống cũng như khi chết. Amen”.

Từ nơi đền thánh trở về, với đôi mắt nhìn về tương lai, Don Bosco mấp máy đôi môi trong sự tín thác: Tôi hướng mắt nhìn lên rặng núi, nơi ơn cứu độ sẽ đến với tôi.[50] Lúc này ngài sắp sửa xây dựng đền thánh Mẹ Phù Hộ.

Don Bosco đã có một ý tưởng gây kinh ngạc về đền thánh này. Ngay chính giữa, phía trên cao, Mẹ Maria rất thánh ở giữa thiên thần; gần chung quanh Ngài là các thánh tông đồ, các thánh tử đạo, các tiên tri, các thánh trinh nữ, các thánh hiển tu; phía dưới, các chiến thắng của Mẹ Maria và các dân tộc cầu khẩn. Ngài thi vị hóa họa đồ với rất nhiều lời và nét đặc sắc, như thể ngài đã nhìn thấy thực sự. Người hoạ sĩ bảo với ngài rằng trong một khoảng nhỏ như thế không thể vẽ được từng đó các nhân vật; nhưng ý tưởng của Don Bosco và cách ngài trình bày cho thấy ngài muốn đó là một chủ đề suy niệm, và phải diễn tả sự thân thiết của một người sùng mộ và cổ võ không mệt mỏi cho vinh quang của Mẹ.

Chương VIII

TRONG NHỮNG LÚC GIAN TRUÂN

Tất cả những ai đẹp lòng Thiên Chúa, đều đã trải qua những nỗi gian truân mà vẫn giữ được lòng trung thành.[51] Nhìn từ xa, ai không nghĩ rằng Don Bosco đi giữa con đường trải hoa hồng? Thế mà cuộc đời ngài thực ra được gieo giữa những giai nhọn. Gai nhọn trong gia đình: sự nghèo khổ và chống đối đã cản trở ngài, buộc ngài phải chịu những vất vả khổ nhục và làm cho con đường theo ơn gọi linh mục đầy cay đắng. Gai nhọn khi lập Nguyện xá: thập gía trên vai như từ mọi phía, từ những cá nhân, các cha xứ, từ thẩm quyền thành phố, chính trị và trường học. Gai nhọn còn tệ hơn là từ phía các người tin lành: Với tờ báo Letture Cattoliche mỗi tháng, ngài như sờ thấy một vết thương nhức nhối, đụng tới một cơn giận dữ. Gai nhọn vì thiếu các phương tiện: biết bao thanh thiếu niên trong tay cùng với bao công cuộc thế nhưng không có những phương tiện để có thể tồn tại. Gai nhọn từ chính bản thân: những hy sinh để thích ứng với những triệu chứng đau nhức. Gian truân và gai nhọn do quyền bính giáo phận: sự hiểu lầm, sự chống đối và khác biệt về mục đích.

Việc thành lập Tu hội Salêdiêng qủa là đường Calvario, đến nỗi về những gì đã làm Don Bosco nói: “Công việc đã xong. Nhưng biết bao gian nan! Biết bao khó khăn! Nếu mà bay giờ cha phải bắt đầu, không biết cha có đủ can đảm để bắt tay vào việc không”. Một cuộc tử đạo kéo dài các đau đớn thể lý. Giữ cho mình đứng vững và với sự bình tĩnh để đạt tới mục đích chỉ có thể đối với ai, như lời thánh Phaolo dạy: hướng mắt về Đức Giêsu, Đấng là tác giả và Đấng hoàn thành đức tin, trong niềm hy vọng, mang lấy thập giá không mở miệng nguyền rủa.[52] Chính đây là phần chiến thắng dành cho những người có đời sống nội tâm.

Giờ đây chúng ta hãy quan sát gần hơn những giờ phút kịch tính trong cuộc đời Don Bosco. Thánh Agustino sau khi nói rằng Vịnh gia, giữa những tai họa hứng chịu vì những kẻ gian ác gây ra, đã tìm ẩn thân trong cầu nguyện, cầu nguyện thành khẩn, khuyên chúng ta rằng nếu chúng ta gặp cảnh gian truân tương tự hãy biết cầu nguyện như Vịnh gia. Đó là bài học quan trọng mà các thánh, mà sau Đức Kitô là những bậc thầy chân chính dạy chúng ta trong nghệ thuật chịu đau khổ.

Al Huysmans người viết một bài ngắn nhưng xúc tích về Don Bosco, vì nhu cầu phải rút ngắn, đã dành không đầy một trang về ngày Chúa nhật lễ lá 1846.[53] Một ngày quả là khổ nạn đối với Don Bosco! Bị xua đuổi nhiều lần từ mọi góc trong thành phố, nhưng lại được theo đuổi bởi đoàn chiên ngày càng đông, buộc phải tổ chức trong một cánh đồng ngay cả những gì thông thường người ta làm trong nhà thờ.

Nhưng ngay cả ở đây cũng đến lúc bị giải tán. Không có một sự gia hạn nào; không có một tia hy vọng; mọi sự tìm kiếm đều vô ích. Sự nghi ngờ đối với Don Bosco khiến cho nơi nào Don Bosco tới thì người ta đều đóng cửa lại. Trái tim ngài tan nát. Sau khi giải tội cho đám trẻ tinh nghịch ở bên bờ thưở ruộng, ngài dẫn chúng tới đền thánh Đức Mẹ, cách đó chừng hai cây số. Bao nhiêu tâm tình trong các bài hát, kinh nguyện và ruớc lễ! Thánh lễ đã trợ lực cho ngài; nhưng nỗi đắng cay đâm vào lòng ngài khi thấy lòng đạo đức của con cái đang bao quanh ngài, vì rồi chúng sẽ phải tản mác sau biết bao hy sinh để tụ họp và nối kết chúng lại. Trong bài nói chuyện ngắn ngài ví chúng như những con chim, mà tổ của chúng bị ném xuống đất; thế là bọn trẻ cầu nguyện, cầu nguyện rất nhiều với Đức Me, có lẽ Mẹ đã chuẩn bị để cho chúng một nơi tốt hơn và an toàn hơn.

Buổi chiều hôm đó sinh hoạt giải trí vẫn nhộn nhịp trong cánh đồng; nhưng bên trong Don Bosco đang khóc. Vào lúc hoàng hôn, vẫn chẳng có gì xảy ra; nỗ lực sau cùng để ra khỏi tình thế đã thất bại. Lúc này bản tính tự nhiên bộc phát mạnh mẽ những đòi hỏi của nó, Don Bosco cảm thấy không cầm được tiếng khóc. Quá đau khổ, người ta thấy ngài lánh mặt đi một mình, tràn trong nước mắt, cầu nguyện lớn tiếng. Các em lớn, vốn đã hiểu các thói quen của ngài, cảm thấy không an tâm nhìn thấy ngài trong đau khổ như thế nên đã theo ngài. Chúng nghe thấy lời cầu nguyện đau khổ và trông cậy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa của con, xin thánh ý Chúa được thực hiện, nhưng xin đừng để cho đám trẻ đáng thương này thiếu một nơi nương thân”. Và lời cầu nguyện đã không uổng công; hiệu quả hầu như ngay lập tức. Ngày Chúa nhật sau đó chúng đã có thể vui vẻ mừng lễ Phục Sinh.

Một trong những thiếu niên can đảm ở bên cạnh người cha của chúng trong giờ đau thương đó và đã để lại trong lịch sử của Nguyện xá một cái tên rất thân thương, Giuseppe Brosio, cánh tay mặt của Don Bosco trong hầu hết mọi lúc. Ngòi bút của em đã để lại cho chúng ta tường thuật sau đây.

Một ngày Chúa nhật, khi các hoạt động đã chấm dứt, người ta không thấy Don Bosco trong sân chơi cùng với các thiếu niên. Một sự vắng mặt khác thường như thế không thể nào không bị nhận ra. Cậu Brosio dễ thương kia liền đi tìm ngài, cho tới khi gặp ngài đang ở một mình trong một căn phòng, rất buồn và như đang khóc. Vì Don Bosco vốn thương cậu bé nên trước những câu hỏi nài nỉ của cậu, đã trả lời rằng một em học sinh của Nguyện xá đã xỉ nhục ngài cách nặng nề. Ngài nói thêm: – Đối với cha, điều ấy không quan trọng; nhưng cha đau khổ vì con người vô ơn đó đang hư mất. Brosio cảm thấy trái tim bị thương tổn nên không còn bình tĩnh, cậu nổi giận chạy phóng ra ngoài chạy đi tìm để cho kẻ hỗn láo kia một bài học nhớ đời. Don Bosco đổi nét mặt, vội vàng đuổi theo giữ cậu lại, bình thản nói với cậu: – Con muốn trừng phạt kẻ đã xúc phạm Don Bosco, con có lý, con hãy trả thù kẻ đó cùng với cha, con có đồng ý không? – Có, cậu đáp lại với tất cả sự mạnh mẽ của một đứa thiếu niên đang điên vì cơn giận của mình. Don Bosco dịu dàng cầm lấy tay cậu, dẫn vào nhà thờ, bảo cậu cầu nguyện bên cạnh mình, và cậu ở lại đó cầu nguyện lâu giờ. Bị buộc phải cầu nguyện cho người bạn, chỉ một lát sau cậu đổi từ giận dữ sang yêu mến. Ra khỏi nhà thờ, Don Bosco trong tình cha con nói với cậu: – Con yêu mến, con thấy không, sự trả thù của người Kitô hữu đó là tha thứ và cầu nguyện cho kẻ xúc phạm.

Có biết bao cơ hội, ngay cả đau thương, đã cống hiến cho người của Thiên Chúa cơ hội để thực hành sự cảnh tỉnh thánh thiện. Từ năm 1848 tới 1854 là những năm có nhiều cuộc mưu sát đe doạ mạng sống ngài. Một lần ngài bị nhắm bắn đang khi dạy giáo lý, viên đạn trúng vào tay áo phía bên trái, giữa cánh tay và ngực. Hai kẻ giết mướn, núp trong bóng tối gần công trường Castello để hãm hại ngài nhưng bị dân chúng phát giác.

Hai lần, ngài được gọi tới giường của hai kẻ giả vờ hấp hối, ngài đã phá đổ cái âm mưu giết hại ngài khi đổ ly rượu độc để ám hại ngài. Ba lần ngài thoát khỏi lưỡi dao khi một kẻ chém mướn tấn công ngài. Khi bị đe dọa trong phòng bằng một khẩu súng, ngài chỉ thoát được nhờ mấy thiếu niên vì nghi ngờ mà canh chừng cho ngài. Trên đường tại Moncalieri có lẽ ngài đã bị một cây gậy vào sọ nếu mà sự quan phòng đã không để cho tên hung thủ trượt chân té xuống một rãnh nước gần đó.

Bốn lần nguy hiểm tính mạng khác mà ngài thoát được là nhờ con chó bí ẩn. Những kẻ ra lệnh là những kẻ gian ác thuộc tầng lớp chính trị, thường nấp sau bóng tối và sai phái những bàn tay giết người để tấn công ngài, vì Don Bosco không chịu giải giới trong cuộc chiến của ngài, vì ngài cứ một mực trung thành với Giáo Hội và với Đức thánh cha, nhất là bằng phương tiện là tờ báo Letture Cattoliche. Biết bao nguy hiểm mà người ta gây nên cho ngài đã không làm ngài mất bình tĩnh trong những công việc hằng ngày, đến nỗi trong nhà ít ai biết được những biến động xảy ra cho ngài. Tinh thần nào đã tác động trên ngài trong vùng biến loạn ấy, chính ngài biết.

Năm 1853, có hai người lịch sự kia, sau khi được tiếp tón rất tử tế, trở mặt thô bạo đe dọa bắt ngài phải ngừng in tờ tạp chí, ngài trả lời cách rõ ràng và thẳng thắn: “Khi làm linh mục, tôi đã hiến thân mình vì lợi ích của Giáo hội Công giáo và phần rỗi các linh hồn, nhất là cho giới trẻ… Các ông không biết gì về các linh mục công giáo, nếu không thì đã không giở trò đe dọa này. Hãy biết rằng các linh mục của Giáo hội Công giáo, bao lâu còn sống, họ làm việc tự nguyện cho Thiên Chúa; và nếu khi chu toàn nhiệm vụ của mình họ phải chịu thiệt thòi, họ coi cái chết như một sự may mắn và sự vinh quang cao cả”.

Chúng ta cũng cần biết rõ rằng ngài không bao giờ dùng bạo lực để chống lại bạo lực, bởi vì “sức mạnh của người linh mục hệ tại ở sự kiên nhẫn và trong sự tha thứ”. Thực vậy sau những cuộc gặp gỡ như vậy nếu có ai tìm Don Bosco, sẽ gặp thấy ngài đang cám ơn Chúa và Đức Mẹ, cầu nguyện cho những kẻ tìm hại mình, đặt mình trước mặt Chúa để làm điều lành trả lại cho sự dữ, và tìm lại sự bình thản cho tâm hồn bằng việc gặp gỡ Thiên Chúa.

Những cuộc tấn công có vũ khí cũng đi với những cuộc tấn công tầm thường nhưng lại khá nhiều: đó là của các người cung cấp và của các chủ nợ. Để cho công cuộc đạo giáo và bác ái của mình hoạt động, Don Bosco thường rơi vào trong tình cảnh rất túng quẫn; tuy nhiên chúng không cản trở được ngài rút ra từ trong đức tin sâu thẳm của mình của ăn nuôi dưỡng sự vui tươi và bình an. Ngài nói: “Thiên Chúa là người cha tốt lành, Ngài dự liệu cho chim trời không khí và chắc chắn ngài không quên dự liệu cho chúng ta”. Liên quan đến chính mình và sứ mệnh của ngài, Don Bosco lập luận: “Trong những công cuộc này, tôi chỉ là một dụng cụ khiêm tốn; chính Thiên Chúa là tác giả. Thuộc về tác giả, chứ không thuộc về dụng cụ, việc dự liệu các phương tiện để tiến hành và đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa sẽ làm vaò lúc và theo cách thức Ngài thấy tốt nhất; về phần tôi chỉ cần tỏ ra dễ dạy và khiêm tốn trong tay Ngài”.

Thói quen nhìn mọi sự theo một tầm cao đã khiến ngài một ngày kia trong bài nói chuyện buổi tối nói: “Các con hãy cầu nguyện và ai có thể, hãy rước lễ theo ý của cha nhé. Cha cũng cầu nguyện cùng với các con nữa! ngay cả nhiều hơn nữa. Cha đang trong hoàn cảnh rất khó khăn! Cha đang cần một ơn. Cha sẽ nói cho các con đó là ơn gì”. Vài ngày sau ngài kể lại và bảo rằng có một ông nhà giàu kia đã tới và cho ngài một số tiền vừa đủ, và thêm rằng: “Đức Trinh Nữ rất thánh, hôm nay, chính hôm nay, các con thấy đó, đã chuyển cầu cho chúng ta một tiếng “được” rất thuận lợi. Chúng ta hãy hết lòng cám ơn Mẹ. Lúc này hãy tiếp tục cầu nguyện, và Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta. Nhưng nếu ngôi nhà này roi vào trong tội, thì khốn cho chúng ta! Chúa sẽ không giúp chúng ta nữa. Hãy lưu tâm đẩy xa những cạm bẫy của ma qủi và năng lãnh các bí tích”.

Có những mảnh nhỏ do các thiếu niên nội trú của Nguyện xá viết lại nguyên văn vào mỗi buổi tối, hiện đang được các văn khố của chúng ta lư giữ rất cẩn thận, bởi vì đó là tiếng dội trung thành nhất lời nói của người cha và là một tài liệu quí gía vì cho biết những gì ngài đã xác quyết vào năm 1876: “Chúng ta không có những phương tiện của con người; nhưng chúng ta luôn hướng lên cao”. Nếu điều này không đủ chứng minh, thì bằng chứng tốt nhất cho thấy một con người liên lỉ đặt mình trong Thiên Chúa và luôn có Thiên Chúa trong lòng mình, đó là luôn lấy lại được nghị lực mới,[54] khiến ngài luôn có được sự vững vàng vốn là sự tham dự mật thiết vào sự bất biến dịch của thần linh. Hồng y Cagliero làm chứng: “Trong suốt ba mươi năm, tôi chưa bao giờ thấy ngài tỏ vẻ mất can đảm, khó chịu và bất an vì lo lắng nuôi các thiếu niên”.

Thêm vào sự hung tợn của bạo lực xảy đến và của những lo lắng hằng ngày, còn có những sự kiện đau thương khác giáng trên những tình cảm thân thương của ngài. Trường hợp xảy ra cho ngài trong lễ kỷ niệm thánh Phêrô cũng đủ cho mọi người thấy rõ.

Một trong các lòng yêu mến lớn của Don Bosco luôn luôn là Đức Thánh Cha. Trong thời buổi có bầu khí thù nghịch với chức giáo hoàng, Don Bosco dù chịu bao thử thách, tỏ ra một lòng nhiệt thành hoạt động vì Đức giáo hoàng Roma, điều mà cả hai phía đối kháng đều nhận ra. Nhìn cảnh vị Đại diện Chúa Kitô bị tấn công, lòng yêu mến của Don Bosco bị tổn thương. Thế nhưng Thiên Chúa đã để cho ngài không miễn khỏi nỗi gian truân.

Trong cuộc kỷ niệm trọng thể toàn thế giới, ngài cho in trong tờ Letture Cattoliche số báo về vị Thủ lãnh của các Tông đồ, số báo được phấn khởi đón nhận. Tới lúc, cái không có trở thành có, cuốn sách của ngài được một người nào đó trao cho Thánh Bộ Kiểm Duyệt. Một cú sét nổ trên nền trời bình yên! Rồi ngài nhận được từ văn phòng thánh bộ bản tường trình của một vị Cố vấn: một sự cảnh cáo nghiêm khắc, nặng nề vào ngay tác giả, như thể ngài đã muốn phủ nhận thẩm quyền giáo hoàng bằng những học thuyết sai lầm. Don Bosco đã cầu nguyện nhiều, ngài suy nghĩ lâu và rồi viết một lá thư kính cẩn trả lời.

Đêm trước khi gởi lá thư đi Roma, ngài gọi một trong con cái ngài lại để viết lại một bản; điều này cho phép chúng ta biết được sự việc, nếu không có lẽ nó đã bị chôn vùi trong bóng tối. Trong cái yên lặng của ban đêm, người sao chép xúc động nghe thấy từ phòng bên cạnh tiếng thở và những tiếng nức nở đứt quãng của Don Bosco: những tiếng rên của lời nguyện thống thiết. Đến nửa đêm, ngài nhẹ nhàng mở cửa và bước ra nhìn công việc ra sao: “Con thấy chứ?”. Ngài hỏi. “Có, con thấy Don Bosco bị đối xử ra sao”. Lúc này người cha nhìn vào thánh gía, thốt lên: “Ôi Chúa Giêsu, ngài thấy đó, con đã viết cuốn sách này với mục đích tốt. Ôi, linh hồn con buồn đến chết! … Xin ý Cha được thực hiện! Con không biết làm sao qua khỏi đêm nay. Ôi Giêsu của con, xin đến cứu con!” Don Bosco đã qua đêm đó thế nào chỉ mình Thiên Chúa mới biết được; chúng ta chỉ biết được là vào lúc 5 giờ, thư ký của ngài khi tới bàn làm việc để hoàn tất bản sao chép, đã thấy Don Bosco hoàn toàn bình thản đi xuống để giải tội và dâng thánh lễ; sau đó trông vẻ ngài như một người hoàn toàn khác, với nét sống động vui tươi hiện trên khuôn mặt.

Lời biện hộ được gởi đi. Chính Đức Pio IX đã ngăn chặn việc tố tụng. Trong lúc đó, ngài xem xét lại công việc, sửa lại hai chỗ trong một xuất bản mới. Sóng gió đã qua, nhưng Don Bosco đã lãnh một đòn qúa đau, Lời cầu nguyện khiêm tốn đã giúp ngài lấy được tinh thần tỉnh táo giữa lúc đau buồn, giờ đây biến thành lời tạ ơn Đức Mẹ, vì bầu trời đã trở lại yên tĩnh.

Nhưng đâu là cơn ác mộng kéo dài bốn tháng so với áp lực kéo dài liên tục trong mười năm? Hãy bỏ qua một bên những lời cay đắng, những bút chiến không phải mục tiêu của cuốn sách này. Lịch sử sẽ làm công việc của nó; hơn nữa nó đang làm rồi. Tính anh hùng của sự thánh thiện của Don Bosco bộc lộ trong thời kỳ mười năm này. Đối với chúng ta, có lẽ sẽ là một thiếu sót quan trọng nếu khi bàn về sự kết hợp của Don Bosco với Thiên Chúa mà bỏ qua trong yên lặng nỗi gian truân ngài đã trải qua vốn được coi là nhậy cảm và nhiều người biết. Ở đây, một đàng chúng ta có Don Bosco là người tìm mọi cách để san bằng mọi bất đồng, đàng khác có những người dường như nghiên cứu để tìm cách gia tăng những xung khắc và làm cho sự việc nên đắng cay.

 Mười năm cay đắng qủa qúa dài và có lẽ khiến cho cả Giob cũng phải cảm thấy mất kiên nhẫn. Thế mà người cha tốt bụng luôn luôn tỏ ra hiền lành mỗi khi buộc phải nói về sự gian truân cay đắng đã trải qua, ngài chỉ có một nỗi buồn muốn được diễn tả, điều mà ngài đã viết cho hồng y Nina: “Con đã không xin gì khác, và con sẽ không xin gì khác trừ ra sự bình an và sự bình tĩnh, để có thể thực hiện tác vụ thánh để cứu rỗi các linh hồn đang gặp biết bao nguy hiểm”. Đối với Don Bosco ngài không tìm gì khác ngoài các linh hồn; còn lại, tiếng tăm và lợi lộc không có ý nghĩa gì. Khi chất đầy những cay đắng ngài đã làm gì? Chìm trong kinh nguyện, như lời thánh vịnh, chính là sự nâng đỡ của người công chính bị bách hại.[55] Kiên nhẫn trong gian truân và chuyên cần cầu nguyện, theo như thánh Phaolô, chính là thực hành của các vị thánh.[56]

Trong án phong thánh, chúng ta thấy có ba giòng diễn tả thời kỳ gian truân này như “lửa đã thử vàng nhân đức ngài khỏi mọi cặn bã thế tục, làm cho ngài trổi vượt trong đức tin và trong sự kết hợp với Thiên Chúa”. Liên quan đến những người đã gây ra các thử thách này, Don Rua trình bày: “Tôi biết không dễ gì tha thứ cho họ, thế mà ngài đã cầu nguyện và bảo chúng tôi cầu nguyện cho họ”.

Có một điều mà Don Bosco không khi nào cầu xin, đó là xin khỏi bệnh, dù rằng ngài để mặc người khác cầu nguyện cho ngài như một thực hành bác ái. Ngài chấp nhận những đau đớn thể lý một cách hoàn hảo như là ý Chúa do lòng yêu mến Chúa và như việc đền tội; nhưng cần phải tìm hiểu ngài đã chịu đựng tới mức độ nào! Những bệnh tật đã theo Don Bosco hầu như suốt đời không phải ít mà cũng không phải nhẹ. Không phải là qúa khi nói về ngài rằng xác thịt đã không bao giờ cho ngài được dễ chịu.[57] Triệu chứng ho ra máu ngay từ lúc bắt đầu đời linh mục và tái hiện nhiều lần định kỳ. Từ năm 1843, ngài bị đau sốt nhức hai mắt và sau này mắt bên phải hư hoàn toàn. Từ năm 1846 bị chứng viêm hai chân và hai bàn chân, chứng này ngày càng nặng theo thời gian, khiến ngài phải dùng giày mềm vì da bị sưng. Người có nhiệm vụ thương xót giúp ngài cởi giày nhìn thấy mép giầy in dấu trên ngài. Chỉ Chúa mới biết làm sao ngài có thể mang nổi giày giờ này qua giờ khác! Ngài gọi chứng viêm này là thánh giá hằng ngày. Chứng đau đầu, những cơn đau dữ dội hành hạ ngài cả nhiều tuần lễ vì đau nướu răng; chứng mất ngủ kéo dài; chứng khó tiêu nhiều lúc rất dữ dội; nhịp tim bất thường đến độ dường như một xương sườn chịu không nổi sức đẩy của nó.

Trong mười năm năm cuối đời, những cơn sốt bất chợt đến độ nguy cập; rồi trong vùng xương cùng của ngài mọc một khối u to như trái hồ đào, chúng ta hãy tưởng tượng ngài đau đớn như thế nào khi ngồi hay khi nằm trên giường. Nỗi khó chịu này, vì những lý do dễ hiểu, ngài không bao giờ tâm sự với ai, ngay cả đối với bác sĩ, tuy rằng có lẽ một cuộc giải phẫu nhỏ cũng đủ có thể giúp ngài chữa khỏi, như đã được thực hiện trong cơn bệnh cuối cùng của ngài. Đối với mấy người thân cận, ngài cắt ngắn sự khó chịu khi phải ngồi, nói rằng: – Cha cảm thấy đứng hay đi lại thì khỏe hơn. Ngồi cha cảm thấy mệt.

Một thánh giá khác thuộc loại này, dù nguồn tin không được chắc chắn, nhưng không vì thế mà không biết được thực tại của nó, vì đã được tìm thấy sau khi ngài qua đời. Thánh gía này, ngài mang lấy từ năm 1845. Vào năm đó bộc phát ở Cottolengo bệnh dịch sốt xuất huyết (petecchia), và Don Bosco thường có những cuộc thăm viếng bác ái, nên nhiễm bệnh và mang nó suốt đời. Người lo tẩm liệm xác ngài nhìn thấy mà tỏ lòng thương hại: những vết dộp trên hầu hết da, nhất là đàng sau lưng. Ngay cả roi da để phạt xác cũng không thể làm nên vết thương như thế!

Trong mười năm năm sau cùng, cột sống của ngài bị suy yếu, bởi đó chúng ta nhìn thấy Don Bosco trong dáng thảm thương vì sức nặng của bao thập giá, đi lại nhờ những cánh tay của con cái ngài dìu đi.

Một bác sĩ Pháp nổi tiếng thăm ngài vào năm 1880 tại Marsiglia, nói rằng thân xác của Don Bosco giống như cái áo đã cũ nát vì đã mặc cả ngày lẫn đêm, không thể khâu vá gì được nữa chỉ có cách nghỉ hưu thì mới mong giữ được như nó đang là. Một bác sĩ khác, người chăm sóc riêng sức khỏe của Don Bosco để lại một bản viết rằng “khoảng sau năm 1880, cơ thể của Don Bosco chỉ còn giống như một cái thùng rác trong bệnh viện”.[58]

Dù cả một khối những bệnh tật đau đớn, không bao giờ ngài có một tiếng than thở, không một dấu tỏ ra mất kiên nhẫn; trái lại, ngài làm việc tại bàn, giải tội lâu giờ, giảng, du hành, giống như người có sức khoẻ hoàn hảo; còn hơn nữa, luôn luôn có cung cách vui hài, nét mặt luôn tỏ vẻ vui tươi và thái độ khích lệ khi nói năng. Người ta bảo ngài hãy cầu nguyện với Chúa để Chúa cất những sự bất tiện đó cho ngài, ngài trả lời: “Dù tôi biết rằng chỉ một lời nguyện tắt đủ để chữa được bệnh, tôi cũng không làm”. Khi nhìn vào Đấng gởi những điều đó cho mình, ngài thấy chúng càng nhiều và càng nặng nề thì càng đáng yêu.

Chính sự kiện này cho chúng ta khám phá ra có một khoảng vô tận trong đời sống mà sẽ không tin nổi nếu không biết rằng Thiên Chúa đáng thán phục biết bao nơi các thánh của ngài.[59] Nó làm chúng ta nhớ tới học thuyết có lý của Taulero.[60] Vị tiến sĩ thượng hạng (doctor sublimis) nói: “Trong tất cả các lời nguyện mà Đức Giêsu đã làm trong cuộc sống trần gian của ngài, lời cầu nguyện trổi vượt nhất là lời hướng lên Chúa Cha mà thưa rằng: Cha ơi, không phải cho ý con, nhưng là ý Cha được thực hiện. Đó là lời cầu nguyện tôn vinh Cha và được Cha chấp nhận; là lời nguyện sinh ích lợi cho con người và là lời cầu nguyện kinh hoàng nhất cho ma qủi.

Nhờ sự trao hiến ý chí nhân loại này của Đức Giêsu, tất cả chúng ta nếu muốn, chúng ta sẽ cứu được chính mình. Đây chính là lý do tại sao niềm vui lớn nhất và hoàn hảo nhất của những kẻ khiêm nhường là ở chỗ thực hiện đúng như ý Thiên Chúa”. Cũng thế lời đó là lời cầu nguyện mà Don Bosco đã biết thực hiện trong suốt hành trình cuộc sống đau khổ của ngài.

Chương IX

NHỮNG ĐỐI KHÁNG MỌI MẶT

Có hai mối nguy đe doạ nghiêm trọng cho những con người hoạt động, điều mà Chúa Giêsu nói khi ngài khiển trách Marta: lo lắng  xáo động,[61] nghĩa là sự lo lắng trong tâm trí và sự bất an trong tình cảm. Hai điều này rất dễ nhận ra nơi những con người buộc phải chia cắt các hoạt động của họ thành nhiều mảnh. Để tránh rơi vào tình trạng này, cần phải có một điều cần nhất như Maria đã chọn, tức là không đánh mất sự kết hợp với Thiên Chúa. Con thuyền với tất cả những gì nó chở thẳng tiến an toàn trên sóng nước bao lâu phần sức nặng của con thuyền được đặt đúng chỗ; lúc đó con thuyền có được sự cân bằng, và chúng ta có thể nói, có được sức mạnh để lấy lại cân bằng khi thuyền bị nghiêng ngả vì sóng biển. Sức nặng của đời sống hoạt động chính là sự kết hiệp với Thiên Chúa, hoặc nó ngăn ngừa sự nghiêng ngả hoặc nó giúp lấy lại sự cân bằng mau chóng.

Biết bao cơn sóng thình lình đánh vào con thuyền nhỏ của mỗi người chúng ta! Không phải chịu ngay cả một chút chao đảo giữa những đối kháng là một đặc ân rất hiếm dành cho những người kết hợp mật thiết với Chúa đến độ nên một trong tinh thần với Ngài như lời thánh Phaolô.[62] Chúng ta tin Don Bosco thuộc về con số ít người được đặc ân này khi nhìn vào cách ngài cư xử và cách ngài nói khi gặp bao tai nạn và những khó chịu bất ngờ. Những chuyện xảy ra như thế áp lực trên ngài cách ghê sợ nhưng không làm mất đi sự bình thản mạnh mẽ thông thường của ngài: điều mà chỉ xảy ra cho những người ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào luôn giữ được cái trung tâm thâm sâu của mình.

Don Bosco gặp nhiều trở ngại do những tai nạn nặng nề trong việc xây cất. Năm 1852, vào ban đêm, một phần lớn của một xưởng thợ đang xây với bao công lao và hy sinh bị sụp đổ. Các thanh thiếu niên tỉnh giấc vì tiếng động bất chợt, chạy thoát thân ra khỏi nhà ngủ; nhưng chúng được Don Bosco quy tụ lại với mình và đưa vào nhà thờ để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, vì đã cho chúng thoát nạn. Vài giờ sau, lúc giờ chơi, phần còn lại của xưởng thợ đã xây xong tới mái nhà, cột và tường cũng đổ nốt, tất cả thành một đống gạch vụn. Đứng trước tai nạn đã lam tiêu tan mọi cố gắng và hy vọng của ngài, Don Bosco kinh ngạc nhưng bình tĩnh nói đùa rằng: “Chúng ta đã chơi trò chơi bằng gạch!”. Rồi với nét bình an trên khuôn mặt ngài với giọng của người cha ngài nói: Nếu đó là ý Chúa, xin chúc tụng danh Ngài. Chúng ta đã lấy tất cả từ tay Chúa; Ngài sẽ tính sổ về sự từ bỏ của chúng ta. Đúng hơn, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, bởi vì đang khi những chuyện đau thương đè nặng trên nhân loại, thì luôn có một bàn tay nhân lành làm giảm nhẹ những bất hạnh của chúng ta.

Trong một lá thư ngài viết ba ngày sau đó, chúng ta nhận thấy cùng với sự thử thách đau đớn là một sự bình an thánh trong tâm hồn ngài: “Cha đã gặp một điều không may: căn nhà đang xây hầu như bị đổ nát hoàn toàn khi đã lợp gần xong mái. Có ba người bị thương nặng, không ai chết; nhưng có một nỗi sợ hãi, một cú đòn muốn đưa Don Bosco khốn khổ này sang thế giới bên kia. Chúa đã muốn như vậy.

Năm 1861 vào lúc nửa đêm, một tiếng động lớn làm rung chuyển cả nền móng của Nguyện xa. Một cú sét đánh vào phòng Don Bosco, mọi sự đều bị đổ ngổn ngang, Don Bosco bị nửa bất tỉnh nằm giữa phòng. Ý nghĩ của ngài lập tức hướng tới đám trẻ đang ngủ ở tầng trên, và ngài sốt sắng phó thác các em cho Đức Mẹ. Tia sét đó cũng đánh ngang phòng ngủ của các em, làm nứt bức tường phía ngoài và làm cho đám trẻ đầy sợ hãi. Nỗi sợ hãi có nguy cơ tác hại hơn những gì luồng sét đã gây ra.

Giữa bóng tối và tiếng đổ vỡ cùng với tiếng kêu la hoảng loạn, mang chiếc đèn trong tay Don Bosco xuất hiện trên đống hồ vữa và gạch đổ nát với nét mặt dịu hiền và mỉn cười. Ngài nói để trấn an: “Đừng sợ, chúng ta có một người Cha và một người Mẹ tốt lành ở trên trời canh chừng cho chúng ta”. Sự hoảng sợ lắng dần. Sau khi xem có ai bị nguy hiểm tính mạng không, Don Bosco tự phát lên lời Deo gratias và tiếp tục: “Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu chúng ta khỏi cơn hiểm nguy. Thật khốn nếu ngôi nhà bốc cháy! Ai có thể thoát chết?” Không gì hơn là lúc đó bảo chúng qùi gối xuống trước một ảnh Đức Mẹ, ngài cùng với chúng đọc kinh cầu Đức Mẹ.

Một lát sau đó các thầy tư giáo mới lên tới để xem ngài có bị sao không. Đây đã là lần thứ ba ngài bị sét đánh; nhưng lần này với một hậu qủa rõ rệt và kéo dài. Tuy nhiên ngài bình thản nói rằng: “Đây là lần mà lần nhận được ơn lớn lao nhất từ Đức Mẹ, chúng ta phải hết lòng cám ơn Mẹ!” Thực vậy, sự xem xét sau đó cho thấy chỉ một chút nữa là tất cả biến thành của thiêu sinh.

Người ta đề nghị ngài dựng một cột thu lôi. Don Bosco trả lời: “Đúng thế, chúng ta sẽ đặt trên đó tượng Đức Mẹ. Mẹ đã tỏ ra tốt lành với chúng ta, có lẽ sẽ là vô ơn nếu tin tưởng vào một cái gì khác.” Bức tượng Đức Mẹ nhỏ, như sự che chở của Nguyện xá tiên khởi, vẫn còn đó để làm chứng về tình yêu con thảo của Don Bosco đối với Nữ vương quyền phép trên trời.

Trước khi năm đó kết thúc, một cú sụp đổ mặt tiền tầng hầm của một xưởng thợ mới xây càng làm cho đám trẻ thêm sợ hãi. Don Bosco tìm cách để lấy lại bình tĩnh cho các em, ngài nói không do dự rằng: “Ma quỉ đã muốn ngoáy đuôi vào đây; nhưng cứ tiến lên, đừng sợ chi!.”.

Khi đã lớn tuổi, đứng trước những rủi ro như trước kia, ngài tỏ ra cùng một niềm tín thác trong tay Thiên Chúa. Hai mươi năm sau, đúng ngay lúc bữa trưa trọng thể để tiễn đoàn truyền giáo, trong phòng đóng sách bùng phát một ngọn lửa. Không xa đó mấy ngổn ngang hành lý của các người sắp lên đường. Người ta biết rõ hiểm họa: cả nhà ồn ào hỗn loạn. Don Bosco, hoàn toàn khác, vẫn điềm nhiên, không rời khỏi nhà cơm, nhưng yên lặng ở đó và trầm ngâm. Thỉnh thoảng ngài hỏi có xảy ra thiệt hại nhân mạng nào không; khi nghe rằng không, ngài tiếp tục trong suy nghĩ của mình. Nghe người ta báo cho ngài là thiệt hại lên khoảng một trăm lire, ngài kêu lên: – Thiệt hại nặng quá! Nhưng Chúa cho, và Chúa lại lấy đi. Ngài là chủ.

Don Bosco dùng câu nói đừng để gì làm bạn xao xuyến của thánh Teresa khi trao các chức vụ và trách nhiệm cho con cái ngài, để chuẩn bị tinh thần cho họ trước những rủi ro bất ngờ có thể gặp, cũng như khi họ tới với ngài trong một số hoàn cảnh khó khăn nào đó. Những khó khăn tự nó kéo theo những bất tiện nghiêm trọng, chắc chắn sẽ làm xao động và mất phương hướng những ai chưa có thói quen suy nghĩ rằng dù một chiếc lá rụng xuống cũng không ngoài ý Thiên Chúa.

Sự không bị xao động càng hiếm thấy hơn nữa trong những rủi ro mà cách tự nhiên người ta càng thấy dễ bị nóng nảy; chính vì thế sự giữ cho mình được vững vàng và bình thản cách đáng yêu là một đặc ân được ban cho những người có tâm hồn chìm ngập trong Thiên Chúa. Lấy thí dụ, khi phải đi đường, ai mà đã không có lần gặp cảnh ngộ đáng tiếc bị lạc đường? Đó là điều hết sức bình thường; nhưng đó cũng có thể là dịp bất ngờ để biết được cái bên trong thực sự của một con người.

Một ngày nọ Don Bosco xuống xe lửa ở Asti, ngài phải dừng lại ở ga vì có công việc nên không kịp giờ lấy xe ngựa để đi Montemagno, vì thế ngài phải đợi thêm mấy tiếng đồng hồ. Ngài không tỏ ra khó chịu: làm quen nói chuyện với một nhóm thanh niên, thuyết phục chúng đi xưng tội, và đã làm điều này lập tức trong nhà trọ gần đó. Một lần khác, lỡ chuyến xe lửa từ Trofarello đi Villastellone, không tỏ ra bực mình, ngài lấy trong túi ra một bản thảo và vừa đi bộ vừa sửa bản thảo. Khi đi được nửa đường, ngài ngẩng mặt lên khỏi tờ giấy, nói với người cùng đi: “Đúng là sự không may lại hữu ích để làm một cái gì khác. Ở nhà có lẽ cha đã không thể làm việc được nhiều như thế, nhờ vào sự không may này cha đã làm được khá nhiều”.

Một buổi sáng, phải lấy xe lửa đi tới một vùng không xa Torino lắm, ngài đã sắp xếp để cử hành thánh lễ ở đó. Khi ra khỏi phòng, có một thầy tư giáo cần phải nói với ngài đôi lời; Don Bosco ngừng lại để nghe thầy. Khi xuống thang, lại có một người khác muốn nói với ngài, Don Bosco ngừng lại lắng nghe. Khi tới bậc thang cuối cùng, lại một thầy thứ ba đang đợi ngài; Don Bosco rất bình tĩnh trao đổi với thầy. Đi ra khỏi hành lang, lại có mấy linh mục và tư giáo bao quanh ngài; Don Bosco làm cho tất cả đều thỏa mãn. Sau cùng ngài có thể đi ngang sân chơi để ra cổng: nhưng một thiếu niên chạy theo sau kêu ngài; Don Bosco quay lại và trả lời em. Tuy nhiên xe lửa không đợi, nên khi ngài tới nhà ga, xe đã khởi hành. Don Bosco quay trở lại, vào thành phố cử hành thánh lễ và đi chuyến xe lửa thứ hai.

Theo lời thánh Bonaventura, để một bề trên có thể có lòng thương cảm và dễ mến như thế cần phải có sự gặp gỡ thường hằng với Thiên Chúa. Chỉ có Đấng là Đại dương nhân hậu đổ tuôn sự dịu dàng này vào trong lòng bề trên đó khi cầu nguyện, nhờ đó mà trở thành mọi sự cho mọi người.

Nhưng nỗi gian truân đụng tới Don Bosco từ phía con người: từ những người khiêm tốn cho đến những người đáng kính, quyền thế.

Người khiêm tốn như một thầy sư huynh tốt tốt lành kia, đã đi sang Mỹ châu và được chỉ định ở Santa Cruz thuộc Argentina, thầy bị khủng khoảng, đã bỏ nhà và đến ở trong xưởng của một người dân. Tin tức không chờ mong này làm người của Thiên Chúa đau khổ, ngài truyền lệnh cho thầy đó về lại Italia. Đứng trước khó khăn tài chính vì chi phí cho chuyến đi, ngài bình thản và thẳng thắn nói: “Ở đây không nói đến chuyện chi phí mà quan tâm đến cứu một linh hồn”.

Một người khiêm tốn chẳng hạn như ông đầu bếp của Nguyện xá. Một buổi tối nọ, Don Bosco sau khi đã giải tội khá muộn, ngài đi ăn tối trễ, ông bếp dọn cho ngài món cháo đã cũ và lạnh ngắt. Người dọn nhà cơm đã có kinh nghiệm, biết  rằng Don Bosco có lẽ sẽ không phản ứng gì, nhưng không thể để cho ngài ăn đồ ăn thừa như thế, nên đã khiển trách ông đầu bếp kia: “Thứ đồ ăn này mà cho Don Bosco hả?”. Nhưng người kia nổi giận trả lời: “Don Bosco là ai chứ? Cũng là một người như mọi người”. Người giúp Don Bosco hoặc vì nổi nóng hoặc vì bào chữa, đã nói lại cho ngài những lời không hay này. Don Bosco thản nhiên cầm thìa ăn, nói cách nhân hậu rằng: “Ồ, ông bếp có lý của ông”.

Một người khiêm tốn như người phụ trách nhà cơm, có lần bị chính Don Bosco khuyến cáo vì đã không thay khăn ăn cho đúng lúc, không chấp nhận sự khiển trách trong tình cha của ngài, nhưng viết cho ngài một lá thư, nóng nảy tới độ nói với ngài rằng đó là lần đầu tiên đã nhìn thấy Don Bosco mang bộ mặt nghiêm như thế. Vị đầy tớ Chúa, không phải không buồn phiền, vừa khi gặp người ấy, liền gọi lại và ám chỉ về tiếng xấu mà người ấy đã loan đi trong Nguyện xá, ngài bảo: “Con không biết Don Bosco là một con người như mọi người sao?”. Từ thánh Phaolô cho đến chúng ta, mọi người thuộc về Thiên Chúa đều được coi là người mắc nợ mọi người, mắc nợ từ người ngu dốt đến người khôn ngoan.[63] Thánh Bonaventura nói rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa làm cho trái tim của bề trên trở nên khiêm nhường.[64]

Người đáng kính như viện phụ Amedeo Peyron, một triết gia và một chuyên viên về ngữ học, giáo sư của Đại Học Triều Đình tại Torino. Ngài chủ toạ cuộc họp các linh mục quan tâm các vấn đề tác vụ thánh. Chấm dứt bài trình bày của ngài về sự cần thiết gia tăng những in ấn có tính giáo dục phù hợp với dân chúng, Don Bosco lợi dụng cơ hội để nói về tờ báo Letture cattoliche của mình. Vị chủ tọa, như thể không để mất dịp, điều mà ngài chưa bao giờ làm, tuôn ra tất cả những gì mình nghĩ, phê bình những những sai sót về văn phạm và bút pháp làm mất giá trị của tờ báo. Thẩm quyền của tác giả, sự hăng hái khi phát biểu, sự cay cú của một vài câu đã khiến tất cả đều sửng sốt.

Đầy tớ Chúa Leonardo Murialdo, lúc đó ở trong số người ngồi nghe, cảm thấy xấu hổ vì cung cách của người bạn, đồng thời biết được sự ít thiện cảm của nhiều người đang hiện diện đối với Don Bosco. Ngài bồn chồn chờ đợi xem Don Bosco có giữ được bình tĩnh và sẽ trả lời ra sao. Ngài cũng không phải không biết sự nhạy cảm của nhiều tác giả khi nghe sự chỉ trích, nhất là khi bị nhạo cười nơi công cộng. Khi những lời tấn công chấm dứt, Don Bosco lên tiếng: “Con tới đây thật là để được giúp đỡ và khuyên nhủ. Con xin tất cả hãy nói cho con biết chỗ nào thấy cần sửa, con sẽ sửa một cách vui lòng. Còn hơn nữa con sẽ thật là may mắn nếu có vị nào là văn sĩ sửa cho con từng số báo một”. Nhà thần học Murialdo thở ra nhẹ nhõm. Vào năm 1896 khi nhớ và suy nghĩ về tấn kịch này, ngài nói: “Don Bosco là một vị thánh”.

Đối với các vị giáo sĩ vị vọng khác, không phải vì họ có ý xấu, nhưng vì có thiên kiến. Don Bosco gặp không biết bao khó chịu, ngài luôn bỏ qua tất cả nhờ vào sự gặp gỡ thường xuyên với Thiên Chúa, vì chỉ có bình an của Thiên Chúa mới làm chủ được những suy nghĩ và cảm xúc của con người. Nơi đâu có Chúa, nơi đó không có xáo động. Trong một thành phố lớn ngoài Italia, người ta mới mở một trường, Don Bosco đến thăm cơ sở tôn giáo quan trọng đó, sau một hồi lâu đợi ở ngoài phòng tiếp khách, ngài nhận được một cuộc tiếp đón vô cùng lạnh nhạt. Lúc vừa ra khỏi cửa, người đồng hành với Don Bosco buột miệng than thở. Don Bosco bảo: “Hãy vui vẻ, hãy luôn vui vẻ; họ sẽ cảm thấy bối rối hơn chúng ta khi thấy đã cư xử với chúng ta như thế”. Rồi chẳng chút khó chịu ngài chuyển sang bàn về những chuyện khác quan trọng hơn.

Cũng trong chính thành phố này, trong một cuộc thăm viếng của Don Bosco tại một trường, cha xứ ở đó do một cơn tức giận, điều không phải hiếm xảy ra giữa những người tốt, lên giọng với Don Bosco bằng một tràng những lời lẽ chưa từng nghe. Khi cơn cuồng phong đã dịu, Don Bosco ngẩng đầu lên một chút như thái độ của người khiêm tốn xin được nói: “Vâng thưa cha xứ, cha có lý khi trách cứ, con lấy làm tiếc đã không thể hoàn toàn đáp ứng lại những ao ước của cha. Cha là ân nhân của chúng con. Con luôn nhớ với lòng biết ơn điều lành mà cha đã làm cho chúng con. Chúng con sẽ luôn luôn sẵn sàng phục vụ cha. Con sẽ chết sớm, nhưng con đã để lại di chúc cho người kế vị con phải cầu nguyện cho cha”. Mỗi lời của Don Bosco như làn sương êm ái tỏa xuống trên sự nóng nảy của người phê phán, đến nỗi sau đó, ngài lên tiếng xin lỗi và trở thành bạn thân hơn trước kia.

Chúng ta mở ra ở đây một khoảng nói về báo chí. Có lẽ thật hay, thu thập và trình bày thành các tập san nhiều mầu sắc những mẩu chuyện đây kia về Nguyện xá và về Don Bosco. Người viết, hẳn có một kỷ niệm cá nhân không phai mờ. Lần đầu tiên đứa nhỏ biết đến cái tên thân thương Don Bosco là nhờ một trang báo xấu, trong đó một hình ảnh méo mó và xấu bóp méo hoạt động bác ái của ngài cho giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết, ngay cả để cho kẻ chết chôn người sống. Don Bosco cứ để cho bọn họ như chó sủa mặt trăng, chẳng bận tâm báo thù, chẳng đáp trả hay nuôi giận những kẻ nói xấu ngài, vì họ đã quảng bá cho công cuộc của ngài.

Đối với những tấn công thù nghịch của báo chí, ngài chỉ ngước mắt và đưa hai tay lên trời với đức tin, lập lại những lời tương tự như sau: “Kiên nhẫn! Rồi điều này cũng sẽ qua thôi! Những người dân tốt lành rồi sẽ về phe Don Bosco vì Don Bosco đâu có làm gì khác ngoài làm việc thiện đâu! Chúng ta đành chịu để cho các linh hồn hư mất sao? Họ chống lại công việc của Thiên Chúa mà không biết. Nhưng Chúa có cách để phá tan những cạm bẫy”.

Nhưng đang khi coi thường cái tính mồm mép của báo chí, thì thái độ bất thuận của nắm giữ quyền bính mới là cái làm tổn thương những người khôn ngoan và các thánh. Don Bosco, như chính ngài thú nhận, có một tính tình đam mê và kiêu ngạo, khao khát vì vinh quang Chúa và phần rỗi các linh hồn, ngài không thể chịu nổi sự cản trở mỗi khi phải đụng độ với sự ngăn cản của những người  đại diện có quyền hành. Nhưng tính tự nhiên được ân sủng siêu nhiên nâng cao đã khiến cho Don Bosco thành một con người hoà hoãn và hòa giải nhất trên trần.

Trong thời kỳ nhiều biến loạn chính trị, nhiều lần thẩm quyền nhà nước, bị đưa đẩy bởi các phe nhóm, đè nặng tay trên Don Bosco! Nhiều lần khi ngài trình diện trước những người đối kháng, ngài lại làm chủ tâm hồn họ và khiến họ trở thành những tham vấn dễ tính! Nhưng trước khi đi gặp họ, ngài ngước nhìn lên Chúa trong kinh nguyện, cảm nghiệm được hiệu lực của kinh nguyện trong việc thay đổi trái tim của những kẻ quyền thế. Ngài nói với con cái ngài: “Với phương thế này, nếu sự việc xuôi xắn, người ta sẽ đạt được những gì người ta ao ước, ngay cả khi phải xin với người không có tình cảm hay kính trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa sẽ chạm tới trái tim con người vào đúng lúc để nó có đón nhận những đề nghị của chúng ta”. Đây chính là nguồn mạch đem lại sự hăng say phi thường trong những hoàn cảnh đối kháng và đắng cay.

Năm 1862 người ta muốn bằng mọi giá bắt ngài đóng của các lớp học của Nguyện xá. Vị giám sát chương trình học của triều đình đồng ý cho ngài một cuộc hội kiến sau hai giờ chờ đợi. Ông long trọng ngồi trên ghế bành tiếp Don Bosco đứng trước mặt. Trước khi vị đầy tớ Chúa mở miệng, vị quan chức làm ngài choáng váng với một cơn lũ những lời mạ lỵ mà ông tuôn ra không chút kính nể đối với các linh mục và tu sĩ, đối với Đức thánh cha và chính Don Bosco, chống lại các trường học và sách báo của Don Bosco. Nhìn thấy Don Bosco đứng đó trong sự bình tĩnh và không động đậy, không tỏ một chút gì tự bảo vệ, ông cho ngài là người khờ dại, và thế là ông thôi không tấn công nữa.

Don Bosco lúc này bắt đầu nói. Bằng một giọng rõ ràng và từ tốn, ngài xin ông trước hết hãy biết rằng những gì ông nói cho đến lúc này không liên quan gì đến việc ngài tới với ông, thế là ngài chuyển sang trình bày cho ông mục đích cuộc thăm viếng này. Vị giám sát, vốn chưa bao giờ có dịp chuyện vãn với những người như Don Bosco, không tin vào tai và mắt mình nữa. Về cuối, ông cảm thấy trong lòng mình một sự kính trọng và nhân ái đối với người cách đây ít phút là một kẻ bị xử tệ. Ông trở nên hoàn toàn khác, đầy lịch thiệp và từ hôm đó trở thành người bạn và người bảo vệ Don Bosco. Không chỉ lần này, Don Bosco đã có thể làm cho lời của Nehemia trở thành của mình với một chút biến đổi: Tôi đã cầu khẩn Thiên Chúa Đấng ngự trên trời, tôi đã thưa với vua… và vua đã ban cho tôi mọi sự, bởi vì bàn tay trợ giúp của Thiên Chúa ở với tôi.[65]

Tinh thần cầu nguyện, mà đầy tớ Chúa Contardo Ferrini gọi là “lễ hội của các ý nghĩ thánh thiện”, quả thật đúng. Nó khơi dậy nơi tâm hồn các tư tưởng thánh thiện trong sự vui tươi, và các tư tưởng vui tươi một cách thánh thiện, ngay cả trong những hoàn cảnh đối kháng và gây xáo trộn. Như lời Đức Pio XI trong diễn từ nhìn nhận các phép lạ: bao nhiêu khó chịu cho Don Bosco, “đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Giáo hội”, khi từ thẩm quyền của Giáo hội phát sinh những đối kháng! Với sự tài khéo của trí khôn ngài đã biết hoà giải giữa bổn phận làm người thuộc quyền và những bổn phận của công lý! Ngài tìm nơi Thiên Chúa giải pháp cho những vấn nạn mà cách nhân loại không thể hoà giải được.

Một tài liệu trong văn khố cho ta một thông tin nho nhỏ bên lề: “Tội nghiệp thay Don Bosco! Nếu Thiên Chúa không ở với ngài, chắc hẳn ngài đã không thành công”. Trích dẫn từ một tường trình chính thức của một đức ông, viên chức của Toà thánh tại chính quyền vùng chân núi alpino gởi cho Thánh Bộ các Giám mục và Dòng tu, trong đó vị này miêu tả cuộc sống của các thầy tư giáo của Don Bosco như ở trong đám sương mù trong khi mong chờ sự phê chuẩn Hội dòng Salêdiêng.

Vị giám chức tốt bụng này không hiểu gì về Don Bosco và tinh thần của ngài nhận định giống như người áp dụng những tiêu chuẩn cũ kỹ, mà theo đó Don Bosco đã đảo lộn những ý niệm sư phạm truyền thống. Biết được điều này, Don Bosco đoán trước được những hệ quả tai hại từ bản tường trình đó; tuy nhiên khi thông tin điều này cho Ban điều hành của Tu hội,[66] Don Bosco dùng những lời thật tế nhị khi nói về tác giả của nó; còn hơn nữa thường đón tiếp vị này tại Nguyện xá với sự kính trọng chân thành và luôn tìm dịp làm điều tốt cho vị này.

Những thủ tục để có được sự phê chuẩn Tu Hội khiến cho vị Đầy tớ Chúa phải nuốt những viên thuốc rất đắng! Ngài đã có được thư giới thiệu cá nhân của rất nhiều các giám mục; nhưng thư giới thiệu của bản quyền sở tại Torino mới thực ích lợi cho ngài. Thời điểm thuận tiện đến khi đức tổng giám mục Riccardi triệu tập các giám mục thuộc tổng giáo phận cho Công đồng Vaticano sắp tới. Don Bosco khiêm tốn trình lên ngài đơn thỉnh xin để ngài đọc trước công nghị mà trong đó vốn có nhiều vị ủng hộ. Ngài không nghi ngờ về kết qủa. Nhưng tiếc thay sự ngăn ngừa làm thay đổi tất cả; Don Bosco phải ngậm tăm khi được thư trả lời có hình thức rất lịch sự nhưng nội dung chối từ. Thất vọng đắng cay, ngài thốt lên: “Kiên nhẫn! Tất cả vì Chúa và vì Đức Trinh Nữ rất thánh!”.

Trong một lần lưu lại Roma để lo việc phê chuẩn một chuyện bất ngờ đáng buồn xảy đến cho ngài đúng ngày trước khi khởi hành. Ở Roma ngài có được cảm tình của dân chúng mọi tầng lớp. Đang khi ngài thăm gia đình qúi tộc Vitelleschi để chào họ, thì có tiếng báo hồng y Altieri, người mà Don Bosco không kịp giờ thăm, tới. Xem ra vào lúc này vị qúi tộc áo đỏ sẽ tỏ ra thuận lợi. Don Bosco kính cẩn lại gần. Vị hồng y chỉ đáp lại một tiếng lạnh lùng, rồi trong suốt cuộc trò chuyện sau đó trong căn nhà mà Don Bosco rất được kính trọng, không nói thêm một lời, không một ánh nhìn về phía Don Bosco. Gia đình qúi tộc kia cảm thấy lúng túng, sau đó họ còn cảm thấy bất an vì biết được tính nết cứng cỏi của nhân vật đáng kính kia. Người tỏ ra bình thản hơn cả là Don Bosco, ngài nói: “Chuyện đó chẳng quan trọng gì. Ngày mai tất cả sẽ đâu vào đó”. Thật vậy, ngày hôm sau, sau khi cầu nguyện, ngài xin được hội kiến. Cuộc hội kiến đã giải tỏa mọi đám mây che phủ, vì Don Bosco đã có thể tỏ ra là biết kính trọng chức vị hồng y.

Tiến hành như thế theo phẩm trật với biết bao phiền toái, sao chúng ta lại không lập tức đi tới cấp cao nhất? Don Bosco cũng gặp một phiền toái ngay cả với Đức Pio IX. Một lần, sử dụng đặc ân mà ngài được hưởng trong Vaticano, ngài xin cho một luật sư Torino được tiếp kiến riêng với Đức thánh cha, người mà sau này sẽ trở thành Nghị viên Tancredi Canonico. Ông này thuộc vào nhóm những người ủng hộ Towianski, một người Ba lan có quan điểm cực đoan cấp tiến, điều mà Don Bosco không hề biết. Khi gặp Đức thánh cha, ông luật sư tận dụng để nói về quan điểm của mình, quên mất mình đang ở đâu và đang có vinh dự được nói với ai, khiến Đức Pio nổi giận ngắt lời ông và bảo ông ra về. Ông ra về, nhưng truớc khi về ông để lại một cuốn sách, trong đó có những gì mà ông đã lường trước không thể nói bằng lời. Sau cuộc tiếp kiến đó, Don Bosco lập tức được gọi vào và nghe Đức thánh cha nói: “Hoặc đó là một tên đại lừa bịp hoặc Don Bosco là một người… quá tốt bụng”. Nghe thấy thế, Don Bosco mỉn  cười. Đức Pio IX nhận thấy điều này liền hỏi: “Vì sao con xin tìm cách cho ông ta vào đây? Và bây giờ lại còn cười vì thấy ta nổi giận?” Don Bosco, kính cẩn và bình thản, nhanh chóng trả lời: “Con cười, bởi vì cơn giận của một người cha thì luôn đáng yêu”. Ngài trình bày sự việc đã xảy ra như thế nào và vui mừng nhìn thấy Vị đại diện Chúa Kitô mỉn cười vì những lời chân thành của ngài.

Một ngày nọ Don Bosco viết cho một trong các con cái mình để an ủi người ấy trong một số điều không may: “Con hãy vui vẻ và can đảm, nhất là hãy cầu nguyện”. Cầu nguyện đối với Don Bosco là bí quyết của sự bình thản và niềm an bình giữa những thử thách, theo như giáo huấn của thánh Giacobê tông đồ.[67]

Chương X

VỊ GIẢI TỘI

Sự gặp gỡ thân mật thực sự với Thiên Chúa sẽ khiến cho một linh mục không chỉ biết mà còn cảm thấy mình là một con người được thánh hiến, không khi nào ý tưởng về đặc tính này trong lương tâm bị lu mờ, bất cứ điều gì ngài nói và làm, nơi riêng tư hoặc nơi công cộng, trực tiếp hay gián tiếp, khi tiếp xúc với người khác ở mọi cấp bậc, tầng lớp hay điều kiện xã hội. Tinh thần linh mục toát ra từ tất cả cuộc sống, tỏa chiếu ra chung quanh các tác động siêu nhiên có sức chữa lành và thanh tẩy các linh hồn, cũng cố họ trong điều lành và nâng họ lên những sự trên trời. Giống như nhân tính của Đức Giêsu kết hợp với thần tính, trở thành dụng cụ cho những hoạt động kỳ diệu, cũng thế trong đời sống nội tâm của người linh mục không có một lời hoặc một hành động nào mà không mang dấu ấn linh mục và không phục vụ cho việc cứu độ các linh hồn, đến độ người ta có thể nói về linh mục rằng từ nơi ngài xuất phát ra sức chữa lành mọi bệnh tật thiêng liêng.[68] Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem xét các hoạt động của Don Bosco trong tòa giải tội, nơi toà giảng, với việc in ấn và trong tư cách nhà giáo dục.

Về việc giải tội, người ta sẽ không hiểu cung cách của Don Bosco khi ban bí tích một cách đầy đủ, nếu không lưu tâm đến thực hành cá nhân cũng như giáo huấn của ngài.

Don Bosco thân thiết với việc xưng tội ngay từ tuổi còn nhỏ, chẳng có một thay đổi nào trong cuộc sống đã có thể làm suy giảm sự yêu thích thường xuyên tới gần toà giải tội. Thật vậy cậu đã đi xưng tội cách tự ý, ngay cả khi mẹ cậu không dẫn cậu đi nữa và đi một cách thường xuyên, không như thói quen thời đó đặc biệt đối với tuổi thiếu niên, càng ít hơn nữa đối với trẻ con đồng quê.

Lúc là cậu học sinh ở Chieri hoàn toàn tự do, cậu đã nghĩ tới việc tìm cho mình một vị giải tội cố định. Vị này dù biết rằng cậu thuộc tầng lớp xã hội khiêm tốn và chất phác, nhưng thấy cậu thường xuyên xưng tội cách tử tế đã phỏng đoán được những điều lớn lao nơi cậu. Là một thầy tư giáo trong đại chủng viện, thầy nổi bật ngay lập tức về sự có nề nếp chính xác, không tuần nào không đến với toà giải tội. Làm linh mục ở Torino, ngài xưng tội mỗi tám ngày nơi chân phước Cafasso. Khi vị đầy tớ Chúa này qua đời, ngài đến với tác vụ của một linh mục đạo đức và cũng là bạn học, vị này mỗi ngày thứ hai đến nghe xưng tội trong phòng thánh của thánh đường Mẹ Phù Hộ, và vị này đến lượt ngài lại xưng tội với Don Bosco.

Trong các chuyến du hành và khi cha giải tội riêng đi vắng, ngài vẫn giữ trung thành việc thực hành này, tìm đến một Salêdiêng hoặc một người khác, tùy theo trường hợp. Chẳng hạn trong khi ở lại Roma hai tháng vào năm 1867, ngài xưng tội hằng tuần với cha Vasco, một tu sĩ dòng tên mà ngài quen biết khi ở Torino. Con cái ngài thì lúc đầu tỏ ra do dự, nhưng ngài nói: “Con cứ làm đi, hãy làm việc bác ái cho Don Bosco, hãy để cho ngài xưng tội”.

Đáng chú ý nữa là cách thức ngài chu toàn công việc thánh thiện này, điều này chúng ta đã đề cập tới rồi, nhưng ở đây muốn hoàn tất nó. Để xưng tội, ngài không tìm một nơi tách biệt vào những giờ riêng, nhưng ngài đi xưng tội như bao nhiêu người trước mắt những kẻ khác. Chính vì thế các tín hữu và các thanh thiếu niên có cơ hội quan sát ngài trong khi chuẩn bị cũng như khi cám ơn trong một cách thức hết sức hồi tâm vào sự thánh thiện của hành vi. Thực hành bí tích giải tội thuờng xuyên với tâm tình sống động và bền bỉ như thế tạo nên một sự tỉnh thức và một sự canh chừng liên lỉ cõi lòng. Sự canh chừng này sẽ cất đi ngay cả những cản trở nho nhỏ đối với hoạt động của Chúa Thánh Thần, và khiến cho ân sủng thần linh luôn tuôn đổ trong linh hồn.

Sự thực hành cá nhân của Don Bosco trong vấn đề xưng tội được phản chiếu trong các giáo huấn viết cũng như diễn từ của ngài, ghi dấu một nét riêng biệt của ngài. Đó là chiều hướng rõ rệt không chỉ nhằm thu hút mà muốn làm cho các tín hữu, đặc biệt giới trẻ vốn là đối tượng của sứ mệnh được quan phòng, cảm nếm được bí tích này.

Sự độc đáo của Don Bosco khi viết về việc xưng tội, không phải vì vấn đề mới mẻ, nhưng trong sự hăng hái tông đồ để làm cho người ta yêu mến bí tích mà chính ngài yêu mến. Trong cuốn Cuộc đời Michele Magone ngài thêm vào một phần, trong đó với những từ ngữ đượm tình bác ái linh mục ngài hướng tới thanh thiếu niên, khuyến khích chúng có sự tín nhiệm con thảo đối với cha linh hướng, và sau đó hướng tới các cha giải tội cho giới trẻ để khuyên nhủ các ngài thực hành lòng nhân hậu của người cha trong việc thực thi tác vụ thánh.

Cả trong một kỷ niệm để lại cho các Salêdiêng, ngài muốn rằng người linh mục, khi được mời nghe giải tội, “phải tỏ ra một tâm hồn hoan lạc” và “không ai được dùng lời lẽ thiếu tế nhị cũng như không được tỏ ra thiếu kiên nhẫn”, và khuyên nhủ rằng “phải tiếp nhận các trẻ với cách thức dịu dàng và lịch thiệp”, không bao giờ được lãng quên giới trẻ cũng như không được tỏ ra kinh ngạc về sự dốt nát hoặc về những điều chúng xưng thú. Cũng trong chính kỷ niệm này ngài đề ra như một quy tắc: “Đây là điều vô cùng quan trọng và hữu ích cho giới trẻ: phải làm sao để đừng em nào khi đi ra mà không cảm thấy hài lòng vì chúng ta”.

Trong cuốn Giovane Provveduto ngài hướng dẫn một cách thật khéo léo, khiến cho ai theo, sẽ có thể xưng tội với sự mãn nguyện thiêng liêng. Thật vậy đọc những trang viết rất đơn sơ và ngot ngào này, ngay cả những người không còn trẻ nữa, ngay cả những người trên trán đã nhiều vết nhăn vì suy tư, cũng nghiệm thấy một cảm thức về sự tín thác khiến tự mình cảm thấy muốn đi tới bên cha giải tội trong một tâm tình đơn sơ như thời còn trẻ thơ. Cả trong quy luật của Nguyện xá, của các trường và của các hiệp hội, việc xưng tội chiếm một vị trí hàng đầu, nhưng luôn được trình bày trong một vẻ thanh thản và có thiện cảm.

Ngài viết thế nào, thì khi nói cũng vậy. Nhà viết tiểu sử hàng đầu về Don Bosco khẳng định rằng: “mỗi câu nói của Don Bosco đều là một sự kích thích người ta xưng tội”. Dù biết rằng mọi câu nói thậm xưng đều có một nền tảng trong thực tế, chúng ta bỏ qua một bên những gì liên quan tới tầm mức rộng lớn mà kiểu nói này có thể hàm chứa. Tuy nhiên liên quan tới sự hữu hiệu của việc kích thích lãnh bí tích giải tội mà Don Bosco đã làm thì không có chi phải tranh cãi, vì đó là điều có tính sự kiện. Chúng ta gọi đó là sự kiện vì nó rõ rành cả về con số lẫn về sự đa dạng trong các hoàn cảnh, đến nỗi khi đọc các tường thuật, người ta ngạc nhiên và thán phục sự kỳ diệu của ân sủng trong công trình cứu độ.

Ý nghĩ phải trở về với Thiên Chúa trở thành sức mạnh không chống cưỡng nổi trong tâm trí những người mà Don Bosco mời gọi họ xưng tội, tới độ họ qùi dưới chân ngài và giãi bày lương tâm, cả thanh thiếu niên của ngài cũng như người lạ mặt, công nhân cũng như chuyên gia, người đơn sơ chất phác cũng như quí ông có quyền chức, người tốt cũng như kẻ gian ác. Những chiến công của Don Bosco trên mặt trận này không kể xiết. Sự tài tình tìm ra cách để nói với các trái tim và dẫn họ đến thực hiện một hành vi tự nó nghiêm chỉnh và tế nhị, đụng chạm tới những vấn đề cá nhân, sẽ không thể nào có được nếu, ngoài một đức tin mạnh mẽ và một sức mạnh tông đồ lớn lao đối với bí tích giải tội, không có một phẩm chất khác vốn là linh hồn của tất cả. Phẩm chất nào vậy? Chính Don Bosco đã buột miệng để lộ ra điều này.

Năm 1862, nhân danh một linh mục ở Osimo người ta xin ngài cho biết bí quyết của ngài để chiếm cõi lòng, ngài trả lời: “Tôi không biết nó là gì. Nếu vị linh mục tốt lành đó yêu mến Thiên Chúa, ngài cũng sẽ thành công còn hơn cả tôi nữa”.

Chúng ta tìm được trong cuốn sách của Chautard[69] một chú giải hay về những lời này. “Giữa sự tốt lành tự nhiên vốn là hoa trái của tính tình, và sự tốt lành siêu nhiên của một vị tông đồ có một khoảng cách giống như giữa con người và thần linh vậy. Cái thứ nhất có thể làm phát sinh sự kính trọng, ngay cả sự thiện cảm đối với người thợ của tin mừng. Điều này có thể làm họ trệch đường, hướng tình cảm tới tạo vật, điều mà đúng ra họ phải dành cho Thiên Chúa mà thôi; nhưng không có khả năng đưa các linh hồn đến chỗ biết thực hiện sự hy sinh cần thiết để trở về với Đấng dựng nên họ. Chỉ có sự tốt lành phát xuất từ sự kết hợp với Chúa Giêsu mới có thể đạt được hiệu quả này”.

Nếu Don Bosco thực hiện điều này trong những cuộc gặp gỡ riêng tư, chúng ta tin rằng ngài đã phải lợi dụng thời cơ để truyền đạt giáo lý và truyền bá lời Chúa. Trong khi dậy giáo lý, ngài không bao giờ ngừng bắt đầu lại để nói về những dự thế cần thiết để lãnh nhận có ơn ích bí tích giải tội, tỏ lộ một cách sống động lòng nhân lành của Chúa khi thiết lập bí tích và những ích lợi của nó đối với các linh hồn. Khả năng sống trong sạch và chỗi dậy khi bị sa ngã tuỳ thuộc vào lòng yêu mến việc xưng tội và rước lễ.

Ít khi trong các buổi nói chuyện với thanh thiếu niên, huấn đức cho các nhân sự, giảng cho các tầng lớp thính giả, mà ngài không động tới, dù thời cơ thuận lợi hay không thuận lợi, bí tích giải tội. Làm thế ngài không sợ làm chói tai người nghe hay sao? Không. Người nói với đức tin và tình yêu thì nói trong sự hứng khởi, lôi kéo người nghe. Thật vậy hồng y Cagliero, người đã nghe cả trăm lần, nói rằng về đề tài ưa thích của Don Bosco, “ngài nói theo những cách thức luôn mới và hấp dẫn”. Đối với bất cứ người nào, nhóm nào ở trước mặt mình, Don Bosco không thấy đó như con người mà như các linh hồn. Cái nhìn này khơi dậy trong ngài hai tâm tình, một tâm tình khao khát và một tâm tình sợ: khao khát đưa tất cả lên thiên đàng, sợ hãi vì có thể để một số xuống hỏa ngục. Hai tâm tình này khi được hoà lại trong tình yêu Thiên Chúa tạo nên một động lực sâu xa khiến ngài hoạt động và nói năng, tạo nên một cung cách riêng cho các cuộc nói chuyện của ngài. Dù mang nhiều vẻ khác nhau, một trong những cách diễn tả thông thường và tự phát của ngài, đó là kêu mời lãnh bí tích giải tội.

Ngoài việc kích thích người ta lãnh bí tích giải tội bằng ngòi bút và bằng lời nói, điều diễn tả đức ái của hằng thiêu đốt trái tim của Don Bosco yêu mến Thiên Chúa chính là cách thức ngài ban bí tích này.

Huysmans, một người trở lại đạo vĩ đại, như tại Pháp người ta gọi ông như thế, cho rằng đối với những người như ông “do một biến cố tất cả cuộc sống của họ được đặt dưới chân một vị linh mục”. Có lẽ thật hay và tốt nếu “được nâng đỡ” và “trợ giúp” như Don Bosco đã giúp các hối nhân bởi vì “cách thức ngài giải tội làm người ta nhớ tới tình thương xót vô bờ của Chúa Giêsu”.[70] Chỉ cần nhìn ngài giải tội cũng đủ làm phát sinh nơi kẻ quan sát sự cung kính và tình yêu mến đối với bí tích này.

Với một cảm thức đặc biệt về những sự thần linh, Don Bosco đi tới chỗ ngồi giải tội. Trước khi đi tới ngài đã bỏ mũ, cầm nó trong tay để trước ngực, và không ngồi xuống mà trước đó chưa cầu nguyện và làm dấu thánh gía. Thông thường ngài ngồi giải tội trong một chiếc ghế dựa lớn có chỗ dựa tay, với hai bàn qùy hai bên. Dáng điệu ngài như người đại diện cho Thiên Chúa, nghĩa là đáng kính và nhân lành. Hai đầu gối chụm lại, chân để trên kệ, thân mình thẳng, đầu hơi cúi, nét mặt thu hút trong hành vi thần linh và hoàn toàn thấm nhập tinh thần của Chúa. Ngài quay sang bên phải và bên trái cách nhẹ nhàng. Khi tiếp nhận hối nhân, ngài không nhìn vào mặt và không tỏ dấu muốn biết mặt họ; nhưng đặt khuỷ tay trên bàn qùy, để tai lại gần miệng hối nhân. Ngài lắng nghe chăm chú, điệu bộ không thay đổi và luôn tỏ một vẻ dịu dàng.

Điều gì đã xảy ra giữa ngài và các hối nhân, chúng ta không biết được nếu không phải là từ những người đã có cơ hội xưng tội với ngài. Một trong số họ là hồng y Cagliero, người đã xưng tội với Don Bosco trong hơn ba mươi năm. Trong án phong thánh và cả ở những chỗ khác, ngài đều nói: “Thật đáng khâm phục sự tốt lành của ngài đối với thanh thiếu niên và người lớn. Hầu như tất cả chúng tôi đều xưng tội với ngài, hưởng được sự ngọt ngào cũng như đức ái luôn kiên nhẫn hiền từ của ngài. Việc giải tội ngắn nhưng không vội vã. Tốt lành và không bao giờ nghiêm khắc, ngài cho chúng tôi việc đền tội nhỏ, phù hợp với tuổi tác và sức khỏe của chúng tôi. Ngài biết trở nên nhỏ với các trẻ nhỏ, cho chúng tôi các chỉ dẫn thích hợp, và những lời khiển trách cũng được thực hiện với cùng một hương vị, đổ vào tâm hồn chúng tôi lòng yêu mến các nhân đức và sự sợ tội lỗi. Một khung cảnh thiên đàng toả ra quanh con người và quanh những lời khuyên của ngài”.[71]

Người ta nghe biết nhiều người khi đến với ngài không mấy tin tưởng, khi trở về lòng đầy an ủi, đầy tín thác nơi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Cách thức ngài giải tội khơi dậy nên sự tín nhiệm, khiến cho người đã cảm nghiệm không thể nào quên được. Bởi thế các hối nhân khi gặp lại ngài, ngay cả có khi sau nhiều năm, hoặc tự phát ra những tâm tình như thể giải bày tâm hồn và nói từ khi nào họ chưa xưng tội, hoặc có khi do ngài hỏi, họ đáp lại một cách chân thành đầy tình cảm. Nhiều người khi biết ngài đang có mặt ở nơi nào đó, liền từ nơi xa nhanh chân tìm đến để có thể xưng tội với ngài.

Có lẽ chưa nói đủ về cách thức ngài giải tội, nếu chưa thêm vào hai nhận xét nữa. Những nhận xét này giúp thấu hiểu nhiều hơn chiều sâu đời nội tâm của ngài.

Thứ nhất, khi giải tội, ngài như một người hoàn toàn thoát khỏi những sự việc của thế giới này. Dù công việc có ngập đầu, khi được mời giải tội giữa lúc bận bịu, ngài không tỏ ra khó chịu, không nói hãy trở lại sau, không nói hãy đến với một cha khác, nhưng hoãn ngay công việc, khiêm tốn phục vụ linh hồn đó. Thông thường khi đến giờ giải tội, ngài bỏ hết mọi sự và mọi người: chẳng có gì đối với ngài quan trọng hơn. Đó là mà ngài làm mỗi chiều thứ bảy, mỗi ngày áp lễ và mọi buổi sáng trước khi và trong thánh lễ của cộng đoàn. Ngài ngồi liên tục nhiều giờ trong toà giải tội, hoàn toàn tập trung vào tác vụ thánh, không một chút uể oải hay tạm dừng vì một lý do con người nào. Không tạm ngừng ngay cả khi sự thuận tiện xem chừng có thể làm như thế. Đúng là không thể tranh luận được: đối với các thánh không có công chuyện trần gian nào có thể ưu thế hơn những việc trên trời.

Một buổi sáng Chúa nhật, ngài bá tước Patrizi, người Roma, một vị khách rất được mong đợi, đến Nguyện xá. Một số bề trên tìm cách đón tiếp ông cách tốt nhất vì Don Bosco đang bận giải tội cho các thiếu niên. Người ta báo cho ngài hay, ngài bình thản trả lời: “Tốt lắm! Xin nói với ông ấy rằng cha rất sung sướng vì ông đã tới và xin ông đợi một chút cho tới khi cha giải tội cho đám trẻ đáng thương này xong nhé, vì đám trẻ này ao ước được rước lễ”. Cái một chút đó kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ.

Nhận xét thứ hai là sự chịu đựng của ngài. Một khi đã ngồi vào toà giải tội, ngài chịu mọi sự bất tiện, mọi khó chịu và những đau khổ. Chịu đựng sự mệt mỏi: sau những ngày làm việc vất vả, hầu như không cảm thấy cần nghỉ, ngài đóng đinh mình tại đó cho tới bao lâu hối nhân còn đến với ngài. Chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết: trước khi có lò sưởi, ngài chịu đựng không than thở mùa đông khắc nghiệt ở Torino mãi cho tới mười giờ, mười một giờ đêm.

Chịu đựng muỗi tấn công khi ở Liguria: cứ để cho chúng chích, khi xong xuôi đứng dậy trên trán và cánh tay ngài đầy những vết chích. Ngài còn chịu đựng những điều tệ hại hơn: đám trẻ em nghèo khổ của nguyện xá lúc đó không chỉ mang tội theo mình; nhiều lần sau khi giải tội Don Bosco phải làm việc nhiều hơn vì những trục trặc nho nhỏ đủ mọi loại: ngài đã nhắn nhủ trước nhiều lần, nhưng ngài chẳng bận tâm vì điều đó, bởi vì ngài luôn để tâm chăm sóc cho các tâm hồn đáng thương đó.

Thế còn việc giải tội trong tù thì sao? Các trại tù thời đó tệ hơn thời nay nhiều xét về sự thoáng mát và tiện nghi. Don Bosco, do có sự nhậy cảm rất mạnh, trong môi trường hôi hám đó dường như phải nhắm mắt và bịt mũi lại. Chăm chú chữa lành những vết thương thiêng liêng của đám trẻ bất hạnh, ngài như không có giờ đâu mà nghĩ tới những sự chống cưỡng mà các giác quan làm phát sinh. Nói tóm lại sau tất cả những gì đã nói cho tới đây, sao người ta lại quên được lời của Đức Pio X trong thông điệp ngày 11 thang Sáu năm 1905 gởi cho các giám mục Italia khi ngài xác quyết mạnh mẽ rằng, nơi đâu thiếu đời sống nội tâm, sẽ thiếu sức mạnh để chịu đựng một cách bền bỉ những khó nhọc do bất kỳ việc tông đồ nào?

Chương XI

NHÀ GIẢNG THUYẾT

Sự thân mật với Thiên Chúa là linh hồn của tác viên giải tội, thì cũng đồng thời cũng là nguyên lý sống của tác vụ giảng dạy. Không phải bằng tư tưởng của riêng mình mà Don Bosco truyền bá trên toà giảng, lời giảng của ngài luôn thấm nhuần và lấy sinh khí từ lời Chúa .

Không may thay, tòa giảng lại là nơi những người giảng lời Chúa thường hay bị cám dỗ. Người ta tỉ mỉ để ý tới những ý tưởng hay ho, những hình ảnh mới lạ, những trang điểm tinh vi, những hình thức lịch lãm, bằng cung giọng và bằng những hình thái; rồi dưới hình thức của sự lịch thiệp, người ta nịnh bợ đối với những người khó tin. Thật khốn khổ một vị giảng thuyết tìm kiếm bản thân mình khi giảng, họ không thể nào có thể che dấu được, bởi vì mọi sự che đậy đều sẽ bị lộ tẩy; họ làm những người hời hợt xa khỏi những suy tư nghiêm chỉnh mà lời Chúa phải tác động trên họ, nhưng lại làm cho những người đàng hoàng cảm thấy chán ngán. Đúng như lời thánh Phaolô nói đó là sự nịnh bợ lời Chúa[72] vốn không sinh hoa trái nào.

Chính Don Bosco cũng đã không bị miễn khỏi những cám dỗ tinh thần đó khi ngài mới bắt đầu giảng, ngài không giấu chi điều đó. Là người có khả năng, học hỏi kỹ lưỡng, trí nhớ vượt bậc, môi trường dân chúng thấp kém, tất cả những điều đó thúc đẩy ngài, nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa đã mau chóng không để cho tên ma quỉ cái tôi có thể sống sót.

Trong các bài giảng, Don Bosco luôn khiêm tốn chuẩn bị; vì thế ngài cũng khuyến cáo các người tập sự, “bài giảng sinh nhiều hiệu quả tốt, chính là bài giảng có nghiên cứu và chuẩn bị”. Ngoài ra ngài còn đặt vào trong đó lời cầu nguyện khiêm tốn; còn hơn nữa khi ở Torino ngài đều đặn xưng tội mỗi tám ngày, dù giữa những lao nhọc tông đồ ngài khiêm tốn đến với tòa cáo giải, với mục tiêu duy nhất là để mình trở thành dụng cụ bớt bất xứng của ân sủng để mưu ích cho các linh hồn. Như thế bất cứ nơi đâu ngài công bố lời Chúa – ngài giảng rất nhiều lần và nhiều nơi, kể cả ngoài nước Ý – ngài tỏ ra không chỉ đơn giản đi giảng mà được sai phái, là thừa tác viên, để công bố sự hiểu biết sinh ơn cứu độ cho dân của Người.[73]

Trong thánh lễ mở tay Don Bosco đã sốt sắng xin Chúa ơn hiệu năng của lời, nghĩa là sức thuyết phục để làm ích cho các linh hồn. Ơn này đã được ban cho ngài hơn cả lòng mong ước đến độ về cuối đời, ngài viết một cách khiêm tốn mà đầy đủ sự thật: “Có vẻ Chúa đã nghe lời nguyện khiêm tốn đó của tôi”.

Liên quan đến lời ngài trên toà giảng, xin hãy biết rằng các bài giảng của ngài từ lúc bắt đầu tới lúc kết không bao giờ vội vã, không làm cử điệu, nhưng một cách chậm rãi, giọng bình thản, ngôn ngữ bình dân, không thiếu cung điệu thuần túy Piedmonte; ngay cả có khi xảy ra hơi dài trong những trường hợp đặc biệt; người ta thích thú vì ngài giảng với sự hăng hái và tự nhiên.

Chẳng hạn tại Saliceto vùng Mondovi, do dân làng nài ép ngài giảng, ngài làm một mạch sáu tiếng không nghỉ giải lao. Xin cũng hãy biết rằng các đề tài của ngài là những vấn đề người ta đã nghe nhiều: tầm quan trọng của sự cứu rỗi linh hồn, mục đích của đời sống con người, sự ngắn ngủi của cuộc sống, sự bất chợt của cái chết, sự ghê sợ của tội lỗi, sự xử phạt sau cùng, sự tha thứ những xúc phạm, sự trả lại của lấy cắp, sự xấu hổ sai trái khi xưng tội, sự nóng tính, lộng ngôn, sự sử dụng tốt nỗi nghèo khó và quẫn bách, sự thánh hóa các ngày lễ, sự cần thiết và cách thức cầu nguyện, sự thường xuyên lãnh nhận các bí tích, thánh lễ, sự học đòi gương Chúa Giêsu Kitô, lòng sùng kính Đức Mẹ, sự bền đỗ. Dù đề tài đã nghe nhiều thế mà người ta nghe ngài không chợp mắt, cùng với các đám trẻ có cả những người quyền qúi và học thức, các giáo sĩ và giám mục. Họ không bị hấp dẫn bởi những nét nhân loại, nhưng bị cuốn hút một cách êm dịu bởi ngọn lửa thần linh, ngọn lửa mà hai người môn đệ trên đường làng Emmaus nói cho nhau về người khách bí nhiệm.

Thật thế! Người ta có thể áp dụng đúng cho Don Bosco vị giảng thuyết lời xướng đáp mà các đan sĩ Trappisti đọc trong lễ thánh Gioan thánh sử: “Dựa đầu vào ngực Chúa, ngài kín múc trực tiếp tự nguồn mạch thần linh nước cứu độ của Tin Mừng, và loan truyền cho tất cả thế giới ơn ban lời Thiên Chúa”. Tất cả các thánh sử đều được linh hứng, nhưng làm sao người ta có thể phủ nhận nơi thánh Gioan quyền lực của thứ ngôn ngữ mà đã xuất phát từ trái tim đi tới trái tim? Và từ đâu mà ngài kín múc nếu không phải từ Trái Tim, nơi mà vị tông đồ đã dựa vào trong bữa Tiệc Ly, nơi trở thành nguồn mạch đích thực cho sự hùng biện thánh? Chính đó là nơi đã làm nên các nhà hùng biện linh mục công giáo. Don Bosco không phải không xứng danh mang tên là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.

Cái nét riêng biệt này gợi nhớ chúng ta tới sự ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho thánh Gioan theo như suy tư của thánh Giêrôm, và đưa chúng ta đến với một chứng từ trong ký sự một bạn trẻ tại Nguyện xá về việc giảng thuyết của Don Bosco; ký sự đó viết ngày 29 tháng năm năm 1861: “Xa khỏi nhà thờ, rất nhiều bạn kinh ngạc thốt lên với tôi và với những bạn khác: – Sáng nay Don Bosco nói thật là hay! Tôi sẽ tới nghe ngài dù ngày hay đêm! Ôi! giá mà tôi có được ơn đó khi tôi làm linh mục để tôi có thể làm cho trái tim của giới trẻ và của mọi người biết yêu mến nhân đức tuyệt đẹp đó!”. Sáng hôm đó, Don Bosco đã giảng về đức trong sạch.

Có một ý tưởng chủ trị trong bài giảng của Don Bosco: sự cần thiết của việc cứu rỗi các linh hồn. Ở điểm này các linh mục phải là tiếng nói của Thiên Chúa cho các linh hồn trong những gì liên quan đến phần rỗi. Don Bosco luôn coi đây là nhiệm vụ cao trọng nhất. Ngài không chuẩn miễn cho mình làm các bài tán tụng Đức Mẹ và các thánh, một hình thức của khoa hùng biện thánh, mà các vị diễn thuyết thường dễ dàng bỏ qua: người ta chờ đợi và người ta đòi phải có cái mới mẻ và cái tinh tuý. Đây là lý do tại sao chân phước Cafasso không có nhiều thiện cảm đối với loại văn này: nhưng về Don Bosco, vị thầy này không có lý do để trách cứ đệ tử.

Đây chúng ta xem một bài: đó là bài tán tụng thánh Philiphe đọc vào năm 1868 tại Alba. Bỏ qua những điểm khác, Don Bosco đào sâu về một đề tài, mà theo ngài, là điểm bản lề dựa trên đó các nhân đức khác của vị thánh xoay chuyển, “lòng nhiệt thành vì phần rỗi các linh hồn”. Don Bosco miêu tả thánh Philiphe như vị tông đồ sống động; và khi biết rằng trong số thính giả có đông các linh mục, ngài nhấn mạnh hơn nữa điểm này. Ngài đặt giả định rằng phải chăng người ta cảm thấy thán phục các công cuộc của thánh Philiphe để cứu rỗi giới trẻ, bởi vì đó là vị thánh. Đứng trước tiền đề này ngài trả lời: “Tôi nghĩ khác. Thánh Philiphe làm  các điều kỳ diệu này đơn giản chỉ vì ngài là một linh mục sống đúng theo tinh thần ơn gọi của mình”. Tới điểm này Don Bosco nhấn mạnh trên sự cần thiết phải bắt chước vị thánh trong việc tụ họp giới trẻ để dạy giáo lý cho chúng, để sinh động chúng trong bí tích giải tội. Bởi thế sau khi cảnh cáo các bậc cha mẹ, các ông chủ và các giáo viên, ngài tiếp tục nói trong một sự hăng say tông đồ: “Thật là một tình thế kinh hãi đối với một linh mục, khi phải ra trước tòa của vị Thẩm phán thần linh, nghe Người nói rằng: “Hãy nhìn xuống trần gian: bao nhiêu linh hồn đang buớc đi trên đường bất chính và đang liều mình đi trên đường hư vong! Những linh hồn đang ở trên con đường xấu vì ngươi, ngươi đã không quan tâm làm cho chúng nghe biết về bổn phận, ngươi đã không tìm kiếm và không cứu vớt chúng. Những linh hồn khác vì ngu dốt nên đã ngày càng đi sâu trong tội, giờ đây đang ở trong hoả ngục. Ngươi hãy nhìn coi, số những linh hồn ấy đông biết chừng nào! Những linh hồn ấy đang kêu tiếng báo oán với ngươi. Giờ đây, hỡi đầy tớ bất trung và gian ác, hãy tính sổ với ta. Hãy tính sổ với ta về kho tàng qúi gía mà ta đã trao phó cho ngươi, kho tàng mà đã trả giá bằng cuộc khổ nạn, bằng máu và bằng cái chết của ta. Linh hồn ngươi được dành cho linh hồn của kẻ mà lỗi ngươi đã làm nó hư mất”. Kết thúc bài giảng ngài khích lệ mọi người hãy tín thác vào ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Như người ta thấy, tên tuổi nhà giảng thuyết Don Bosco rất được dân chúng biết đến: ngay cả trong những bài thơ ca của ngài, ngài không quan tâm đến sự phê phán của người khác, ngài muốn và biết cách đề cập đến điểm chính. Một số nữ tu tại một đan viện nổi tiếng ở Roma đã mời ngài giảng một bài ca tụng một vị thánh nữ tử đạo bổn mạng, đã nghiệm thấy điều này. Họ khao khát nghe tiếng ngài, hy vọng được nghe từ ngài những điều mới lạ.

Don Bosco nghe biết rằng sẽ có một sống quí ông quí bà danh gía sẽ đến, ngài có hứng làm bài thơ ca đó. Bắt đầu giảng ngài nói rằng từ hơn một trăm năm rồi, tại nơi đó người ta luôn lập lại bài thơ ca tụng vị thánh, cho nên có lẽ ngài không cần phải lập lại những gì mà mọi người đã biết; vì thế ngài nghĩ rằng tốt hơn nên thay đổi đề tài và đề cập tới sự cần thiết hướng tới sự trọn lành và cứu rỗi linh hồn nhờ vào việc xưng tội tốt.

Thế là, không chút e ngại, không nghĩ gì tới mình, ngài bắt đầu ngay với một phát súng bắn hai con chim. Với các nữ tu ngài nói tới sự trọn lành, với nhóm người đời ngài nói tới sự cứu rỗi linh hồn. Ngài khiến tất cả làm một cuộc xét mình về những lần đã xưng tội trong quá khứ. Sự thất vọng của mấy bà sơ có lẽ sẽ làm cho thành quả của bài giảng thành mây khói chăng? Không, nếu người ta quan sát tới thái độ lắng nghe của họ. Chắc hẳn không dễ hiểu cho ai không biết rằng luật đầu tiên của người giảng thuyết thánh là đừng nghĩ gì tới chính mình. Khoe khoang cái tôi nơi toà giảng là biến mình thành não bạt vang động và chủm choẹ lẻng xeng.[74] Thay vào đó nơi miệng người rao giảng Chúa Giêsu Kitô phát xuất ra lời sống động và sắc bén như gươm hai lưỡi thâm nhập vào tận cốt tủy của con người.

Có một lần duy nhất trong đời Don Bosco xem ra không chỉ có thể biện minh, nhưng cũng nên có một chút vui vẻ trong vấn đề đạo đức; hơn nữa chính Don Bosco không thiếu chuẩn bị về việc này. Các tác giả cổ điển đã không cống hiến cho ngài trong khoảng mười năm, kể cả ngoài ở trường học, cái thú nghiền ngẫm văn chương đó sao? Điều này không phải vô ích.

Năm 1874, các người bạn ở Roma đã thuyết phục ngài gia nhập phong trào thơ văn cổ Italia. Hai năm sau đó, Hội chỉ định ngài thuyết trình một bài về cuộc khổ nạn của Chúa trong cuộc họp trong thể của hội vào ngày thứ Sáu tuần thánh. Don Bosco không phải không biết hay giả vờ không biết tình huống: tính cách văn chương của phong trào, truyền thống của các linh mục triều nhận chức vụ này đôi khi rất nổi tiếng khi bàn về văn học cũng như tiếng tăm của những người tham dự. Đối với Don Bosco hôm đó là “trách nhiệm đọc một bài văn” và ngài thú nhận là “sự lưu loát trong cách nói, sự sang trọng trong cung cách diễn tả” luôn “tỏa chiếu” trong “hội trường khoa bảng” đó đã làm ngài “không ít sợ sệt”, nhưng ngài cảm thấy vững tâm khi nghĩ rằng “ngòi bút sang trọng” của người khác sẽ bổ túc cho sự “thiếu sót” của ngài.

Tuy nhiên, Don Bosco, giống như ở mọi nơi và mọi chỗ, muốn hiện diện ở đó một cách đơn giản như một linh mục. Thật vậy, sau khi ngài trình bày mình như “một linh mục khiêm tốn”, ngài bắt đầu nói như là một linh mục. Ngài không trình bày thần học tu đức cũng không một kiểu hùng biện bởi vì không phải là toà giảng; cũng không thuần tuý trình bày kiến thức hoặc thuần túy chú giải vì không phải là trường học. Đâu có ai ngờ ngài chọn đề tài về Bảy lời của Chúa. Theo cái nhìn linh mục của Don Bosco xem ra vô nghĩa khi một linh mục trong ngày thứ Sáu tuần thánh, hơn nữa vào đúng giờ đó, thay vì nói về sự hiến tế đau thương hiến dâng lên vị Thượng tế vĩnh cửu hai ngàn năm qua, lại làm một diễn từ thuần túy văn chương. Dẫu rằng làm như thế ngài biết rằng có lẽ sẽ ngược đời, nhưng ngài không thối lui; bởi đó khi đã công bố đề tài, ngài tuyên bố thêm rằng ngài dành “những ý niệm cao siêu” và “những hứng khởi thi vị” cho sự thông thái của người khác, và ngài cảm thấy hài lòng rằng, nếu sự nhỏ bé của bài thuyết trình của ngài không có lý do để vỗ tay tán thưởng, thì nó cũng cống hiến động lực để thực thi lòng từ bi thương cảm.

Chấm dứt phần mở đầu. Bầu khí tỏ vẻ thuận lợi, ngài vào ngay đề tài với sự đơn giản thanh thản: “Sau khi chịu vô số cực hình và xỉ nhục, chịu đánh đòn cách không thương xót, mang mạo gai trên đầu, chịu kết án tử nhục nhã, Chúa Cứu Thế đáng mến trong khi toàn thân đau đớn phải mang cây khổ giá tới tận Golgota”. Tương tự như thế, với lối diễn tả sâu sắc và khách quan. Chất liệu trình bày được lấy từ Kinh thánh, các giáo phụ, thánh Toma, từ các nhà chú giải, với một chuẩn mực và phương pháp trích dẫn hoàn hảo. Không tỏ tình cảm riêng tư của mình: Don Bosco là một vị thánh hầu như bị dẫn dắt bởi một sự cẩn trọng thiêng liêng, ngài không tiết lộ những hoạt động sâu kín của ân sủng bên trong mình.[75] Nhưng người ta nhận ra ngay những ý định của ngài: ý định của một linh mục, luôn là thế, muốn soi sáng cho các linh hồn bằng cách giúp họ xa tránh tội lỗi và đưa họ tới gần Thiên Chúa.

Chương XII

NHÀ VĂN

Không chỉ trong lời nói, trái tim linh mục của Don Bosco còn thao thức trong sự viết lách của ngài. Bắt đầu cầm bút viết cho công chúng từ năm 1844, ngài không bỏ bút xuống nữa. Ngài cống hiến sức lực vào việc in ấn, nhiều tác phẩm nay vẫn còn. Có ba lý do khiến ngài dấn thân vào công việc cầm bút dù bận bịu trăm bề: thói quen từ lâu sử dụng từng phút rảnh; năng lực của một trí khôn và trí nhớ cùng với năng lực ý chí để viết; khả năng hiếm có để thực hiện trong cùng một thời gian nhiều công việc khác nhau một cách tỉ mỉ.

Nhưng ba yếu tố hiện thực này không giải thích được làm sao ngài có thể viết được một khối lượng nhiều như thế, nếu không lưu tâm đến động lực đã khiến ngài làm việc liên lỉ trong suốt khoảng bốn mươi năm liền. Và đó chính là nhiệt tình bừng cháy vì vinh danh Thiên Chúa và lợi ích của các linh hồn. Thế nên chúng ta sẽ hiểu sai nếu chúng ta tin rằng có thể đưa ra phán quyết về các sách viết của Don Bosco bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn văn chương. Người cha thân yêu với nụ cười nhân hậu trên môi, có lẽ sẽ làm chúng ta choáng mắt và sẽ nói với chúng ta những lời không khác lắm với lời thánh Phanxicô Salê: “Về sự hoa mỹ bút pháp, tôi không hề nghĩ tới, vì tôi quan tâm khác hơn”.[76] Như thánh Phanxicô nói về chính mình,[77] Don Bosco cũng viết “do ý ngay lành, không có mục tiêu nghệ thuật, bởi vì đề tài của ngài không có ý nào khác ngoài diễn tả mình và vì thế để trang điểm chỉ cần sự đơn sơ vốn được Thiên Chúa ưa thích”.

Cái làm gợi hứng cho nhà thơ, cái là khuynh hướng mạnh mẽ của tâm hồn của nhà tư tưởng và, ngay cả nếu muốn nói, cái là sự nhẹ dạ và tự hào đối với tác giả bình dân, đối với Don Bosco chính là tinh thần tông đồ dưới sự thúc đẩy liên lỉ và mạnh mẽ của lòng yêu mến Thiên Chúa. Đây chính cái làm cho ngài muốn lên tiếng công khai, khiến ngài giam mình trong thư viện, khiến ngài cúi mình trên bàn viết. Không có ý nói rằng ngài có khuynh hướng quá độ thích thấy máy in hoạt động, như người ta nói thời chưa có xe hơi; ngài thú nhận máy in gây làm ngài mệt nhưng ngài cảm thấy như một bổn phận gắn liền với tác vụ thánh phải sử dụng khả năng Chúa ban để chiến thắng sách báo xấu bằng sách báo tốt, với những truyền đơn, những cuốn sách lớn nhỏ, những tập san, cung cấp cho giới trẻ và dân chúng những thủ bản đạo đức và sự giáo huấn đạo giáo phù hợp cũng như những in ấn về các chân lý cứu độ. Nói tóm lại, Don Bosco một người viết và in ấn cũng chính là Don Bosco khi giải tội và giảng dạy; trong bất cứ hoạt động nào, như lời thánh tiến sĩ thiên thần diễn tả: “là người của Thiên Chúa, ngài phải luôn yêu thích trong mọi nơi và mọi lúc những gì là thuộc về tinh thần”.[78] Vì thế hạn hẹp việc viết lách của ngài vào bình diện văn chương có lẽ không phù hợp.

Trong sự truyền bá đạo giáo lớn lao như thế dường như hiển nhiên cần phải tìm đến những nơi mà tác giả bộc lộ chúng ta biết về mình và về thế giới nội tâm của ngài, đó chính là những nơi chúng ta quan tâm cứu xét.

Một giám mục, khi viết về Don Bosco, trình bày như ngài như con người khi đối thoại biết “chậm rãi khi làm cũng như khi nói năng”.[79] Đây là chân dung của người biết cảnh tỉnh về chính mình khi đối thoại, cũng thế một sự tỉnh thức khi viết. Thật vậy người ta không bao giờ tìm thấy tác gỉa trình bày mình trên sàn diễn; ai muốn tìm, cần phải tìm đàng sau hậu trường. Tuy nhiên chính sự yên lặng lại có tính lợi khẩu của nó, tác giả càng yên lặng về chính mình, thì lại càng làm cho mình được đề cao. Người ta có thể nói rằng đời sống thiêng liêng nội tâm của ngài thấm nhập vào trong các sách ngài viết. Như thế chúng ta hiểu được ảnh hưởng của ngòi bút của ngài trên tâm hồn của các độc giả không có thành kiến.

Năm 1908 hồng y Vives bày tỏ ước muốn có một số cuốn sách nhỏ của Don Bosco, trong đó cho thấy lòng đạo đức của ngài.[80] Tôi không biết sách nào đã được chọn; nhưng một cách rõ ràng rằng tinh thần của ngài đều có trong mọi cuốn sách.

Một nhà thơ Kitô giáo hiện đại[81] khi diễn tả mình như “một công nhân của lời” cho thấy sự khiêm tốn thì kết hợp với ý thức nghệ thuật. Don Bosco, dù không nói ra điều đó, cho chúng ta thấy ngài là một linh mục của lời. Người thợ của lời là người, do sự thích thú cũng như ý muốn của mình, thực hiện công cuộc của mình bằng lời. Chúng ta gọi một người là vị linh mục của lời đối với ai thực thi tác vụ của mình bằng lời.[82] Lối nói này xem chừng rất mới mẻ, để chỉ về việc sử dụng lời theo cách thức thánh, nghĩa là nhân danh Thiên Chúa để phục vụ cận nhân, như một bổn phận phát xuất từ ơn gọi. Việc sử dụng lời như thế không để trình bày cái tôi của mình mà để nói lên Thiên Chúa của mình. Trong Giáo hội cách thức thông thường để thực thi tác vụ này là bằng môi miệng với việc giảng thuyết; nhưng cũng được nới rộng để mưu ích cho các linh hồn qua việc viết lách. Trong trường hợp này, người viết đang ẩn cái tôi của mình, phân phát lời cứu độ. Cũng thế Don Bosco để  cho trái tim mình được tự do khỏi những bận tâm hư danh khốn khổ và nhúng ngòi bút của mình vào trong tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa.

Nhưng người ta sẽ hiểu được những gì thâm sâu nơi Don Bosco tốt hơn nếu nhìn sự khiêm tốn của ngài như để nhằm phục vụ cho đức ái của ngài. Trong thời buổi hằng ngày có những cuộc tấn công vào lòng đạo của giới trẻ và của dân chúng, Don Bosco, bị thúc đẩy bởi đức ái của Chúa Kitô, để giải độc đối với những sai lầm, ngài nghĩ phải hướng tới một tầng lớp đông đảo độc giả trong giới trẻ và dân chúng. Nhưng giới trẻ và người dân không hiểu nhiều ngôn ngữ của sách vở; và ngài quyết định từ bỏ chính mình. Về điều này lời của Đức thánh cha cho chúng ta hiểu về sự anh hùng của các nhân đức của Don Bosco khi ngài nói rằng do “năng lực của trí óc và trí thông minh xuất chúng của Don Bosco, thực vậy, ngài đã có thể trở thành một học gỉa, một nhà tư tưởng và một văn sĩ”. Ngài đã có thể hướng các khả năng trổi vượt của mình để sáng tác, nhưng ngài đã dùng nó cho hoạt động quảng bá, đó chính là sự từ bỏ đầu tiên của ngài. Ở điểm này người ta phải nói thêm một điểm thứ hai.

Ngay cả trong lãnh vực quảng bá, với năng lực của ngài, ngài đã có thể làm nhiều điều hay, nhưng thay vào đó ngài tự giải phóng mình khỏi ảnh hưởng của văn chương để sử dụng lối văn của dân chúng. Thật vậy, ngài đọc sách của ngài cho các người thất học, hạ thấp xuống tầm mức hiểu biết của họ, và đôi khi đưa cho người gác cổng không có học thức cao đọc bản in thử của ngài, duyệt lại nội dung và luận cứ tại đó xem nó có phù hợp với đối tượng độc giả mà ngài chọn không. Ngày nay chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ tới, giữa một thời buổi đầy xáo động và khó khăn, bao điều kỳ diệu âm thầm của lòng bác ái khiêm nhường cũng như tâm hồn linh mục anh hùng của người đã thực hiện chúng; như tạp chí công giáo hàng đầu ở Italia trong năm 1853 đã giới thiệu ngài với các độc giả của mình: “một giáo sĩ khiêm tốn… có tên là Don Bosco,… với một loạt những cuốn sách nho nhỏ, đầy tính giáo dục, phù hợp với khả năng của người bình dân”.[83]

Vị “giáo sĩ khiêm tốn” của tạp chí romano đó vài chục năm sau đã trở thành “linh mục thiên thần” trong cuốn sách của một nhà văn Fiorentino. Gọi là thiên thần vì nhiều lý do, nhưng nhất là vì một điều mà chúng ta muốn trình bày nơi đây. Từ các bài viết của ngài người ta thấy một lòng yêu mãnh liệt đối với nhân đức thiên thần, nhân đức mà khoản ba mươi năm của Hiến luật trích lời ngài nói rằng: “Ai không có hy vọng vững chắc rằng, với ơn Chúa, có thể giữ được nhân đức thanh khiết trong lời nói, trong hành động và trong ý nghĩ, thì không nên tuyên khấn trong Tu hội này”.

Mối phúc thứ sáu của Phúc âm, đang khi cho thấy mối liên quan mật thiết giữa việc kết hợp với Thiên Chúa và sự trong sạch trong lòng, giúp chúng ta hiểu lý do tại sao giờ đây đề cập tới đề tài khảo sát tâm hồn của ngài qua các bài viết.

Có một đoạn văn không kém giá trị hơn một bài diễn văn dài thường được trình bày cho thấy đức hạnh của một con người. Don Bosco, một linh mục trẻ, chuẩn bị để in các mầu nhiệm kinh Mân côi. Khi nhìn vào bản in thử trong mầu nhiệm thứ ba mùa vui, trước mặt một người bạn là thần học gia, ngài nói: “Ta hãy suy ngắm Đức Trinh nữ rất thánh sinh… Không, không ổn. Ta hãy suy ngắm Chúa Cứu Thế sinh bởi Đức Maria Đồng trinh… không, cũng không được. Tốt hơn thế này: ta hãy suy ngắm Chúa Cứu Thế sinh tại Belem”. Sự trong sáng của tâm hồn ngài phản chiếu từ đầu đến cuối cuốn sách Lịch sử thánh, mà ngài đã soạn với một sự rõ ràng trước đó chưa từng có. Không có một chút gì có thể gây hại cho sự sáng ngời của đức trong sạch: người thiếu niên sẽ không gặp một chút bối rối nào, xét về kinh thánh không có vấn đề từ ngữ, xét về thuần phong mỹ tục ngài trình bày không chút ấn tượng nào về sự không thanh khiết. Khi tham khảo sách này, các giáo viên không còn gặp bối rối khi phải tìm cách trình bày một số điểm xem ra bất tiện. Đây quả là một kiệt tác của đức cẩn trọng Kitô giáo trong việc giáo dục thanh thiếu niên và là một đài kỷ niệm sống động của vẻ đẹp thiên thần bên trong của người đã phác họa ra nó.

Nhà viết tiểu sử hàng đầu về Don Bosco đã kể lại một giai thoại dường như thích hợp để làm chứng cho những gì chúng ta đã nói cho tới đây, hoặc hơn nữa bổ túc cho những gì người ta có thể thêm vào. Ngài viết: “Chúng tôi hoàn toàn tin rằng cái bí quyết mà làm cho ngài nên vĩ đại, tức là được đầy những ân ban phi thường để thực hiện những công cuộc kỳ diệu, đó là vì ngài luôn sống trong sáng và thanh khiết”.

Rảo qua những trang của cuốn Lịch sử thánh có một điều mới mẻ làm chúng ta ngạc nhiên: khi Don Bosco tránh đề cập một cách khéo léo những dữ kiện Cựu ước và tân ước, ngài đã thực hành một cách không hữu ý nhưng hữu hiệu khoa hộ giáo. Trước ngài có ai đã từng nghĩ ra cách rút từ các tường thuật của Kinh thánh để lột tẩy học thuyết tin lành? Đó chính là do sự nhậy cảm tinh tế của Don Bosco để bênh vực Giáo hội. Sự nhậy cảm đó chính là cái Sentire cum Ecclesia hoàn hảo của thánh Ignatio, được làm chứng bởi tất cả các sách của Don Bosco, từ các sách tiểu sử của các thiếu niên thánh cho tới loạt các nguyệt san cho mọi hạng người.

Thẩm quyền về giáo lý và về phẩm trật của Giáo hội công giáo đã phải để tâm đến các tư tưởng của một cây bút trong những gì liên quan đến Giáo hội. Chắc chắn điều đó có những tác động đem lại cho ngài niềm vui hoặc sự đau khổ, như người ta thấy được qua những xuất bản liên tục trong khoảng thời gian bốn mươi năm. Người nghiên cứu về các công cuộc của Don Bosco nếu muốn ghi khắc trên bia đá tư tưởng tiêu biểu về ngài, có thể áp dụng dùng lời ghi trên bia mộ của hồng y Mermillod: người yêu mến Giáo hội. Điều này càng đúng hơn nữa nếu người ta nghĩ, giống như trường hợp của vị giáo chủ người thụy sĩ này, Don Bosco đã chịu nhiều bách hại không thông thường vì chính nghĩa mà ngài theo đuổi.

Sự cố chấp của kẻ thù của Giáo hội rất lộng hành tại vùng Piedmont đến nỗi Don Bosco không thể có được sự kiểm duyệt cần thiết do giáo luật ấn định đối với các sách của ngài. Bởi thế tạp chí Letture cattoliche, vốn là đối tượng tấn công của các nhóm tin lành, trong thời gian đầu đã không có được sự phê chuẩn của những người trách nhiệm, chẳng có ai dám lãnh một trách nhiệm nguy hiểm như thế. Dù bị đe dọa liên tục bằng thư, bằng miệng và bằng vũ khí, ngài một mực tin tưởng vào Thiên Chúa và thách thức với quân Philistin, không tháo lui trong trận chiến thánh thiện. Sự nhậy cảm của ngài không bị biến thành sự liều lĩnh cố chấp, điều mà rất dễ xảy ra trong những trận luận chiến tôn giáo.

Tinh thần của Chúa nung đốt lòng nhiệt thành và điều khiển ngòi bút của ngài; hãy thử tìm xem trong vô số bài viết của ngài, sẽ không gặp được một lời, một khẩu hiệu, một ám chỉ có thể làm chứng chống lại ngài, đây chúng ta không muốn nói tới cái sâu thẳm trong ý nghĩ của ngài, nhưng sự không quan tâm bảo vệ mình lại khiến cho kẻ thù bị hạ bệ. Tiền đề “người mẹ thánh thiện của chúng ta, người mẹ tốt lành của chúng ta” và những lời tương tự trở thành lời công thức của ngài để nói về Giáo hội công giáo đứng trước kẻ tin cũng như kẻ không tin. Người ta nói rằng mối bận tâm ưu tiên của ngài, gần như nỗi đam mê của ngài, là làm cho các tâm hồn yêu mến Giáo hội. Người ta cũng nói rằng lòng yêu mến Giáo hội của ngài cũng chính là lòng đạo đức, một ân ban của Chúa Thánh Thần.

Không chỉ trong sách viết mà cả trong thư từ, Don Bosco đã viết cả một số lượng không thể tin nổi gởi đi khắp nơi trên thế giới, về cả ngàn đề tái khác nhau, cho các giáo chủ, các vua chúa và giới qúi tộc, cho các cá nhân và cộng đoàn tu sĩ, cho các công nhân, cho các bà và các thiếu niên. Nhưng điều chúng ta quan tâm đó là các thư từ này phản ánh tinh thần của người viết. Và chúng ta giới hạn sự tìm kiếm của chúng ta ở điểm này.

Sự mau chóng trả lời khiến ngài đặt mình viết trên giấy không suy nghĩ nhiều đến nỗi có nguy cơ sai lỗi trong hình thức, tuy nhiên không khi nào làm ngài mất hướng tư tưởng và thói quen suy nghĩ một cách thánh thiện, đến nỗi có khi ngài để lộ những điều liên quan đến đời sống nội tâm của ngài. Nơi thư từ của Don Bosco người ta không thấy có một số hỏi han về những vấn đề thiêng liêng như thường thấy trong các thư từ của những tâm hồn đạo đức. Những điều này ngài trực giác được một cách dễ dàng; nhưng về những tình trạng nội tâm sâu kín ngài không  cho rằng phải nói bằng lời. Đối với chúng ta những điều ngài viết là sự phản chiếu tất yếu sự kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa trong cõi lòng của ngài: tức là một sự hoàn toàn tùng phục ý thánh ý và vinh quang Thiên Chúa, phần rỗi các linh hồn, các bí tích, kinh nguyện, sự xúc phạm tới Thiên Chúa, sự tín thác vào Chúa quan phòng, nhắc nhở tới ngày lễ trọng, những trích dẫn kinh thánh, những lời nguyện tắt.

Ngài thường kèm với thư các hình ảnh với những lời nho nhỏ, để nhắc nhở tâm trí người ta tới các sự việc thiêng liêng. Và giọng viết của ngài. Đọc một số thư của ngài rồi, chúng ta sẽ thấy trong mình một cảm nhận niềm bình an vốn luôn gắn liền với những ý nghĩ, lời nói và hành vi tốt lành. Ai trong chúng ta đã chẳng có lần nhận được những lá thư với những lời lẽ cay cú và gây hấn đó sao? Ngài thường nói rằng trả lời ngay lập tức với sự ngọt ngào và kính trọng sẽ đem lại chiến thắng, sẽ biến đổi thù thành bạn. Biết bao lần ngài đã chứng minh được điều này! Sau cùng, điểm đáng nói nữa trong các thư của ngài là sự tự nhiên khi ngài nói đến danh Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Đức Mẹ. Danh của các vị này, theo như người viết hồi sử Don Bosco “đang khi viết ngài cũng phát âm bằng tất cả sự yêu mến của cõi lòng; tuy nhiên ngài làm cho đừng ai nghe thấy, vì ngài tránh tất cả những gì khác thường khiến nó giống như hơi thở của mình được ghi ra trên giấy vậy”.

Y thức về căn tính riêng đạt tới mức độ thâm sâu khi người linh mục trở thành alter Christus thực sự, cá vị hóa bản thân mình theo con người Chúa Giêsu Kitô.

Chương XIII

NHÀ GIÁO DỤC

Một số người tranh luận rằng liệu Don Bosco có phải là một nhà sư phạm lớn không; nhưng không có ai có thể nghi vấn rằng Don Bosco là một nhà giáo dục vĩ đại. Đây chính là điểm chúng ta quan tâm. Tại sao Don Bosco tự hiến cho việc giáo dục giới trẻ? Ngài quan niệm thế nào về giáo dục? Ngài đã thực hiện giáo dục như thế nào và muốn nó được thực hiện thế nào? Chúng ta sẽ trả lời cho ba vấn đề này vẫn theo hướng không ra khỏi luận đề của chúng ta: Don Bosco với Thiên Chúa.

Don Bosco dấn thân vào việc giáo dục giới trẻ với sự nhiệt tình của người nghĩ mình nhận được sứ mệnh đặc biệt từ trên cao. Ngài có lý do để nghĩ như thế. Ai, nếu không phải Thiên Chúa, đã đặt trong tâm hồn cậu bé Bosco cái khuynh hướng bẩm sinh, như một hạt giống và tâm tình sơ khởi của ơn gọi, và làm cho nó sớm trưởng thành ngay khi cậu bắt đầu biết suy nghĩ, khiến cậu tìm kiếm các thiếu niên, không phải để thỏa thích vui chơi với chúng, nhưng để nói lại cho chúng những điều hay đẹp cậu đã nghe từ mẹ mình và để kéo chúng ra khỏi điều xấu, thúc đẩy chúng làm điều tốt? Nhớ lại ý thức sớm sủa của mình, Don Bosco viết lại khi ngài đã cao tuổi: “Tụ tập các trẻ để dạy giáo lý cho chúng là ý tưởng rõ ràng trong trí tôi từ lúc tôi được năm tuổi; nó tạo nơi tôi một ao uớc sống động rằng đó là điều duy nhất tôi phải làm trên trần gian này”. Rồi từ đó, dù chưa hết tuổi thiếu niên, cậu đã bắt đầu có ý tưởng làm linh mục, nhìn tới mục tiêu đời sống giáo sĩ. Người ta nghe cậu tâm sự: “Nếu tôi là linh mục, tôi sẽ gần gũi với các thanh thiếu niên, tôi sẽ gọi chúng đến gần, tôi muốn yêu thương chúng và làm cho chúng yêu mến tôi nữa, sẽ nói cho chúng những lời tốt, những lời khuyên và tôi sẽ hy sinh tất cả cuộc sống mình vì phần rỗi đời đời của chúng”.

Nhưng tiếng gọi nhiệm mầu thực sự và trực tiếp từ trời đến với cậu là vào lúc chín tuổi. Bức màn của tương lai được vén mở trong một giấc mơ. Những giấc mơ của Don Bosco có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ xem xét sau. Bây giờ chúng ta dừng ở giấc mơ đầu tiên, giấc mơ có thể được định nghĩa là giấc mơ ơn gọi. Chúng ta đọc lại nguyên văn như được kể lại cho chúng ta qua ngòi bút của ngài như được kể lại trong “Hồi sử”.

“Trong giấc ngủ, tôi thấy mình đang ở gần nhà trong cái sân cỏ khá rộng nơi có một đám đông thanh thiếu niên đang chơi đùa. Một số cười dỡn, một số đang chơi, một số không ít nói lời phạm thượng. Nghe những lời phạm thượng đó, tôi nhào vào giữa bọn chúng, quát mắng và dùng những cú đấm để làm chúng im đi. Ngay lúc đó một Người đáng kính, trạc tuổi trung niên, dáng vẻ cao sang xuất hiện. Ông mặc một chiếc áo trắng phủ toàn thân, khuôn mặt tỏa sáng khiến tôi không thể nhìn được. Ông gọi tên tôi và ra lệnh cho tôi hãy cầm đầu đám trẻ và nói thêm: – Không phải bằng đánh đập nhưng bằng sự dịu dàng và đức ái con phải chinh phục các bạn của con. Con hãy dạy cho chúng biết sự xấu xa của tội lỗi và sự cao quí của nhân đức.

Bối rối và sợ hãi, tôi nói rằng tôi chỉ là một đứa bé nghèo và thất học, tôi không có khả năng nói về đạo giáo cho đám trẻ ấy. Lúc đó đám trẻ ngừng cãi lộn, hò hét và lộng ngôn, chúng bao quanh Người đang nói. Tôi dường như không biết mình nói gì, tôi hỏi: – Ông là ai mà lại ra lệnh cho tôi làm điều không thể?

– Đúng, vì chuyện ấy không thể, nên con phải làm cho thành có thể với sự vâng lời và bằng kiến thức.

– Làm thế nào và từ đâu tôi có thể đạt được kiến thức?

– Ta sẽ cho con một Bà giáo, dưới sự hướng dẫn của bà, con sẽ trở thành khôn ngoan và không có sự hướng dẫn của bà mọi khoa học sẽ trở thành ngu ngốc.

– Thế nhưng ông là ai mà lại nói như thế?

– Ta là Con của Bà, người mà mẹ của con dậy con chào ba lần mỗi ngày.

– Mẹ tôi nói là nếu không có phép của bà, tôi không được làm bạn với người mà tôi chưa biết. Vì thế hãy cho tôi biết tên của ông?

– Tên của ta, hãy hỏi mẹ của ta. Lúc này, tôi nhìn thấy bên cạnh Ông có một người đàn bà khuôn mặt thật uy nghi với tấm áo choàng lấp lánh, như thể mỗi điểm trên tấm áo choàng có một ngôi sao. Nhận thấy tôi thêm bối rối khi hỏi và trả lời, bà ra hiệu cho tôi lại gần, dịu dàng cầm lấy tay tôi, bà nói: – Hãy nhìn! Nhìn quanh, tôi thấy đám trẻ đã biến đâu hết và chỉ còn lại một bầy thú, nào chó, nào dê, nào mèo, gấu và đủ mọi loại khác nhau – Đây là cánh đồng hoạt động của con. Con hãy trở nên khiêm nhường, mạnh mẽ và cường tráng, và những gì con thấy xảy ra cho những con thú này, con phải làm cho các con cái của ta.

Tôi nhìn quanh và thay vì thấy những con thú dữ thì những con chiên hiền lành, đang tung tăng chạy nhảy kêu be be như để mừng Ông đáng kính và Bà đó.

Tới đây, vẫn còn trong giấc ngủ, tôi bật khóc và xin Bà cắt nghĩa cho tôi vì tôi không hiểu những điều xảy ra có nghĩa gì.

Bà liền đặt tay lên đầu tôi và nói: – Khi tới lúc, con sẽ hiểu. Vừa nói xong điều đó thì một tiếng động làm tôi giật mình thức dậy và mọi sự biến mất.

Tôi bị ấn tượng. Dường như có những bàn tay đã đánh lại tôi khi tôi đánh chúng, khuôn mặt tôi bị đau vì những cú nhận được từ đám trẻ đó; tiếp đến là Ông và Bà lạ mặt đó cũng như những điều mà họ nói làm cho trí óc tôi phải suy nghĩ, và đêm đó tôi không thể ngủ tiếp được nữa”.

Sau khi kể lại giấc mơ này trong gia đình ngày hôm sau, trong ba mươi tư năm sau đó ngài không kể lại giấc mơ này nữa. Tuy nhiên ngài nói rằng ngài không bao giờ có thể quên được nó; còn hơn nữa với thời gian ngài dần nhận ra những điều đã nhìn và nghe thấy trong giấc mơ. Ngày nay chúng ta có thể nhìn ra trong giấc mơ đó lời loan báo về một sứ mệnh, chỉ ra cho ngài đối tượng, phương pháp và kết qủa sau cùng. Chính Đức Pio IX, khi nghe về giấc mơ này, ngài coi đó là nghiêm chỉnh. Về điều này, Don Bosco kết thúc tường thuật như sau: “Tôi luôn giữ yên lặng về mọi sự, còn trong gia đình tôi thì không ai có đó là quan trọng.

Nhưng đến năm 1858 khi tôi tới Roma để bàn thảo với Đức thánh cha về Tu hội Salêdiêng, ngài đã bảo tôi kể lại tỉ mỉ mọi sự ngay cả dù chúng chỉ có vẻ siêu nhiên mà thôi. Tôi đã thuật lại lần đầu tiên giấc mơ lúc chín tuổi. Đức thánh cha ra lệnh cho tôi viết lại theo nghĩa nguyên văn, cách tỉ mỉ và để lại nhằm khích lệ con cái của Tu hội, mà vì mục đích thành lập nó tôi đã thực hiện chuyến đi Roma”.

Cần phải thêm rằng để gây thêm ấn tượng cho ngài, giấc mơ này đã được lập lại hơn sáu lần khác nhau với những yếu tố mới, như một sự khai triển để giúp ngài hiểu hơn. Năm mười sáu tuổi với lời hứa về các phương tiện vật chất cần thiết; năm mười chín tuổi với mệnh lệnh trang trọng về việc chăm lo cho giới trẻ; năm hai mươi mốt tuổi xác định cho ngài loại giới trẻ nào ngài phải dành sự chăm sóc đặc biệt; năm hai mươi hai tuổi chỉ cho biết cánh đồng hoạt động đầu tiên: thành phố Torino. Hai lần sau cùng ngài thấy rõ ràng cảnh của công cuộc Valdocco và hiểu được ngài phải làm thế nào để có những người cộng tác đắc lực; đó chính là lời loan báo về Nguyện xá và về Tu hội Salêdiêng.

Việc canh tân những hiện tượng này làm cho ngài hết dần những bối rối về bản chất sự việc, khiến ngài xác tín rằng có yếu tố siêu nhiên trong đó. Thật vậy, ngày 8 tháng năm năm 1884, khi ngỏ lời với các thành viên của Tu hội, ngài bày tỏ sự mãn nguyện và rồi kết thúc thế này: “Người nào đó có thể sẽ nói rằng: những điều này là để làm vinh quang Don Bosco. Không hề như thế: đối với cha chỉ có một điều kinh khủng là phải tính sổ về cách thức cha sẽ hoàn thành ý Chúa như thế nào. Với kế hoạch mà Chúa đã hoạch định cho chúng ta, cha đã luôn tiến tới và chính đây là mục đích duy nhất mà vì đó cha đã làm việc cho tới bây giờ. Đây chính là động lực mà vì đó giữa những nghịch cảnh, giữa những bách hại, giữa những trở ngại to lớn cha đã không để mình mất tinh thần và Thiên Chúa đã luôn ở cùng chúng ta”. Ký sự của Nguyện xá đã cung cấp cho chúng ta những tin tức trên kết thúc như sau: “Người ta không thể diển tả được cái ấn tượng sâu xa mà ngài để lại cũng như sự hăng hái mà mạc khải đó tạo nên”.

Sự nhớ đến giấc mơ có tính tiên tri đó đánh thức hồi ức của ngài, hơn nữa nó còn chụp lấy ngài vào tháng năm 1887 khi ngài cử hành thánh lễ trong nhà thờ Thánh Tâm. Đầy xúc động, nước mắt tuôn rơi trên khuôn mặt của ngài. Đã trải qua sáu  mươi hai năm kể từ khi lời nói với ngài: – Khi tới lúc, con sẽ hiểu. Lúc này ngài hiểu đây chính là giây phút đã nói: sự xây dựng một đền thờ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong thành phố vĩnh cữu và như thể thánh hiến cái ngày hoàn tất sứ mạng còn mù mờ khi ngài còn thiếu niên. Nhưng con cái ngài, những người chứng kiến sự phát triển công cuộc, còn hiểu hơn nữa, vì họ thấy ngài ban đầu như một chú bé mơ mộng với chỉ có một ý tưởng sơ đẳng và bây giờ một vị thánh đáng kính đang chiêm ngưỡng thực tại rộng lớn.

Người kế vị thứ ba của ngài, Don Rinaldi, thấy tầm quan trọng của sứ điệp thần linh trong dịp kỷ niệm một trăm năm giấc mơ, có lý do để kêu gọi tất cả các Salêdiêng để tâm suy niệm biến cố này và rút ra những bài học.[84] Thật vậy, ngày nay khi suy tư về nó, người ta cảm thấy một niềm phấn khởi mới để sống chương trình hành động do Chúa quan phòng trao cho Don Bosco và con cái ngài.

Nếu sứ mệnh đến từ trên cao, thì hiển nhiên mục tiêu cuối cùng của công cuộc giáo dục của Don Bosco không thể chỉ là tạo nên những công dân tốt cho quê hương trần gian, nhưng là những Kitô hữu tốt cho quê hương thiên quốc. Đó là lý do tại sao năm 1868 lên tiếng sau buổi academia mừng lễ bổn mạng ngài, ngài qủa quyết cánh mạnh mẽ rằng: “Mục đích duy nhất của Nguyện xá là cứu rỗi các linh hồn”. Đối với Don Bosco, công dân tốt và Kitô hữu tốt không phải là hai hạn từ bất tương hợp, nhưng có nghĩa là điều này tất yếu được nối kết với điều kia. Don Bosco không bao giờ bỏ qua những gì mà khoa sư phạm lành mạnh và trực giác tâm lý mách bảo để kéo từ đứa trẻ thành một người có tay nghề và có danh dự. Vì thế thật dễ hiểu tại sao đứng trước thẩm quyền nhà nước, ngài thích nhấn mạnh đến khía cạnh dân sự của công cuộc giáo dục ngài thực hiện. Tuy nhiên ngài không bao giờ quan niệm việc giáo dục một đứa trẻ đã chịu phép rửa mà không đồng quy hoạt động sư phạm nhằm phát triển đời sống siêu nhiên. Đây chính là điểm chúng ta quan tâm tìm hiểu: thái độ của Don Bosco trước vấn đề này.

Monsignor đáng kính Cavigioli nói rằng: “Đời sống đức hạnh của con người, sau Chúa Kitô, phải được xoay chuyển trong bầu khí của sự siêu nhiên; việc giáo dục mà nhắm dừng lại ở tầm mức tự nhiên thôi sẽ là một sự hạ thấp mức độ. Người xuống khỏi bình diện ân sủng sẽ lập tức chuốc lấy sai lầm, bởi vì họ không đứng ở bình diện của tự nhiên được, nhưng đầu họ bên dưới cái tự nhiên”.[85]

Thời bấy giờ có nhu cầu phải có ai đó nêu cao cờ hiệu của nền giáo dục toàn diện của Kitô giáo, nhất là đối với tầng lớp đông đảo hơn trong xã hội. Khi vị thánh của chúng ta đi vào trong lãnh vực này, chủ nghĩa tự nhiên đang chiếm lĩnh ngày càng nhiều nơi giới trẻ trong những trường học mở rộng cho tất cả. Các lý thuyết sư phạm đang gieo rắc học thuyết loại bỏ bất cứ ý tưởng nào về sự nâng lên bình diện cao hơn. Không hiếm những người tốt cũng bị cuốn hút bởi trào lưu, để mình bị các khuynh hướng của thời dại dẫn dắt. Don Bosco không tức giận về những điều tốt mà thời đại mới cống hiến, nhưng lý tưởng của ngài đặt ở một điểm cao hơn nhiều.

Như ngài quan niệm thế nào về giáo dục, ngài cũng làm cho người ta hiểu điều đó ngay từ buổi đầu khi tiếp nhận các thanh thiếu niên đến với ngài: ngài đón nhận chúng như từ tay Thiên Chúa. Ngài nói: “Chúa đã gởi đến cho chúng ta, ngài đang gởi tới và sẽ gởi tới nữa”. Ngài biết rằng thân nhân cha mẹ và các ân nhân đã phó thác chúng cho ngài, để ngài dạy chúng về văn hóa, khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp, và ngài đáp ứng lại nguyện vọng này; nhưng ngài luôn lập lại lời giáo huấn này cho những người cộng tác với mình: “Chúa gởi chúng đến với chúng ta, để chúng ta chăm lo cho linh hồn chúng và chúng tìm được ở đây con đường dẫn tới phần rỗi đời đời. Vì thế mọi cái khác ở đây phải được coi là phương tiện; mục tiêu tối thượng của chúng ta là làm cho chúng trở thành người tốt và cứu rỗi chúng”. Bởi thế trong cuộc gặp gỡ đầu tiên ngài nói với họ về linh hồn; còn hơn nữa ý tưởng của ngài có lẽ làm kinh ngạc nhiều người.

Ngài cho rằng nếu một thanh thiếu niên vào trong trường mà bề trên không tỏ ra tình yêu mến vì phần rỗi của em, nếu bề trên đó sợ phải nói với em cách khôn ngoan về chuyện lương tâm, hoặc nói chuyện về linh hồn dùng những lời nửa chừng, hay nói một cách mơ hồ về việc phải trở nên tốt, phải trở nên đáng kính trọng, về việc vâng lời, học hành, làm việc, thì sẽ không có được những kết qủa lâu dài và bề trên đó sẽ không được yêu mến. Đó là cái đầu tiên trong các sai lầm, khó lòng mà sửa chữa được. Don Bosco thường dạy từ kinh nghiệm của ngài: “Người trẻ thích nghe nói về những quan tâm thiêng liêng hơn người ta nghĩ và từ đó hiểu được ai là người thương yêu hay không thương yêu em”. Không chỉ đối với bề trên, ngài còn nhắn nhủ điều đó vào đầu năm học cho tất cả những người khác trong việc dạy học, hộ trực, sửa lỗi, tưởng thưởng; để làm cho các thanh thiếu niên thấy rằng họ ở đó là vì linh hồn của chúng.

Đối với các giáo viên, ngài muốn họ phải coi trường học như một phương tiện để làm điều tốt. Ngài bảo họ: “Các bạn giống như các cha xứ trong xứ đạo của mình, giống như các nhà truyền giáo trong vùng truyền giáo của mình. Bởi thế thình thoảng các bạn phải đề cập đến các chân lý Kitô giáo, phải nói về bổn phận đối với Thiên Chúa, về các bí tích, về lòng sùng kính đối với Mẹ Maria”. Nói tóm lại, ngài muốn rằng các bài học của họ phải mang tính Kitô giáo và đang khi khuyên nhủ học sinh trở nên Kitô hữu tốt, họ phải tỏ ra là những người chân thành và đáng mến. Ngài nói: “Đó là bí quyết để yêu mến thanh thiếu niên và chiếm được sự hoàn toàn tín nhiệm. Ai cảm thấy xấu hổ phải khuyên nhủ về lòng đạo đức thì không xứng đáng làm thầy dạy; giới trẻ sẽ khinh thường người đó và người đó sẽ không thành công làm được chuyện gì khác hơn là làm hư hỏng các tâm hồn mà Chúa quan phòng đã tín thác cho họ”.[86]

Mọi bề trên và giáo viên phải thường xuyên chạy tới Thiên Chúa xin sự trợ giúp và phải qui về Thiên Chúa tất cả những gì đã thực hiện được. Khi có ai đó ca thán về lớp học của mình, ngài thường hỏi người đó: “Con có cầu nguyện cho các học sinh của con không?”. Trong cuốn “Những kỷ niệm tín cẩn” cho các giám đốc ngài khuyên từng người rằng: “Trong những vấn đề quan trọng hãy luôn nâng tâm trí lên cùng Chúa trước khi phải tính toán”. Và trong cuốn Nội qui của các nhà, khi kết thúc phần mở đầu tổng quát, ngài tuyên bố rằng đối với tất cả mọi người, kiên nhẫn và chuyên cần cầu nguyện là không thể thiếu được, không có nó mọi qui luật dù tốt cũng vô ích.

Và suy tư của ngài mỗi cảm thấy hài lòng về kết qủa đạt được: “Chúng ta cần khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa, nhìn nhận mọi sự là từ Ngài, khi cầu nguyện và nhất là trong thánh lễ khi Mình Thánh Chúa được nâng cao, hãy phó thác bản thân, mọi lao nhọc, mọi học sinh”. Riêng bản thân Don Bosco, sau khi tổ chức được đều đặn các lớp học, ngài bắt đầu giải thích một cách khôn ngoan bằng nhiều cách thức khác nhau ba điểm nền tảng chương trình của ngài: xa tránh tội lỗi, thường xuyên xưng tội và rước lễ. Đưa Thiên Chúa vào và giữ gìn sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn các thanh thiếu niên là mối quan tâm trước nhất của Don Bosco.

Đề tài này có lẽ sẽ đưa chúng ta đi xa hơn nữa. Cho tới đây chúng ta đã thấy đối với Don Bosco yếu tố tôn giáo cốt yếu như thế nào trong việc giáo dục, còn hơn nữa đó là yếu tố ưu tiên; không có yếu tố tôn giáo, theo ngài, việc giáo dục không chỉ không có hiệu quả mà còn không có ý nghĩa nữa. Trong một bài tựa đề Lời nhắn nhủ thánh do chính ngài in và phân phát năm 1849, người ta đọc thấy: “Chỉ có đạo giáo mới có khả năng khởi sự và hoàn thành công trình giáo dục đích thực”. Khi nói thế ngài không ám chỉ thứ lòng đạo hời hợt, trừu tượng, không thực hành.

Trong cuốn Cuộc đời thiếu niên Francesco Besucco, in năm 1864, không bận tâm các nhà sư phạm sẽ nghĩ gì, ngài nói khá rõ: “Dù cho đối với các hệ thống giáo dục khác nhau người ta muốn nói gì, nhưng tôi không thấy đâu có một nền tảng chắc chắn nào khác nếu không phải là sự thường xuyên xưng tội và rước lễ, và tôi nghĩ rằng mình không nói qúa khi khẳng định rằng, nếu bỏ qua hai yếu tố này, luân lý không có gì bảo đảm”. Don Bosco đã sống xác tín này suốt cả đời ngài.

Năm 1878 ngài tuyên bố một cách chân thành với một viên chức cao cấp trong chính quyền rằng: “Người ta nói rằng Don Bosco đề cao quá về tôn giáo. Đúng thế, tôi cho rằng không có tôn giáo người ta không thể đạt được gì tốt nơi thanh thiếu niên”. Năm 1885, ngài buột miệng than thở về vấn đề này: “Cha đã gìa và đang kiệt sức, cha sẽ chết trong đau đớn vì không được hiểu đầy đủ”.[87] Ngài không chỉ rõ ai là người không hiểu ngài, nhưng không khó đoán ra người ấy.

Đức thánh cha Pio XI hiểu ngài rất rõ. Sau khi công bố Don Bosco là “người cổ võ vĩ đại của giáo dục Kitô giáo”, trong bài giảng ngày phong thánh, Đức thánh cha vạch ra đâu là bí quyết khiến hệ thống giáo dục của thánh Gioan Bosco đạt được hoa trái dồi dào và kỳ diệu như thế: “Ngài đã hiện thực hóa các nguyên tắc của Phúc Âm mà Giáo hội công giáo đã luôn luôn khuyên nhủ”.[88] Tác giả Caviglioli miêu tả trong ít lời một tổng hợp tuyệt đẹp về lý tưởng sư phạm có một không hai của Don Bosco: “Thiên Chúa, Đấng được mạc khải trong Chúa Giêsu Cứu thế, đang sống trong Giáo hội và tác động với những đặc sủng trên toàn bộ hoạt động giáo dục”.

Nhào nặn lương tâm giới trẻ theo cách thức Kitô giáo đã luôn là ý định của các nhà giáo dục Kitô giáo; Don Bosco thực hiện điều đó trong một thời điểm lịch sử mà điều này tỏ ra cấp bách hơn bao giờ hết. Để tường thuật ngài đã tiến hành như thế nào có lẽ không thể làm việc này trong vài trang, nhưng cần cả một cuốn sách dầy. Tôi xin được thu gọn quanh hai điểm mà thôi: trong lãnh vực giáo dục ngài đã làm những điều kỳ diệu nhờ vào lòng nhân ái linh mục và lòng đạo đức Kitô giáo. Ngài thực hiện cả hai điều này trong những cách thức trước đó chưa hề có.

Về điểm thứ nhất tôi lấy những đoạn trong một bài ngài trình bày năm 1883 trong một cuộc hội nghị của những nhân vật tiếng tăm tại Paris. Ngài nói: “Tâm hồn thanh thiếu niên trong giai đoạn hình thành cần phải được cảm nghiệm những ơn ích tốt lành của sự dịu dàng linh mục”. Sự dịu dàng và lòng thương mến linh mục xuất phát từ lòng tốt linh mục: đó là một lòng tốt sinh ra và nuôi dưỡng bởi tình yêu Thiên Chúa, nó mang tính phụ tử và tín nhiệm vì ích lợi của các linh hồn và nó để lại trong những ai được sống trong ảnh hưởng của tình yêu này từ tuổi nhỏ một kỷ niệm lâu dài và cứu độ. Lòng tốt này được thích ứng một cách khôn ngoan và ngọt ngào với tuổi trẻ. Don Bosco đã chọn đó làm phương pháp giáo dục của mình và Don Rua có lý để gọi ngài là người mà nơi con người này Thiên Chúa nâng tình phụ tử thiêng liêng lên một bậc cao nhất.

Trong Nguyện xá, lòng tốt của Don Bosco tỏa chiếu mọi ngõ ngách. Ngài giống như mặt trời của Nguyện xá, tỏa ánh sáng và sức nóng vào cả những nơi người ta không thấy. Ngài duy trì nơi môi trường sự thanh thản và nơi thanh thiếu niên ước muốn làm hài lòng ngài; ngài xuất hiện nơi nào trong sân chơi là chúng chạy tới hôn tay ngài và để được ở gần ngài, và ngài nói năng, mỉn cười, vui đùa, mắt nhìn chỗ này qua chỗ khác, và ghé tai để nghe những ai làm hiệu muốn nói điều gì đó với ngài cũng như nói nhỏ vào tai những ai ngài muốn khuyên nhủ, khích lệ hay cảnh giác điều gì đó.

Ngài không bao giờ quên ba phương châm mà cõi lòng linh mục của ngài mách bảo và thường nhắc nhở con cái ngài để họ có thể chiếm được cõi lòng và sự tín nhiệm của thanh thiếu niên: hãy yêu thích cái mà chúng thích để rồi chúng yêu thích điều chúng ta thích vì lợi ích của chúng; yêu mến chúng trong cách thức để chúng biết chúng được yêu mến; phải tìm mọi cách để đừng có thiếu niên nào khi ra đi mà cảm thấy bất bình. Người ta mau chóng truyền đạt những phương châm tương tự, còn quá sớm để nhận được sự tán thưởng, thay vào đó để thực hiện chúng phải hy sinh không ít.

Nhưng Don Bosco cũng dạy rằng nhà giáo dục là một người hiến thánh bản thân mình vì lợi ích của học sinh và do đó phải sẵn sàng đối diện với mọi sự khó chịu, mọi mệt nhọc để theo đuổi mục tiêu. Tuy nhiên sức mạnh và sự bền bỉ chỉ có thể có đối với những ai trong công trình lớn lao của việc giáo dục biết tìm kiếm duy nhất vinh quang Thiên Chúa và lợi ích các linh hồn mà thôi. Nhưng rồi cũng tới một thời gian trong đó công việc qúa nhiều, ngài không còn có thể hiện diện giữa các thanh thiếu niên như trước nữa; tuy nhiên ngài đã tạo ra được một bầu khí tốt hơn, giống như cánh tay nối dài của ngài, để nơi đâu ngài không thể làm trực tiếp được nữa, thì cánh tay đó nhân danh ngài và trong cùng một tinh thần của ngài sẽ làm thay.

Điều này là một nhận định chung, giờ đây chúng ta sẽ đi vào vài chi tiết, bỏ qua những vô số những chi tiết khác để tránh cho diễn từ của chúng ta qúa dài.

Lòng tốt linh mục của Don Bosco tỏ ra cho các học sinh ngay từ lúc các em đặt chân vào Nguyện xá. Cung cách phụ tử, sự thanh thản trên khuôn mặt, vẻ dễ mến khi ngài mỉn cười ngay lập tức đánh thức nơi các em sự kính trọng và tín nhiệm. Cũng cần phải trình bày ở đây sự khéo léo và đa dạng về cách thức ngài hỏi han những học sinh mới tới nhờ đó ngài biết được bản chất và tính tình của chúng. Tới một lúc thích hợp sẽ là câu hỏi không bao giờ thiếu: “Con có muốn là bạn của Don Bosco không?”. Câu hỏi này mở đường cho ngài nói với tâm hồn em và dẫn em tới ý nghĩ đi xưng tội.

Đối với người không biết Don Bosco, dường như lạ lùng điều tôi nói ở đây. Thật thế, ngài rất tự nhiên trong việc nói những lời như thế, khiến cho các em nhỏ vừa tới, mở tâm hồn ngay ra cho ngài.

Mỗi buổi tối Don Bosco đều nói mấy lời với các em sau kinh tối, thói quen được gọi là “huấn từ tối”. Đó là vài phút ngắn ngủi thân mật gia đình trong tình cha con, ngài để lại trong tất cả một cảm nghĩ về ngày đã qua. Các thính giả của ngài ghi  lại cho chúng ta khá nhiều về những buổi nói chuyện như thế. Đây tôi trích lại một trong các tường thuật đó.

Ngày 31 tháng mười hai mỗi năm vào giờ huấn từ tối ngài đều cho một hoa thiêng (strenna), nghĩa là một kỷ niệm thiêng liêng cho năm mới. Năm 1859 ngài bắt đầu huấn từ tối như sau: “Các con rất yêu dấu của cha, các con biết cha yêu các con dường nào trong Chúa và đã hiến toàn thân để làm ích cho các con bao có thể. Một chút kiến thức, một chút kinh nghiệm mà cha đạt được, những gì cha là và những gì cha có, lời cầu nguyện, sự lao nhọc, sức khỏe và cả chính mạng sống cha, tất cả cha đều ao ước dùng để phục vụ các con. Trong bất cứ ngày nào và bất cứ điều gì các con cứ tin tưởng nơi cha, nhưng đặc biệt trong chuyện linh hồn. Về phần cha, hoa thiêng cha cho chính là tất cả con người cha; có thể đó là một cái gì gồm nhiều thứ lộn xộn, nhưng khi cha cho chúng con tất cả, nghĩa là cha chẳng giữ chút gì cho mình”. Sau khi cho tư tưởng hoa thiêng, ngài tiếp tục: “Cha muốn rằng chúng ta kết thúc năm cũ với một tình mến hoàn hảo và một niềm vui thánh. Bởi thế cha tha thứ tất cả những gì thiếu sót mà các con có thể đã gây ra, và các con cũng phải tha thứ cho nhau tất cả những xúc phạm nếu chẳng may đã gặp. Cha muốn chúng ta bắt đầu năm 1860 này không một chút lo âu và giận ghét”. Và câu nói đầy tình yêu thương đã kết thúc bài nói chuyện.

Các thanh thiếu niên biết rằng chúng có thể tới với ngài bất cứ lúc nào chúng muốn và biết rằng ngài luôn ân cần tiếp nhận chúng như thế nào! Ngài bảo chúng ngồi trên ghế sofa, còn ngài, ngài ngồi trên cái bàn nhỏ, lắng nghe cách chăm chú như thể nghe người có vấn đề quan trọng cần trao đổi và ngài làm cho chúng mãn nguyện bao có thể. Sau cuộc đàm thoại ngài tiễn chúng ra tới cửa, mở cửa và chào chúng với những lời thân quen của ngài: “Chúng ta mãi là bạn nhé! phải không!”. Không cần nói ai cũng biết rằng các thanh thiếu niên khi đi xuống thang rất thanh thản và rất hài lòng.

Tình cờ gặp ngài trên đường là một niềm vui. Tâm hồn phụ tử của ngài khiến trên môi của ngài luôn có những lời chan chứa tình cảm, được ưa thích như một món qùa; nhất là vì ngài thường một cách đáng yêu nhắc tới cái gì đó mà người gặp ngài quan tâm. Những người đau ốm gặp được nơi ngài sự thăm viếng hỏi han không phải từ xa và vội vã, nhưng ngay tại giường và đầy ân cần. Ngài tìm hiểu bệnh tình, khích lệ tâm hồn và dự liệu những điều cần thiết cách trực tiếp.

Đối với một nhà giáo dục, chắc chắn không thiếu những lúc phải sửa dạy, khiển trách và phạt. Lòng tốt linh mục của Don Bosco khiến ngài từ năm 1846 hình thành nên qui tắc phải tuân thủ khi làm việc này.

Trong thời gian đi vắng khỏi Valdocco, ngài được tin rằng có một linh mục bạn, người giúp ngài trong Nguyện xá, đã hành xử với thanh thiếu niên “bằng sức mạnh”, điều vốn trước đó đã làm nhiều em ghét. Ngày 31 tháng tám ngài viết nhắn nhủ nhà thần học Borel, người thay ngài điều hành: “Xin hãy nêm dầu vào mọi thức ăn tại Nguyện xá”. Cũng một ngôn từ ẩn dụ ngài nói trong những trường hợp tương tự. Thí dụ năm 1866, một ngày nọ ngài nói với Don Rua là người có bổn phận trông coi về kỷ luật: “dường như cha nghe thấy có những tiếng kêu kẽo kẹt, có lẽ cần cho một chút dầu vào mấy cái bản lề”. Hơn nữa, ngài còn khuyên Don Rua trở thành người bán dầu. Không cần nói, về thứ dầu này, Don Bosco xài không chút dè sẻn.

Chúng ta không thể kể hết được những biểu lộ của lòng tốt mà ngài đã dùng để làm vui tươi sống động Nguyện xá, cũng không thể trình bày hết được ngài đã chiếm được sự tín nhiệm từ các học sinh như thế nào. Hãy đọc những trang đầy xúc tích và tuyệt vời về hệ thống dự phòng mà ngài viết từ con tim của một nhà giáo dục mục tử. Trước khi được viết ra, nó đã là bộ luật thực hành của ngài trong khoảng bốn mươi năm: đó là một dữ kiện để thu tích cộng với những suy tư sư phạm, và cũng đó là chính sự khôn ngoan tinh thần đã sinh động ngài trong công cuộc giáo dục đầy lao nhọc và lâu dài, chính tinh thần này đã đem lại cho ngài sự chiến công rực rỡ mà ngay cả các nhà như phạm cũng không tưởng tượng được.

Một trong những chiến công này chính là hồng y Cagliero. Là một thiếu niên đầy đầy sức sống và tài giỏi, cậu không thể nào ở yên được một chỗ. Dù Nguyện xá mang bầu khí của một gia đình hơn là một trường nội trú, cậu bé vùng castelnuovo thích đùa giỡn và là mối khổ tâm cho nhiều bề trên. Cậu đã bị để nghị gởi về gia đình và nếu không có Don Bosco, Cagliero có lẽ đã không trở nên như ngài đã là. Don Bosco biết cách hành xử với cậu bé này, khiến dần dần cậu trở thành một thiếu niên mẫu mực như ai cũng đã thấy.

Một giám mục người Argentina trong các buổi lễ mừng chân phước đã bày tỏ suy tư của ngài, nói rằng Don Bosco như một nhà giáo dục đã có cái cần thiết tinh tuý của một nhà giáo, tức là của người cha chứ không phải một cảnh binh.

Tại London, một người Anh giáo coi sóc một cơ sở nội trú dành cho thanh thiếu niên, sau khi đọc bài viết của Don Bosco về hệ thống giáo dục dự phòng và quan sát việc áp dụng nó tại Nguyện xá Torino cũng như một vài nơi khác tại Italia, ông bị đánh động đến độ học hỏi để bắt chước bao có thể. Ông để một bức hình Don Bosco và ngay cả câu châm ngôn của ngài : Da mihi animas, caetera tolle tại phòng tiếp khách.

Có hai bài báo được in trong năm 1900 và 1903 khi kết thúc bày tỏ ý kiến rằng Chúa đã khơi dậy tại nước Anh những con người sống theo tinh thần của Don Bosco, vì nước Anh qủa thực cần đến. Họ cũng nói đến việc xưng tội và rước lễ hằng ngày, nhưng không dùng chữ thánh lễ, mà gọi là Thánh Thể.[89]

Ở điểm này chính người tin lành cũng hiểu rằng đối với hệ thống giáo dục của Don Bosco lòng đạo đức Kitô giáo chính là nền móng. Đây chính là đặc điểm mà chúng ta nhấn mạnh và bàn tới trong các chương vừa qua, ở đây tôi giới hạn trong việc trình bày một số nhận định và chứng từ.

Lòng đạo đức trong Nguyện xá được vun trồng, nhưng không được áp đặt, bởi thế nó phát sinh trong một sự tự phát đầy thiện cảm. Nó được nuôi dưỡng bởi việc cầu nguyện chung, bởi thánh lễ hằng ngày, bởi sự thường xuyên xưng tội và rước lễ cũng như bài huấn từ tối; được kích thích bởi các thực hành định kỳ, chẳng hạn như giảng trong ngày lễ, dọn mình chết lành và tĩnh tâm năm; được phong phú bởi các ngày lễ sửa soạn và cử hành sốt sắng; được nâng đỡ bởi bốn hiệp hội đạo đức, mỗi hội có qui luật riêng. Những em có hạnh kiểm tốt nhóm lại trong các hội này trong các cuộc họp nhằm khích lệ lẫn nhau và lôi kéo các bạn khác. Các em này chính là men tốt hoạt động giữa đám đông.

Nhưng ảnh hưởng hơn cả và hơn mọi người chính là Don Bosco với tấm gương, với lời nói và với tác vụ giải tội của ngài, như chúng ta đã trình bày. Lòng đạo đức và nhiệt thành đạo đức của ngài lan sang các người thuộc quyền, và họ mang chính tinh thần này trong các trường. Đức giám mục Vigevano De Gaudenzi nói: “Ai viếng thăm Nguyện xá và những cơ sở khác do Don Bosco thành lập và điều khiển cùng với sự giúp đỡ của các linh mục của ngài, đều cảm thấy một điều mà không dễ thấy nơi các cơ sở khác, tức là bầu khí đạo đức. Tôi nghĩ rằng trong các nhà của Don Bosco người ta ngửi được hương thơm của Chúa Giêsu Kitô”.

Một giám mục khác, đức cha Casale Ferré, cũng bị đánh động bởi lòng đạo đức nhìn thấy trong các nhà của Don Bosco. Vị giám mục danh tiếng này một lần kia nói trước nhiều nhân vật đáng kính rằng cái bí quyết của Don Bosco trong công cuộc giáo dục của ngài chính là thấm nhuần thanh thiếu niên bằng lòng đạo đức. Ngài nói: “Chính cái bầu khí bao quanh chúng, không khí mà chúng hít thở được in dấu của những thực hành đạo đức. Các thanh thiếu niên bị đánh động bởi bầu khí đạo đức, không dám làm và không muốn làm điều gì xấu nữa; chúng không có phương tiện để làm xấu, nếu muốn chúng phải chống lại trào lưu mới trở nên xấu được. Xa rời thực hành đạo đức chúng cảm thấy như cá ra khỏi nước vậy. Đây chính là cái khiến ngài làm chúng trở nên dễ dạy, ngài khiến chúng làm vì xác tín và vì lương tâm, đến độ một sự nổi loạn cũng không thể mường tượng được. Mọi sự đều diễn tiến một cách không thể làm ngược lại”.

Một ngày nọ, người ta nói với Don Bosco về nhận xét này, ngài bảo đó quả là một sự thật tốt đẹp và rồi ngài thêm: “Với việc thực hành đạo đức, người ta tìm cách không trấn áp giới trẻ mà hơn nữa còn làm chúng không chán ngán; làm sao để cho những thực hành này trở thành như khí trời, không bao giờ đè nén và làm ai chán ngán, bởi thế chúng ta mang trên vai trách nhiệm nặng nề: lý do đó là vì không khí bao quanh chúng ta và tràn ngập trong ngoài chúng ta”.[90]

Có hai điều được nhận thấy trong lòng đạo đức mà Don Bosco ghi khắc: không phải một thứ đạo đức tình cảm cũng như không tách rời khỏi sự vui tươi. Thứ đạo đức tình cảm thì hời hợt và do đó mau qua. Don Bosco đã không biết đến thứ bệnh duy cảm xúc thời nay. Trong quan niệm của ngài, lòng đạo đức chân thật hệ tại ở dự thế của linh hồn tránh xúc phạm đến Thiên Chúa dù rất nhỏ và tìm cách thực hiện mọi bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Các việc thực hành nếu không dẫn tới điều này, đều là hão huyền. Bởi thế trong các dịp tuần tam nhật, tuần chín ngày, các tháng và các ngày lễ, để kính Chúa, Đức Mẹ hay các thánh, ngài khuyên nhủ việc rước lễ và cầu nguyện đặc biệt cũng như đề ra từng ngày bông hoa thiêng một bổn phận, một hành vi nhân đức, việc tốt nào đó chẳng hạn trong học hành, trong công việc, trong sự vâng lời, trong sự tuân giữ qui luật và nhất là trong việc tránh tội nhất là tội bất trinh.

Lòng đạo đức mà Don Bosco vun trồng gợi hứng từ câu đầu của thánh vịnh 122: hạnh phúc này người kính sợ Chúa, những thích và yêu luật Chúa truyền. Cách chung, trong các bài huấn từ buổi tối, xoay đi xoay lại, luôn kết thúc giống như các thánh vịnh với vinh tụng ca Sáng danh, bằng một suy tư về một tư tưởng đạo đức gắn liền với bổn phận nào đó hoặc một chân lý đức tin. Nguyên tắc của ngài là: đức tin là con mắt của lòng đạo đức; không phải ngẫu nhiên mà ngài làm giáo huấn đạo giáo tràn ngập trong Nguyện xá. Như vậy ngài làm cho các thanh thiếu niên quen để hành động vì những động lực siêu nhiên và vì lương tâm. Đây chính là điểm khác biệt giữa một nhà sư phạm và một nhà giáo dục mục tử, người thứ nhất làm công việc của một nhà tâm lý, người thứ hai còn hơn nữa bận tâm nhất là về lương tâm.

Tiếp đến là sự vui tươi. Một văn sĩ nổi tiếng về tu đức nói: “Sự buồn là hơi thở của hỏa ngục; niềm vui là âm vang của sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta”.[91] Nơi Don Bosco, do tâm hồn tràn đầy Thiên Chúa, niềm vui trong trái tim ngài tỏa rạng bằng nét mặt, nụ cười, bằng sự luôn lạc quan, và lây lan sang những người sống gần ngài. Phụng sự Chúa trong niềm vui là một điều khoản cốt yếu trong khoa sư phạm của ngài. Khi còn nhỏ tuổi, niềm vui này đã không chiếm lĩnh ngài khi ngài thành lập hiệp hội cho các bạn học để giúp họ sống tốt đó sao? Đaminh Savio, thấm nhuần tinh thần của Don Bosco đã giải thích một cách trung thành tâm tư này khi cậu nói với một bạn mới tới: “Bạn biết rằng ở đây chúng tôi làm cho việc nên thánh hệ tại sống thật vui”.[92] Và điều này không chỉ là lời nói. Năm 1857, một thanh niên sau khi vào Nguyện xá một thời gian, đã viết cho một người bạn: “Tôi có cảm tưởng như đây là thiên đàng. Ai cũng vui vẻ, nhưng là sự vui tươi thật sự thiên đàng, nhất là khi Don Bosco có mặt giữa chúng tôi”.[93]

Cuộc sống của Nguyện xá được dệt bởi lòng đạo đức, học hành và làm việc, nhưng tất cả đều mang hương vị của sự vui tươi thánh thiện. Nhà viết sử nhìn thấy, ông viết: “Người không nhìn thấy sẽ khó lòng mà tưởng tượng được điều đó”.[94] Những người từ thời đó còn sống cảm thấy trẻ trung trở lại mỗi khi nhớ lại niềm vui trong mái nhà Don Bosco mà họ đã được hưởng, dù rằng họ đã chẳng có được nhiều tiện nghi trong đó. Người có trong tâm hồn niềm an bình, sẽ luôn mừng lễ như lời Thánh Kinh.[95]

Don Bosco trong bài viết về Phương pháp dự phòng đã hứa sẽ viết một tác phẩm nhỏ về đề tài này, nhưng ngài đã không thể chu toàn được lời hứa. Thay vào đó, hơn là một cuốn sách mà có lẽ trong đó ngài sẽ trình bày sâu rộng về học thuyết của mình, ngài đã để lại tinh thần cho các con cái. Tinh thần này đã ướng dẫn họ trong việc tông đồ giáo dục tốt hơn cả mọi cuốn sách. Tinh thần này có nguồn mạch duy nhất: sự kết hiệp mật thiết và thường hằng với Thiên Chúa.

Chương XIV

CON NGƯỜI CỦA ĐỨC TIN

Mỗi người là Kitô hữu nhờ vào đức tin, mà phép rửa là cửa vào. Chính đức tin là nền móng của đời sống siêu nhiên và là dây nối kết linh hồn với Thiên Chúa, đức tin ấy được hoà nhập với đức cậy và đức ái. Nhưng là tín hữu theo danh hiệu và con người tin thì khác nhau. Người tín hữu thì hơn kém thực hành đức tin của mình, đang khi con người tin thì sống bởi đức tin và sống đức tin như một dấu chỉ của sự vươn tới kết hiệp sâu xa và liên lỉ với Thiên Chúa. Đây chính là trường hợp của Don Bosco.

Thật vậy, hầu như tất cả những gì chúng ta thấy cho đến bây giờ và sẽ thấy trong phần còn lại, đó chính là đức tin sống: ý nghĩ, tình cảm, công việc, sự can đảm, sự đau khổ, sự hy sinh, thực hành đạo đức, tinh thần cầu nguyện đều là những tia lửa của đức tin bộc phát từ bên trong. Có lẽ sẽ là lập lại điều đã nói, hay phải từ bỏ ý định viết một chương về đức tin. Tuy nhiên sự rộng lớn của đề tài vẫn có những điều chúng ta phải cô đọng lại. Một cuộc đời liên lỉ và mạnh mẽ được sinh động bởi hơi thở của đức tin không cống hiến chất liệu để suy tư về những nhân đức thần học đó sao? Không thiếu những đặc điểm cần phải làm nổi bật.

Các chứng nhân trong án phong thánh, những người sống nhiều năm gần gũi với Don Bosco, đều ca ngợi đức tin của ngài. Sự trình bày của họ về Don Bosco và các chân lý đức tin có thể được cô đọng lại trong công thức này: khao khát trong tìm hiểu, vững vàng trong tin tưởng, hăng hái trong tuyên xưng, nhiệt thành trong truyền bá, mạnh mẽ trong bảo vệ. Điều đáng chú tâm đặc biệt là chứng từ của Don Rua khi ngài mở đầu phần trình bày của mình: “Ngài là con người của đức tin. Được dạy dỗ từ nhỏ trong các chân lý chính yếu của đạo thánh từ người mẹ tốt lành, ngài trở thành người khao khát”.

Diễn tả tượng hình này không chỉ đúng mà còn đẹp nữa; người mẹ không chỉ nuôi dưỡng đức tin con mình thời trẻ thơ nhưng cả trong những thời điểm quan trọng sau đó nữa. Bà đã đổ vào lòng con của bà đức tin mà vốn tràn đầy trong chính lòng bà. Đó là vì sao mà Don Bosco luôn giữ trong ký ức của mình gần như một sự tôn kính đặc biệt đối với bà mẹ nhân đức này. Cho tới gần những ngày cuối đời ngài nói về mẹ mình với một sự ngọt ngào và xúc động. Lời của ngài rung lên một tâm tình biết ơn sống động đối với Thiên Chúa vì đã cho ngài một người mẹ đạo đức; ngài luôn coi đó như một ơn huệ lớn lao nhất đã nhận được.

Tuy nhiên cần phải thêm rằng, nếu mẹ ngài đã can thiệp trong những dịp quan trọng nhất trong cuộc đời ngài, thì những can thiệp này được dự liệu do hoạt động ân sủng thần linh. An sủng này qua đức tin đã làm nảy sinh những hành động và những dự định lớn lao. Mẹ Magarita đã chuẩn bị cho cậu Gioan nhỏ của mình rước lễ lần đầu, dẫn cậu tới toà giải tội, nhưng cậu chưa mãn nguyện, cậu muốn trở lại xưng tội hai lần nữa, ý nghĩ của cậu về bi tích giải tội đã ở mức cao do đức tin thúc đẩy đối với bí tích cao trọng này.[96]

Về vấn đề ơn gọi mẹ ngài tuyên bố rõ ràng: “Trong những việc này, mẹ không can thiệp, bởi vì Thiên Chúa mới là tất cả. Đừng nghĩ gì về mẹ cả. Mẹ là người nghèo; nhưng nếu con trở thành linh mục và trở nên giàu có, mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con dù chỉ một lần”. Nhưng chính người con lúc đó đã xác tín là trong vấn đề ơn gọi không được nghe theo tiếng nói của xác thịt và máu huyết. Điều mà đã làm ngài suy nghĩ từ lâu, đó là tìm biết ý Chúa và trung thành theo tiếng Chúa kêu gọi. Thật vậy, trước khi nói với mẹ, ngài đã chăm chú làm những gì có thể để lấy quyết định.

Khi đã vào chủng viện rồi, ngài có một suy nghĩ cao cả về chức linh mục, rằng để chuẩn bị xứng đáng, ngài theo đuổi đời sống hoàn thiện không chỉ thực hành các lời khuyên phúc âm, nhưng còn tự thánh hiến bằng lời khấn trọn.[97] Khi được thụ  phong linh mục, mẹ ngài ban cho ngài một diễn từ thật sâu sắc: “Con đã là linh mục, con dâng thánh lễ; từ bây giờ con gần Chúa Giêsu Kitô hơn. Con hãy nhớ, bắt đầu dâng thánh lễ là bắt đầu chịu đau khổ. Từ nay trở đi con hãy suy nghĩ đến phần rỗi các linh hồn mà thôi và đừng lo lắng gì cho mẹ”. Cả về điều này người con cũng đã có những quyết định, giữa nhiều điều khác “chịu đau khổ, làm việc, và luôn khiêm nhường trong mọi sự khi liên quan tới phần rỗi các linh hồn”. Tinh thần của ngài chuyển động trong bầu khí siêu nhiên tràn đầy đức tin.

Tới một ngày ngài phải chọn đâu là con đường phải theo để cứu rỗi các linh hồn. Ngài chẳng có một bận tâm nào khác ngoài điều này. Đức tin dạy ngài rằng ý Chúa được thể hiện qua các bề trên, nên ngài không muốn đặt chút nào ý riêng của mình. Bề trên của ngài lúc đó là chân phước Cafasso. Vị này một ngày kia ra lệnh cho ngài đi tới coi sóc một nhà dưỡng bệnh cho các thiếu nữ do bà bá tước Barolo xây dựng và điều khiển có mục tiêu giáo dục. Còn gì trái ngược với ao ước của ngài hơn nữa? Ao ước cháy bỏng của ngài lại không phải là chăm lo cho các trẻ nam sao?

Ngài viết về bốn tháng đầu tiên đời linh mục trải qua tại nhà cha xứ của mình tại Castelnuovo: “Niềm vui của tôi là dạy giáo lý cho trẻ, ở với chúng, nói với chúng”. Chúng luôn bao quanh ngài. Bây giờ phải bỏ tất cả sao? Ngài không tìm bàn hỏi theo sự khôn ngoan nhân loại, nhưng duy nhất theo đức tin và đức tin đã tán dương ngài vì ngài đã vâng lời. Ngài vâng lời không một câu thắc mắc. Ngài không thể giả thiết trong lúc đó, rằng một giải pháp như thế là không cân nhắc và như thế là đối kháng với kế hoạch mà Chúa quan phòng đã chỉ cho ngài.

Lần kia ngài viết: “Đức tin là cái làm được mọi sự”.[98] Với sự xác tín này trong tâm trí, ngài không cho rằng mình đã có đức tin đủ. Một lần ngài xin các thanh thiếu niên cầu nguyện cho mình để có một “đức tin sống động, đức tin chuyển núi dời non”.[99] Hơn nữa thỉnh thoảng giữa lúc tiến hành các công việc và ngay cả về cuối đời, ngài xưng thú rằng mình thiếu đức tin, ngài kêu lên với nước mắt: “Chúa đã có thể làm được bao nhiêu điều nếu Don Bosco đã có nhiều đức tin hơn”.

Đúng là nếu không có một đức tin lớn lao ngài đã không thể làm được biết bao điều hữu ích. Về đề tài này có lẽ chúng ta phải viết dài hơn! Tuy nhiên chúng ta tạm hài lòng để chú tâm trên vài điểm có tính bao quát. Chúng ta thêm vào một số sự việc mà đã được bàn trong chương bảy. Vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn là hai diễn tả thường gặp thấy trong văn chương Salêdiêng. Lối sử dụng này chiếm lĩnh vì đã được Don Bosco cũng như người kế vị ngài, Don Rua, nhiều lần lập đi lập lại. Vị thánh của chúng ta trong khi nói với các Salêdiêng, với các cộng tác viên, trong khi viết, trong khi trả lời thư từ rất thường xuyên sử dụng nó. Ở trên đôi cánh của đức tin, ngài không tìm kiếm điều gì khác hơn trong cuộc sống.

Một bài học đáng gía đã khiến ngài khỏi tìm kiếm bản thân và những mục tiêu trần gian. Khi ngài đang đi tới một vùng quê thuộc vùng Asti để giảng về thánh Benigno. Ngài đã chuẩn bị một bài giảng với nhiều tư tưởng hay để tôn vinh vị thánh, nhưng cũng có phần nào đó cho mình nữa. Ngài đi tới đó bằng ngựa. Khoảng nửa đường, con ngựa bị hoảng sợ nên phóng như điên vào giữa những cánh đồng, cho tới lúc quăng ngài xuống trên một đống đá vụn. Ngài được khiêng về một ngôi nhà gần đó đang khi ngất xỉu, sau đó ngài tỉnh lại nhưng phải băng bó bàn tay. Ngài viết trong Hồi sử rằng: “Từ sau lần cảnh báo đó, tôi đã có quyết định vững vàng trong tương lai sẽ chuẩn bị các diễn từ của mình chỉ vì vinh danh Chúa hơn, chứ không để tỏ ra mình học thức nữa”. Vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, ngài đã có trong tâm hồn rồi, nhưng từ ngày đó ngài đã hoàn toàn phó mặc bản thân mình không chút giữ lại gì cho mình, chẳng còn điều gì khác cao qúi và chính đáng hơn cho một thừa tác viên của Chúa.

Sự phó thác trong tay Chúa này không loại trừ sự cố gắng cá nhân. Phương châm của ngài là sự quan phòng muốn chúng ta nỗ lực cộng tác, bởi đó bắt đầu các công việc của mình, ngài đã thấy trước mình sẽ phải làm gì. Ngài thường nói: “Đừng đợi sự giúp đỡ của Chúa quan phòng trong khi lười biếng. Chúa sẽ đến giúp khi nhìn thấy chúng ta nỗ lực vì yêu mến Ngài”.

Đối với những việc đã thực hiện, đức tin giúp gì cho ngài? Về vấn đề này chúng ta có một bài học thật ý nghĩa mà ngài cho một thầy sư huynh có nhiệm vụ giúp ngài khi ngài lâm bệnh nặng vào năm 1872. Bài học thực ra không phải cho thầy hoặc ít là không chỉ cho mình thầy thôi. Khi đã bắt đầu bình phục, sự phục hồi sức khỏe khiến ngài nhìn có vẻ mạnh mẽ hơn bình thường, giống như những người đang lành bệnh. Sau khi khôi hài nói về sự thay đổi của sắc da, ngài nói thêm: “Chúng ta hãy xem làn da mới này có mạnh khỏe và giỏi giang hơn làn da cũ để chống chọi lại bão tố không. Tuy nhiên cha tin rằng Thiên Chúa sẽ làm cho nó chai lỳ hơn để thực hiện công cuộc của Ngài, vì vinh danh Ngài hơn. Hãy tin, con à, mọi cơ năng của chúng ta cũng như tài khéo của chúng ta, tất cả mọi công việc, mọi mệt nhọc và khổ nhục của chúng ta, tất cả phải nhằm để vinh danh Chúa mà thôi. Nếu chúng ta vất vả vì vinh dự của chúng ta, thì các suy tư, các thành quả, các sáng kiến, các công cuộc của chúng ta sẽ chẳng còn giá trị nào. Khốn cho ai làm việc mà chờ mong sự khen ngợi của thế gian! Thế gian là một tay trả tiền thuê tồi, luôn trả lại bằng sự vô ơn… Don Bosco là ai chư? Chỉ là con của những nông dân nghèo, nhưng sự thương xót của Chúa đã nâng ngài lên chức linh mục dù ngài chẳng có công trạng gì. Hãy coi xem lòng nhân lành của Chúa lớn lao dường nào! Chúa đã sử dụng một linh mục đơn giản để làm những việc lạ lùng trong thế gian này; Don Bosco đã làm tất cả và sẽ làm nữa vì vinh danh hơn nữa của Thiên Chúa và của Giáo hội Ngài!”.

Đức tin của ngài bộc lộ mạnh nhất khi ngài tìm kiếm phần rỗi các linh hồn. Bất cứ ai đến tìm ngài, tâm trí ngài lập tức nghĩ đến linh hồn của người đó và nghĩ cách thực hiện điều ích lợi cho phần rỗi đời đời của người ấy. Có hai tư tưởng siêu nhiên tạo nên sự hăng say này: một đàng là mối nguy hiểm bị kết án đời đời của người khác và đàng khác nghĩ đến công trình và sự thương khó mà Chúa cứu thế đã chịu để cứu các linh hồn. Ngài run sợ thay cho những kẻ không màng chi vận mệnh của mình sau khi chết và ngài nóng lòng muốn đưa tất cả tới Chúa Giêsu. Don Bosco chứng tỏ một sự can đảm và một sự mạnh mẽ không giới hạn: can đảm để khuất phục mọi sự nể trọng nhân loại, mạnh mẽ chịu đựng mọi bất tiện, hy sinh, khổ nhục để thực hiện mục tiêu bác ái cao qúi. Hiểu được quyền năng tha tội của linh mục, ngài kêu mời hết mọi người tới toà cáo giải thanh tẩy cứu độ.

Bao lâu còn có thể, ngài vòng quanh Torino để tìm kiếm các linh hồn, vào các nơi sinh hoạt công cộng, vào các quán rượu, cafè, tiệm hớt tóc. Với cớ là cần một cái gì trong đó, ngài tìm cách nói chuyện với khách hàng hay người làm việc, tìm cách để thực hiện mục tiêu của mình. Sau này ngài không để mất cơ hội nào để có những tiếp xúc tương tự trong những cuộc họp, những hành trình hay tiếp khách, và ngài không bao giờ phân biệt người này với người khác. Qủa thật, Chúa đã ban cho ngài sự hiệu năng trong lời nói không chỉ hiếm có mà đúng hơn có một không hai; dầu vậy điều này không cất đi cho ngài trong nhiều cảnh ngộ không gây được hứng thú cho giới thượng lưu hoặc đòi ngài phải lấy can đảm để bắt đầu một số câu chuyện nào đó với giới thượng lưu hay những người trí thức và không tín ngưỡng. Nhưng đức tin thông truyền cho ngài sự an tâm và không sợ hãi. Không hổ danh là một kẻ chài lưới các linh hồn.

Ngài thích suy niệm một câu mà ngài thường hay nói cho các giáo sĩ: “Bất cứ ai đến gần một linh mục, phải tìm được một chân lý sinh ích cho linh hồn người ấy”.[100] Ơ điểm này tôi xin phép thêm một thông tin có được trong khi tiến hành thủ tục phong thánh cấp tông tòa.[101] Đức thánh cha Pio IX đã miễn chuẩn cho Don Bosco không phải đọc kinh thần vụ; tuy nhiên ngài vẫn đọc thường xuyên một số phần. Do điều này ngài hứa với Chúa không làm một hành vi, không nói một lời mà không nhắm tới vinh quang Thiên Chúa. Hiển nhiên những ưu tư để có lương tâm được ổn thỏa đòi ngài phải làm quyết định này.

Về sự mạnh mẽ của ngài trong việc chịu đựng những bất tiện và đau khổ đủ mọi loại khi thực thi tác vụ tha tội, những gì chúng ta đã nói có lẽ cũng đủ. Những người qúi mến ngài, nhìn thấy tuổi tác và sức khỏe của ngài, họ muốn ngài điều độ trong việc ngồi toà giải tội và nghỉ ngơi đôi chút. Ngài trả lời: “Cần phải nói với ma qủy thôi đừng lường gạt những trẻ nhỏ khốn khổ này và đừng kéo biết bao người xuống hỏa ngục nữa, lúc đó cha sẽ thôi bắt mình làm việc nữa”.

Sau khi đã bàn về hai điểm nền tảng này, giờ đây tôi bàn tới ba vấn đề khác vốn giúp chúng ta đo lường được sự lớn lao của đức tin của Don Bosco. Điều thứ nhất liên quan đến cái ngài đã làm và đã chịu để bảo vệ đức tin chống lại sự mưu hại của lạc giáo.

Năm 1851, ban hành luật về tự do tôn giáo và báo chí, các người tin lành phóng ra một loạt truyền bá không đạo đức trên mọi nẻo đường của Piedmonte, ngay cả dựng một đền thờ ở Torino. Người công giáo, vốn quen với thể chế cũ, không được chuẩn bị cho cuộc chiến này. Don Bosco đứng lên như một người lính canh đêm để bảo vệ đức tin. Để gìn giữ những người bất cẩn khỏi cạm bẫy, ngài phát hành truyền đơn, và lập ra một tờ báo định kỳ lấy tên Bạn đường của giới trẻ, ngài viết và làm cho người khác viết các bài để truyền bá với tờ báo Letture Cattoliche, thêm vào trong cuốn Người thanh trẻ biết dự phòng một tiểu luận Những điểm nòng cốt của đức tin. Ngày nay phần thêm này không được in trong tác phẩm, nhưng lúc đó ngài có lý để thêm nó vào.

Lúc đó ngài tiếp nhận vào Nguyện xá nhiều bao nhiêu có thể các trẻ em đã dựt được từ tay người tin lành. Ngài có những cuộc trò chuyện và tranh luận với các trưởng nhóm và các thừa tác viên của các giáo phái, làm họ hứng thú vì sự bình thản và khiến họ bị ấn tượng bởi sự sáng sủa trong cách ngài trình bày. Đức ái không bao giờ vắng bóng trong lời nói của ngài khiến nhiều người yêu chuộng và tử bỏ những sai lầm của mình. Ngài gởi tới nhiều người những trợ giúp tiền bạc, để trong cảnh cùng cực họ không để các nhóm đối nghịch đức tin mua chuộc. Hơn nữa, ngài còn đặt vào trong cáo thị một số những cha xứ và các giáo chủ, vạch trần mặt nạ lạc giáo của họ.

Sự nhiệt thành của ngài không bó gọn ở Torino. Ngài đi giảng các tuần đại phúc ở các vùng đã bị lây nhiễm lạc giáo. Bài giảng năm 1856 của ngài ở Viarigi tạo nên một tiếng vang lớn; nơi đây ngài bị một tên bội giáo quá khích cầm giữ kéo ngài ra đàng sau một đám đông; nhưng Chúa đã gìn giữ ngài. Tuy nhiên không phải hết mọi người ngay cả trong số những người biết suy nghĩ đã hiểu được hành động của Chúa quan phòng và họ đã gây ra cho ngài nhiều nỗi khổ nhục, đang khi các kẻ thù bướng bỉnh thì tìm cách ra tay mưu sát ngài nhiều lần. Nhưng chẳng gì có thể làm cho người lực sĩ của đức tin này nhụt chí. Đặc biệt từ năm 1868 trở đi ngài mở rộng hoạt động tới Canton Ticino, nơi nhóm qúa khích ưu thắng đã làm nhiều nơi không có cha xứ. Tổng cộng không dưới ba mươi vùng ngài đã chăm lo để có những cha xứ giỏi, phải lo các chi phí và hy sinh cũng như đối diện với không ít các chống đối; nhưng ngài tiếp tục không sợ hãi, ngài đáng được các người công giáo mang ơn vì đức bác ái của ngài đã củng cố họ trong đức tin.

Ngài đã phải hy sinh biết bao nhiêu để xây dựng nên nhà thờ thánh Gioan thánh sử tại Torino gần với đền thờ của nhóm Valde nhằm vô hiệu hoá ảnh hưởng tai hại của họ! Và rõ ràng rằng các nhà Salêdiêng tại Spezia, Vallecrosia và tại Firenze đã được Don Bosco mở với mục đích chính là ngăn chặn hoạt động của người tin lành. Tại những nơi này Thiên Chúa cũng đã chúc lành cho lòng nhiệt thành của ngài. Chẳng hạn tại Spezia, năm 1880 người tin lành có năm trăm học sinh trong các trường của họ, năm 1884 chỉ còn vỏn vẹn mười bảy. Còn nhiều sự việc nữa có thể kể ra nhưng giới hạn của cuốn sách này không cho phép.

Một ngày nọ Don Bosco đang chuyện trò trong phòng với các Salêdiêng bỗng nhiên ngài tỏ ra nghiêm nghị, mặt tái đi, run rẩy từ đầu tới chân, đôi mắt bất động. Những người đứng xung quanh thấy vậy sợ hãi, khi đã hồi tỉnh lại ngài nói: “Cha thấy một ngọn lửa vừa tắt. Một em của Nguyện xá Chúa nhật vừa mới đi theo tin lành”. Đó là một dấu chỉ sự nhậy cảm của Don Bosco đứng trước các mối nguy hiểm về đức tin.

Đức tin của Don Bosco làm cho ngài run sợ khi thấy con số thanh thiếu niên ứng sinh linh mục giảm sút. Thời cuộc xoay chuyển bất lợi cho các ơn gọi giáo sĩ; đây chúng ta không nêu ra những nguyên nhân. Nếu như đức tin là nhờ nghe, dân Kitô giáo sẽ như thế nào nếu không được nghe lời Chúa và thiếu giáo dục đạo giáo? Người đầy tớ trung tín của Giáo hội không để mình thất vọng trong việc kêu than. Các viên chức trong chính quyền nhiều lần trách cứ ngài đã tạo ra qúa nhiều linh mục. Ngài không ngại hy sinh để làm tăng số các học viên cho đền thánh Chúa.

Ngài giảng và viết để chăm lo cho có ơn gọi tốt và đã đóng góp nhiều cho Giáo hội. Bởi thế ngài nhắn nhủ các Salêdiêng rằng sự thiếu thốn phương tiện không thể là cớ để từ chối nhận một người trẻ khi em tỏ ra có dấu ơn gọi linh mục. Họ phải chi tất cả những gì họ có và nếu cần phải đi ăn xin: nếu vì điều này mà bị thiếu thốn, đừng lo lắng vì Đức Mẹ sẽ giúp cách nhiệm mầu. Việc một linh mục sẽ đi vào chủng viện, đi truyền giáo hay đi vào dòng tu không quan trọng; vì đó luôn là một qùa tặng quí giá cho Giáo hội của Chúa Kitô.

Bản thân ngài, ngài mở rộng cửa Nguyện xá cho mọi thanh niên tỏ dấu có hướng về đời sống giáo sĩ; ngài cho rằng đã chưa sử dụng được cách tốt nhất các phương tiện mình có để chuẩn bị các điều kiện thích hợp nhằm tiếp nhận nhiều bao nhiêu có thể và ngài đã chi tiêu không tiếc để cho họ có điều kiện học hành, ăn uống, quần áo, học vị, xin miễn chuẩn quân dịch. Hàng trăm học sinh là niềm hy vọng của Giáo hội, đã chuyển từ Nguyện xá sang các chủng viện, dù có người nói rằng Don Bosco chỉ nghĩ kiếm ơn gọi cho mình mà thôi. Trong Hồi sử người ta có thể tìm thấy những dữ kiện cho thấy hoàn toàn ngược lại.

Phải nói gì về những hy sinh to lớn trong một thập niên ngài cung cấp chỗ ăn ở, các phương tiện ăn học và đào luyện tại Nguyện xá cho các tư giáo của giáo phận Torino, các giáo phận vùng chân núi Alpi và Liguri, khi chính quyền ra lệnh đóng cửa nhiều chủng viện? Nhưng không chỉ có thế. Để rút ra từ sỏi đá con cái Abraham, năm 1875 ngài hoạch định và rồi thành lập Công cuộc Mẹ Phù Hộ dành cho các ơn gọi muộn, hội cung cấp một con số khá nhiều linh mục nhiệt thành. Ngài chăm sóc cho họ cho tới khi qua đời.

Năm 1883, trước nhiều Salêdiêng sáng giá, ngài nói một cách mãn nguyện rằng: “Cha hài lòng! Cha đã làm một thống kê tỉ mỉ, và thấy rằng có hơn hai ngàn linh mục đã xuất thân từ các nhà của chúng ta và họ đã đi làm việc trong các giáo phận”. Và ngài dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Phù Hộ vì đã ban cho các phương tiện để ngài thực hiện những điều hữu ích.

Một đặc điểm khác trong tinh thần đức tin của ngài là lòng yêu mến đối với tất cả những gì liên quan tới sự thờ phượng thần linh. Đúng rằng sự thờ phượng là nhân đức tôn giáo, nhưng nó gỉa định đức tin, vì đức tin cho thấy sự thờ phượng thuộc về Thiên Chúa. Tách khỏi sự thờ phượng bên trong, điều mà chúng ta bàn cho tới bây giờ, thì chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Những hành vi thờ phượng của Don Bosco đã được đề cập tới rồi, đây chúng ta chỉ nói tới lòng nhiệt thành đối với những nơi và đối với những nghi thức phượng tự.

Dù nghèo, ngài mạnh dạn chi tiêu để xây nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ và nhà thờ thánh Gioan thánh sử ở Torino và nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Roma. Ngài muốn rằng chúng phải huy hoàng lộng lẫy về nghệ thuật. Vị kiến trúc sư của ngôi nhà thờ thứ hai viết lại: “Qủa là con người độc nhất! Cho tôi biết số tiền sẽ chi, rồi thêm một cách thanh thản và đầy tin tưởng rằng: dầu sao cần phải làm mọi sự cho tốt nhất và nếu con số có lên đến gấp đôi, thì cũng không sao, chúng ta sẽ tìm được cách để đáp ứng”.[102]

Đặt một tầm quan trọng cho âm nhạc, ngài đặt vào các nhà thờ các đàn organ tốt nhất. Âm nhạc trong cử hành thờ phượng là cần thiết để lôi kéo dân chúng trong những ngày lễ trọng và sự huy hoàng xứng hợp không chỉ là để gây nên sự sốt sắng nơi dân chúng, nhưng là để ghi khắc trong tâm hồn họ ý tưởng phải có sự tôn thờ thích đáng đối với Thiên Chúa.

Về các cử hành, tôi sẽ nhấn mạnh chỉ một điểm đặc sắc. Ngài lập ra và làm nổi bật trong các nhà thờ cái gọi là các thầy nhỏ theo cung cách riêng của ngài. Các Salêdiêng đã phổ biến lập nó ở khắp nơi. Tại Paris ngay cả Huysmans một lần nhìn thấy đã có ấn tượng sâu sắc.[103] Các thầy nhỏ của Don Bosco giúp trong các nghi thức thánh một cách chính xác, nghiêm trang, sốt sắng làm các tín hữu sốt sắng và thán phục.

Don Bosco biết cách làm thanh thiếu niên yêu tất cả những gì gọi là phục vụ bàn thánh, trong ngày lễ trọng cũng như trong cử hành phụng vụ hằng ngày. Điều này đóng góp nhiều để tạo Nguyện xá trở nên một môi trường đức tin, phản chiếu đức tin của chính ngài, luôn luôn muốn nhìn thấy Thiên Chúa được phụng sự một cách xứng hợp. Những người từ bên ngoài tới họ để lại chứng từ rằng họ đầy thán phục trước cảnh đông đảo thanh thiếu niên đạo đức và vui tươi như thế. Các gia đình quí phái và quan chức dẫn con cái họ tới, ban đầu là nhà thờ thánh Phanxicô Salê, rồi nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ, bởi vì họ nhận thấy nơi đám con cái dân dã kia những đứa trẻ bình thản và tốt lành.

Nói về đức tin của Don Bosco là nói về một đề tài không thể vơi cạn, nhưng ở đây không thể bàn rộng hơn được. Bởi thế cần phải tóm lại trong một vài lời, theo như đấng kế vị thứ tư của Don Bosco viết cho tất cả các Salêdiêng trong chính ngày ngài được phong hiển thánh:[104]

“Đức tin, điều vốn là nền móng của mọi sự thánh thiện, chính là ngọn đèn soi bước chân ngài, như lời thánh vịnh gia. Trong ánh sáng của đức tin, tâm trí ngài say sưa chiêm ngắm các chân lý mạc khải và ý chí ngài đi theo hướng làm đẹp lòng Thiên Chúa. Bởi thế, khi nói, khi viết, khi làm, tinh thần của ngài không bao giờ chao đảo nửa vời giữa Thiên Chúa và cái tôi, giữa trời và đất, giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời, giữa bổn phận và ý thích, nhưng tất cả đều hướng về Thiên Chúa, là Cha và là Chủ tuyệt đối của mọi sự, từ nơi đây ngài có được tất cả phương hướng cho mọi vấn đề thuộc dưới đất. Cha có ý nói rằng ngài không bao giờ tìm kiếm chính mình, tìm kiếm sự tiện nghi cho mình, tìm thỏa mãn mình, tìm vinh quang cho mình; nhưng ngài sử dụng thời giờ, năng lực và nỗ lực để phục vụ Chúa tốt bao có thể trong cánh đồng mà sự quan phòng đã trao phó cho ngài”.

Chương XV

VỊ TÔNG ĐỒ ĐỨC ÁI

Giờ đây chúng ta tiếp tục thu lượm một vài đường nét hiện thực để hoàn thành diện mạo của Don Bosco đã trình bày cho tới đây. Đi theo từng bước cuộc sống của ngài, chúng ta đã có thể nhận ra cái tinh thần đã sinh động ngài trong các lứa tuổi và trong các biến cố khác nhau. Chúng ta đã rảo qua cuộc sống thiếu thời và tuổi trẻ, thầy tư giáo và linh mục trẻ, vị sáng lập các công cuộc và thừa tác viên của Chúa. Mọi giai đoạn ngài luôn bị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành vì vinh danh Chúa và phần rỗi các linh hồn, và đã bị thử thách bởi những nỗi quẫn bách hầu như liên tục đủ mọi loại, nhưng đã không khi nào đánh mất sự bình thản, vì đó là sự bình an và thanh thản đến từ sự kết hợp sâu xa, liên tục và hoàn hảo với Thiên Chúa. Và bởi vì tất cả cuộc sống của Don Bosco là một đời tông đồ bác ái, chương này sẽ dành để khảo sát xem đâu là nét riêng của đời tông đồ của ngài. Đề tài tự nó rộng, nhưng chúng ta sẽ không đi quá xa với giới hạn của cuốn sách này.

Don Bosco cốt yếu là một tông đồ. Vị tông đồ là người được sai đi. Don Bosco đã được sai đi vì một sứ mệnh đức ái chuyên biệt, dù rằng không có tính độc hữu, dành cho giới trẻ, đó là sứ mệnh do Chúa quan phòng. Khi kêu mời ngài thực hiện việc tông đồ này, có hai phương tiện được chỉ dẫn cho ngài, hai phương tiện mà ngài phải tự chuẩn bị: phải học biết khiêm nhường, mạnh mẽ và cường tráng, và rồi phải trang bị cho mình có kiến thức. Sự chuẩn bị trước hết về thể lý, luân lý và tu đức, rồi đến khoa học. Tương lai sẽ làm cho ngài hiểu điều mà ngài chưa hiểu.

Thực hiện sự ủy thác đòi hỏi sự làm việc vất vả, trải qua những khó khăn và chống đối cũng như việc học hỏi và giáo dục lâu dài; đòi hỏi một sức khỏe tốt, biết làm chủ tính tình, có trình độ hiểu biết. Có lẽ ngài đã được phú bẩm cho những tài năng tự nhiên, điều mà Thiên Chúa muốn có khi đặt định một người vào sứ mệnh đặc biệt, như thể đó là điều kiện không thể thiếu để chu toàn sứ mệnh. Nhưng sẽ không đủ khi chỉ dựa vào nỗ lực nhân loại hay dựa vào những nhân đức tự nhiên, vốn không đáp ứng được chương trình của Thiên Chúa. Luôn cần đến và nhất là sự trợ giúp của ân sủng thần linh, điều sẽ không được ban nếu không có sự khiêm nhường. Thánh Toma dạy rằng: “Sự khiêm nhường là một dự thế làm cho linh hồn dễ dàng đạt được những ơn ích thiêng liêng và thần linh”.[105]

Với sự khiêm nhường trong suốt cuộc sống, Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian; cũng không bằng con đường khác Don Bosco đã chiến thắng những chuỗi trở ngại của kẻ thù của sự thiện, và đã hoàn tất được kế hoạch Thiên Chúa trao phó. Cần có sự quan phòng chuẩn bị cho ngài những cơ hội để nên vững chắc trong sự khiêm nhường: hoàn cảnh sinh trưởng khiêm tốn, hai năm lao động làm thuê, hoàn cảnh phục dịch từ năm mười sáu đến hai mươi mốt tuổi.

Như thế tinh thần ngài, vốn sau này sẽ cảm thấy mình được chuẩn bị làm những việc lớn lao và được kính trọng, tiến lên đang khi trải qua sự hy sinh và không tìm cớ thoái thác ngay cả bị khổ nhục mỗi khi vinh quang Thiên Chúa và ích lợi của tha nhân đòi hỏi, không bao giờ ngừng coi mình chỉ là một dụng cụ nhỏ bé trong tay Chúa. Đức khiêm nhường trở thành bí quyết của sự kết hợp mật thiết của ngài với Thiên Chúa, vốn là nguồn mạch từ đó phát ra mọi hành động bên ngoài. Đây chính là dấu chỉ của mọi vị tông đồ chân chính.

Cũng không thể bỏ qua sự kiện là bài học về sự khiêm nhường này là do chính Mẹ của Thiên Chúa dạy ngài. Việc tông đồ của Don Bosco ghi dấu sự can thiệp của Mẹ Maria như một đặc tính riêng. Mẹ Maria Phù Hộ và Don Bosco có thể trở thành đầu đề của một vần thơ tuyệt vời, chính ngài lập lại nhiều lần cho tới khi thở hơi cuối cùng: “Don Bosco không là chi cả, người làm tất cả chính là Đức Mẹ”.

Mỗi việc tông đồ đều có một mục đích riêng và rõ ràng. Giống như mọi vị thánh, Don Bosco thực hành đức ái phổ quát, phù hợp theo hoàn cảnh. “Làm tốt cho mọi người, không làm điều dữ cho bất cứ ai” là một phương châm mà ngài thường được lập đi lập lại cho tới khi qua đời.

Trong lãnh vực bác ái, vốn trải rộng như sự rộng lớn của các nhu cầu của con người, có một phần đặc biệt dành riêng cho ngài: giáo dục Kitô giáo cho con cái của dân chúng. Hiến thân cho công cuộc này, ngài đã lập ra hai gia đình tu sĩ, thông truyền cho họ tinh thần của ngài. Tinh thần nào? Bỏ qua một bên những yếu tố chung, tôi dừng ở ba điểm đã được nhấn mạnh bên trên, mà chúng ta có thể gọi là riêng biệt và đặc trưng: tinh thần bác ái năng động, bác ái vui tươi và đức ái không lệ thuộc.

Yếu tố thứ nhất: sự năng động, hay nếu muốn, có thể gọi là tinh thần làm việc. Có lẽ khó mà tìm thấy một vị thánh khác ở trong cùng mức độ của Don Bosco, đã sử dụng và khiến người ta sử dụng động từ làm việc. Đối với Đức thánh cha Pio XI cuộc đời của Don Bosco là “một cuộc đời của công việc khổng lồ”.[106]

Có lẽ không ai nhấn mạnh khía cạnh này của cuộc sống Don Bosco cho bằng đầy tớ Chúa Leonardo Murialdo trong chứng từ sau đây: “Tôi không thấy Don Bosco cầu nguyện lâu giờ hay làm việc đền tội phi thường, nhưng tôi thấy ngài làm việc không mệt mỏi, không ngừng nghỉ trong một chuỗi năm tháng dài vì vinh danh Chúa. Những vất vả của ngài không bao giờ gián đoạn, cai phi thường là giữa những thánh giá và chống đối đủ loại, với sự bình tĩnh và thanh thản, tất cả chỉ để làm vinh danh Chúa và ích lợi của các linh hồn”.[107]

Về sự làm việc, Don Bosco có một lý thuyết riêng cho mình và cho con cái ngài liên quan đến cách thức. Đối với riêng ngài, điều ngài viết giữa những quyết định dịp chịu chức linh mục, liên quan đến làm việc như một vũ khí chống lại kẻ thù của linh hồn. Tuy nhiên ngài không có ý nói đến bất kỳ công việc nào. Theo ngài, vị linh mục dù có bổn phận làm việc và làm việc thật nhiều, đến độ, nếu mất mạng sống, thì cũng không làm gì hơn bổn phận mình. Đây chính là mục đích, là vinh quang của linh mục: không bao giờ mệt mỏi khi làm việc cho phần rỗi các linh hồn.

Ngài cảm thấy được kêu gọi để làm việc nhiều, ngài cho rằng nếu không có những mệt nhọc lớn lao thì chẳng bao giờ có thể đạt được những điều lớn lao. Ngài còn tin rằng thế giới ngày nay muốn nhìn thấy các linh mục làm việc và nghiệm thấy rằng kẻ thù của Giáo hội kính nể các linh mục làm việc. Ngài cho rằng ngày nay cầu nguyện mà thôi thì không đủ đối với các linh mục. Cần phải làm việc, làm việc một cách mạnh mẽ.

Khởi từ những nguyên tắc này, người ta không ngạc nhiên thấy ngài sử dụng tất cả mọi sức để làm việc cho vinh quang Chúa và phần rỗi các linh hồn; và khi được khuyên nhủ hãy nghĩ ngơi một chút, ngài trả lời một cách thích thú rằng: “Cha sẽ nghỉ ngơi khi nào cha lên trên mặt trăng”. Sức vóc thể lý của ngài có thể cho phép ngài sống đến hơn chín chục tuổi; nhưng thay vào đó nó đã tiêu hao, nó đã tiêu hao theo nghĩa đen vì đã làm việc thái qúa ngày lẫn đêm. Vì lẽ đó người ta có thể tin được lời các nhân chứng nói rằng vào tuổi bảy mươi ngài đau khổ khi nghĩ đến nhiều công việc mà ngài có thể làm trước đó, đang khi giờ đây cả sức lực và thị giác không còn lấy được một phần trăm.

Chính tinh thần làm việc chăm chỉ này là điều ngài muốn nhìn thấy nơi Tu Hội Salêdiêng. Ngài đã nói một cách công khai với những người xin vào Tu hội: “Tinh thần của Tu hội chính là điều này, đừng ai vào đó với hy vọng đứng tay chống nạnh”. Kinh nghiệm sống của thời đầu Tu hội khích lệ người ấy phải làm việc không kỳ nghỉ hưu chiến.

Vì không thể nói một cách tự do về đời sống tu sĩ vì bầu khí thù nghịch đang bao trùm khắp nơi, và lại có nhu cầu đề cập về điều đó cho các tư giáo trẻ của Nguyện xá theo cách thức phù hợp, ngài không đòi hỏi nhiều trong vấn đề thực hành đạo đức, nhưng về sự làm việc thì tới mức người ta không thể làm thêm. Thế thì điều gì đã xảy ra? Các tư giáo nếu bị bó buộc với những luật lệ gò bó có lẽ họ sẽ bỏ đi, còn ngay cả dù có được thoải mái họ lại làm việc các tự nguyện và dưới sự hướng dẫn của ngài, khi hoàn cảnh thay đổi, đã trở thành các linh mục Salêdiêng có tinh thần rất cao.

Sau đó, khi mọi sự đã ổn định, ngài có lý do để nói tới một kinh nghiệm khác, tức là sự lười biếng làm việc là một trong những nguyên nhân làm xa rời đời tu sĩ. Sự làm việc liên tục, ngoài việc làm phát triển nhiều khả năng hoạt động mà nếu không có sẽ ngủ yên trong tiềm năng, cần thiết để duy trì ơn gọi. Đức Pio IX cũng xác nhận cách Don Bosco nhìn về lao động. Vị giáo hoàng này đã hai lần bảy tỏ rằng suy tư của Don Bosco đồng bộ với suy tư của ngài.

Năm 1869 ngài nói rằng ngài cho rằng một Dòng ở tình trạng tốt là khi người ta cầu nguyện ít và làm việc nhiều, đang khi trong một Dòng cầu nguyện nhiều và làm việc ít thì không ổn. Bởi vậy năm 1874 ngài cho phép ủy thác cho các tập sinh những công việc mà theo Hiến luật dành cho thời sau khi khấn. Đức thánh cha nói: “Hãy làm cho họ bận rộn vì làm việc, làm việc!”.

Khi đặt ra điều này, Don Bosco không giảm bớt công việc cho con cái mình. Ngài nhắc nhở phải chăm lo trở nên thánh thiện, nhưng là để có thể làm việc nhiều. Mẫu gương và lời nói của ngài là sức kích thích mạnh mẽ và hiệu lực. Ngài tỏ lộ một sự mãn nguyện rõ rệt khi thấy những người lớn lên trong Tu hội đạt tới sự yêu thích làm việc, hơn thế nữa một sự hăng say làm việc không ai vượt qua được. Ngài nói: “Bao lâu còn làm việc như thế, chúng ta sẽ tiến lên như buồm căng gió”.[108]

Nhìn thấy sự sẵn sàng làm việc như thế, ngài nhiều lần đã có thể tự cho phép mình nói rằng: “Khi một Salêdiêng chết đang khi làm việc cho các linh hồn, lúc đó Tu hội chúng ta đạt được một chiến thắng lớn, và Thiên Chúa sẽ ban nhiều ơn lành cho Tu hội”. Trường hợp tương tự cũng xảy ra về việc truyền giáo. Bởi thế trong báo cáo tam niên cho Toà thánh vào năm 1879 về tình trạng của Tu hội ngài không ngần ngại viết rằng: “Công việc vượt qúa sức lực và con số các nhân sự, nhưng không ai tỏ ra khó chịu, và dường như sự mệt nhọc lại là của ăn thứ hai sau lương thực vật chất”.[109]

Nhưng một đàng là làm việc nhiều, đàng khác là làm việc cho tốt. Ai lại không biết rằng việc tông đồ, đang khi có thể và phải là phương tiện để thánh hóa, thay vào đó, đối với người để mình bị các hoạt động bên ngoài thống trị, lại trở thành một nguyên do khiến đời sống thiêng liêng giảm thiểu đó sao? Không cần ai đó chỉ, Don Bosco biết mối nguy hiển nhiên đó. Chúng ta có thể nại tới phán quyết của Đức Pio XI, một người biết con cái Don Bosco và biết chính Don Bosco.

Trong diễn từ ngày 19 tháng mười một năm 1933 để nhìn nhận các phép lạ, ngài nói: “Người ta tự hỏi đâu là bí quyết của tất cả sự kỳ diệu của công việc này. Chính vị chân phước cho chúng ta sự giải thích, chìa khóa của sự kỳ diệu vĩ đại là: sự khao khát liên lỉ, sự cầu nguyện liên lỉ; bởi vì không ngừng đối thoại với Thiên Chúa và hiếm có ai như ngài xác quyết câu phương châm người làm việc thì cầu nguyện, bởi vì ngài đã đồng hóa được công việc và kinh nguyện.

Đối với những người khác, ngài không hài lòng thấy họ làm việc nhiều, nhưng dạy họ làm việc một cách thiêng liêng, nghĩa là với đức tin, đức cậy và đức ái. Với đức tin, khi trong mọi việc luôn luôn tìm ý Thiên Chúa không bao giờ tìm lời khen của con người; với đức cậy, khi khát mong phần thưởng trên trời cho những lao nhọc trên trần và không khát mong sự thỏa mãn nhỏ nhoi dưới đất; với lòng mến hướng về Thiên Chúa, khi dâng mọi sự mệt nhọc lên cho Ngài, vì chỉ mình Ngài đáng yêu và đáng phục vụ, cũng như lòng mến hướng tới cận nhân khi chỉ tìm kiếm duy nhất lợi ích của các linh hồn, bằng sự dịu hiền của thánh Phanxicô Salê và sự kiên nhẫn của Giob.

Ngài sợ, rất sợ rằng hiệu quả và công lao của việc làm sẽ trở thành mây khói do sự tìm kiếm ý riêng. Bởi thế cần chiến thắng và từ bỏ, phải nhìn công việc từ nhãn quan Kitô hữu và tu sĩ, trước hết trong chu toàn bổn phận của bậc sống mình, dù ý riêng có cảm thấy thích hay không. Sau khi nhận được một tiếng nói từ trời vào năm 1876, ngài thường hay nói: “Làm việc và tiết độ sẽ làm phát triển Tu hội Salêdiêng. Đó là hai khí giới nhờ đó chúng ta sẽ chiến thắng mọi sự”. Tiết độ là nhân đức thứ hai mà ngài cho rằng đi đôi không thể thiếu với làm việc.

Để khích lệ tinh thần, trong một số hoàn cảnh nào đó ngài thích trình bày sự lợi ích tuyệt vời mà Tu hội được kêu mời thực hiện trên thế giới, và ngài trình bày một cách sống động như thể có rồi; nhưng sau cùng ngài cảnh cáo chống lại mọi sự tự phụ, khuyên mọi người hãy biết thêm vào sự làm việc và tiết độ lòng khiêm nhường. Tóm lại, phải nói rằng Tổng tu nghị lần đó của Tu hội đã được gợi hứng, khiến trong Qui luật cho các nhà tập đã xác định một bổn phận cho tập sư phải nhỏ vào trong tâm tư của tập sinh “sự cần mẫn làm việc không mệt mỏi được thánh hóa bởi kinh nguyện và bởi sự kết hiệp với Thiên Chúa, phải là đặc trưng của con cái Don Bosco”.[110]

Và rồi trong đức ái cần mẫn của Don Bosco, đặc biệt để phục vụ con cái của dân nghèo. Ở điểm này tôi quay lại bốn chương trong đó bàn về Don Bosco, vị giải tội, vị giảng thuyết, người viết văn và nhà giáo dục. Tại đó người ta thấy được sự cần mẫn lao tác không ai sánh bì, được gắn liền thế nào với chiều sâu nội tâm hoàn hảo, khiến ngài trở thành một vị thánh hoàn toàn đặc biệt.

Việc tông đồ bác ái của ngài mang tính năng nổ cần mẫn, nhưng là của một đức ái vui tươi. Bài đọc trong lễ thánh Gioan Bosco trích từ thánh Phaolo bắt đầu với những lời: Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên.[111]  Đúng thế! Sự vui tươi ở trong ngài và phát xuất từ ngài. Có biết bao lý do làm ngài có thể buồn từ khi còn tấm bé cho đến khi tuổi già! Thế mà chứng từ từ những người hiểu rõ ngài, đều nhất mực khẳng định rằng tính vui tươi là đặc điểm của tất cả cuộc sống ngài. Ai sẽ nói được rằng ngài đã chịu cả ngàn nỗi đau đớn khi ngài cho thanh thiếu niên những bài huấn từ tối đầy thích thú vì tính vui tươi và khôi hài hay khi ngài xuống sân chơi trong sự thanh thản và mỉn cười nói ra những câu khôi hài làm thức tỉnh sự vui nhộn và gây nên bao điều tốt cho người mà ngài nhắm tới?

Có những lá thư cho thấy ngài viết đang khi mệt nhọc và nhiều bất tiện, thế mà luôn mang có màu sắc của sự vui tươi, với mục đích nói vào trái tim người nhận và đặt vào đó hạt mầm của những tâm tình tốt đẹp. Mẫu gương của ngài cũng ảnh tương tự trên những người có may mắn được sống với ngài, khiến họ dù không nhận ra nhưng lại có khuynh hướng chấp nhận những điều trái ngược với cái ý thích riêng với một sự bình thản trong tâm hồn và ngay cả với nụ cười thanh thản. Từ tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, xuất phát trong lòng Don Bosco niềm vui thiêng liêng bất tận, làm cho ngài thanh thản trong một cảnh huống của cuộc sống và trở thành người đem sự an tâm cho mọi con cái của ngài.

Tới đây tôi không thể bỏ qua trong yên lặng hai điều chịu ảnh hưởng của đức ái vui tươi này. Điều thứ nhất liên quan tới lòng đạo đức của thanh thiếu niên và nói chính xác hơn là sự hiệp lễ thường xuyên.

Cách thức ngài nghĩ về lòng nhân lành của Chúa đối kháng hoàn toàn với tàn dư của thuyết giansenist nghiêm khắc còn vung vãi đâu đó ở Piedmonte, gây tổn hại cho các linh hồn đặc biệt trong việc thực hành các bí tích. Don Bosco can trường để tẩy xoá tàn dư này bằng cách cổ võ các thanh thiếu niên tham dự một cách thân tình bàn tiệc thánh thể. Vững chãi trong giáo huấn chân chính của Giáo hội, và tiến xa hơn nữa theo giáo huấn của thánh Phanxicô Salê, ngài khuyến khích rước lễ không chỉ hằng tuần mà là hằng ngày. Điều mà chưa từng ai đã từng thấy.

Bởi thế có thể hiểu được những lời nhận xét phản đối thậm chí có khi là khiển trách thậm tệ. Nhiều người khi nhìn thấy từng hàng thanh thiếu niên của Nguyện xá lên rước lễ mỗi ngày, họ thấy mình chưng hửng. Nhưng ngài để mặc họ nói gì thì nói, bởi vì gương sáng của ngài lôi kéo và việc thực hành là đương nhiên, cho tới khi Đức thánh cha Pio X giải quyết một lần dứt khoát vấn đề, ra một sắc lệnh nổi tiếng, đánh dấu sự chiến thắng của nền tu đức bí tích của thánh Gioan Bosco và ngay cả sử dụng chính lời của ngài nữa.

Một hiệu quả tốt nữa của đức ái vui tươi đó là hình thức ngài ghi khắc trong hệ thống giáo dục dự phòng trong việc giáo dục giới trẻ. Những qui tắc chừng mực nhưng khôn ngoan và hiệu qủa mà ngài đặt ra muốn thánh hiến vai trò của sự  thân tình trong một công cuộc cực kỳ tế nhị để mưu ích cho lứa tuổi mỏng dòn này. Ngay từ nhỏ ngài đã cảm thấy được thúc đẩy để làm tông đồ giữa các bạn cùng tuổi cũng như những bạn lớn tuổi trong vùng, hiểu được giá trị của tài khéo khi chơi để đạt đến mục tiêu tông đồ; đến tuổi thiếu niên ngài thực hiện việc tông đồ giữa các bạn học, tổ chức một hiệp hội có tên là Hội vui; khi là môt linh mục trẻ, lúc bắt đầu sứ mạng ngài thu hút đám trẻ nghịch ngợm của thành phố Torino bằng cách biến mình trở nên nhỏ bé giữa những trẻ nhỏ, và trong thời gian đầu của Nguyện xá ngài sáng kiến ra những phương tiện lạ lùng để làm cho nhà ngài ắp đầy niềm vui. Khi ngài phải cầm bút và ghi thành lời những qui tắc chính xác phải theo để giáo dục thanh thiếu niên như ý ngài muốn, ngài làm cho đức ái vui tươi trở thành một điều kiện không thể thiếu (sine qua non) của tất cả phương pháp giáo dục của ngài, phương pháp được tóm gọn lại trong lời tuyệt đẹp phụng sự Chúa trong niềm vui.

Tôi đã gọi ngài là vị tông đồ của một đức ái không lệ thuộc, nghĩa là vượt trên các xét đoán và thành kiến. Không lệ thuộc vào xét đoán của những người mà nhờ có đóng góp của họ ngài thực thi bác ái, và của những kẻ khác vốn tấn công ngài bằng những lời phê bình hoặc ngược lại vì họ tán tụng ngài. Không lệ thuộc vào thành kiến của những kẻ vì hiểu lầm mà tìm cách cản trở lòng nhiệt thành của ngài, hoặc của những kẻ xấu tìm cách phá những cơ sở của ngài, và thậm chí muốn tiêu hủy chúng.

Trước hết, đức ái nung nấu trong lòng ngài, khiến ngài trở thành thừa tác của Chúa đối với bất cứ hạng người nào. Khi tiếp xúc với bất cứ ai, vừa khi biết được tâm tình tôn giáo của họ, ngài liền tìm cách mời họ suy nghĩ về linh hồn. Đức ái thúc đẩy ngài, tạo cho ngài một sự thành tâm tông đồ. Sự thành tâm này đi cùng với sự đơn giản trong sáng của ngài tạo nên một ấn tượng tích cực. Trong những trường hợp này ngài không biết đâu là sự nể nang nhân loại mà nhiều khi làm cho các linh mục phải dè giữ đến độ không dám đụng tới một số vấn đề.

Ý thức phải làm sao cho việc phục vụ linh mục được tốt hơn như được mong đợi, khiến ngài không bận tâm tạo ra ấn tượng ban đầu bằng những lời nói trước mặt người khác. Thường đó là những nhà khoa học quí phái, những chuyên gia, những nhà chính trị, những nhân vật có tiếng tăm, nổi danh vì lập trường chống Giáo hội, những người này dễ dàng xỏ mũi ngài như chơi. Nhưng Don Bosco không hề lo lắng, ngài làm cho sự tự do của mình thêm dễ chịu bởi sự lịch thiệp trong cung cách đối xử, luôn kính trọng và tỏ tình cảm và tuỳ theo hoàn cảnh còn có những câu hóm hỉnh bất ngờ; dù những câu như thế cũng có khi có kết qủa xấu.

Còn biết bao giai thoại thú vị người ta có thể kể về điểm này!

Sự khinh thường và rồi sự ca tụng nở rộ mọi lúc và mọi nơi; hàng trăm lần báo chí đề cập đến ngài hoặc ủng hộ hoặc chống đối. Đức bác ái của ngài không bị lung lạc bởi những sự khinh dể và trong sự ca tụng ngài nhìn thấy cái gì đó xa hơn, tức là giá trị truyền bá của báo chí cho công cuộc của ngài. Vậy thì đâu là tâm tư sâu thẳm của ngài, điều đó ngài cho thấy trong một khoản trong Qui luật dành cho các nhà Salêdiêng, vốn được duy trì trong lần xuất bản thứ nhất năm 1877 và các lần kế tiếp.

Trong khoản này Don Bosco nói với các thanh thiếu rằng chúng hãy học để đón nhận một cách dửng dưng các lời khinh chê và khen ngợi.[112] Đòi hỏi như thế không phải là ít đối với lứa tuổi này! Về phần ngài, khi ngài nói với chúng về những lời khen chê mà người ta nói về ngài, ngài thường bảo rằng những người khen ngài, họ muốn nói về cái mà ngài phải là; và những người chê, họ nói về cái mà ngài là. Rất thường các kẻ chỉ trích ngài trách cứ ngài về hai điều, ngài để cho quảng cáo quá nhiều về con người và công cuộc của ngài và đồng thời vì ngài qúa gần gũi với đám người chống lại Giáo hội.

Nhưng trong sự quảng cáo, ngài chỉ nhìn đó như một phương tiện khiến cho các cơ sở của ngài được biết và được ủng hộ, trong đó ngài tỏ ra hiểu thời cuộc: dần dần sự việc trở nên phổ biến khiến cho ngay cả những người kiểm duyệt ngài cũng phải dựa vào quảng cáo nếu họ muốn thành công trong một số công việc tốt của họ.

Về lời tố giác thứ hai, không khó biện hộ: thực vậy ngài không thấy gì xấu cả khi gần gũi mọi người để làm điều lành cho tất cả, tiếp đón chính bính, kính trọng họ và trả cho Caesar điều thuộc về Caesar, để cho họ không phủ nhận những gì thuộc về Thiên Chúa. Ngoài ra, ngài không nịnh hót bất cứ ai: dù là các nghị viên hoặc bộ trưởng; ngài cư xử lễ độ, nhưng thẳng thắn và như một linh mục đối với từng người, ngài không bỏ qua thói quen nói về chân lý mà có lẽ họ đã không được nghe từ người khác.

Đức ái của ngài cũng không bị lệ thuộc vào các thành kiến của người khác, ngài khôn ngoan tránh mọi hành động qúa khích, vốn có thể gây ngãng trở cho hành động của Chúa quan phòng. Các thành kiến bất lợi cho Don Bosco có ba loại sau đây: Giáo quyền, tôn giáo và chính trị.

Công cuộc của Don Bosco xuất hiện trước xã hội với những yếu tố mới mẻ, xem ra không phù hợp với những truyền thống đáng kính. Ngày nay sự mới mẻ do ngài đem tới đã hội nhập vào trong đời sống Giáo hội; nhưng những người tiên phong không dễ được cảm thông bởi những người thuộc thế hệ qúa khứ, từ đó nảy sinh sự e dè, sự nghi kỵ và rồi sự chống đối. Những khó khăn đôi khi nặng nề và kéo dài đến độ làm nản lòng người không ý thức về sứ mệnh cao cả của mình. Tuy nhiên Don Bosco không bối rối cũng không đổi thay đường hướng: ngài kiên nhẫn, khiêm nhường, ngài nói, viết, để rồi sau cùng tới ngày cuối đời ngài nghiệm thấy được niềm an ủi thấy mình được hiểu, được phê chuẩn và được chúc phúc.

Về loại thành kiến thứ hai, tôi muốn nói tới những ý tưởng sai của thời đại về bậc sống tu sĩ. Chính quyền dẹp bỏ các đan viện và giải tán các người ở trong đó. Sách báo, kịch tuồng bôi nhọ và giễu cợt họ. Các gia đình Kitô hữu cũng bị ảnh hưởng lây, họ không còn nhìn các tu sĩ với thiện cảm nữa. Các giáo sĩ triều cũng không tôn trọng họ. Tu sĩ có nghĩa là thầy tu (frate), thầy tu đồng nghĩa với người keo kiệt và lười biếng. Các thanh thiếu niên cười nhạo đằng sau bóng áo dòng dù rằng hiếm khi họ xuất hiện. Thế mà Don Bosco lại có ý tưởng lập một dòng tu mới. Hiển nhiên dòng của ngài khác với các dòng tu khác, thế nhưng các thanh thiếu niên của Nguyện xá không muốn nghe danh từ này, chúng muốn trả lời với ngài: làm linh mục, tốt, nhưng làm thầy tu, không. Phải tưởng tượng ngài đã phải gần gũi với chúng và chuẩn bị chúng như thế nào, phải thận trọng để không đụng đến thành kiến chung để khỏi biến mọi sự thành mây khói! Lòng tốt, sự kiên nhẫn và sự khôn ngoan sau cùng đã giúp ngài chiến thắng. Chỉ có một đức ái biết nhìn xa trông rộng mới có thể giúp kiên trì trong công việc cam go.

Cuối cùng là nền chính trị thiên kiến. Tu hội Salêdiêng hình thành trong thời chiến tranh dành độc lập và thống nhất nước Ý. Ý tưởng về cải cách, trào lưu tự do, phôi thai trong thời Đức Gregorio XVI, bùng nổ vào thời Đức Pio IX. Những cuộc biểu tình hỗn loạn của dân chúng gây nên sự biến động ngay cả trong hàng ngũ giáo sĩ triều và dòng, do chịu áp đặt kỷ luật hay do bị lôi kéo bởi sách báo cấp tiến hoặc bị lừa gạt vì ngây thơ, họ chạy theo trào lưu. Nếu qủa là một phong trào thuần túy yêu nước, chẳng có gì xấu; thế nhưng có những kẻ lợi dụng nước đục thả câu, tìm kiếm tư lợi, và đó chính là các giáo phái. Qúa nhiều người tốt hoặc những người thiển cận không thấy hoặc những kẻ bị sai lầm lấy đom đóm làm đèn.

Người ta cũng tìm cách để lôi kéo Don Bosco vào trào lưu chính trị; nhưng tâm tư tận căn linh mục của ngài đã chỉ cho ngài đường hướng xử sự đúng đắn: không chính trị vì nó gây chia rẽ, luôn luôn đức ái vì nó liên kết. Do điều này ngài phải đau khổ rất nhiều lúc đó và cả sau này. Tuy nhiên ngài không đầu hàng. Thận trọng, bình tĩnh, đáng kính nể, ngài lưu tâm tụ họp các trẻ bị bỏ rơi để làm cho chúng trở nên những công dân tốt và Kitô hữu tốt, và đồng thời ngài cũng nghiên cứu cách để giữ gìn đám trẻ ngày càng tăng khỏi ảnh hưởng xấu chung trong xã hội, mà ý nhắm không nói ra của ngài là đào tạo chúng nên nền móng của công trình ngài đang xây dựng.

Kinh nghiệm về thời cuộc biến động đó trở nên thầy dạy cho ngài trong thời gian tiếp sau đó trong việc củng cố Tu hội Salêdiêng. Đang khi vẫn đặt đức ái lên hàng đầu, trước mặt nhà nước mới ngài có ý định cho họ biết rằng người ta có thể trả cho Caesar điều thuộc về Caesar mà không phải nhượng bộ điều gì hay nhượng bộ ai cả, cũng chẳng lấy đi của Thiên Chúa điều thuộc về ngài, và điều này đã được Đức Pio IX khen ngợi. Ngài coi đây là vấn đề lớn lao nhất đối với các người công giáo thời đó.

Trong thực tế ngài đã gặp phải rất nhiều khó khăn, và ngài luôn tìm cách giải quyết chúng theo đường lối phúc âm. Không may nghệ thuật của kẻ thù của Giáo hội rất tinh xảo đồng thời phương tiện của họ thì dồi dào; đang khi Don Bosco luôn đặt mình trong sự hợp pháp và tìm cách theo đức ái để có được sự giúp đỡ của người đang có quyền lực. Dù phải hy sinh về đủ mọi phương diện, ngài đã xây dựng công trình của ngài trên nền tảng vững chắc, vững chắc tới độ rằng, nếu có người khác muốn tái lập lại các cơ sở cũ, họ sẽ không ngần ngại theo gương hành xử của ngài.

Đức thánh cha, người phong thánh cho Don Bosco, trong bài giảng dịp trọng đại đó ám chỉ rằng giữa bao đối kháng mà vị thánh đã trải qua, chính sự trợ lực của Thiên Chúa làm ngài mạnh sức: “Hiến toàn thân cho vinh danh Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, ngài không bị khựng lại đứng trước sự nghi ngờ của người khác, nhưng với sự mạnh bạo trong tư tưởng và hiện đại trong phương thức ngài bắt tay vào thực hiện những dự định rất mới mẻ, những điều xem ra có vẻ táo bạo nhưng do được ơn soi sáng, ngài biết rằng phù hợp với ý Thiên Chúa”. Và còn hơn nữa: “Đứng trước các khó khăn đủ mọi loại, đứng trước sự cười nhạo và chế diễu của nhiều người, ngài thường ngước mắt lên trời và kêu lên: – Anh em thân mến của tôi, đây là việc của Thiên Chúa, đây là ý của Chúa: bởi thế Chúa buộc lòng phải cung cấp những trợ giúp cần thiết.- Các sự xảy ra chúng tỏ sự thật của lời ngài nói, đến độ những sự cười nhạo biến đổi thành sự khen ngợi khắp hoàn vũ”.

Như thế ứng nghiệm cho ngài điều mà thánh tông đồ đức ái viết: Đức ái hoàn hảo thì đẩy xa sự sợ hãi.[113] Tình yêu quá lớn dành cho Thiên Chúa và đồng loại đã làm cho ngài vững mạnh trong mọi sự và nhờ đó thực hiện được sứ mệnh.

Tới đây ý nghĩ của chúng ta tự nhiên quay về với thánh lễ do Giáo hội phê chuẩn kính thánh Gioan Bosco. Thánh lễ mở đầu với những lời mà Kinh thánh nói về Salomon và Đức thánh cha Pio XI sử dụng nhiều lần trong diễn từ về Don Bosco: Cùng với sự khôn ngoan và thận trọng tuyệt vời, Chúa đã ban cho ngài một trái tim rộng vô bờ như cát trên bờ biển. Và như chính thánh lễ gợi ý, ngài phải trở nên cha của nhiều dân tộc.[114]

Chương XVI

ƠN SOI SÁNG

Ánh sáng thiêng liêng của Don Bosco tỏa rạng đặc biệt vào lúc ngài tuổi xế chiều, khi mà các công cuộc đã vững chắc và các môn đệ của ngài đã đạt tới mức trưởng thành vững vàng theo tinh thần của ngài, sự suy giảm về thể lý không cho phép ngài tham dự vào nhịp sống bình thường được nữa. Lúc này các đặc sủng phi thường, những điều mà, vốn từ ngay từ lúc chín tuổi đã không ngừng xuất hiện, giờ đây tỏa chiếu cách mạnh mẽ và thường xuyên, đến độ hầu như điều siêu nhiên bao phủ toàn thể cuộc sống.

Chúa biết tôi đã run sợ thế nào khi đi vào thế giới nội tâm của Don Bosco trong các phần trước của công việc nghiên cứu này. Giờ đây đang khi không muốn bỏ qua trong yên lặng các ơn đặc sủng, sự run sợ trở thành niềm kính sợ thánh, sự kính sợ như của người lại gần hòm bia thánh trong Cựu ước. Nền thần bí học đã không được gọi là “bình diện cao vời” của khoa học thánh đó sao? Và phải nói gì về kinh nghiệm thần bí, điều mà không bàn bằng giấy bút, nhưng bằng cuộc sống hiện thể?

Nhà thần học nổi tiếng Augusto Nicolas người Pháp, một người đáng kính nể vì tuổi tác, học thuyết và vì cuộc sống thánh thiện, một lần đã tới viếng thăm Don Bosco trước khi ngài qua đời, ông quì gối trước Don Bosco và muốn chắp hai tay trong suốt buổi đàm thoại, đón lấy lời từ đôi môi ngài những lời thánh thiện, như thể tiếng trên trần của Ngôi Lời Thiên Chúa bất tử. Một thái độ bộc phát khi đứng trước sự vĩ đại.

Thiên Chúa qủa đã rộng ban cho Don Bosco những ân sủng vô lường để ngài trở nên dụng cụ cho kế hoạch quan phòng của Người. Thật vậy trên bình diện của sự quan phòng mà Thiên Chúa, khi chọn một thụ tạo để làm một nhiệm vụ xác định, trước hết Người xếp đặt và rồi chuẩn bị nó để thực hiện tốt sứ mệnh tiền định này.[115]

Giữa những ân ban đặc biệt mà Thiên Chúa muốn làm cho Don Bosco nên giầu có, chúng ta cần phải nói tới ơn soi sáng, điều tỏa chiếu suốt cuộc sống ngài, luôn đồng hành với các đặc ân trổi vượt khác, khiến không thể bỏ qua hay chỉ bàn đến một cách hời hợt được.

Qua ơn soi sáng, Thánh Thần làm hoàn hảo nhân đức khôn ngoan thận trọng tự nhiên trong linh hồn người tín hữu, ban cho họ một trực giác siêu nhiên, nhờ đó người ấy cảm thấy sẵn sàng và an tâm khi phán đoán về điều phải làm, nhất là trong những trường hợp khó khăn. Đặc ân này có mục đích là sự hướng dẫn những hành động riêng biệt của con người, tuỳ theo sự khác biệt thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh cá nhân. Ap dụng vào trường hợp của Don Bosco giáo lý mà vị giám mục thời danh dạy,[116] chúng ta phải nói rằng cha của chúng với đặc ân này, luôn có sự phân định vững tâm về hoàn cảnh và phương tiện, luôn thấy rõ chính mình và tiến tới cách không lung lạc, và đồng thời cũng biết chờ đợi thời điểm thuận tiện.

Ai đã cùng theo chúng ta cho tới lúc này, sẽ không cần tìm thêm bằng chứng cho xác quyết này; không có trang nào bên trên mà không cho thấy ngài đã nhìn thấy rõ ràng, rất rõ ràng trong tất cả những điều liên quan để có thể tự dẫn dắt mình. Bởi thế có lẽ sẽ là một bis in idem dừng lại thêm nữa. Chúng ta tìm hiểu ở đây sự ngài thấy rõ trong việc dẫn dắt người khác.

Don Bosco là người có ơn soi sáng không phải do tài năng hoặc do kết qủa của sự thận trọng nhân loại, nhưng do ánh sáng ân sủng siêu nhiên. Người ta tin chắc chắn một cách rộng khắp rằng, trong những điều viết hoặc đến với ngài là có lời được soi sáng.

Biết bao người, cả những người có trọng trách lớn, tìm đến với Don Bosco bằng thư từ về những vấn đề lương tâm và về đời sống thiêng liêng hoặc những vấn đề khác nữa. Về loại thứ nhất có rất nhiều tài liệu còn để lại cho chúng ta. Thư từ loại này, do tính chất nội dung riêng của chúng thông thường ngài đốt đi. Tuy nhiên trong các văn khố lưu trữ rất nhiều các thư hỏi về đời sống gia đình, về sự thích hợp đổi chỗ hoặc đổi việc, đổi nghề, về vay mượn, về sự dàn xếp các cuộc cãi vã, về cách thức điều hành gia đình và giáo dục con cái, về sự chọn lựa bậc sống, nói tóm lại là về các khúc mắc và nhu cầu đủ loại. Người ta đầy tín nhiệm vào sự khôn ngoan vượt sức nhân loại trong các lời ngài khuyên nhủ.

Chính Đức Pio IX nghĩ về Don Bosco và về sự soi sáng của ngài trong giờ phút băn khoăn. Sau khi Roma bị thất thủ tâm trí của ngài bối rối giữa chuyện ở lại hay phải đi nơi khác. Các cố vấn giúp ngài cân nhắc nhiều khía cạnh, dẫu thế Đức thánh cha cảm thấy do dự, tỏ ra thận trọng về chuyến đi của mình. Sau đó ngài không còn phân vân, ngài nói vì đã xin lời khuyên của Don Bosco và quyết định. Don Bosco đã cầu nguyện lâu giờ, và đã gởi một thư tay bảo đảm viết như sau: “Hỡi người lính canh, vị thần sứ của Israel, hãy ở lại vị trí và canh phòng núi nhà Thiên Chúa và hòm bia thánh”. Đọc lời của Don Bosco, Đức thánh cha hiểu đó là tiếng Chúa, và ngài quyết định từ bỏ ý định rời bỏ Roma.

Những người có thể, họ tìm cách đến với Don Bosco. Do điều này chúng ta có thể tưởng tượng được sự mệt nhọc triền miên của những cuộc tiếp khách. Cha Giuseppe Oreglia, một linh mục dòng tên, qủa quyết rằng, chắc chắn rằng có những việc đền tội khác, nhưng riêng chuyện này không cũng đủ cho thấy nhân đức anh hùng của ngài như thế nào. Dân chúng bao lấy ngài khi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, trong thành phố cũng như ở miền quê, không chút gì dè giữ hay khoảng cách. Người thuộc mọi tầng lớp xã hội và mọi cấp bậc nối tiếp nhau để bàn hỏi với ngài; giáo sĩ và giáo dân, vua chúa và thường dân, người giàu và kẻ nghèo, người quen biết và kẻ xa lạ, người học thức và người thất học, người tốt cũng như kẻ xấu, họ ngồi đầy trong phòng đợi; nhiều bề trên của các dòng hay các cộng đoàn tu sĩ, các giám đốc đan viện, các nữ tu thường xuyên xin được nói chuyện với ngài.

Don Bosco, như một người không còn trách vụ nào, ngài tiếp đón hết mọi người không phân biệt, không nhìn vào mặt bất cứ ai: bất cứ ai đến, ngài tiếp họ như do Chúa gởi đến, luôn dùng cung cách dịu dàng dễ chịu. Ngài liên tục lắng nghe, chăm chú tới tất cả những gì người ta trình bày cho ngài, ngay cả nhiều khi chuyện  chẳng có đầu đuôi của những con người khốn khổ. Có trường hợp đang khi ngài nói, người đối thoại cắt ngang lời ngài, ngài liền im lặng. Dường như ngài chẳng có một ý nghĩ nào về thế gian nữa. Ngài không bao giờ là người đầu tiên cắt đứt cuộc đàm thoại, cũng không ra hiệu rằng muốn cắt ngắn, dù rằng tới phiên ngài nói bởi vì nếu không ngài sẽ chẳng ngại lập lại những điều tương tự.

Ở Marsiglia, đang khi trao đổi với một bà mẹ người không muốn dứt câu chuyện, ngài được báo cho biết tới ba lần rằng có nhiều người đang đợi, ngài nói nhỏ với người nhắc rằng: “Cần phải làm mọi sự vào lúc thuận tiện hoặc không làm. Người ta không mất thời giờ ở đây. Ngay khi có thể, chúng ta sẽ để người khác vào”.

Một chứng nhân viết rằng tại Nguyện xá, trong căn phòng nhỏ bé của ngài “có không khí bình an của thiên đàng”.[117] Nhưng vì không khí thiên đàng đó phát xuất từ con người của Don Bosco chứ không từ các bức tường, cho nên ngay cả ở bên ngoài, trong các cuộc thăm viếng hoặc trong các hành trình, người ta luôn tìm kiếm ngài. Nơi đâu ngài dừng chân, chung quanh ngài liền tạo thành một bầu khí chờ đợi an bình và tín nhiệm, vì tùy theo trường hợp, lời ngài giống như những lời tiên tri, như thần dược, như ngọn lửa thần bí.

Thần khí của Chúa, qua miệng Don Bosco, hoàn toàn tự do thổi nơi đâu Người muốn, dù người ta xin hay không xin, phát ra những lời khuyên cứu độ cho mọi hạng người, giàu nghèo, dốt nát hay học thức, người khiêm tốn hay thế gía. Luôn được soi sáng bởi Đấng ban phát sự soi sáng thuần khiết, ngài gieo những ý tưởng lành mạnh và thánh thiện không hề e dè bất cứ ai.

Hơn nữa bởi vì thần khí của Chúa ở trên môi miệng Don Bosco khi ngài  khuyên nhủ nên ngài cảm thấy sự dễ dàng khi phải cho lời khuyên hay phải chỉnh đốn với một sự hiệu lực không thể đảo ngược, dù rằng ngài biết có thể gây ra nỗi cay đắng. Đây chính là những điều mà các linh mục, các tư giáo và các học sinh kinh nghiệm hằng ngày khi gần gũi ngài trong sân chơi, trong phòng ngài và trong tòa cáo giải.

Những lời khuyên trong sân chơi được gọi là những lời rỉ tai. Don Bosco khi có thể, ngài tham dự các trò giải trí với thanh thiếu niên và khi không thể ở giữa chúng nữa, thỉnh thoảng ngài vẫn xuất hiện, dùng các cơ hội thuận tiện để biết con cái ngài và để nói cho chúng một cách cá nhân vài lời thích hợp. Về điểm này ngài đặt vào trong Qui luật của các nhà khoảng này: “Hãy nhớ tới gương của đám gà con. Con nào càng gần gũi gà mẹ, càng nhận được từ gà mẹ những miếng mồi đặc biệt. Cũng thế ai gần với bề trên sẽ luôn có những lời nhắc nhở hoặc những lời khuyên đặc biệt”.[118]

Những năm cuối đời, không thể làm gì hơn, nên khi đi ở ban công tại thềm cửa phòng ngài, ngài dừng lại nhìn xuống các thanh thiếu niên trong sân chơi đang reo hò theo dõi những buớc đi chậm chạp và nặng nề của ngài, nói xuống phía dưới với chúng những lời tốt lành, còn đám trẻ thì đầy sự chăm chú lắng nghe và vỗ tay chào ngài. Những khi khác, các lời ấy nói với các cá nhân tùy theo nhu cầu mỗi người! Nhà giáo dục nào luôn để ý cảnh cáo, dễ dàng bị ngờ vực trước mắt các kẻ thụ giáo, chúng sẽ dấu diếm và khi thấy người ấy xuất hiện, chúng sẽ xa tránh. Thay vào đó các thanh thiếu niên của Nguyện xá yêu thích những lời nói rỉ tai và hơn nữa chúng còn xin Don Bosco. Đó là lời của Kinh thánh: Lời khiển trách nhỏ nhẹ bên tai giống như bông tai bằng vàng ròng đính ngọc qúi giá.[119]

Ngài thực hiện như thế này. Đặt một tay trên đầu học sinh và cúi xuống bên tai em, Don Bosco nói với em một cách riêng tư, tay kia che miệng để khỏi ai nghe thấy. Thực hiện điều này mất chỉ vài giây, thế nhưng có một hiệu qủa kỳ diệu! Chỉ cần quan sát dáng điệu và cử động của các em là thấy: một nụ cười nở rộ, một vẻ suy tư, một sự đỏ mặt, nước mắt xuất hiện, một tiếng trả lời vâng hay không, hoặc đáp lại bằng một lời nói nhỏ vào tai Don Bosco, một tiếng cám ơn và chạy đi chơi, hoặc chạy vào nhà thờ. Khi xảy ra hiện tượng này, em nhỏ nghe lời của Don Bosco không muốn rời khỏi ngài như thể bị hút trong một ý nghĩ trong sáng. Những hiệu quả khác xảy ra muộn hơn ví dụ như sự lãnh nhận các bí tích, sự chăm chú khi cầu nguyện, sự chuyên cần hơn trong bổn phận học hành, sự mở rộng và bác ái đối với các bạn.

Nhà viết sử kể lại rằng nhiều em mà có thể kể tên ra được, nhờ phương cách đơn giản này đã đạt tới một lòng đạo đức trổi vượt đến mức thực hành những việc đền tội phi thường, đến độ Don Bosco phải hãm các em lại; và nhiều em khác vào buổi tối đợi ngài ở cửa, thỉnh thoảng nhè nhẹ gõ cửa phòng ngài, bởi vì các em không muốn đi ngủ mà còn mang tội trong linh hồn.[120]

Về những lời rỉ tai, nhà viết sử trình bày cho chúng ta một vườn hoa, nhưng đó là những bông hoa dược thảo.[121] Vườn hoa lột được cái vẻ sống động của sự diễn tả, của cách thức nhấn mạnh, của ánh mắt, của nụ cười và của tầm mức cá nhân của người nói; thiếu tính thời sự của sự việc như hoàn cảnh tâm lý của người nghe. Hình ảnh của Don Bosco giữa các thanh thiếu niên từ một chứng nhân bên ngoài nói như sau: “Tôi như thể còn thấy ngài mỉn cười với tôi, thấy ngài nói với tôi những lời ngọt ngào, thấy khuôn mặt đáng mến của ngài, khuôn mặt phản chiếu nét đẹp trong linh hồn của ngài”.[122]

Các lời khuyên của Don Bosco đã ban trong căn nhà đức ái đó, nếu thu thập lại trong khung cảnh giản dị chân chính của chúng, như người ta thấy trong một số ít những sách còn lưu giữ, sẽ tạo thành một bộ mật mã khôn ngoan Kitô giáo. Dù vậy ai đã nhận nó thì vui mừng tán dương giá trị, nhưng phần lớn người ta giữ lấy nó cho riêng mình vì sự kín đáo.

Người viết cuốn sách này luôn sống trong kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Don Bosco trong những bức tường diễm phúc ấy: giây phút đẹp nhất là lúc nghe người cha tốt lành cho một lời khuyên quí báu về đời sống thiêng liêng, diễn tả bằng những lời rất giản dị, nhưng chính xác và được phát ra một cách bất chợt như một lời tiên tri, trong một giọng nói không biết là mang tính uy quyền hay tính phụ tử, đến độ vang lên trong lòng một dấu ấn.

Trong con tàu Noe tức là Nguyện xá, chẳng có ai ngay cả những kẻ nhỏ bé nhất, bị cản trở tới phòng của Don Bosco, chẳng có ai cảm thấy sợ hãi khi đi lên phòng của ngài. Tất cả đều được tiếp đón không phân biệt với cùng một cách thức. Don Bosco ngồi ở cái bàn viết mộc mạc, trên đó chất đầy thư từ và giấy mà ngài phải trả lời khi ngồi tiếp chuyện. Không hề bận tâm, ngài bỏ mọi sự qua một bên, chú ý đến người mà ngài vừa mời ngồi, như thể không phải nghe hoặc phải làm hài lòng một ai khác ngoài người đang ngồi đó. Hiển nhiên ra khỏi phòng ngài, người ta được soi sáng, được khích lệ và hài lòng.

Người kế vị nhà thần học Murialdo trong điều hành đám trẻ học nghề, sung sướng minh họa số phận của những người sống trong nơi thánh thiện, nơi tỏa chiếu ơn soi sáng đó. Ông nói: “Các bạn thật là may mắn trong nhà của các bạn, điều mà chẳng ai ở Torino cũng như các cộng đoàn tu sĩ khác có được. Các bạn có một căn phòng, trong đó bất cứ ai khi vào lòng đầy đau khổ, ra khỏi đó tỏa rạng niềm vui”. Về sự thật này, nhà viết sử chú giải rằng “cả ngàn người chúng tôi đã nghiệm thấy điều đó”.[123]

Các lời khuyên khi giải tội cũng đem chúng ta trở lại vấn đề đã đề cập. Một trong những môn đệ từ thời đầu của vị thánh viết về ngài như một vị giải tội,[124] dùng ba tĩnh từ có thể cô đọng tất cả: “nhân ái, phù hợp, khôn ngoan”.

Những giai thoại ngắn nhưng xúc tích sẽ minh họa đầy đủ ba tính chất mà người nhân chứng khẳng định theo lương tâm của mình.

Về Đức ái. Một ngày nọ trong những năm cuối đời của ngài, đang khi ở giữa một số các Salêdiêng, Don Bosco buột miệng nói: “Đêm hôm qua cha mơ thấy mình muốn đi xưng tội. Trong phòng thánh lúc đó chỉ có linh mục. Nhìn cha đó từ xa và thấy sức chống cưỡng lại. Cha nói với mình: – Ngài quá nghiêm khắc!”. Các hội viên liền thích thú bật cười nhìn về phía người vừa bị nêu tên. Người này cũng cười như những người khác và nói cách vui vẻ: “Ai có thể tưởng tượng được điều đó? Tôi làm Don Bosco sợ sao!”. Cảnh này là một bài học cho tất cả; ai lại không hiểu điều đó áp dụng cho mình? Về sự phù hợp, và cả không phù hợp. Mọi người đồng tâm cho rằng khi giải tội Don Bosco không nói nhiều, nhưng nói những lời mà các tâm hồn khao khát, tuỳ theo mỗi hoàn cảnh, ghi khắc vào trong họ ý nghĩ về bí tích và những quyết định vững chắc.

Một bạn trẻ ở bên ngoài thường đến sinh hoạt trong Nguyện xá, em nhận lời mời hát trong một cảnh tôn giáo tại Nhà hát Hoàng gia Torino. Xem chừng đó là một vinh dự cho nhà Nguyện xá! Nhưng Don Bosco không nghĩ như thế; lo sợ về phần rỗi cho linh hồn con cái ngài, ngài biết rằng một đứa con của Nguyện xá đi vào rạp hát thì rất nguy hiểm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ngài cấm em? Các bề trên tỏ ra bối rối. Ngày Chúa nhật khi giải tội ngài khuyên nhủ em và em đã hủy bỏ không hề hối tiếc, và để mọi người khỏi xôn xao bàn tán, em nói với những người em gặp: “về chuyện lương tâm, thì cha giải tội là người quyết định”.

Về sự khôn ngoan. Một trong những lý tưởng được Don Bosco khuyên nhủ, đó chính là gia tăng số các chủng sinh nhà Chúa. Sự xác tín khi ngài nói dưới sự linh hứng của Chúa khiến ngài cảm thấy phải khuyên nhủ nhiều về ơn gọi của họ. Một lời có hay không của Don Bosco trong vấn đề có tầm mức quan trọng này xóa tan mọi nỗi nghi ngờ. Trong tiến trình án phong thánh tại tông tòa, rất nhiều chứng nhân nói về điểm này trong lòng nhiệt thành linh mục của Don Bosco, họ trình bày một sự nhất tâm nói rằng chưa hề nghe nói có ai hối tiếc vì đã nghe lời ngài, để đi theo hoặc không đi theo ơn gọi giáo sĩ, cũng như không có ai không thất bại khi thích theo ý riêng mình, mà không gánh lấy đau khổ.

Trong một bản ký sự không xuất bản còn lưu giữ kỷ niệm về một biến cố nhỏ, vốn hầu như kịch tính hóa hiệu qủa của lòng bác ái, sự phù hợp cũng như sự khôn ngoan mà Don Bosco để lại trên tâm hồn của các thiếu niên đến xưng tội với ngài. Một đứa trẻ sau khi xưng tội, xin Don Bosco một ơn huệ trước khi ra khỏi tòa giải tội: em xin phép được hôn chân ngài. Vị đầy tớ Chúa, không chút do dự nói: “Không cần làm thế. Con hãy hôn tay cha như hôn tay một linh mục”. Đứa trẻ hôn tay phải của ngài, rồi kêu lên: “Con đã có thể may mắn biết bao, nếu trước đó con đã mở mắt ra như chiều nay cha mở mắt cho con!”.

Thần khí của Chúa, Đấng rộng ban cho Don Bosco khi trợ giúp ngài trong việc cần mẫn cho lời khuyên, cũng soi sáng cho ngài khám phá ra những tội thầm kín và những ý nghĩ dấu ẩn, nơi người ở gần cũng như người ở xa.

Một sự kiện đánh động chúng ta liên quan đến đặc ân siêu nhiên này, đó là Don Bosco nói cách không dấu diếm. Trong một tài liệu trong năm 1861 chúng ta đọc thấy:[125] “Đã mười năm khi tôi tới Nguyện xá, tôi nghe Don Bosco nói: Hãy cho tôi một đứa trẻ mà trước đó tôi chưa biết, sau khi nhìn thẳng vào nó, tôi sẽ cho nó biết tội của nó, bắt đầu từ những năm thiếu thời”. Một bản ký sự viết tay ngày 23 tháng tư năm 1863, viết về bài huấn từ tối ngày hôm trước, trong đó Don Bosco giữa các điều khác, nói rằng: “Trong những ngày tĩnh tâm này cha thấy được tâm hồn của các thanh thiếu niên như cha đọc một cuốn sách: cha thấy rõ ràng và phân biệt mọi tội lỗi và mọi rối loạn của chúng”. Người viết tài liệu đề ngày 25 cũng trong tháng đó viết: “Tôi đã hỏi Don Bosco xem ngài đọc được rõ ràng những điều trong tâm hồn thanh thiếu niên khi ngài giải tội hay cả khi ngoài toà giải tội. Ngài trả lời tôi: – Từng giờ trong ngày, ngay cả ngoài tòa giải tội”. Điều này cho thấy phải hiểu rằng không phải việc đọc thấy lương tâm là điều liên tục, nhưng rằng được ban cho ngài từng lần khi ngài xin vì lợi ích các linh hồn.

Ai biết được tại sao Don Bosco người giữ kín những gì giữa ngài và Thiên Chúa, lại có thể mở miệng tự do về những thông tin này? Một lý do chính yếu phải có; mà có lẽ có đến hai lý do. Thứ nhất vì sự rõ rành của sự việc khác mức bình thường và không thể dấu diếm mà không gây nên sự bàn tán trong thế giới nhỏ bé của Nguyện xá; bởi thế sự thận trọng muốn làm sáng tỏ các ý nghĩ bằng sự đơn sơ minh bạch để đánh tan mọi bóng dáng của sự nghi ngờ về nguồn gốc và tính chất của sự việc.

Lý do thứ hai còn nặng ký hơn. Don Bosco, một người nhiệt thành tìm kiếm các linh hồn bằng phương thế giải tội, biết rằng kẻ thù mạnh mẽ chống lại ngài chính là thằng qủi câm lặng, vốn lường gạt nhiều người ngay trong tòa giải tội bằng sự thiếu chân thành. Đây chính là cơn ác mộng thường xuyên đối với ngài. Một cha xứ đạo đức người Pháp, từng thường xuyên giảng các tuần đại phúc và tĩnh tâm, kinh sợ khi nhìn thấy nhiều linh hồn phạm thánh bởi xưng tội không tử tế, nhưng sợ rằng đó chỉ là ảo ảnh của mình, đã viết cho Don Bosco để xin phán đoán của ngài về nỗi lo lắng của mình. Don Bosco trả lời: “Sao ngài nói điều này với tôi, điều mà tôi đã giảng khắp cả nước Ý, và tôi không thấy điều ngược lại?”.[126]

Một thời, trong những năm đầu đời linh mục, ngài tin rằng các con cái ngài đã có một sự tín nhiệm không giới hạn đối với mình; tuy nhiên sau đó ngài cũng nhận ra rằng ma qủy thì khôn lanh hơn ngài.[127]

Vẫn lấy từ ký sự ngày 12 tháng tư năm 1861. Một tư giáo ngạc nhiên khi nghe rằng không ít người giấu tội khi đi xưng tội ngay cả khi có nhiều cha giải tội, Don Bosco bảo rằng không phải tất cả các cha giải tội đều có “khả năng, kinh nghiệm và phương thức để xem xét lương tâm và khám phá ra những con sói đang cấu xé các tâm hồn”, và ngài kết luận: “Có hai con thú ghê tởm đó là sự xấu hổ khi xưng tội và sự sợ hãi bị mất tiếng nơi các cha giải tội”. Đây chính là chỗ phải tìm để biết tại sao ngài ra khỏi e dè cẩn trọng của mình. Khi Don Bosco đọc các tâm hồn, ngài khám phá ra những điều kín ẩn; nhưng khi ngài nói các tội của hối nhân, thì tên cám dỗ không lường trước được điều đó.

Vì thế cần phải bảo cho tất cả biết trước, rằng tại tòa giải tội của ngài cạm bẫy của ma quỉ có thể bị lột mặt nạ; bởi thế đừng để mình bị lừa gạt, nhưng hãy lợi dụng ân huệ của Thiên Chúa để bảo đảm cho linh hồn của chúng. Bởi đó phải hiểu đây là chuyện trong nhà. Rất nhiều lần các học sinh, qùi gối xin ngài nói cho chúng tội của chúng; điều này Don Bosco làm trong một sự chuẩn xác khiến chúng phải kinh ngạc. Có một lời khuyên ngài nói với thanh thiếu niên trong bài huấn từ tối và cha Lemoyne đã trình bày trong án phong thánh: “Cho tới lúc này, khi xưng tội, các con thường nói: – Xin cha nói. Và cha đã nói. Nhưng điều quan trọng là hối nhân chứ không phải cha giải tội. Cha sẽ không nói giờ này qua giờ khác nữa; cái bao tử khốn khổ của cha làm cha đau đớn. Từ nay trở đi các con phải nói và khi nào các con bị lầm lẫn, cha sẽ giúp”.

Ngay cả ngoài tòa giải tội Don Bosco cũng thấy cách rõ ràng các tội và ý nghĩ.

Bên trong các cộng đoàn có các kiểu nói tạo thành một khung cảnh nội bộ, mang một ý nghĩa qui ước, không thể giải thích bằng việc tra tự điển. Trong cuốn sách này khung cảnh đó là Nguyện xá, câu nói đọc trên trán, có nghĩa qui chiếu về Don Bosco khi ngài đoán nghĩ được tội.

Sự tin tưởng rằng, khi nhìn vào trán, Don Bosco đọc được những dấu hiệu của các khuyết điểm dấu ẩn, là điều rất bình thường đến nỗi các thanh thiếu niên, khi lương tâm chúng không trong sáng, không dám đến gần ngài vì sợ ngài đọc được các tội của chúng trên trán. Trái lại, nếu được gọi tới hoặc có lý do gì đó phải đến gặp ngài, chúng che mặt với một cái mũ hoặc để tóc xõa che mặt.

Người ta hiểu rằng Don Bosco để mặc cho kiểu nói này được lưu hành, bởi vì ngài cần nó để dấu đi cái tính chất mầu nhiệm của sự việc. Tuy nhiên người ta thuật lại những giai thoại về những kẻ trơ trẽn không thấy vấn đề là nghiêm trọng và thách thức Don Bosco nói tội của họ ngay cả nơi công cộng. Trong những trường hợp này chiến thuật của ngài luôn luôn như một: kéo kẻ bất cẩn kia ra riêng một nơi, thận trọng nói vào tai kẻ ấy, khiến hắn ngỡ ngàng, đỏ mặt, và bật khóc.

Cũng tương tự như thế đối với các ý nghĩ; dù rằng việc đọc các ý nghĩ không nhiều lắm. Cá nhân Don Rua do kinh nghiệm làm chứng rằng, có lúc ngài tin cần giấu kín một số công việc, dù rằng Don Bosco có quyền biết, nhưng mọi nỗ lực để giấu đều vô hiệu, bởi vì khi nói, Don Bosco chứng tỏ là mình biết hết tất cả mọi chi tiết. Một thầy tư giáo, lo lắng sợ hãi khi đang xét mình để xưng tội, nghĩ trong bụng rằng: “Nếu Don Bosco, khi quay lại phía tôi, nói với tôi ngày mai đi rước lễ không cần xưng tội, thì tôi sẽ hiểu rằng mọi lo lắng của tôi chỉ là do ma qủi”. Và đến lúc chập tối, thì có bàn tay đập vào lưng vai thầy, và tiếng nói của đầy tình cha của Don Bosco nói vào tai thầy: “Ngày mai con cứ đi rước lễ không cần phải xưng tội”.[128]

Vẫn đang nói về các ý nghĩ, chúng ta đề cập tới một giai thoại nhỏ, được biết vào năm 1929, hữu ích để giúp chúng ta biết thêm về tinh thần của Don Bosco. Một thầy tư giáo khác, sau trở thành Don Eugenio Reffo, vị đồng sáng lập dòng Giuseppini, người đã đi theo bề trên của mình là nhà thần học Murialdo vào tận trong phòng của Don Bosco, và đứng ở một góc trong phòng đang khi hai vị đầy tớ Chúa thì ở góc đối diện trò chuyện. Từ dưới sân chơi vang lên tiếng động của đông đảo thanh thiếu niên trong giờ giải trí cùng với tiếng ban kèn vang dội của đám học sinh tập dợt. Thầy tư giáo trẻ nghĩ thầm trong bụng: “Tôi sẽ chẳng bao giờ cho phép gây tiếng động qúa như thế!.. Thiên Chúa không ở nơi náo động”. Khi ấy Don Bosco chợt dừng cuộc trò chuyện, đi tới thầy và nói: “Thế mà Don Bosco có lý đấy”. Rồi ngài dùng hai tay bắt chước người đánh xèng và đánh trống: “Cin-cin, bum-bum. Như thế, Chúa muốn thế đó. Ồn ào, vui tươi, âm thanh đủ loại… cin-cin, bum-bum… vào đúng lúc của nó”.[129]

Từ xa ngài biết cả những thông tin lạ lùng về những điều còn kín ẩn. Từ Nguyện xá ngài viết cho các trường, hoặc từ những nơi khác ngài viết về Nguyện xá, thông báo cho các bề trên điều xảy ra trong nhà mà họ chưa biết và chắc chắn ngài không thể nào biết được nếu không phải là do mạc khải. Ngài chỉ ra tên tuổi, nơi chốn, hoàn cảnh tới mức chính xác hoàn hảo. Khi nói về những thiếu sót, những người được gọi tới để hỏi han tỏ ra đầy ngạc nhiên và không biết phải cáo lỗi thế nào.

Một buổi tối, trong buổi huấn từ như thường lệ, bởi vì bầu khi gia đình thân mật trong giây phút ấy nên cũng có thể hỏi chuyện này chuyện kia công khai, Don Rua người thay mặt Don Bosco tại Nguyện xá, đưa tay làm hiệu và hỏi ngài làm sao ngài có thể biết được từ xa các sự việc. Ngài trả lời cách khôi hài: “Nhờ vào đường dây điện tín, nên từ xa cha có thể liên lạc được, thấy được và biết được để làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho các linh hồn”. Tại Barcellona năm 1886 có gì đó khác ngoài thư từ và điện tín!

Người viết sách này, đã nghe từ vị giám đốc ấy tường thuật tỉ mỉ về sự kiện xảy ra, tính cách lịch sử của nó không thể bị phủ nhận. Don Bosco, lúc đó đang ở Nguyện xá, thế mà vị giám đốc nhìn thấy ngài ở đó vào lúc nửa đêm ở bên cạnh giường mình, đánh thức và dẫn vị giám đốc đi như giữa ban ngày một vòng chung quanh nhà, chỉ cho thấy những chỗ xáo trộn, rồi dẫn về phòng, ra lệnh cho ngài phải lập tức có biện pháp và rồi Don Bosco biến mất, để lại vị giám đốc đứng đó một mình, trong bóng tối, đầy bàng hoàng sửng sốt.

Chương XVII

CÁC GIẤC MƠ, THỊ KIẾN, XUẤT THẦN

Tựa đề của chương này được gợi ý từ một trích dẫn tác giả Isidoro do thánh Toma. Vị tiến sĩ thiên thần viết: “Isidoro phân biệt ơn tiên tri theo cách thức nói tiên tri… Liên quan tới cách thức ghi nhận những hình ảnh kỳ diệu Isidoro phan biệt ba thứ: giấc mơ, thị kiến, xuất thần”.[130] Đó là những ơn ban gratis mà tự nó không tạo nên cũng không cần thiết cho sự thánh thiện, nhưng đi theo sự thánh thiện; với những ơn này Thiên Chúa trong cách thức siêu nhiên tỏ cho linh hồn biết các điều kín ẩn.

Trong cuộc đời Don Bosco các ơn này đóng một vai trò quan trọng đến độ không thể bỏ chúng qua một bên mà không đánh mất một yếu tố có giá trị lớn lao giúp chúng ta hiểu về sự kết hiệp mật thiết của ngài với Thiên Chúa. Những người đã sống trong nhà Salêdiêng đều nghe biết về các giấc mơ của Don Bosco, và chúng được gọi như thế do chính ngài. Tên gọi này sống trong các nhà của ngài, nơi người ta hiểu mà chẳng cần một giải thích nào.

Chúng ta không có ý định chứng minh xem có thực sự có những giấc mơ siêu nhiên không; có lẽ sẽ là một vấn đề rất rộng. Ai không biết rằng thấy trong mơ [131] được Gioel kể vào số các ơn của Thánh Thần ban xuống trong những ngày sau cùng, tức là thời của Đấng thiên sai, như thánh Phêrô giải thích đó sao? Bởi thế chúng ta sẽ bàn về các giấc mơ của Don Bosco.

Các giấc mơ này phải nói rằng rất nhiều, và xảy ra cách nhau không lâu xét về thời gian từ lúc vị đầy tớ Chúa còn ở tuổi thiếu niên cho tới lúc tuổi già. Chỉ một ít giấc mơ, chúng ta có bản văn do chính ngài viết hay duyệt lại; số khác là do các tường thuật của các chứng nhân tai nghe và đáng tin; nhiều giấc mơ được lưu truyền qua truyền thống truyền khẩu; một số là do những hồi ức không rõ hoặc được cô đọng từ những nguồn không chắc chắn. Trong mười tám cuốn của bộ Hồi sử, giữa các tường thuật quan trọng được nhấn mạnh, người ta đếm được khoảng một trăm.

Nói chung các cảnh được diễn tả trong đó hơn kém được xảy ra trong khung cảnh hơn kém có tính kết cấu hóa: Giáo hội công giáo, Tu hội Salêdiêng, Nguyện xá Valdocco. Về Giáo hội ngài được giải thích về những diễn tiến của tương lai hoặc trong đời sống giáo hội nói chung hoặc tại một nước nào đó nói riêng; về Tu hội ngài nhìn thấy những việc phải thực hiện, con đường phải theo, những trở ngại phải tránh; về các thanh thiếu niên, ngài được thấy lương tâm, ơn gọi, những cái chết sắp xảy đến. Ngài mơ đã mơ trong hoàn cảnh nào, chúng ta có thể hiểu được nhờ vào một số cách thức diễn tả nào đó của ngài.

Như thế, về giấc mơ vào một đêm giữa năm 1867 và 1868 ngài nói như sau: “Đó là một giấc mơ, trong đó một người có thể biết được điều mình làm, nghe thấy điều người ta nói, và trả lời nếu được hỏi”.[132] Thường luôn có một nhân vật ở bên cạnh ngài hướng dẫn và giải thích, không phải luôn cùng một người; có thể đó là một học sinh đã qua đời, có khi là thánh Phanxicô Salê, có khi là thánh Giuse hay một vị thánh nào khác, có khi là một thiên thần, đôi khi là chính Đức Me; trong một số trường hợp các vị đó là người đồng hành hoặc có khi đóng một vai phụ thuộc.

Còn Don Bosco, ngài nghĩ gì về các giấc mơ của ngài? Những giấc mơ đầu tiên ngài không tin lắm, và gán cho chúng giá trị của sự tưởng tượng; bởi đó khi kể lại chúng, nếu có cảnh tượng gì về tương lai, ngài luôn e sợ rằng hoặc đã lầm lẫn hoặc nói rằng những chuyện đó không nên coi là quan trọng. Tuy nhiên ngài phân biệt rất rõ giấc mơ này với giấc mơ kia, và nếu có một số giấc mơ, như thực tế, kết thúc mà không để lại trong ngài ấn tượng gì về tương lai, thì một số ghi lại trong tâm tư ngài một ấn tượng không phai. Đối với những người thân cận trong cung cách của một gia đình, ngài tâm sự rằng các giấc mơ loại này thường lập lại nhiều lần. Sau khi kể lại các giấc mơ đó, ngài đi xưng tội với Don Cafasso, vì đã táo bạo nói ra, và vị linh mục thánh thiện lắng nghe ngài và suy tư về điều đó; sau cùng một ngày kia ngài trả lời cho Don Bosco: “Bởi vì những điều con kể là thật, con cứ an tâm và tiếp tục”.

Tuy nhiên ngài không tin rằng xa rời sự thận trọng là thích đáng. Trong một trong những ký sự đề ngày 13 thang giêng năm 1861, người ta ghi lại những lời sau đây của Don Bosco liên quan đến một giấc mơ xảy ra liên tiếp nhau trong ba đêm: “Trong ngày thứ nhất cha không muốn coi đó là quan trọng, bởi vì trong Kinh thánh Chúa cấm chúng ta. Nhưng trong những ngày mới vừa qua, sau khi có nhiều kinh nghiệm, sau khi đã nói chuyện riêng với một số thanh thiếu niên, sau khi kể cho chúng nghe những điều này điều kia mà cha thấy trong giấc mơ và chúng bảo đảm với cha rằng đúng như thế, thế là cha không thể nghi ngờ gì rằng đây là một ơn đặc biệt mà Chúa ban cho tất cả con cái của Nguyện xá. Bởi thế cha cảm thấy buộc phải nói với các con rằng Chúa kêu gọi chúng ta và làm cho chúng ta nghe tiếng của Ngài, và khốn cho ai chống cưỡng lại tiếng Ngài!”.

Dù vậy, một cách khiêm nhường ngài không tin vào mình, ngài muốn tin vào sự thận trọng hơn; bởi thế vào ngày 15 chúng ta lại đọc thấy: “Cha nói lại điều cha đã nói; cha đã mơ, tuy một phần cha không muốn các con coi là quan trọng; phần khác cha lại thấy nó qúa quan trọng, và do đó cha đã điều tra lại cẩn thận”. Cuộc điều tra đã thực hiện bởi việc hỏi han ba em, mà trong giấc mơ ngài đã thấy tình trạng đáng thương của chúng và ngài thấy chúng đúng ở trong tình trạng như trong giấc mơ cho thấy. Bảy năm sau, vào ngày 30 tháng tư năm 1868, ngài nói lại điều đó như sau: “Các thanh thiếu niên của cha thân mến! Tối hôm qua cha nói với các con rằng cha phải kể với các con một chuyện không hay. Cha đã có một giấc mơ, cha đã quyết định không kể cho các con, bởi vì một đàng cha ngờ vực rằng đó chỉ là một giấc mơ như mọi giấc mơ khác, vốn chỉ là sự tưởng tượng hiện lên trong giấc mơ, đàng khác vì mỗi lần cha kể luôn có đồn đại và nhận xét này kia. Nhưng một giấc mơ khác đã bắt cha nói với các con về giấc mơ trước đó”. Sau đó ngài kể, trong giấc mơ sau nhân vật lạ nói với ngài: “Tại sao ngươi không nói?”. Người ta không thể tin nổi rằng trong chuyện này như hàng trăm chuyện khác sự thận trọng đã là một khuyết điểm đối với Don Bosco!

Tâm sự của ngài với Don Giulio Barberis năm 1876 mang vẻ nghiêm trọng và lo lắng giúp chúng ta hiểu cái đã nói cho tới đây: “Khi cha nghĩ tới trách nhiệm của mình về tình trạng mà cha đang ở trong đó, cha cảm thấy run sợ. Các điều mà cha thấy xảy ra, là những điều đặt trên cha một trách nhiệm vô cùng to lớn. Cha sẽ phải tính sổ nghiêm khắc với Chúa về tất cả những ơn huệ Ngài đã ban để Tu hội được tiến triển! Người ta có thể nói rằng Don Bosco thấy tất cả và đã được dẫn dắt trong tay của Đức Mẹ… Từng bước, từng hoàn cảnh, Đức Mẹ đều có đó!”.

Don Bosco đã thuật lại các giấc mơ như thế nào? Với tinh thần như thế nào ngài kể lại chúng, có lẽ khá rõ trong các trích dẫn bên trên; tuy nhiên còn có gì đó phải bổ túc. Một chứng nhân cho chúng ta biết: ngài trình bày các sự việc “với một sự đơn giản, nghiêm chỉnh và tâm tình”.[133] Thường ngài mở đầu với sự khôi hài, tránh tất cả những gì có thể gây ra tiếng đồn hoặc gây nên ý tưởng về công trạng hay đặc ân của ngài. Khi kể, ngài lập lại những câu xúc tích hoặc những diễn tả vui hài, để làm người nghe khỏi chú ý vào một vài điểm riêng rẽ; tuy nhiên không thiếu những em thông minh hiểu và ghi lại.

Luôn với mục đích làm giảm nhẹ ấn tượng về cái phi thường, ngài đưa ra những cái tên không có ý nghĩa về nhân vật thường đồng hành với ngài, gọi đó là người hướng dẫn, người giải thích hoặc, còn chung chung hơn nữa, người lạ mặt; ngài chỉ nói theo lối xưng hô “với con, vì con” đối với một vài người, ngài không đưa ra những chỉ dẫn thiếu chính xác. Và ngài luôn quan tâm khéo léo để cho thấy sự nhỏ bé của mình. Như thế, khi kể về giấc mơ năm 1961, sau khi nói về sự mệt nhọc của ngài vì thấy các thanh thiếu niên của Nguyện xá giả điếc trước các lời khuyên của ngài và không đáp ứng lại lòng tốt của ngài, ngài nói: “Người giải thích của cha khiển trách cha: – Ôi kẻ kiêu ngạo! Ông thấy không ông là một kẻ kiêu ngạo! Ông là ai mà nghĩ tới chuyện hoán cải, tại sao ông làm việc? Bởi vì ông yêu đám trẻ của ông, ông đòi hỏi thấy tất cả chúng nó đáp ứng lại các ý định của ông? Ông nghĩ rằng ông yêu mến, vất vả và chịu đau khổ cho các linh hồn hơn cả Chúa cứu thế hay sao? Ông nghĩ rằng lời của ông có hiệu lực hơn lời của Chúa Giêsu hay sao? Ông giảng hay hơn Ngài sao? Ông nghĩ rằng đã dùng đức ái và đã chăm sóc thanh thiếu niên của ông hơn là Chúa đã làm với các môn đệ hay sao? Ông biết đấy họ đã sống với Chúa liên tục, họ luôn hưởng đầy đủ mọi sự tốt lành của Chúa, ngày đêm nghe lời khuyên nhủ và giáo lý của Chúa, họ nhìn thấy công việc của Chúa, những điều đó đã phải là sự kích thích cho họ để thánh hóa cuộc sống. Có gì mà Ngài đã không làm và không nói cho Giuda! Thế mà Giuda đã phản bội và chết không hối cải. Có lẽ ông còn hơn cả các tông đồ sao? Đây này, các tông đồ đã chọn bảy phó tế: họ chỉ có bảy người, những kẻ được chọn cẩn thận: thế mà một người lạc đường. Còn ông giữa năm trăm người, ông bỡ ngỡ khi thấy một con số nhỏ không đáp ứng lại sự chăm sóc của ông? Ông đòi hỏi thành công không có lấy một kẻ xấu, không một kẻ lạc đường sao? Ông qúa kiêu ngạo!”.

Để giảm bớt tối thiểu bao có thể những gì có thể tạo nên dư luận về ơn siêu nhiên, ngài có lý khi hạ mình khi nói về những lời khiển trách nặng như thế; tuy nhiên sự thật có quyền lợi riêng của nó. Bởi đó ngài khuyên nhủ chúng đừng đùa cợt vời những gì được nghe, và mỗi người hãy có những áp dụng riêng cho mình. Ngoài ra, chính những lời khuyên này cũng mang hương vị của sự khiêm nhường phúc âm.

Một dẫn chứng cuối cùng khác hơi dài, nhưng hy vọng không làm độc giả bớt thích thú. Giấc mơ năm 1861, trong đó ngài nhận lại một lời khiển trách trước đó, được kể lại trong ba buổi tối liên tiếp. Đây là câu chuyện: “Bây giờ cha đã kể xong cho các con tất cả mọi sự, các con sẽ nghĩ rằng: – Ai biết được? Don Bosco quả là một người siêu phàm, một cái gì đó vĩ đại, một vị thánh là cái chắc! Các con của cha thân mến! Để ngăn cản những phán đoán ngu ngốc đó về cha, cha để cho các con hoàn toàn tự do tin hay không tin những điều này, cho nó là quan trọng hay không: cha chỉ xin các con đừng làm cho nó nên trò cười, dù là đối với bạn học hoặc là đối với người lạ. Phần cha, cha cân nhắc kỹ để nói với các con rằng Chúa có nhiều cách để tỏ lộ thánh ý Ngài cho con người. Có khi Ngài dùng những dụng cụ bất tài và bất xứng, như đã sử dụng con lừa của Balaam, khiến nó nói; và cả đến lượt Balaam một tiên tri giả nữa, đã nói lên những lời tiên báo về đấng Thiên sai. Bởi thế điều tương tự cũng có thể xảy ra cho cha. Cha muốn nói với các con rằng, đừng nhìn các công việc của cha để điều hành việc của riêng các con. Điều duy nhất mà các con cần phải làm là chú ý đến điều cha nói, bởi vì ít là theo ý cha, đó là ý Chúa và làm ích cho các linh hồn. Về những điều cha làm, xin các con đừng bao giờ nói: – Don Bosco đã làm; đúng thế. Không. Trước hết hãy quan sát điều cha làm, nếu thấy là việc tốt, hãy bắt chước; còn nếu trường hợp các con thấy có điều gì xấu, thì coi chừng đừng bao giờ bắt chước: cứ coi đó như một điều xấu đã làm”.

Ngài không nói ra công khai mọi điều nhìn thấy hay nghe thấy trong các giấc mơ; nhưng một số điều ngài nói chỗ riêng tư với người có liên quan; một số khác ngài thổ lộ với một số người mà ngài thấy thân mật hơn, trong chỗ riêng tư khi hỏi ngài; sau cùng một số ngài giữ riêng cho mình về những điều liên quan đến mình ngài thôi. Thật vậy một trong những người viết niên sử cho chúng ta biết rằng một số giấc mơ nào đó biết được là do nghe đây một chút kia mọt chút, để có thể “gom lại chất liệu”, và về một số giấc mơ khác nữa, để ghi lại tất cả, có lẽ cần nhiều cuốn sách tương tự.

Thí dụ như cũng về giấc mơ nói trên trong năm 1861, Don Bosco nói rằng nhờ ba đêm đó ngài đạt được hiểu biết về thần học hơn cả mấy năm tại chủng viện, và ngài có ý định viết về những đề tài thần học đó, bỏ qua những “sự kiện loại biệt” của đêm thứ ba và chỉ đề cập “những lý thuyết” do hai đêm đầu đem lại. Bởi thế, người ta suy ra rằng tường thuật của ngài có mục tiêu giáo huấn, cũng cố và dạy người khác hoặc kể cả để cảnh báo, nên ngài đã kể ra công khai khi chọn lựa các phần, để nói chung sinh ích cho người nghe. Và thực vậy, các hiệu qủa nảy sinh như có lẽ ngài đã có thể thấy trước. Đặc biệt là làm cho sự sợ tội gia tăng; sự xưng tội thêm lòng thống hối, sự xưng tội chung gia tăng, cũng thế về việc rước lễ thường xuyên. Tóm lại, nói theo kiểu của Don Bosco đó là lúc ma qủi bị phá sản.

Nhận định sau đây của kinh sĩ mà chúng ta đã trưng dẫn bên trên còn cho thấy rõ hơn nữa: “Đối với chúng tôi, dù không còn là trẻ thơ nữa, sẽ chẳng có một giải thích nào hữu lý và đáng tán thưởng nếu không phải đó là ân huệ phi thường mà Chúa đã ban cho Don Bosco”. Điều này càng đúng hơn nữa nếu người ta ý thức rằng, Don Bosco không chỉ không phải là người thích gây sự khiêu khích cũng như không ao ước những giấc mơ loại này, mà trái lại ngài còn sợ, bởi vì nó làm ngài phải chịu những rối loạn không nhỏ về thể lý. Đôi lần ngay sau khi kể, ngài không còn nhớ mình đã nói gì, một điều mà không phải ít xảy ra cho người nói dưới sự gợi hứng siêu nhiên. Tuy nhiên, ngoài nhiều điểm mà chúng ta đã trình bày, còn có hai đặc điểm đáng lưu ý nữa khiến nhà tâm lý học không thể phán định về các giấc mơ của Don Bosco trong phạm vi thuần tuý tự nhiên.

Đặc tính thứ nhất thuộc yếu tố tâm-thể lý. Trong các giấc mơ tự nhiên, sự tưởng tượng chiếm ưu thế, không bị lý trí điều khiển. Điều kiện thông thường của các giấc ngủ là sự mệt mỏi. Sự mệt mỏi, dù không gây ra sự tổn hại toàn phần, nó làm phát sinh ra những chất liệu gây rối loạn thần kinh: thiên nhiên đã dự liệu tất cả, để khi những chất liệu này đạt tới một số lượng nào đó, sẽ xảy ra một phản ứng cơ học để ngắt sự tiêu tốn năng lượng này. Sự ngắt đứt đó lấy lại từ hệ thống thần kinh năng lượng tâm-thể lý cần thiết cho hoạt động bình thường, càng cần hơn nữa khi người đó thấy buồn ngủ. Số ít của năng lượng tâm-thể lý còn lại trong trung tâm cao cấp cũng đủ để làm kích hoạt giấc mơ; nhưng thông thường khó lòng mà kích hoạt các trung tâm chuyển động này, vốn gắn liền với các trung tâm giác quan.

Vậy thì nếu người ta cho rằng Don Bosco, khi đi ngủ, đã qúa buồn ngủ, người ta đã có lý do để kết luận rằng nơi ngài sức sinh động của giấc mơ không thể giải thích được cách nhân loại.

Nhưng còn có một điều khác. Phản ứng cơ học của sự ngắt quãng bộ máy hoạt động và sự suy giảm năng lượng tâm-thể lý của hệ thống thần kinh trung tâm ảnh hưởng trên hoạt động tưởng tượng gây nên hai hiện tượng, tức là sự bất thường và sự thay đổi thình lình, mà chúng ta ai cũng có thể đã nghiệm thấy trong giấc ngủ; bởi vì sự thiếu năng lượng tâm-thể lý khiến cho không thể theo đuổi lâu một mục đích, và chỉ cần một kích thích bên ngoài điều khiển chút năng lượng còn lại đó tới một một hướng khác, thì tức khắc tất cả các hình ảnh của giấc mơ tan biến ngay. Bởi đó nói chung trong giấc mơ hoạt động tưởng tượng không được hướng dẫn bởi một ý định tích cực nào cả; vì thế trong các giấc mơ tự nhiên không thể xác minh được cái trật tự hữu lý mà nó trình bày cũng như cái mạch lạc lý luận của các ý tưởng, nhưng bỏ qua tất cả, với một loạt những sự bùng nổ bất thình lình những cái lạ thường và với biến chuyển cực kỳ nhanh thành điều kỳ quặc khác thường.[134]

Trong các giấc mơ của Don Bosco tất cả đều ngược lại. Nó là sự trình bày mang tính biểu tượng giống như điều tỏ ra cho thánh Phêrô trong thị kiến tấm khăn từ trời thả xuống đầy những thú vật sạch cũng như dơ.[135] Có các yếu tố cấu tạo hơn kém phức tạp, kéo dài diễn tiến với những hành vi phân biệt, giống như trong các vở kịch đúng nghĩa. Hơn nữa, ở đây còn có yếu tố lạ lùng, tức là thấy một cách liên tục trong các hình ảnh một sự tiếp nối với lý do hiện hữu của chúng, và trong các lời nói nghe thấy hoặc đọc thấy có một ý nghĩa tạo thành một với các hình ảnh.

Mỗi giấc mơ xoay chuyển quanh một ý tưởng trung tâm và đi thẳng tới một mục đích rõ rệt; toàn thể hoạt động diễn tiến cách tiệm tiến và trật tự, như thể trong các vở kịch được viết một cách chu đáo. Đó là tôi còn chưa nói tới, dù cho các hình thức nhạy cảm được trình bày trong một loại biểu tượng có trình tự đối với một trí óc bình thường, chúng lại đưa những yếu tố dù lạ lùng hay tầm thường tới một mục tiêu thánh thiện. Đơn giản hóa có lẽ được ưa thích, nhưng chính giới hạn của cuốn sách của chúng ta bắt chúng ta phải ngừng lại.

Đặc tính thứ hai của các giấc mơ của Don Bosco là mang tính chất ngôn sứ. Các sự tưởng tượng của chúng ta trong giấc mơ được kết cấu và kết thúc không có sự hướng dẫn của trí khôn, có thực sự dự đoán về tương lai không? Ồ, không thể ngay cả để đánh thức trí thông minh nữa! Gia tăng các nhận xét về các sự kiện và hiện tượng liên quan, người ta có thể tạo ra trước các hiệu qủa hơn kém xa, nhưng nếu thiếu một điểm hiện thực để làm điểm tựa, mọi cố gắng để lự đoán về tương lai đều vô ích; chúng ta đều chắc chắn về tính vô thức của giấc mơ! Thế nhưng các giấc mơ của Don Bosco không chứa đựng những dự đoán mông lung mờ ảo, nhưng là những mạc khải rõ ràng và chính xác về những biến cố kín ẩn còn nằm trong tương lai.

Phải nói rằng thần khí ngôn sứ ở trong Don Bosco, ngài đã nói nhiều tiên đoán về các sự việc tự do và tình cờ, sẽ xảy ra trước và sau khi ngài qua đời, trong thời gian và trong cách thức ngài công bố. Kinh sĩ Ballesio mà chúng ta đã nhiều lần đề cập, viết như sau: “Nơi Don Bosco điều này xem chừng không phải một tia sáng xuất hiện giống như tia chớp vụt qua trong trí khôn, nhưng có vẻ như một tình trạng thông thường tự nhiên trong trí óc ngài, vì chính cách ngài nói tiên tri khi cầu nguyện, khi trao đổi, khi vui đùa; và đang khi ngài nói tiên tri hầu như ngài cũng như người khác không nhận ra ngài đang nói tiên tri”. Ngài cũng nói tiên tri ngay cả trong khi mơ nữa.

Trong các giấc mơ, nội dung ngôn sứ, nếu không tất cả, thì cũng là phần lớn. Thế nên có bao nhiêu cái chết mà ngài không báo trước, vì ngài đã được biết trước trong giấc mơ! Ngài không công bố tên, nhưng nói rõ ngày tháng; về tên có đôi lần ngài nói bật mí công khai chữ cái đầu tiên, có lần ngài báo riêng một cách kín đáo. Về điều xảy ra, các người tốt cảm thấy thích thú, vì họ đã quen với những lời nói đáng lưu tâm của ngài; còn những người nghi ngờ thì câm lặng, những kẻ mà, dù như số ít kẻ bơi lội trong cơn đại lụt, dù do dự không muốn tin nhưng lại thấy tính cách sự kiện của các lời tiên tri. Về chuyện này chúng ta chúng ta không thu lượm trình bày các giai thoại, xin để cho các người viết tiểu sử; tuy nhiên về vấn đề này còn đôi điều nữa mà Don Bosco có thể nói với chúng ta.

Một trong những người thu thập các ký sự trong nhà, vào ngày 17 tháng hai năm 1861, ghi lại một nhận xét ám chỉ về những lời tiên tri trong giấc mơ. “Những chuyện này vốn xảy ra trong nhà và nói đến trong nhà chúng ta, chắc chắn rằng chúng là riêng biệt và phải ở giữa chúng ta mà thôi, tuy nhiên nếu người ngoài mà biết được, họ sẽ cho là chuyện bịa đặt. Nhưng chúng tôi luôn luôn tin rằng, khi chuyện gì đó hướng tới mưu ích cho các linh hồn, chắc chắn nó đến từ Thiên Chúa và không thể đến từ ma quỉ”.[136]

Đối với phía khác, kẻ đối nghịch Thiên Chúa và các linh hồn, có một lãnh vực dành riêng, từ đó phóng ra các cuộc tấn công vào Don Bosco. Poulain, người chuyên viết về vấn đề thần bí, có nhận xét này rất liên quan đến truờng hợp của chúng ta: “Từ đời sống của các thánh dường như rõ ràng rằng, nếu họ chịu những lo âu nặng nề, thì điều đó thường xảy ra, khi họ đạt tới giai đoạn xuất thần hoặc ngay khi chỉ là những mạc khải hay thị kiến thần linh, dù cho ân thị kiến liên tục hay có những lúc bị tạm thời ngưng lại. Đứng trước hành động đặc biệt của Thiên Chúa thì ma quỉ cũng có hành động phi thường đối ngược lại”.[137] Ngay cả đối với các thánh của Giáo hội đang lữ hành, thì trái đất này cũng là chiến trường.

Về cuộc chiến của ma qủi chống lại Don Bosco chúng ta có những tờ thông tin chính thức soạn thảo vào giai đoạn đầu; bấy nhiêu cũng đủ cho chúng ta một ý tưởng về tất cả cuộc vận động kéo dài ba năm. Ma qủi đã thi hành sự thù nghịch của hắn chống lại đầy tớ Chúa đặc biệt không cho ngài ngủ ban đêm. Một âm thanh rất lớn quấy rối bên tai ngài, gió lớn như cuồng phong xô đẩy ngài; cũng như làm đảo lộn vứt tung tóe giấy tờ và sách vở.

Một buổi tối nọ, sau khi sửa bản thảo của cuốn sách nhỏ tựa đề Quyền lực của bóng tối, ngài đặt trên bàn; thế nhưng buổi sáng khi thức dậy ngài chỉ còn thấy một số trang nằm vung vãi trên đất. Từ lò sưởi không đốt phát ra những ngọn lửa bùng cháy. Vừa khi nằm xuống giường, liền có một bàn tay bí mật từ từ kéo chăn xuống tới chân; đắp chăn lại như cũ, ngài lại cảm thấy bị kéo xuống lần nữa. Ngài thắp đèn lên, hiện tượng đó biến mất, để rồi lại xuất hiện khi tắt đèn; một lần đèn trong phòng ngài bị thổi tắt bởi kẻ vô hình. Tới lúc sắp đi vào giấc ngủ, cái gối đang kê đầu liền nhảy múa. Khi ngài làm dấu thánh giá hoặc đọc kinh, thì liền trở lại bình yên, nhưng vừa thiu thiu ngủ thì cả chiếc giường rung chuyển. Cửa phòng rung chuyển như gặp phải gió mạnh. Những tiếng động trên trần nhà làm người ta có cảm tưởng nhiều chiếc xe ngựa đang di chuyển; rồi thỉnh thoảng từ đó phát lên những tiếng thét ghê rợn. Một đêm kia, cửa phòng bật tung và một con quái vật đầy răng nhọn tiến vào, phóng tới để nuốt trửng ngài, nhưng dấu thánh giá đã làm nó tháo lui.

Có một linh mục rất can đảm kia muốn canh gác trong phòng Don Bosco, nhưng không thể lưu lại đó, vì vào lúc nửa đêm ngài kinh sợ vì những âm thanh của hỏa ngục, bỏ chạy để thoát thân. Hai thầy tư giáo khác tự nguyện thử canh gác như người trước, họ ở lại gian thư viện bên cạnh, nhưng rồi cũng phải rút lui vì qúa kinh hãi. Còn lại Don Bosco khốn khổ, để được bình an, ngài đi tới Đức giám mục ở Ivrea, nhưng sau một đêm bình yên, tên địch cũng tới nơi và mọi sự diễn ra như cũ và còn tệ hơn nữa. Có lẽ cần phải xem bài viết trong năm 1865 nói về cuộc đấu tranh khủng khiếp với thần khí của bóng tối này. Don Bosco cho thấy sau cùng ngài đã tìm được phương chữa trị, một liều thuốc rất hiệu lực, tuy nhiên ngài không muốn giải thích rõ hơn. Có lẽ đó là một việc đền tội ngoại lệ nào đó.

Các giấc mơ siêu nhiên thuộc về bình diện thị kiến, được các nhà thần bí gọi là có tính hình ảnh, bởi vì được thực hiện nhờ vào các hình ảnh tác động trên trí tưởng tượng do nguyên nhân từ trên cao; nhưng các thị kiến như thế cũng xuất hiện ngay cả lúc thức. Người ta quen xếp lẫn lộn các giấc mơ của Don Bosco vào loại thị kiến theo cách này hay cách khác, đang khi dù theo cách tương tự chăng nữa, thì chúng rất khác biệt nhau. Như thế loại thị kiến tưởng tượng trong tình trạng thức xem chừng không thể không đi đôi với một mức độ xuất thần nào đó, nghĩa là hơn kém thoát khỏi ảnh hưởng của các giác quan.

Vị đầy tớ Chúa đã nhìn thấy theo cách thức này, một loạt những biến cố trong năm 1870, đang thực hiện vào giai đoạn cuối đời. Mở đầu bản văn mà ngài viết và gởi cho Đức Pio IX, ngài xác định ý kiến này; thật vậy ngài diễn tả với những dòng chữ sau đây: “Ngày áp lễ Hiển linh năm nay 1870, biến mất tất cả đồ đạc trong phòng và con thấy về những sự siêu nhiên. Việc xảy ra nhanh chóng nhưng con thấy được rất nhiều. Dù có hình thức, dáng vẻ khả giác, tuy nhiên rất khó để truyền đạt cho người khác với những dấu hiệu khả giác bên ngoài. Cũng như thí dụ sau đây có thể đem lại một ý tưởng. Đó là lời của Thiên Chúa được thích ứng theo lời của con người”. Ngài đã nhìn thấy trước mặt theo cùng một cách thức và trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau thánh trẻ Luigi Colle của thành phố Tolone, người mà ngài quen biết ít lâu trước khi vị thánh này về trời năm mười bảy tuổi. Khoảng năm 1881 cho đến 1885, người qua đời xuất hiện cho ngài lúc ngài giải tội, khi ngài dâng thánh lễ, khi ngài trao mình thánh Chúa, một lần ngay cả tại trạm Orte đang khi đợi xe bốn tiếng. Những lần xuất hiện như thế luôn luôn tỏa sáng và hạnh phúc, có lần thì chuyện vãn, có lần không.

Một thị kiến khác cùng thể loại là vào khoảng tháng tám năm 1887 tại Lanzo Torino. Một nữ tu con Đức Mẹ Phù Hộ, ao ước nhận phép lành của ngài và vì quá mệt mỏi do chờ lâu ở phòng đợi bên ngoài nơi ở của vị đầy tớ Chúa, chị đẩy nhẹ cánh cửa phòng làm việc của Don Bosco đang khép hờ, và chị đã thấy gì? Don Bosco đang trong trạng thái ngất trí, như thể đang lắng nghe. Khuôn mặt biến đổi bởi ánh sáng; dáng điệu thanh thản và dịu dàng; cánh tay giơ lên cao và thỉnh thoảng gật đầu như thể nói vâng. Nữ tu đó lập đi lập lại: “Vạn tuế Giêsu, thưa cha, cho con xin phép?”. Nhưng ngài không động đậy. Cuối cùng sau khoảng mười phút, cảnh tượng này kết thúc với dấu thánh gía mà Don Bosco cúi đầu làm cách cung kính không thể tả được. Cần biết rằng năm đó Don Bosco không thể đứng mà không có người giúp, lúc đó ngài đã hơi còng lưng, nhưng lúc ấy ngài hoàn toàn đứng thẳng một mình.

Ngoài thị kiến hình ảnh, người ta còn biết hai loại thị kiến khác, một thấp hơn loại vừa kể và một cao hơn. Loại thấp hơn đó là thị kiến được gọi là giác quan, thân xác, mắt nhìn; trong những thị kiến này, các giác quan nhận thức những sự vật bên ngoài mà người ta không thể thấy cũng như không thể hiểu nếu không có sự trợ giúp thiêng liêng.

Don Bosco có một thị kiến loại này khi ngài được cho biết về tương lai của cậu bé Cagliero, đang đau ốm nặng. Đặt chân ở ngưỡng cửa phòng để bước vào thăm cậu và giúp cậu chết lành, ngài liền thấy hai sự việc liên tiếp, cả hai đều thật ngắn ngủi. Thứ nhất, một con chim bồ câu thật sáng chói, ngậm một nhánh ô liu trên mỏ, bay mấy vòng trong phòng, cuối cùng nó bay trên người hấp hối, lấy cành ô liu đụng vào môi và sau đó thả cành ô liu trên đầu cậu: điềm báo việc tông đồ truyền giáo và sự tròn đầy của chức linh mục. Tiếp đến là một đám đông hoang dã, mang những hình thức khác lạ, cúi xuống và lo lắng cho đứa trẻ, và giữa đám người đó hiện lên hai loại đặc tính và hai loại chủng tộc khác nhau, mà sau này ngài mới hiểu đó là đại diện cho người dân Patagoni và Fueghini.

Các thị kiến thuộc loại khác, tức là loại cao hơn tất cả, được mang tên là thuộc trí năng; trong các thị kiến này trí năng trực giác các chân lý thiêng liêng không thông qua các hình ảnh khả giác. Don Bosco có được Thiên Chúa ban cho các thị kiến thuộc loại này không? Chúng ta không khẳng định điều này với sự chắc chắn. Nhưng ai biết được sự dư đầy các đặc sủng siêu nhiên mà Chúa dùng để làm phong phú linh hồn của Don Bosco?

Sự tự nhiên của ngài trong tất cả mọi sự và sự giản dị thường hằng của cuộc sống ngài được tạo nên để che dấu những công trình kín ẩn của ân sủng, vì việc biết về những điều này không cần thiết để làm ích cho cận nhân. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, những trường hợp được nâng bổng và tỏa ánh sáng không có giá trị để ủng hộ giả thiết rằng ngài cũng không thiếu thị kiến ở bình diện cao nhất hay sao?

Trong năm 1879, vị đầy tớ Chúa, đang khi cử hành thánh lễ trong nhà nguyện riêng, người ta thấy trong ba ngày khác nhau mặt ngài tỏa một ánh sáng chiếu sáng hết cả căn phòng, và rồi toàn thân ngài tách rời khỏi thềm nhà, từ từ nâng cao và lơ lửng trên không khoảng chừng mười phút.

Nhà viết sử Don Lemoyne trong ba buổi tối liên tiếp nhìn thấy mặt ngài từ từ tỏa sáng tới độ như một ánh sáng trong suốt; tất cả khuôn mặt tỏa ra một ánh sáng mạnh và dịu dàng. Cha bề trên cả Don Rinaldi thuật lại cho tác giả cuốn sách này, đã thấy bất thình lình trong ba cuộc gặp gỡ, một vào lúc mười tuổi, lần khác vào lúc hai mươi, và lần khác lúc ba mươi, giữa ban ngày và trong những nơi khác nhau đi mắt Don Bosco tỏa sáng như ngọn lửa và rồi ánh sáng đó lan ra khắp toàn thân, khiến ngài như có một hào quang chói ngời, vượt xa ánh sáng tự nhiên và chiếu sáng như hào quang của các thánh. Sự nhẹ nhàng và sự tỏa sáng là hai tài năng tuyệt đẹp dành cho các thân xác đã vinh quang. Nếu dưới trần này trong thân xác những người sống những tài năng đó phát ra sự tiên báo kỳ diệu, thì không hợp lệ khi cho rằng một hiện tượng như thế xảy ra khi các linh hồn được nâng cao, hưởng nếm trong thị kiến những sự thần linh, hơn kém mang hương vị của hưởng kiến chân phúc tương lai hay sao?

Dữ liệu về ơn hưởng kiến thiên đàng này không có nhiều âm vang như tiếng tăm làm phép lạ, vốn đi theo với tên tuổi của ngài và ngày càng gia tăng cho tới khi xuống mồ. Về ơnlàm phép lạ cũng không phải là công việc của chúng ta bàn nhiều ở đây; tuy nhiên tránh không nói xem ra lại không phù hợp trước khi kết thúc chương này.

Từ một kỷ yếu năm 1884, lúc đó Don Bosco đã gìa, ngài viết với bàn tay đã mệt mỏi nhưng trái tim mở rộng, để lại có thể được gọi là chúc thư của người cha cho con cái, những kỷ niệm và những lời khuyến cáo hữu ích, chúng ta lấy ra vài giai thoại liên quan tới đề tài. Người cha tốt lành diễn tả tâm tình, mà dù ngài không nói ra, thì những người đã cùng sống với ngài cả đời đều tin tưởng. Đối với chúng ta những người sống xa ngài, thì những tuyên bố của ngài là những điều mà chúng ta ao ước được biết để có thể hiểu về các ý nghĩ thầm kín của ngài trong sự tràn đầy các ân ban siêu nhiên vốn từ trong tinh thần ngài phát xuất ra bên ngoài, khiến ngài thực hiện các phép lạ.

Với tất cả sự chân thành, ngài viết thế này: “Cha nóng lòng khuyên tất cả các con của cha hãy cảnh giác trong khi nói cũng như trong khi viết, để đừng bao giờ kể hoặc quả quyết rằng Don Bosco đã nhận được từ Thiên Chúa hoặc đã thực hiện những phép lạ. Người ấy sẽ mắc sai lầm nguy hại; dù rằng lòng nhân lành của Thiên Chúa rất quảng đại đối với cha, tuy nhiên cha không bao giờ cho rằng đã biết hay thực hiện các việc siêu nhiên. Rồi cha luôn nghiệm thấy hiệu lực lời cầu nguyện chung của các thanh thiếu niên của chúng ta, cũng như Thiên Chúa từ bi và Mẹ rất thánh đã giúp chúng ta trong mọi sự cần thiết. Điều đó được xác minh cách đặc biệt mỗi khi chúng ta cần phải chu cấp cho các trẻ nghèo và bị bỏ rơi, và nhất là khi chúng ở trong tình trạng nguy hiểm cho phần rỗi”.

Kết thúc phần này, chúng ta nêu ra lời nhận xét của vị luật sư trong Án phong thánh nói rằng, ơn làm phép lạ xác nhận một cách tỏ tường tính chất siêu nhiên của sự thông hiệp.[138]

Chương XVIII

 ƠN CẦU NGUYỆN

Các hiện tượng phi thường được miêu tả cho tới đây là những dấu chỉ kỳ diệu bên ngoài, cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong linh hồn. Thiên Chúa sống trong chúng ta khi chúng ta hợp nhất với Ngài nhờ ơn sủng; nhưng trong một số các linh hồn nào đó, theo như các nhà thần bí giải thích, Ngài làm cho nghiệm thấy bằng việc chạm một cách đặc biệt tới chính yếu tính của tinh thần của người ấy. Khi đó xảy ra sự kiện là, đang khi các chức năng cao cấp của trí năng và ý chí bị thu hút bởi ánh sáng và bởi hoạt động thần linh, thì các giác quan giảm bớt và như không còn hoạt động, đúng như khi xảy ra trong khi xuất thần.

Những điều này không xảy ra đối với nhân tính của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong đời sống trần gian của các Ngài; bởi vì dù hưởng cách thường hằng sự hiểu biết thực nghiệm của đời sống siêu nhiên, tuy nhiên, vì sự hội nhập hoàn hảo của các giác quan vào lý trí, nên các ngài không bị mất những năng lực cấp thấp này.

Thế thì chúng ta tự hỏi: vì rằng Don Bosco tỏ ra những biểu lộ bên ngoài thông thường của đời sống thần nhiệm, người ta có thể một cách chắc chắn cho rằng ngài thực sự đã được nâng lên mức độ kết hợp thần nhiệm hay không? Nói cách khác, vì sự việc được thực hiện qua sự chiêm niệm thần linh, có thể đi tới chỗ khám phá ra nếu có và trong mức độ nào ơn chiêm niệm thần linh đã trang điểm cho linh hồn ưu tuyển của Don Bosco?

Nói cách tiên thiên, xem chừng không táo bạo khi khẳng định về thực tại tính của sự việc. Thực vậy, Đức Benedicto XIV, dựa vào lịch sử, cho rằng mình có thể qủa quyết rằng “hầu hết tất cả các thánh và đặc biệt các thánh sáng lập dòng đều đã nhận được thị kiến thần linh và sự mạc khải” và ngài thêm rằng: “Không nghi ngờ gì Thiên Chúa nói cách thân mật với các bạn hữu của ngài và ban ơn đặc biệt cho những ai ngài đã chọn để thực hiện những công cuộc vĩ đại”.[139]

Poulain, sau khi khẳng định rằng thông thường, trường hợp các vị thánh đã được tôn phong, họ đã đạt tới mức độ nhân đức anh hùng, họ được ban ơn kết hiệp thần nhiệm, và trường hợp, nếu như xem ra có vị nào thiếu điều này, người ta đã không thể chứng minh cách tích cực rằng thực sự thiếu, đúng hơn cần phải chứng tỏ rằng thiếu các tài liệu minh chứng lịch sử.[140] May mắn thay các sự thận trọng về Don Bosco không đủ để khiến chúng ta bác bỏ tất cả những biểu lộ bên ngoài của đời sống thần nhiệm của ngài, như thế chúng ta cũng không thiếu các luận chứng hậu nghiệm.

Đúng hơn người ta thích có một sự chắc chắn khi xác định mức độ của sự kết hiệp thần nhiệm của ngài với Thiên Chúa. Sau một cuộc khảo sát chín chắn có vẻ như, không kể các giây phút đặc biệt trong đó mức độ mạnh mẽ có thể nổi bật, chúng ta tin rằng sự việc cho thấy ngài thường hằng có ơn cầu nguyện, ơn mà như thánh Têrêsa gọi là sự kết hiệp toàn thể, Poulain gọi là sự kết hiệp tròn đầy, và các vị khác nhất là người Ý, như Scaramelli và thánh Alfonso Liguori gọi đó là sự kết hiệp đơn thuần. Thánh Alfonso diễn tả thế này: “Trong sự kết hiệp đơn thuần, các năng lực ngưng lại, không còn các giác quan thân xác nữa, vì rằng các hoạt động của chúng đã bị ngăn lại”.[141]

Thế nên ơn cầu nguyện như thế cho thấy hai tính chất: linh hồn hoàn toàn bị thu hút bởi đối tượng thần linh khiến cho không còn ý nghĩ nào có thể làm nó chú ý nữa, nói cách khác, không bị chia trí; đang khi đó các giác quan tiếp tục hơn kém vẫn hoạt động, khả năng liên lạc với thế giới không bị tước bỏ, người đó vẫn có thể thấy, nghe, nói, bước đi và bởi đó cũng có thể tự ý ra khỏi tình trạng cầu nguyện của mình. Một số tác giả thần bí thế giá, rút ra từ thánh Toma những ý niệm nền tảng về vấn đề tế nhị này, đã trình bày và kể ra bảy hiệu qủa của sự kết hiệp đơn thuần.[142] Phần chúng ta để tránh nguy cơ đi xa, giờ đây chúng ta khảo sát chúng như được thấy nơi Don Bosco.

Tuy nhiên bản chất của vấn đề khuyên chúng ta không nên tiến hành trước khi trình bày một ý niệm liên quan, mà có lẽ độc giả đã rút ra cho mình từ những điều đã trình bày bên trên, dù có thể còn mơ hồ. Linh hồn của Don Bosco không ngừng sinh hoa trái do sự kết hiệp với Thiên Chúa; thật vậy dường như đây chính là ơn ngài nhận được, tức là không bao giờ để mình bị chia trí khỏi ý nghĩ yêu mến Chúa, dù rằng có nhiều công việc và nhiều lo lắng.

Chúng ta rảo qua bộ Summarium trình bày về các nhân đức của Don Bosco, trong tiết thứ bảy Về đức ái anh hùng đặt nơi Thiên Chúa người ta thu thập khoảng chừng hơn mười chứng từ rất giá trị liên quan đến đề tài, bởi vì điều được trình bày về Don Bosco là bởi những người, theo như lời thánh Gioan trong thư nhất: Điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm tới… chúng tôi làm chứng và loan báo.

Những người đầu tiên phải nói với chúng ta chính là ba người kế vị Don Bosco. Don Michele Rua, người đã khởi đầu tiến hành án phong chân phước, nói: “Điều mà tôi liên tục có thể nhận thấy đó là sự kết hợp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa… Các tâm tình yêu mến Thiên Chúa của ngài diễn tả một cách tự phát, điều mà người ta thấy là phát xuất từ một tâm trí và một con tim chìm ngập trong sự chiêm ngắm Thiên Chúa”. Don Paolo Albera:[143] “Sự kết hợp của Đấng đáng kính với Thiên Chúa rất là nhiều đến độ dường như ngài nhận được từ Thiên Chúa ơn soi sáng và sự khích lệ để giúp cho con cái mình”. Don Philip Rinaldi: “Đây là sự xác tín nội tâm của tôi, đó là Đấng đáng kính đúng là người của Thiên Chúa, liên lỉ kết hợp với Thiên Chúa trong kinh nguyện”.[144] Cùng với ba bề trên cả có chứng từ của Don Giovanni Battista Francesia: “Tôi thấy rằng vị Đấng đáng kính rất dễ dàng thu tâm trí tới Chúa”.

Tới đây chúng ta nghe chứng từ của bảy tu sĩ Salêdiêng khác rất đáng kính về nhân đức và học thức cũng như chức vụ. Sự trình bày của họ cho chúng ta thấy rằng: “cuộc sống của Don Bosco tỏ lộ một sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa” đến nỗi “trong bất cứ giây phút nào người ta hỏi ngài, ngay cả giữa lúc làm việc rất căng thẳng và rất chia trí, ngài đều trả lời như một người đang trong giây phút chiêm niệm”; rằng “tình mến dành cho Thiên Chúa tỏa sáng trong sự kết hợp của ngài với Thiên Chúa”; rằng “ngài luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa” và “suy nghĩ của ngài luôn luôn hướng về Chúa”; rằng “người ta có thể nói rằng nơi ngài tâm nguyện như là một thực hành tự bản tính”; rằng “ngài có một trái tim đầy tình mến Chúa, đến độ tư tưởng, lời nói của ngài luôn hướng tới Chúa”; rằng “Đấng đáng kính luôn tỏ ra một tinh thần cầu nguyện cũng như kết hợp với Thiên Chúa chân thực và sâu xa, như thể đó là một dữ kiện mà mỗi khi con cái ngài tới gần đều nhận thấy”; rằng “ngài có một sự kết hiệp hoàn hảo trong tinh thần với Thiên Chúa”.

Sau cùng có chứng từ của hai vị giáo chủ. Monsignor Tasso, thuộc dòng các cha truyền giáo, giám mục Aosta, và là học sinh của Don Bosco từ năm 1861 tới 1865, nói: “Đấng đáng kính luôn cháy lửa mến đối với Thiên Chúa, và tôi đây tin chắc rằng ngài sống trong sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa. Tôi nhớ rằng giữa thanh thiếu niên chúng tôi ai nấy đều có sự xác tín này, rằng Đấng đáng kính nói chuyện trực tiếp với Chúa, đặc biệt khi ngài cho chúng tôi lời khuyên liên quan đến tương lai của chúng tôi”.

Hồng y Cagliero làm chứng: “Tình yêu Thiên Chúa… chiếu tỏa từ khuôn mặt ngài, từ toàn thân ngài và tất cả các lời của ngài, những lời mà xuất từ trong trái tim ngài mỗi khi nói về Thiên Chúa trên toà giảng, trong toà giải tội, trong các diễn đàn công cộng và riêng tư, cũng như trong lúc trò chuyện thân tình. Tình yêu này là nỗi ao ước duy nhất, là hơi thở duy nhất, là khát mong nóng bỏng nhất của tất cả cuộc sống ngài. Tôi đã nghe ngài lập đi lập lại cả ngàn lần: – Tất cả vì Chúa và vì vinh quang Người! – Ngài luôn ở trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, khi ngài tiếp khách, khi ngồi ở bàn làm việc, khi tiếp xúc với chúng tôi trong giờ giải trí, khi cầu nguyện ngài sốt sắng như một thiên thần bên Chúa Giêsu thánh thể… Trong bất kỳ lúc nào chúng tôi lại gần ngài, ngài đều đón tiếp chúng tôi với đức ái nồng hậu và một sự đáng yêu rất thanh thản, như thể ngài vừa ra khỏi kinh nguyện chìm ngập hay vừa gặp được Thiên Chúa… Tôi muốn lập lại điều hồng y Alimonda đã nói với tôi, rằng Don Bosco luôn luôn ở trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa”.

Có bao nhiêu là chữ “luôn luôn” ở trong các trình bày của những vị này! Vị hồng y nhiều uy thế, tức là, tổng giám mục Torino, đã an ủi rất nhiều sáu năm cuối cùng của người cha chúng ta của chúng ta, ngài thường lập lại ý tưởng đã nói cho Cagliero và cũng là ý tưởng trong diễn từ kỷ niệm 30 ngày đám tang, định nghĩa Don Bosco là người “luôn kết hiệp với Thiên Chúa”.

Chúng ta kết thúc những chứng từ này với nhận xét nhiệt tình của Đức Pio XI. Đức thánh cha vốn thích nhắc tới một cách công khai với sự thích thú vì đã được tiếp xúc gần gũi chứ không chỉ ghé qua với Don Bosco. Ngài khẳng định đã nhận ra “trong mọi hành động ngay cả khi không lộ liễu” nơi Don Bosco “một tinh thần hồi tâm, bình thản, an bình lạ lùng. Không phải sự an bình chỉ vì thinh lặng, nhưng là sự thanh bình của một tinh thần gặp gỡ Thiên Chúa, ngài luôn luôn chú tâm tới cái mà linh hồn ngài cảm nghiệm: sự hiện diện của Thiên Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa”.[145]

Để kết luận, như một sử gia đã viết về thánh Bonaventura rằng trong các tác phẩm của ngài, ngài làm cho mỗi chân lý trở thành một kinh nguyện, đối với Don Bosco cũng thế, người ta phải áp dụng khẳng định này cho mỗi hành vi trong cuộc sống ngài: bất cứ điều gì ngài làm, đều là một kinh nguyện.

Hàng ngũ những chứng nhân đã giúp chúng ta rút ngắn hành trình. Nhưng sự rút ngắn không làm cản trở việc rút ra những giải đáp phù hợp, mà chúng ta sẽ vạch ra về bảy hiệu qủa của sự kết hiệp đơn thuần đã nói bên trên.

Hiệu quả thứ nhất của sự cầu nguyện hay sự kết hiệp đơn thuần đó là nên một, điều mà hầu như bằng chứng không thể động tới. Chúng ta có thể gọi nó bằng cái tên: sự hoà tan, một từ ngữ gợi ý từ câu kinh thánh:[146] Linh hồn tôi tan chảy vừa khi người yêu tôi nói.[147] Người ta có thể nói tới một sự tiêu hủy của trái tim trước ngọn lửa đức mến bừng cháy hoặc, nếu không muốn nói theo kiểu biểu tượng, một cảm xúc ngọt ngào về tình yêu Thiên Chúa, đổ đầy trong linh hồn niềm vui không thể diễn tả cho tới độ làm phát sinh nơi thân xác một cảm giác cạn kiệt, đến độ có khi làm bất tỉnh. Những hiện tượng khả giác như thế có khi nào được nhìn thấy nơi Don Bosco không? Chúng ta sẽ trả lời với hai nhận xét tổng quát và ba sự kiện riêng biệt.

Nhận xét thứ nhất: giữa các hoa trái của sự chiêm niệm, một trong những hoa trái dễ thấy hơn cả đó là đức khiêm nhường. Người chiêm niệm là người hơn ai hết hiểu được sự vĩ đại của Thiên Chúa và có một cảm thức mạnh về sự hư không của chính mình; bởi thế, không chỉ vui vì ơn Thiên Chúa, họ còn cảm thấy sợ vì điều mình có vẻ biết và nếu không xin soi sáng họ sẽ không biết sống thế nào nữa, hơn nữa họ sử dụng mọi phương tiện để giữ lại nơi mình sự tròn đầy của tình yêu. Nếu không có điều đó thì ý chí của người ấy không thể, ngoài ra ngay cả tính khí cũng có phần của nó nữa. Ân sủng hoạt động trong cái tự nhiên, nhưng không tiêu hủy cái tự nhiên. Về Luigi Comollo chúng ta đã thấy rằng, nếu sau khi rước lễ không để bộc phát ra những cảm xúc chất chứa, có lẽ trái tim thầy sẽ bể ra mất. Don Bosco thay vào đó lại trấn áp cái sức mạnh của sự sốt sắng của mình, và muốn rằng bạn mình củng phải làm như thế; thế nhưng sự cưỡng bức thể lý của bạn ngài không như là của ngài.

Rồi tới nhận xét thứ hai. Don Bosco làm chủ thần kinh của ngài, Don Bosco con người sắt thép, hoặc nói theo một ngôn từ bớt phàm tục, Don Bosco là người có thể áp dụng cho mình lời của vịnh gia: Linh hồn tôi luôn ở trong tay tôi,[148] có một ý chí chủ trị các năng lực cấp thấp để phục vụ cho đức khiêm nhường, và do đó ngài có khả năng trấn tĩnh sức mạnh của cảm tính để chúng khỏi đi qúa mức. Bởi đó chỉ sự thiếu vắng những hiện tượng bên ngoài, như đã đề cập, không thể là luận chứng quyết định để phủ nhận ngài có ơn chiêm niệm siêu nhiên.

Ngoài ra, làm sao có thể giải thích được một người, khi đụng chạm, hơn nữa bị đâm thâu bởi sự đau khổ dữ dằn đến độ con tim rướm máu, lại tỏ ra vui tươi hơn khi bình thường? Các đau khổ làm phát sinh niềm phấn khởi chăng? Không, nhưng sự đau đớn nâng tâm trí con người tới sự chiêm niệm, một cách thần nhiệm nó biến đổi thành tình yêu, và tình yêu là cái làm con tim vui sướng. Đây chính là sự kiện thứ nhất trong ba sự kiện.

Sự kiện thứ hai là trong những năm cuối đời Don Bosco sau những buổi sáng dành trọn để tiếp những người tới thăm, thường dành ít là một giờ vào ban chiều trong phòng riêng, nơi những người có nhiệm vụ chăm sóc ngài thấy ngài ngồi tại bàn làm việc, thân mình thẳng, hai tay chắp lại trong một dáng vẻ dịu dàng, thu lại trong sự chiêm niệm những sự trên trời.[149] Đó chính là giờ mà người nữ tu trong chương trước thấy ngài xuất thần.

Cũng thế trong những năm cuối đời, – chúng ta đang nói về sự kiện thứ ba -, khi mà vì sức lực cạn kiệt, cảm xúc lại hoạt động hơn, trong giờ cử hành thánh lễ toàn thể con người ngài xúc động một cách rõ rệt, như một người bị xâm chiếm bởi rung động thánh, nhất là những khi được nâng cao.[150] 

Để nhấn mạnh và minh họa rõ hơn, chúng ta mang ra đây chứng từ của Don Cerruti trong giai đoạn khởi đầu của tiến trình phong thánh. Nói về hai năm cuối đời của vị thánh của chúng ta, ngài trình bày: “Khi ngài bị nhức đầu và ngực, cũng như đôi mắt trở nên mờ không cho phép ngài làm việc nữa, thật là cảnh tượng đau lòng và cảm động nhìn thấy ngài trải qua hằng giờ ngồi trên ghế, trong một nơi hơi thiếu ánh sáng, bởi vì mắt ngài không chịu nổi ánh sáng, nhưng ngài luôn bình thản và mỉn cười, tràng hạt trong tay miệng ngài mấp máy đọc kinh và đôi bàn tay di chuyển như diễn tả bằng ngôn ngữ không lời sự kết hợp và sự tùng phục ý Thiên Chúa, điều mà ngài vì quá mệt không thể phát ra lời được nữa. Về phần tôi, tôi tin hoàn toàn bị thuyết phục rằng cuộc sống ngài, đặc biệt trong những năm cuối đời, là một lời kinh nguyện liên lỉ dâng lên Chúa. Cả những người khác cũng nghĩ như tôi. Thật thế, vào trong phòng ngài để thăm ngài và nói với ngài, chúng tôi thấy ngài luôn như người chú tâm vào một sự suy niệm sâu thẳm nhất dù không một dấu hiệu bên ngoài, khuôn mặt ngài luôn vui tươi, bình thản và an bình, lời từ miệng ngài là lời của sự bình an, đức ái và đức tin”.[151]

Hiệu qủa thứ hai của kinh nguyện thu động là một nhu cầu êm dịu cảm thấy muốn khóc. Thánh Caterina Siena diễn tả rằng trong sự kết hiệp mật thiết của linh hồn với Thiên Chúa, nhận thức yêu thương về lòng nhân lành thần linh đánh thức những cảm xúc ngọt ngào và sống động của trái tim, vì trái tim không hiểu nổi mình nữa nên nó nhờ tới sự trợ giúp của đôi mắt.[152] Nơi Don Bosco ngài cũng có ơn cảm xúc bật khóc, mà năng lực của ngài không có sức ra lệnh cho nó ngừng lại.

Trong hành trình cuối cùng ở Roma, đang khi cử hành thánh lễ trong ngôi nhà thờ mới dâng kính Thánh Tâm, hơn mười năm lần ngài bật khóc, đang khi vị linh mục giúp ngài tìm cách để làm ngài tỉnh lại để có thể kết thúc thánh lễ. Ngài còn khóc lần nữa sau đó trong sự xúc động của nhiều người đứng quanh ngài. Trong cuộc đời linh mục của ngài, khi giảng về một số đề tài để tránh khóc vì xúc động, ngài tìm cách đưa vào những chuyện vui nhưng vô hại.[153] Tuy nhiên nước mắt của ngài lại là một điều ích lợi lớn lao cho những ai chứng kiến, có lẽ Chúa quan phòng đã định cho Don Bosco không thể kìm hãm được nước mắt như thế. Còn rất nhiều nguồn thông tin khác, tuy nhiên chúng ta không thấy cần trưng dẫn thêm nơi đây.

Hiệu qủa thứ ba đó là cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa một cách chắc chắn, loại trừ khả thể có bất cứ sự nghi ngờ nào. Thánh Têrêsa làm sáng tỏ điều này như sau: “Thiên Chúa tới cư ngụ trong thâm cung của linh hồn, khiến khi linh hồn đi vào trong chính mình, nó không thấy chút nghi ngờ gì rằng mình đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa đang ở trong mình. Chân lý được ghi khắc không phai mờ trong linh hồn đến độ ngay cả dù nhiều năm nó không được nâng cao tới độ chiêm ngưỡng, nó vẫn không thể quên được ơn đã lãnh nhận cũng như không quên thực tại của điều đó”.[154]

Tâm trí Don Bosco luôn đầy ắp những suy nghĩ về Thiên Chúa: tìm cách chứng minh điều đó, có lẽ cũng chỉ là lập lại. Monsignor Tasso nói về vẻ thu hút của ngài như sau: “Chỉ cần tiếp xúc với ngài một chút thôi, người ta lập tức nhận ra ngay ngài qủa là người của Thiên Chúa; cái siêu nhiên tỏa ra từ mọi lời của ngài và từ tất cả con người ngài. Điều này tôi cảm được bằng chính kinh nghiệm của mình”.[155]

Hiệu quả thứ tư: sức mạnh, sự can đảm, sự kiên nhẫn không nao núng trước mọi đau khổ vì yêu mến Thiên Chúa. Hơn nữa, các linh hồn này cháy lửa tình yêu Thiên Chúa còn ao ước chịu đau khổ vì Thiên Chúa; sự ao ước này càng ngày càng lớn cùng với ước muốn thuộc về Thiên Chúa. Nơi Don Bosco đúng thật như thế. Các trang đã viết bên trên qủa thật đã ca ngợi sự qủa cảm của ngài giữa những đau khổ; tuy nhiên ở đây có hai nhân chứng lên tiếng nói với chúng ta.

Thứ nhất, liên quan đến các đau khổ luân lý, vị Đầy tớ Chúa Don Rua kể như sau: “Sự kiên nhẫn, sự sẵn sàng chịu đau khổ, sự can đảm của ngài luôn đáng thán phục. Có vẻ như các khó khăn và các nỗi quẫn bách làm gia tăng sức mạnh cho ngài, đến độ rằng, dù đau đớn, nhất là khi các chống đối đến từ phía giáo quyền, ngài không bao giờ đánh mất sự bình thản; trái lại chính trong những lúc quẫn bách ngài lại có thêm sự can đảm; thậm chí người ta thấy ngài có vẻ vui hơn và khôi hài hơn bình thường”.[156] Rồi tới các đau khổ thể lý, như chúng ta đã thấy, rất nhiều và nghiêm trọng, nhà viết sử Don Lemoyne chứng thực: “Ngài không bao giờ cầu nguyện để được lành bệnh, và như thế các đau khổ của ngài trở thành tự nguyện. Ngài không khi nào ca thán và tỏ bất kiên nhẫn, đồng thời cứ tiếp tục làm việc”.[157]

Hiệu qủa thứ năm, một ao ước bừng cháy để ca ngợi Thiên Chúa. Người bị thiêu đốt bởi lửa tình yêu Thiên Chúa không muốn mình trở nên gì khác hơn là lời ca ngợi Thiên Chúa; hơn nữa còn muốn Thiên Chúa được mọi người biết, yêu mến và tôn vinh. Người ấy biết rằng Thiên Chúa thì lớn hơn mọi lời ca tụng; tuy nhiên đối với cảm thức về sự vĩ đại và lòng nhân lành của Thiên Chúa không có niềm vui nào khác hơn là tôn vinh, thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa.

Vị thánh sốt mến thành Assisi, để thoả mãn sự khao khát nồng cháy này, đã kêu mời tất cả tạo vật, cả những loài không có trí khôn, không có linh hồn, không có tri giác, để chúng hợp tiếng với ngài ca tụng Đấng tạo hóa. Nhưng trong Giáo hội còn có một sự đa dạng phong phú khác do thánh Phanxicô Salê đem lại. Về cốt lõi vô giá không thể thiếu của đức ái khi giải thích về sự muôn vẻ diệu kỳ nơi các thánh, ngài nói: “tất cả đều thuộc về tình yêu, trong tình yêu, cho tình yêu và là tình yêu trong lòng Giáo hội”.[158]

Là một linh hồn say mến Thiên Chúa, Don Bosco có ba cách thức để mời và kích thích mọi người ca ngợi Thiên Chúa: chuyên cần chăm sóc một cách kỹ lưỡng việc thờ phượng thần linh; nói về sự kết hiệp với Thiên Chúa và về các sự thần linh cho tất cả những người gặp ngài dù chỉ tình cờ gặp trong những giây phút ngắn ngủi; hiến thân với một sự nhiệt thành không mệt mỏi để cổ võ không ngừng vinh quang Thiên Chúa.

Ba điều này, đặc biệt điều sau cùng vốn có tính bao trùm tất cả, cống hiến cho chúng ta một chất liệu rất phong phú để viết. Dầu vậy đứng trước một sự đào sâu lịch sử sâu rộng, điều được trình bày cho tới đây, xem ra chưa được tập trung đúng mức.

Hiệu qủa thứ sáu, sự ao ước mạnh mẽ làm ích cho tha nhân. Linh hồn sống bởi Thiên Chúa, thường thành công để làm mình trở nên hữu ích cho tha nhân ngay cả dù họ không nhận ra điều đó. Như lời thánh Toma, trong hành động hoặc khi tiếp nhận hoặc khi an ủi hoặc khi cứu trợ, ba cách thức giúp đỡ người thiếu thốn, một cách mầu nhiệm họ nhận được sự trợ giúp của Thiên Chúa, điều làm cho công việc của họ nên hữu hiệu.[159]

Nói về Don Bosco là nói về đức ái: một đức ái không vơi cạn khi đối xử với cận nhân, một đức ái không thể diễn tả khi nâng kẻ đau khổ chỗi dậy, khi an ủi kẻ sinh thì, một đức ái anh hùng khi tìm kiếm các phương tiện để thực thi đức ái. Chính do điều này, thế giới yêu mến Don Bosco: chúng tôi tin vào đức ái.[160]

Về đức ái siêu nhiên này thật thích thú đọc nơi đây suy tư cô đọng của người được gọi là alter ego của Don Bosco và cùng với Don Bosco trong biết bao nhiêu năm gánh vác: “Cuộc đời của ngài đã tiêu hao vì thực thi đức ái. Đức ái của ngài phần nào đó người ta có thể nói là một ân huệ bởi thánh ý Thiên Chúa, rồi đến lượt mình, nó lớn lên và hoàn hảo cùng với thời gian… Ngài nhìn thấy nơi tha nhân của mình công trình của Thiên Chúa và nhìn thấy chính Thiên Chúa nơi tha nhân, ngài nhìn từng người như một người anh em trong Chúa Giêsu Kitô, bởi thế ngài yêu mến họ vì tình yêu Thiên Chúa và dùng tất cả sự bận tâm của mình để kéo mọi người tới Thiên Chúa. Không phải cách đơn giản là một sự thiện cảm tự nhiên, nhưng chính tình yêu Thiên Chúa, chính đức ái của Chúa Giêsu Kitô kích thích ngài tiêu hao tất cả bản thân mình cho tha nhân”.[161]

Hiệu quả thứ bảy và cũng là cuối cùng của kinh nguyện đơn thuần, và cũng là hiệu qủa kỳ diệu nhất nơi một kẻ thuộc dòng dõi Adam, đó là sự thực hành thường hằng các nhân đức đối thần, các nhân đức làm đầu và các nhân đức luân lý ở mức độ anh hùng, tức là ở một tầm mức và một cường độ cũng như sự bền bỉ vượt ra bên ngoài những giới hạn thông thường nơi những người nhân đức. Thiên Chúa ban xuống cách rộng lượng các ơn huệ cho một linh hồn, làm cho nó nên dư dật về mọi nhân đức để Giáo hội được xây dựng và được vinh quang; tới mức độ anh hùng trong việc thực thi các nhân đức Kitô hữu. Đứng trước sự tuôn đổ ơn sủng thần linh, linh hồn không dành lại điều gì khác ngoài việc cộng tác một cách đơn thuần.

Sự cộng tác đơn thuần không tạo nên nguy cơ kiêu ngạo, bởi vì nó đã quên đi chính bản thân của mình. Còn hơn nữa càng lên cao trong sự nhận thức say mến về Thiên Chúa, thì linh hồn càng thấy mình trở nên hư không. Thế nên, khi tăng trưởng sự khiêm nhường, thì cũng tăng trưởng các ơn huệ và đồng thời tăng thêm đà lực hăng say hữu hình đối với các nhân đức.

Về điểm này đáng lưu tâm đến nhận xét của Poulain: “Thiên Chúa không chỉ đến trong linh hồn. Khi mà kinh nguyện càng đạt mức độ cao, thì hành động thánh hóa của Ngài càng lớn hơn và hữu hình hơn. Linh hồn tràn ngập Thiên Chúa trong sự kết hiệp thần bí, thì cũng cảm thấy mình tràn ngập lòng mến, sự khiêm nhường, tinh thần hy sinh… Chính Thiên Chúa ban cho nó nhiều cơ hội để thực thi, gởi tới cho nó hết thử thách này tới thử thách khác: cám dỗ, bệnh tật, thất bại, bất công, khinh chê”.[162]

Bắt đầu bàn luận về sự anh hùng của các nhân đức nơi Don Bosco sau khi Giáo hội đã công bố điều đó, có lẽ là đem nước đổ vào biển. Tuy nhiên, có điểm đáng được nhấn mạnh để thấy rõ: sự bộc phát trong giai đoạn cuối đời như đã đề cập bên trên. Cuộc sống trên trần của Don Bosco đã nghiệm thấy sự can thiệp của Thiên Chúa trong muôn vẻ và không gián đoạn đã được tác gỉa làm nổi bật. Giờ đây chúng ta chú ý tới giáo huấn của thánh Phaolô khi ngài viết: “Thiên Chúa đánh phạt những đứa con mà ngài thương”.[163] Kiểu nói này, vốn khó nghe đối với người trần tục, có nghĩa rằng mọi nỗi quẫn bách, là những phương tiện mà Thiên Chúa dùng để thanh luyện và đưa linh hồn tiến lên trên đường trọn lành, là một bằng chứng của tình yêu của Thiên Chúa. Những bằng chứng đó Don Bosco đã nhận được trong suốt hành trình cuộc sống của ngài; đối lại, các bằng chứng từ phía Don Bosco tỏ ra trước Thiên Chúa cũng tương tự, khi ngài thực hành mọi nhân đức giữa những thập gía gặp phải, từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc cuộc đời. Cuộc sống ngài xuất hiện trước chúng ta là một sự trong suốt sáng tỏ, tất cả đều có thể được chúng ta xem xét; dù chúng ta chẳng khám phá nơi ngài có gì là không thánh thiện.

Chúng ta kết thúc điểm này với những lời của hồng y Cagliero: “Sự anh hùng của các nhân đức mà ngài thực hành trong thời thiếu niên và tuổi trẻ được làm chứng bởi những người cùng quê của tôi; tất cả các hội viên, những người mục kích cuộc sống ngài như là linh mục, là giám đốc Nguyện xá và là bề trên của Tu hội đều minh xác với tôi… Từ Mỹ châu trở về, tôi gặp được vị Đầy tớ Chúa nhạy cảm, bừng cháy trong đức ái, kết hợp với Thiên Chúa và mang vẻ nhân hậu thiêng liêng rất nhiều; hơn nữa tôi còn thấy, nếu đó không phải là do tình cảm con cái của tôi đánh lừa tôi, tuổi tác đáng kính của ngài như được bao quanh bằng hào quang và mang một diện mạo thiên thần, có vẻ như cuộc sống của ngài đã được tôn vinh rồi, một cuộc đời đã tiêu hao trong hy sinh bản thân vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn”.[164]

Một nhận định khác nữa thêm ở đây. Vậy phải chăng Don Bosco là một nhà thần bí? Chúng ta biết rõ rằng đối với không ít người, điều này qủa là một ý tưởng mông lung; tuy nhiên có điều chắc chắn rằng tội lỗi thì không thuộc về thần bí. Có hai ý tưởng sai lầm lôi kéo tâm trí của những người trần tục. Họ tin rằng thần bí thì phản nghĩa với cái thực, đang khi nó chỉ nghịch nghĩa với cái thể lý, nghĩa là cái tự nhiên. Người ta gọi là thần bí cái cấu thành thực tại siêu nhiên. Như thế người ta có thể tưởng tượng được rằng, những người được gọi là thần bí là những người sống như bị hút vào trong sự chiêm niệm những điều mà thế giới này không thể thấy cũng như không thể hiểu được.[165]

Ngược lại, một tác giả viết về đề tài này, đã bàn về các diện mạo của các nhà thần bí như sau: “Các nhà thần bí đích thực là những con người của thực tiễn và hành động, không phải là của sự suy lý và lý thuyết. Họ có cảm thức về sự tổ chức, có ơn để điều khiển và tỏ ra là có những tài năng để làm việc. Các công cuộc do họ sáng lập thì sống động và bền bỉ; khi hình thành và điều hành các công cuộc họ tỏ ra là những con người thận trọng và hăng hái cũng như hiểu được khả thể tính của sự việc, điều vốn là đặc tính của người có cảm thức tốt. Thực vậy dường như cảm thức tốt là một phẩm tính ưu trổi của họ: cảm thức tốt thì không bị giao động bởi sự tán dương bệnh hoạn cũng không bị chi phối bởi sự tưởng tượng vô trật tự, cảm thức tốt thì gắn liền với năng lực hiếm hoi về biện phân”. Điều này, nếu tôi không lừa dối chính mình, chính là diễn tả sống động chân dung của Don Bosco, trong đó sự chiêm niệm soi sáng và hướng dẫn hành động.

Donoso Cortes nói rằng, nếu ông phải bàn với một nhà ngoại giao nào đó về một vấn đề gai góc, có lẽ ông sẽ tìm bàn hỏi và xin hướng dẫn của một nhà thần bí. Ai có thể thần bí hơn thánh Bernardo? Ấy thế mà, ngài lại bận rộn về mọi sự và mọi người, đến độ không thể viết lại chuyện cuộc đời mình mà không viết về chuyện của thời cuộc. Và thánh Têrêsa cũng như bao nhiêu thánh khác? Người ta có thể áp dụng cho Don Bosco điều đã nói về thánh Bernardo, luôn luôn bận rộn về rất nhiều công việc: “Trong cuộc sống ngài, những cái ở ngoại vi không làm khó chịu cái ở trung tâm, và cái ở trung tâm không gây khó chịu cho cái ở ngoại vi”.[166] Cái ngoại vi chính là hoạt động bên ngoài, cái trung tâm là sự tập chú thần bí nội tâm. Tác giả mà chúng ta trích dẫn ở đây nói rằng: một khám phá hiện đại đó là những linh hồn thuần tuý và tỏa hào quanh thì không tốt chút nào”.

Chương XIX

TRONG BUỔI HOÀNG HÔN YÊN BÌNH

Trải qua một cuộc sống đầy tràn các ơn sủng siêu nhiên như cuộc sống của Don Bosco, nhiều người nghĩ rằng vào lúc cuối đời sẽ phải bùng phát ra những tia sáng phi thường, báo trước ánh sáng vĩnh cửu; trái lại đã chẳng có gì khác thường, tất cả đã trải qua trong các hình thức và điều kiện bình thường mà con người phải đối diện với cái chết được báo trước bởi sự đau yếu lâu ngày và đau đớn. Chẳng có gì khác thường ngoài sự phi thường mà Don Bosco đã chịu đựng cho tới cuối cùng các bệnh tật của mình. Sự thánh thiện tăng trưởng cho tới tận khi cuộc sống chấm dứt.

Faber viết: “Cái chết của một vị thánh là công trình của nghệ thuật thần linh, một kiệt tác siêu nhiên tỏa sáng vẻ đẹp vĩnh cửu; không có hai cái chết giống nhau, và mọi cái chết đều đáng thán phục”.[167] Cũng chính tác giả, khi nói rằng đối với Chúa mọi cái chết đều thật là quí gía, đã thêm vào đó một cái chết được gọi là “cái chết của sự không dính bén”. Người đã hy sinh hết tất cả, không còn gì để lột bỏ nữa, không có gì để bỏ đi nữa, người đó thực hiện một cái chết, bởi vì linh hồn người đó hoặc chẳng còn gì dính bén với trần gian hoặc vì đã không dính bén từ lâu, thế nên cái chết tinh thần đã đi trước cái chết thể lý. Ông nói tiếp: “Một cái chết như thế là một hành vi tình yêu một cách thuần túy. Có thể gọi đó là sự cử hành một nghi thức thánh, thay vì gọi đó là một sự phạt mình. Người không dính bén không còn là con cái của trần gian nữa, nhưng là một thiên thần có thân xác”.[168]

Nhìn từ góc độ này chúng ta hiểu  Don Bosco trong bốn mươi hai ngày cuối đời khi ngài chuẩn bị từ giã trái đất để về trời: ngài không còn là người của trần gian nữa, ngài hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi sự đợi trông tín thác vào những phúc lộc tương lai. Chúa đã khiến cho trong một khoảng thời gian ngắn từ giường bệnh đau đớn, ngài giáo huấn chúng ta bằng sự kiên nhẫn anh hùng, bằng lòng nhiệt thành bừng cháy không tàn lụi vì phần rỗi các linh hồn và bằng lòng đạo đức sốt sắng: một hiệu qủa tam diện của sự kết hiệp liên lỉ với Thiên Chúa, sự kết hiệp đã khiến ngài chịu đau khổ vì yêu Thiên Chúa, khiến ngài yêu tha nhân trong một tình mến siêu nhiên và khiến ngài trông đợi Chúa trong tình con thảo.

Với ba chiều lưu xuất này của sự kết hiệp với Thiên Chúa, người ta cũng có thể tìm thấy lòng sùng kính vô điều kiện của ngài dành cho vị đại diện Chúa Kitô. Tuy nhiên, Don Bosco vẫn luôn là Don Bosco: chúng ta không kỳ vọng những biểu hiện chấn động bên ngoài: những tâm tình sâu xa của ngài biểu lộ trong sự bình thản và quân bình. Chiều kích nội tâm của những người mà đời sống họ ẩn giấu cùng với Đức Kitô trong Thiên Chúa không thể giấu được con mắt của những người có khả năng quan sát.[169] Chúng ta cùng tìm hiểu từng điểm những điều vừa nói.

Don Bosco không bao giờ đánh mất sự kiên nhẫn dù chỉ một lần vì những đau đớn hành hạ ngài, bởi vì các nhân đức đối thần giúp sức cho ngài. Đức tin khiến ngài nhìn thấy sự đau yếu như được Thiên Chúa gởi tới vì lợi ích cho linh hồn ngài; đức cậy tuôn đổ vào tâm hồn ngài sự bình thản trong niềm tín thác rằng sự trợ lực thần linh sẽ giúp ngài chịu đựng mọi bất tiện do bệnh tật gây nên; đức ái khiến ngài hoàn toàn hợp với ý Chúa, bởi vì chấp nhận chịu đau khổ thuần túy vì yêu mến Chúa mà thôi. Sự kiên nhẫn khiêm nhường này được ngài thực thi bằng lời nói, việc làm và trong tư tưởng.

Trong suốt bốn mươi hai ngày này không một ai nghe một lời kêu than từ đôi môi của Don Bosco vì sự phục vụ, vì các cách thức và phương tiện chăm sóc. Tuy nhiên, ngay cả khi không kêu ca vì điều này, thì một điều rất bình thường là người ta hay nói về tình trạng của mình! Đó là một sự bộc phát tự nhiên. Họ thích kể mỗi khi có dịp, họ muốn rằng người khác biết rằng họ đã trải qua thế nào, họ diễn tả diễn tiến của cơn bệnh và dự đoán điều sẽ xảy ra cho họ. Rồi nếu không một cách hữu ý tìm kiếm sự thương cảm về đau khổ họ phải chịu, thì họ cũng cảm thấy sung sướng khi những người viếng thăm tỏ lòng thương cảm tự phát, nhất là khi nếu người ta ca ngợi họ biết chịu đựng những bất tiện. Don Bosco không chút gì có chung với cung cách này.

Trong án phong thánh bằng những lời lẽ đơn giản, thầy sư huynh canh thức ngài trong bốn mươi đêm diễn tả cách Don Bosco xử sự: “Ngài thực hành phương châm mà ngài hay lập lại cho tôi khi còn khỏe: – làm việc, chịu đau khổ và thinh lặng -. Thế nên khi không thể làm việc được nữa, ngài chịu đau khổ và thinh lặng”. Thinh lặng, phải được hiểu là thinh lặng về sự đau đớn của ngài, vì rằng khi nào còn có thể, ngài còn dùng lời nói như một phương tiện dùng để làm ích. Một lần duy nhất, hai ngày trước khi qua đời, ngài nói với thầy: “Con ơi, cha đau đớn qúa!”. Nhưng ngài liền nói một câu khác đầy khiêm tốn: “Nếu tiếp tục thế này, cha không biết có chịu nổi không”. Thế rồi, ngài lấy lại sự định tâm, ngước mắt lên trời kêu lên đầy lòng tin: “Xin ý Chúa được thực hiện trong mọi sự”.

Thường theo thói quen, ngài luôn giấu sự đau đớn của ngài, nói những câu khôi hài để làm những người hiện diện đừng chú ý, như khi ngài chịu cuộc giải phẫu mà tôi đã nói tới trong chương IX. Vài phút sau cuộc giải phẫu, ngài trả lời với người hỏi thăm ngài: “Họ đã cắt cha một miếng rất tài tình”. Nhưng người khác thì nói: “Tội nghiệp Don Bosco! Rồi cha sẽ cảm thấy đau đớn lắm”. Nhưng ngài bảo: “Cha tin rằng miếng thịt bị cắt kia không cảm thấy gì đâu”.

Một buổi tối, cha tổng quản lý Don Sala hỏi ngài: “Don Bosco, cha cảm thấy đau lắm phải không?”. Ngài trả lời cách từ tốn: “Ừ, đúng thế. Nhưng mọi sự sẽ qua thôi, cả cái này nữa”. Nghe nói thế, Don Sala hỏi ngài xem có thể làm gì để giúp ngài một chút. Ngài bảo: “Hãy cầu nguyện”. Thế rồi ngài chắp hai tay, hồi tâm cầu nguyện. Ngài trả lời những người tỏ lòng thương hại: “Chúa đã chịu đau khổ hơn cha nhiều”.

Ngài tỏ ra kiên nhẫn trong mọi sự. Bệnh tật kéo dài và đau đớn. Kinh nghiệm cho thấy trong những trường hợp tương tự, ngay cả những tính khí mạnh mẽ cũng có những bùng phát: bởi vì sự lo âu kích động họ. Don Bosco hoàn toàn phó mặc trong tay các bác sĩ chữa trị và các người chăm sóc ngài. Người ta có thể tưởng tượng được sự quan tâm của những người chăm sóc ngài. Người bệnh thì ngược lại, không quan tâm đến mình, tỏ ra hối tiếc vì những hy sinh người ta phải chịu vì mình; và bởi vì chứng đau cột sống làm cho ngài đau đớn khi xoay chuyển, nên những người ấy nhận ra, và ngài để làm cho họ khỏi cảm thấy ái ngại ngài nói những câu vui hài.

Bao bất tiện khi phải chuyển ngài sang một chiếc giường khác! Dù rằng người ta làm điều này một cách hết sức nhẹ nhàng, luôn có những đau đớn không thể tránh được, nhất là vì thiếu những phương tiện thích hợp, và những người làm việc đều không phải là y tá chuyên nghiệp. Người bệnh khốn khổ luôn lặng lẽ, để mặc họ di chuyển và đặt để như một cái máy, thỉnh thoảng thốt ra một lời vui vẻ. Sự thay đổi như thế hầu như phải làm mỗi ngày. Một buổi tối nọ, ngài muốn uống nước, nhưng người ta phải chối từ ngài vì ngài thường xuyên bị nôn: không tỏ ra khó chịu ngài nói rằng: “Cần phải học sống và học chết; học điều này cũng như điều kia”. Về nhu cầu của ngài cần sự nâng đỡ trong những điều tế nhị, cũng không có gì phải nói: thế mà có một lần ngài báo hiệu, bởi vì ngài có điều gì khác thường mà ngài phải cho biết.

Trong tuần lễ cuối cùng khi mà sự khát nước đốt cháy ngài khiến cả nước lẫn nước đá cũng không thể làm hết khát, người ta dùng tới nước có ga. Xem chừng thứ nước này có thể giúp ngài dễ chịu một chút; nhưng ngài, vì nghĩ rằng đó là một thức uống đắt tiền, nên từ chối không dùng. Để làm ngài yên tâm người ta cho ngài thấy rằng một chai gía chỉ 7 xu. Có lẽ hơn lúc nào khác nhận xét của Faber tỏ ra rất phù hợp: “Không có một điều nào phổ biến nơi các thánh hơn là nỗi sợ về chi tiêu, nỗi sợ này gia tăng tỷ lệ với nhu cầu và quyền mà các vị có thể có”.[170]

Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu xem đâu là những ý nghĩ của ngài. Ở đây về sự kiên nhẫn của ngài, có lẽ đã đủ khi nhấn mạnh tới tinh thần phó thác của ngài trong ý Chúa. Sau cả một cuộc đời hoạt động, dường như ngài phải đứng trước ý nghĩ về những điều tốt có thể tiếp tục hoàn tất, khi phục hồi sức khoẻ. Những người đau ốm thường thích ôm ấp hoài bão này, tưởng tượng rằng khao khát điều đó duy để phục vụ Thiên Chúa ma thôi. Nhưng những linh hồn thánh thiện biết rằng cách thức phục vụ Thiên Chúa tốt nhất là phục vụ Ngài theo cách thức của Ngài, bởi thế, nếu Thiên Chúa muốn họ đau ốm, xin được như thế!

Tâm tình từ bỏ hoàn hảo này là có ở nơi Don Bosco. Tất cả các chứng nhân đều nhất tâm công bố điều này. Thật vậy khi thì bề trên này, khi thì bề trên khác khích lệ xin ngài cầu nguyện để được lành bệnh, vì họ tin rằng nếu ngài cầu nguyện, chắc sẽ được ban ơn. Nhưng ngài không bao giờ đồng ý điều này, thỉnh thoảng ngài lập lại: “Xin cho con theo thánh ý Chúa”. Thậm chí, có người gợi ý cho ngài đọc các lời nguyện tắt, tìm cách thêm vào một cách khéo léo lời cầu: Đức Mẹ Phù Hộ các giáo hữu xin cứu chữa con. Nhưng tới câu này Don Bosco giữ thinh lặng.

Diễn tả sự phó thác của ngài, ngài thường đưa hai cánh tay lên trời, đôi tay chắp lại. Sau đó ngài bị tê liệt cánh tay phải và không thể cử động được nữa, ngài vẫn đưa cánh tay trái lên cao và nói: “Xin thánh ý Chúa được thực hiện”. Đến sau cùng khi không còn nói được nữa, thỉnh thoảng ngài vẫn đưa bàn tay lên, có lẽ là bằng cử chỉ không lời đó lập lại sự dâng hiến thầm lặng cuộc sống lên Chúa.

Don Bosco, vốn cả cuộc đời đã thực hiện phương châm của một tác giả tu đức: “Cuộc đàm thoại của linh mục luôn phải gợi lên ý nghĩ hãy nâng tâm hồn lên”,[171] chắc chắn ngài không thể nào quên nó trong những ngày cuối của đời ngài. Nhìn thấy ngài đau đớn, nhưng yên bình trong sự phó thác, tự nó đã là một sự giáo huấn. Dầu sao ngài luôn có những lời sinh ích cho người hiện diện và khích lệ cho những người không có mặt. Những lời ngài có thể nói thực ra rất ít; nhưng trái tim ngài, nên một với Chúa Giêsu, khiến cho giọng ngài rung động tạo nên xúc cảm độ thế.

Với những người luôn gần bên giường bệnh ngài, chẳng hạn như thầy sư huynh nói bên trên và cha thư ký trẻ, Don Viglietti, ngài không chỉ tỏ ra những biểu lộ tình cảm diễn tả lòng biết ơn hay hài lòng, mà còn có những lời khuyên để làm cho sự phục vụ thường nhật của họ có động lực siêu nhiên. Chẳng hạn như, đối với người thứ nhất: “Con mến, hãy nhớ rằng vào cuối đời chúng ta sẽ gặt hoa trái của những việc tốt chúng ta đã làm. Con hãy chăm lo làm việc vì vinh danh Chúa, và Thiên Chúa sẽ trả công cho con xứng đáng”. Đối với người thứ hai, trong tình cha ngài nói: “Nói với mẹ con rằng cha chào mẹ con nhé, rằng mẹ con hãy tìm cách để làm cho gia đình tăng trưởng theo tinh thần Kitô giáo, rằng mẹ con hãy cầu nguyện cho con, để con luôn là một linh mục tốt và cứu được nhiều linh hồn”.

Cứu các linh hồn là một trong những lời gởi gắm thường xuyên nhất của ngài. Một ngày nọ ngài nói với Mons. Cagliero: “Cha xin Chúa một điều duy nhất, đó là cha có thể cứu linh hồn khốn khổ của mình. Cha gởi gắm con nói với tất cả các Salêdiêng rằng họ hãy làm việc với sự nhiệt thành. Làm việc, làm việc! Hãy dấn thân không mệt mỏi để cứu các linh hồn”. Và sau khi chúc lành cho Mẹ bề trên của các con cái Mẹ Phù Hộ ngài nói: “Hãy cứu các linh hồn”. Rồi một lần nữa năm ngày trước khi chết, ngài nói với Cagliero, trong tiếng thì thầm đầy mệt nhọc: “Hãy cứu các linh hồn nơi vùng truyền giáo”.

Cagliero sau đó luôn sung sướng khi nhớ lại và giải thích một cách hứng khởi lời gởi gắm nồng ấm của người cha về sự làm việc. Không phải ngẫu hứng mà Don Bosco chọn lựa lời gởi gắm lời đó vào giây phút cuối đời. Sự cần mẫn làm việc là một trong những truyền thống Salêdiêng chân chính. Người ta có thể mở rộng cho các con cái của Don Bosco lời của Don Marmion cho con cái thánh Benedicto.[172]

Bộ luật Salêdiêng cũng như luật dòng Benedictin không đề ra những việc đền tội phi thường, chẳng hạn như, mặc áo nhặm, kỷ luật và những điều tương tự; nhưng trong cả hai hội dòng, làm việc cấu thành một hình thức thay cho việc đền tội. Trong Giáo hội, tất cả đều đến với đời tu để tìm kiếm Thiên Chúa. Cả hai Bộ luật đều buộc tìm kiếm Thiên Chúa không chỉ bằng kinh nguyện, nhưng cả bằng làm việc: cầu nguyện và làm việc, và người nào càng làm cho Thiên Chúa được vinh quang thì càng tìm thấy Thiên Chúa, người ấy tôn vinh Ngài bằng sự sẵn sàng dùng sức lực của mình để phục vụ ý Ngài trong đức vâng lời. Đây chính là cái nền của ý nghĩ mà đôi môi của Don Bosco gởi gắm khi ngài đang hấp hối.

Hai hội dòng do ngài thành lập một cách tự nhiên gợi tới sự chú tâm phụ tử của ngài; những lời trăn trối của ngài là nhằm thánh hóa các phần tử, là để họ duy trì ơn gọi và có được hoạt động hiệu quả vì phần rỗi các linh hồn. Khi được hỏi để ban một kỷ niệm cho Con cái Mẹ Phù Hộ ngài trả lời: “Vâng lời, hãy thực hành đức vâng lời và làm cho đức vâng lời được thực hành”. Và khi chỉ còn ba ngày nữa ngài qua đời, ngài nói với Don Bonetti: “Con nghe này. Hãy nói với cac nữ tu rằng, nếu họ tuân giữ Hiến luật, ơn cứu độ của họ được bảo đảm”. Một ngày trước đó, tiếng nói khi đó đã đuối ngài nói với Mons. Cagliero: “Tu hội chẳng có gì phải sợ. Tu hội có những người đã được đào luyện. Hãy yêu mến Tu Hội. Hãy giúp các bề trên khác trong tất cả những gì con có thể”.  Buổi tối hôm đó Don Sala, thấy ngài có vẻ nghỉ nghơi được, như thể muốn làm cho ngài yên tâm nên nói: “Don Bosco, bây giờ cha sẽ được mãn nguyện, cha hãy nghĩ tới sau cuộc đời biết bao lao nhọc và đau khổ, cha đã thành công lập nhiều nhà trên khắp thế giới và lập Tu hội Salêdiêng một cách vững chắc”. Ngài trở lời: “Đúng, những gì cha đã làm, cha đã làm vì Chúa. Cha đã có thể làm nhiều hơn. Nhưng các con cái của cha sẽ làm. Tu hội của chúng ta được Thiên Chúa dẫn dắt và được Đức Mẹ Phù Hộ che chở”.

Đừng ai ngạc nhiên thấy đề cập ở đây lòng sùng kính của Don Bosco đối với vị Đại diện của Chúa Kitô mà ngài tỏ ra bên giường chết. Ngài đã không nghĩ và không dạy rằng Đức thánh cha là mắt xích nối kết con người với Thiên Chúa đó sao? Đức Pio XI làm chứng điều này khi xác nhận rằng chính ngài biết Don Bosco đặt việc trung thành phục vụ Chúa Kitô và Giáo hội, cũng như vị Đại diện của Người trên hết mọi vinh quang.[173]

Giờ đây giữa lúc bệnh tình đau đớn, trái tim ngài mở ra cho những tâm tình cao qúy vốn đã sinh động ngài trong suốt cuộc sống, ngài bộc lộ với Mons. Cagliero, và nói rằng điều này ngài đã giữ kín cho tới giây phút này: “Tu hội và các Salêdiêng dù bất cứ nơi nào họ ở và làm việc, có mục tiêu đặc biệt là bảo vệ quyền bính của Tòa thánh”.

Ai hiểu biết về thời buổi Don Bosco sống sẽ dễ hiểu vì sao ngài dấu kín trước tai mắt công cộng một điều khoản như thế trong chương trình hành động của ngài. Ngài trở lại vấn đề này khi hồng y Alimonda, tổng giám mục Torino, đến thăm ngài trong bầu khí rất thân tình. Ngài không ra hiệu như muốn bộc lộ một bí mật nữa, nhưng diễn tả một ước muốn, và lời ngài lúc đó mang vẻ long trọng: “Thưa Đức hồng y, con đã trải qua thời kỳ khó khăn. Nhưng quyền bính của Đức thánh cha… quyền bính của Đức thánh cha… Con đã nói điều đó với mons. Cagliero: các Salêdiêng hiện hữu là để bảo vệ quyền bính của Đức thánh cha, bất cứ nơi nào họ làm việc, bất cứ nơi nào họ ở. Xin Đức hồng y nhớ, xin nhớ nói với Đức thánh cha điều đó”.

Hai tháng sau đó, trong buổi cử hành tưởng niệm người quá cố, thuật lại cuộc viếng thăm này và kể lại những lời của ngài, đức hồng y thêm: “Trong những lời đó, con người đáng kính đó đã mở cho tôi coi di chúc của ngài. Tôi nói mở cái gì? Tất cả cuộc sống ngài đã rõ rành lời di chúc đó”. Và khi ngừơi kế vị Don Bosco, trong cuộc hội kiến đầu tiên mà Đức Leo XIII dành cho ngài, nhắc tới tâm tình của người đã khuất, Đức thánh cha kêu lên: “Ồ, đúng Don Bosco là một vị thánh, giống như thánh Phanxicô Assisi khi sắp qua đời đã hết sức khuyên nhủ con cái ngài thảo kính và bảo vệ Giáo hội cũng như thủ lĩnh của Giáo hội Roma. Các con hãy thực hành lời gởi gắm của Đấng sáng lập, và Chúa sẽ không quên chúc lành cho các con”. Chắc chắn ai để tâm tìm hiểu về lòng sùng kính của Don Bosco đối với vị Đại diện Chúa Kitô, sẽ tìm thấy dồi dào chất liệu để chứng minh rằng lòng sùng kính đó rất sâu xa và là một tình yêu nồng nàn cũng như một sự vâng phục tuyệt đối.

Chúng ta còn phải nói về lòng đạo đức nữa, như nó đã được biểu lộ và được nuôi dưỡng bởi kinh nguyện, bởi nguyên lý là các bí tích. Thầy sư huynh vốn luôn ở bên ngài làm chứng trong án phong thánh: “Ngài cầu nguyện hầu như liên lỉ”. Và tới lượt cha thư ký: “Dường như ngài liên lỉ bị thu hút vào trong Thiên Chúa”. Rồi thêm: “Cử chỉ ngài khiêm nhường và sốt sắng, mắt ngài dán chặt vào thánh giá, ngài hôn áo và ảnh Đức Mẹ, vô số các lời kinh nguyện liên lỉ trên đôi môi ngài”. Áo Đức Bà là áo dòng Carmine, do các Salêdiêng đeo cho ngài theo ý ngài khi ngài lâm bệnh và ngài đã được phép mang áo đó. Về thánh giá, ngoài thánh gía mà ngài đeo thường xuyên trên cổ, trong những ngày cuối đời ngài sung sướng có một thánh gía khác, thỉnh thoảng ngài cầm hôn để lãnh ơn toàn xá. Một số người vì thấy ngài đau đớn hơn bình thường, họ khuyên ngài suy nghĩ tới cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để được an ủi, ngài nói: “Cha luôn làm điều đó”.

Dù các đau đớn xâm chiếm ngài, ngài muốn cha thư ký mỗi buổi sáng đọc kinh với ngài, đọc cho ngài suy niệm và cũng như các bài đọc đạo đức khác. Tất cả các buổi sáng, cho tới ngày lễ thánh Phanxicô Salê, dựa trên gối, ngài tham dự cách sốt sắng thánh lễ do cha thư ký cử hành trong nhà nguyện ngay bệnh cạnh phòng ngài. Trong tháng giêng, ngài thấy mình hay mất trí, nên nói: “Hình như cha luôn cầu nguyện; nhưng mà cha cũng không biết chắc nữa. Xin hãy giúp cha”.

Ngài không chỉ cầu nguyện, nhưng cũng làm cho người ta cầu nguyện. Ban đầu ngài nói với tất cả các bề trên cầu nguyện cho ngài và rồi mời tất cả các Salêdiêng cầu nguyện cho ngài để ngài có thể chết trong ơn nghĩa Chúa, ngài không muốn điều gì khác. Buổi chiều ngày 24 tháng giêng, cảm thấy rất mệt, ngài cho gọi cậu thiếu niên Palestrino người phụ trách phòng thánh mà ngài rất kính trọng, và xin em cầu nguyện cùng Chúa Giêsu và Mẹ Maria cho ngài trong tất cả thời gian rảnh, để ngài đang khi đợi giờ của mình, có thể giữ được đức tin. Sau đó, cậu thiếu niên được dẫn vào với ngài, xúc động ngài nói với cậu như đã nhắn người ta bảo cậu, và rồi chúc lành cho cậu. Đến tối, trái với điều hay xảy ra cho những người đau ốm, ngài cảm thấy được nâng đỡ, việc này ngài nói với Don Lemoyne, đó là nhờ lời cầu nguyện của cậu thiếu niên tốt lành kia. Những ngày sau đó, ngài không nói được nữa, ngài phó thác vào lời cầu nguyện của các người hiện diện.

Biết bao bằng chứng của lòng sùng kính sâu xa ngài tỏ ra đối với Mẹ Maria và Chúa Giêsu thánh thể!  Ngài sung sướng lãnh nhận thường xuyên phép lành Mẹ Phù Hộ theo công thức mà Thánh bộ Nghi lễ đã phê chuẩn. Ngài thường xuyên giữ trong tay chuổi tràng hạt. Một lần hôn ảnh Đức Mẹ, ngài kêu lên: “Cha đã luôn tín thác nơi Mẹ Maria”. Nhưng ngay cả nếu ngài không nói, bất cứ ai quan sát ngài hôn ảnh tượng, đều sẽ có ý nghĩ như thế về ngài.

Khoảng cuối tháng mười hai, ngài nói với nhiều bề trên rằng: “Hãy nhắn nhủ các Salêdiêng về lòng sùng kính Mẹ Maria Phù Hộ và hiệp lễ thường xuyên”. Don Rua nghĩ đó là hoa thiêng gởi đến cho các nhà trong năm mới, và hỏi Don Bosco điều đó. Ngài trả lời: “Trong tất cả cuộc đời”. Rồi ra hiệu đồng ý với ước muốn đã biểu lộ. Một lát sau đó, ngài nói với mons. Cagliero: “Hãy quảng bá lòng sùng kính Mẹ Maria nơi vùng Hỏa địa. Ước gì các con biết được bao nhiêu linh hồn mà Đức Mẹ Phù Hộ muốn cứu rỗi qua các Salêdiêng! Lát sau nữa ngài lại nói thêm: “Những ai muốn được ơn của Mẹ Phù Hộ, họ hãy giúp công cuộc chúng ta tại vùng truyền giáo, họ chắc chắn sẽ được ơn”.

Trong những ngày đầu tháng giêng, đang khi mọi người đều sợ tai họa lớn lao xảy ra, thì bỗng dưng ngài khỏe hơn một chút. Ai nấy đều nhận ra đó là một ơn đặc biệt nhờ lời cầu nguyện từ mọi nơi. Chiều ngày 7 ngài nhờ Don Lemoyne đọc cho cha thư ký một sứ điệp: “Làm sao người ta có thể giải thích được một người, sau hai mươi mốt ngày trên giường bệnh, không ăn uống gì, với một tâm trí đã suy yếu đến tột độ, tới môt lúc lại trở lại, biết được mọi sự và cảm thấy mình khoẻ và hầu như có thể tự mình chỗi dậy, viết, làm việc? Đúng, cha cảm thấy khỏe trong lúc này, như thể chưa bao giờ bị bệnh cả. Để trả lời cho người hỏi tại sao, người ta có thể trả lời thế này: Nhờ quyền năng Thiên Chúa và sự chuyển cầu của Đức Trinh nữ”. Không thể diễn tả nổi niềm vui tràn ngập khắp Nguyện xá đứng trước tin vui không chờ đợi này. Nhiều nơi trong nhà nơi hay qua lại người ta đọc thấy trên những bảng treo, các vần thơ bằng tiếng Latin, tán dương quyền năng cầu bầu của Mẹ Maria.

Ai có thể biết được bao nhiêu lần trong cuộc đời ngài, Don Bosco đã cầu nguyện với Đức Mẹ để xin mẹ trợ giúp để cứu các thanh thiếu niên của ngài, cũng như để thành lập Tu Hội. Trong giây phút thanh thản này, việc hồi nhớ lại biết bao lời khẩn cầu gợi lên cho ngài những cảnh mà ngài đã thấy, trong đó biết bao lần ngài đã  chạy đến với Mẹ Maria.

Một ngày nọ, nhìn thấy cảnh rối ren, ngài vỗ tay kêu lên: “Ồ, mau lên Mẹ Maria, mau tới giúp đám trẻ này!… Mẹ, Mẹ ơi!”. Một ngày khác, khi đang ngủ, người ta nghe thấy ngài kêu lên: “Đây, đám trẻ nghịch ngợm qúa!… Nào, tiến lên, can đảm lên, tiến lên… Mẹ, Mẹ ơi!”. Ngài kêu lên tới cả gần hai chục lần lời cầu khẩn này. Rồi một lát sau, có vẻ bình thản hơn, ngài chắp hai tay, sốt sắng kêu cầu: “Ô Mẹ Maria! Mẹ Maria! Mẹ Maria!”. Gọi tên Đức mẹ trong tâm tình người con là điều rất thường xuyên trong giai đoạn cuối của ngài khi còn tỉnh táo.

Lửa mến của ngài đối với Chúa Giêsu thánh thể tỏa trên khuôn mặt ngài khi lãnh nhận Thánh Thể. Mỗi buổi sáng, trừ ra một ít lần vì không thể giữ chay, ngài đều rước lễ; hầu như mỗi ngày cha giải tội đều thăm ngài, và ngài đều muốn xưng tội. Ngài rước lễ cho tới ngày 29 tháng giêng, lễ thánh Phanxicô Salê. Buổi sáng hôm đó một số người nghĩ rằng không thể cho ngài rước lễ, bởi vì xem ra đã mất trí; nhưng ý kiến ngược lại ưu thế hơn. Người ta cho rằng vào đúng lúc ngài sẽ tỉnh lại. Và đúng thế. Khi được nhắc cho biết Chúa sẽ tới thăm, ngài không động đậy. Nhưng khi vị linh mục đem Bánh thánh lại gần và đọc lớn Mình thánh Chúa Kitô, người bệnh liền cử động, mở đôi mắt, nhìn vào Mình thánh Chúa, chắp hai tay và lãnh nhận Chúa, cầm trí và lập lại lời cám ơn mà Bề trên đang giúp ngài lúc đó đọc.

Đây là lần rước lễ sau cùng của ngài; nhưng ngài đã không chờ đợi lâu mới xin của ăn đàng. Từ ba ngày ngay sau khi phải nằm giường, ngài đã nói với cha thư ký: “Con hãy sửa soạn tất cả để đem của ăn đàng. Chúng ta là Kitô hữu, luôn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa của lễ cuộc sống mình”. Giọng ngài qủa quyết, khiến cho không bề trên nào dám trì hoãn; bởi đó người ta quyết định vào ngày hôm sau, tức là áp lễ Giáng Sinh. Khi mọi sự đã chuẩn bị, người ta báo cho ngài. Khi đó, với vẻ lo âu, ngài nói với những người hiện diện: “Xin giúp cha, giúp cha, rước lấy Chúa Giêsu. Cha cảm thấy bối rối qúa. Trong tay ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con.

Cuộc rước Mình thánh Chúa gồm có một chú giúp lễ và các linh mục và tư giáo có thể tham dự, tiến đến phòng ngài. Lúc nghe tiếng hát, Don Bosco vẫn còn kiệt sức; nhưng khi nhìn thấy Mình thánh Chúa do mons. Cagliero mang tới, ngài bật khóc. Đức cha Cagliero trình bày trong án phong thánh, nói ngài như nhìn thấy thánh Giêrôm Dominichino.

Don Bosco cũng không trì hoãn lãnh nhận xức dầu bệnh nhân. Do sự nài nỉ của ngài, đức cha Cagliero đã ban phép xức dầu ngay buổi tối ngày lãnh của ăn đàng. Trước đó người bệnh bày tỏ ao ước người ta xin cho ngài phép lành tòa thánh, và sự việc đã được tiến hành mau mắn. Khi đã nhận bí tích rồi, ngài không còn nói về điều gì khác ngoài sự vĩnh cửu và các đề tài thiêng liêng.

Ngài khiến mọi người dễ chịu vì sự bình thản của ngài, vốn thường xuyên toả rạng trên khuôn mặt, cung cách và lời nói của ngài. Sự bình thản đó theo ngài cho tới giây phút cuối cùng; còn hơn nữa nó lưu lại trên khuôn mặt ngài ngay cả sau khi đã mất mọi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Tôi không thể không thêm ở đây, rằng, nhìn thấy ngài vào buổi chiều cuối cùng, tôi như còn nhớ mãi như trước mắt hình ảnh dịu hiền ấy. Kê đầu trên gối, khuôn mặt ngài bộc lộ sự yên hàn tinh tế tới độ không gây ấn tượng rằng đó là người đang đi vào hấp hối. Người ta không ngừng nhìn khuôn mặt ngài. Ngay cả sau khi chết, vẻ mặt của người chết giải tỏa một sự cảm thức yên bình dịu dàng, khiến người ta phải kêu lên: Thật là đẹp trước mắt Thiên Chúa và loài người, cái chết của các thánh nhân!

Tôi đã nhắc tới cuộc viếng thăm của hồng y Alimonda. Đức hồng y nói trong buổi lễ tưởng niệm, đối với ngài “tình cảm thúc bách, buộc phải thăm Don Bosco”. Ngạc nhiên khi thấy Don Bosco bình thản trong tâm hồn và đầy suy tư về Thiên Chúa; đến độ khi ra về ngài nói với mons. Cagliero: “Don Bosco luôn ở với Thiên Chúa, ngài luôn kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa”. Dù ngay cả khi cái chết lại gần, và cả chính cái chết nữa, cũng không làm cho các dấu chỉ của sự tiếp xúc thường hằng với Thiên Chúa bị hao mòn.

Chương XX

VIÊN NGỌC CỦA HÀNG TƯ TẾ

Một tác giả người Đan mạch khi tìm hiểu và viết về cuộc đời Don Bosco, đã nói lên ấn tượng rằng, tất cả các người viết tiểu sử trước đây cũng đã tỏ ra, nhưng chỉ ông ta là người đã diễn tả một cách độc đáo.[174] Ông viết: “Don Bosco là một trong những con người toàn hảo mà trái đất này có thể có. Trong phần đa các vị mà Giáo hội tôn phong hào quang các thánh, luôn có cái gì đó con người, và trong một số trường hợp nào đó, như nơi thánh Ambrogio, thậm chí rất là con người […]. Nơi Don Bosco không có hay hầu như không có chút gì những thứ đó. Nơi ngài, tất cả là sáng tỏ, không chút bóng tối, điều đó, từ một nhãn quan nghệ thuật, tạo nên một khó khăn. Thật vậy, tất cả bức tranh sẽ phải vẽ bằng mầu trắng, tất cả bằng ánh sáng. Lời Phúc âm, các người công chính, sẽ chiếu sáng như mặt trời. Nhưng ai có thể vẽ được mặt trời chứ?”. Vậy mà dựa trên cái nền của sự trong trắng vô tội đó Don Bosco đã xây dựng nên toà nhà thánh thiện linh mục của ngài.

Đây chính là đặc điểm của sự thánh thiện của Don Bosco; bởi vì, ngay cả trước khi làm linh mục, ngài đã khao khát trở thành linh mục và sự khao khát đó đã tạo nên một nét riêng biệt cho suốt cả đời ngài, từ lúc năm tuổi cho tới năm hai mươi sáu tuổi. Khi nào ý nghĩ trở thành linh mục xuất hiện trong tâm trí ngài, thật khó mà xác định được: dường như nó đi theo con người ngài, ngài đã biểu lộ nó ra ngay khi vừa có thể hiểu linh mục là ai và làm gì. Từ giây phút đó lý tưởng linh mục chiếm lĩnh ngài, ghi khắc trên cách sống của ngài cung cách linh mục.

Chúng ta bỏ qua tác động của các nghi lễ phụng vụ, hiện tượng thường thấy nơi các trẻ em của các gia đình Kitô hữu; tôi muốn nói tới việc tông đồ mà cậu bé Bosco đã bắt đầu thực thi từ lúc nhỏ xíu trong những hình thức đúng là do lòng nhiệt thành linh mục. Tất cả đều rõ như thế. Khi trở thành một tư giáo, thầy quan tâm để tẩy xoá khỏi mình tất cả thói quen nào dù chỉ mang dáng vẻ trần tục, từ bỏ kéo violon, một nhạc cụ thầy ưa thích, từ bỏ việc tìm kiếm và từ bỏ cả việc đọc các tác giả ngoại giáo cổ điển, hiến thân cho việc học hỏi thánh, cho việc dạy giáo ý và các cử hành phụng tự, như thế chuẩn bị mình lãnh chức linh mục, và sau khi được đặt tay và lãnh nhận ơn bí tích, ngài rung động hơn trước kia nữa vì những gì là chân thật, những gì là danh thơm tiếng tốt, những gì là chân chính, những gì là thánh thiện, những gì là đáng mến, như bài đọc trích của thánh Phaolô trong thánh lễ kính ngài.[175] Bởi thế, Don Bosco muốn trở nên và đã trở nên thật sự là linh mục trong cách sống và trong lời nói, trong hành động và trong cầu nguyện.

Ở đây không trình bày sự mẫu mực linh mục của Don Bosco trong việc thực thi các nhân đức: việc phong thánh đã bảo đảm điều đó, rằng ngài đã thực thi ở mức độ anh hùng. Lúc này chúng ta giới hạn trong việc làm nổi bật quan niệm của ngài về sự gương mẫu mà phẩm chức linh mục phải có. Tôi có thể nói ngài đã làm điều này  trong một hình thức độc đáo và duy nhất vào năm 1866. Khi chính quyền của nước Ý mới còn đang ở tại Firenze, ông thủ tướng mời ngài tham gia cơ quan trung gian tại toà thánh với Đức Pio IX để giải quyết một số vấn đề khó khăn. Vị thánh, trong nỗi hy vọng có thể phục vụ Giáo hội, chấp nhận lời mời; nhưng khi trình diện ông thủ tướng, biết được mình đang tiếp xúc với ai, nên trước khi đi vào trong công việc, ngài không sợ tuyên bố với ông việc rút lui: “Thưa ngài, xin biết cho rằng Don Bosco là linh mục khi ở bàn thờ, là linh mục khi giải tội, là linh mục giữa các thanh thiếu niên, là linh mục ở Torino, và cũng là linh mục ở Firenze nữa, là linh mục tại nhà của người nghèo, cũng như là linh mục tại dinh thự của vua và các bộ”.

Ngạc nhiên nhìn thấy và nghe ngài nói! Ngài có thói quen nói chậm rãi, với một sự nghiêm chỉnh dịu dàng, mỗi lời đều có trọng lượng của nó; và lần này cũng thế. Chúng ta không tưởng tượng được sự ngạc nhiên của ông bộ trưởng, ông vội vàng trấn an ngài. Nếu như ông ta đã nhục mạ ngài, thì chắc là Don Bosco với sự chân thành và đơn sơ của mình sẽ trả lời ông, như ngài đã trả lời người khác: “Xem ra ngài ngạc nhiên vì lời tôi, đó là vì ngài chưa bao giờ có dịp nói chuyện với một linh mục công giáo”.

Linh mục, theo như một khẩu hiệu mà Don Bosco thường hay lập lại, luôn luôn luôn là linh mục, và điều này phải được tỏ ra trong mọi hoàn cảnh. Sáu năm sau khi chịu chức, trong số các kỷ niệm tuần phòng, ngài ghi lại một câu của thánh Gioan Crisostomo: “Linh mục là người lính chiến của Đức Kitô”. Và ở điểm này, người lính luôn là người lính, tức là luôn sẵn sàng phục vụ.

Một ý niệm khác mà Don Bosco có về chức linh mục có thể được rút ra từ những diễn tả của ngài. Luôn trong sự khiêm nhường ngài vui nhận những dấu hiệu danh dự mà ngài nhận được từ khắp mọi nơi, cả từ những đám đông dân chúng trong các cuộc hành trình của ngài. Tại sao? Ngài nói: bởi vì những bày tỏ đó không hướng tới cá nhân, nhưng tới dấu ấn  linh mục và do đó hướng tới Giáo hội và đức tin.

Một ngày nọ, ngài là khách của một gia đình qúi tộc Torino, khi nghe người ta ca tụng, ngài để mặc họ nói và sau đó ngài trả lời: “Tôi hài lòng vì thấy người ta qúi trọng chức linh mục, vì những gì người ta nói tốt về linh mục, tức là về phẩm chức và về đức hạnh của linh mục, những điều mà linh mục phải có, và người ta sẽ không bao giờ nói cho đủ”. Lần khác ngài bộc phát tâm tình của mình. Vào trong một nữ tu viện cùng với một linh mục bạn, sau khi thầm đọc kinh: Lạy Chúa, xin gìn giữ tâm hồn và thân xác con trong sạch trước mặt Chúa, để con không bị ngã qụy, ngài nói với cha bạn: “Anh thấy không, một linh mục trung tín với ơn gọi là một thiên thần, và người không như thế sẽ là gì nhỉ? Người ấy trở thành một kẻ khốn khổ và bị khinh bỉ đối với mọi người”. Bởi thế, là tự nhiên khi ngài tôn kính nơi người khác phẩm chức linh mục; thật vậy đối với các linh mục ngài tỏ dấu kính trọng và khi biết có ai không kính trọng họ, ngài đau đớn tới rơi nước mắt và muốn dấu kẻ đó khỏi mắt mọi người. Với biết bao tình bác ái ngài đã nhận để tái ổn định cho những linh mục bất hạnh mà các giám mục gởi gắm ngài! Chúng ta sẽ nói tới điều này sau.

Qủa là đáng tiếc nếu người ta không thu thập được đầy đủ những bài giảng của ngài cho các linh mục trong các tuần phòng. Sắp xếp lại từ một ít những bài tóm còn sót lại, người ta đoán ra được sự hiệu lực, bởi vì ngài phải nói từ sự tràn đầy của tâm hồn. Một lần khi trò chuyện với một linh mục, ngài thốt lên: “Tôi rất hài lòng vì là một linh mục!”. Ngài nói điều đó, bởi vì ngài nghĩ một cách khiêm tốn rằng bậc sống linh mục mà ngài ôm ấp, ngài đã có thể gìn giữ được nó trong giai đoạn đầy khó khăn đối kháng;[176] nhưng là linh mục tạo nên trong ngài một sự luôn luôn mãn nguyện, như thể đó là danh hiệu danh dự lớn nhất của ngài, cái danh hiệu mà ngài không bao giờ bỏ quên trong các cuốn sách, trong thư từ, điều mà lúc đó không phải là thông lệ.

Ai là người mang tính linh mục hơn ngài khi nói năng? Chúng ta có thể với sự chắc chắn luân lý cho rằng Don Bosco không phải tính sổ với Thiên Chúa về những lời nói vô bổ. Về Don Bosco nhà giảng thuyết chúng ta đã nói khá nhiều trong chương mười hai; về những đề tài khác được bàn trong các chương mười ba và mười sáu. Nhưng tình yêu linh mục đối với các linh hồn, điều ngài tỏ ra nơi tòa giảng, trong phòng và trong sân chơi, ngài luôn có ở bất cứ nơi đâu.

Trong nhà cũng như khi ở ngoài, khi làm việc hay tham dự các cuộc nói chuyện vui vẻ, các người ở quanh đều cảm thấy sự hiện diện của người linh mục, thường xuyên nghĩ về Thiên Chúa và sự vĩnh cửu, bởi vì biết mình phải là muối và ánh sáng.[177] Tại Pháp, một bá tước hiểu được điều đó, đứng trước một vòng những người qúi phái, ông không kìm được khỏi thốt lên: Don Bosco prêtre toujours. Các tư giáo trẻ và các linh mục của Nguyện xá hiểu được giá trị của những lời của ngài, họ không chỉ trân trọng, nhưng còn ghi lại chúng trong các cuốn tập, một số đã đến được với chúng ta.

Về hoạt động linh mục của ngài tôi dã trình bày khá nhiều; tuy nhiên thêm một vài nhận định khác có lẽ không là qúa. Lời tuyên bố trích dẫn bên trên trình bày cho chúng ta hoạt động đó. “Linh mục khi ở bàn thờ”. Chúng ta đã thấy ngài cử hành thánh lễ như một thiên thần sốt mến. “Linh mục khi giải tội”. Ngài cảm thấy là linh mục nhất là khi tái sinh các linh hồn trong ân sủng; cái gì đã làm nảy sinh nơi ngài tâm tình này, một ít trang trong chương mười đã nói cho chúng ta tạm đủ. “Linh mục khi ở giữa thanh thiếu niên”. Ngài yêu mến các thanh thiếu niên của ngài biết chừng nào! Ngài thú nhận trong lời tựa cuốn Người thanh niên biết dự phòng: “Chỉ cần các con là người trẻ, đó là lý do cha yêu mến các con”. Ngài yêu mến chúng như là một linh mục. Cũng trong cuốn sách đó ngài thêm: “Các con khó tìm được ai yêu các con hơn cha trong Chúa Giêsu Kitô”. Và ngài chứng tỏ điều đó như là linh mục, không miễn chước cho mình những mệt nhọc, đau khổ và hy sinh đủ mọi loại và trong mọi lúc vì lợi ích linh hồn chúng. Ngài cư xử với chúng như là linh mục.

Phương châm mà ngài luôn giảng và thực hành là phải làm sao đừng bao giờ để một thiếu niên gặp chúng ta khi ra về không hài lòng. Ngài nói với chúng như là linh mục. Cứu rỗi linh hồn chính là cốt lõi của các cuộc nói chuyện chung cũng như riêng tư. Đó chính là lời đầu tiên khi ngài tiếp nhận một học sinh, là lời cuối cùng khi chia tay em, lời tìm được nơi ngài sự hiện thực.

“Linh mục khi ở Firenze cũng như khi ở Torino”. Nghĩa là ở bất cứ nơi đâu, trong mọi hoàn cảnh. Trong các hành trình của ngài trong nước Ý, Pháp và Tây Ban Nha, sự thán phục chung của dân chúng đối với ngài như người làm cac phép lạ không lấn át sự kính trọng ngài như là một linh mục thánh thiện, điều mà dân chúng cũng nhận ra khi lại gần ngài; bởi thế họ kéo nhau tới để dự thánh lễ ngài cử hành, để nghe lời ngài nói, để giải bày lương tâm cho ngài. Năm 1833 khi từ Paris trở về, ngài nói rằng đã phải giải quyết rất nhiều trường hợp, từng trường hợp cũng đáng để thực hiện cuộc hành trình đó.

“Linh mục với người nghèo”. Cũng như Chúa Giêsu ưu ái hơn đối với những người nghèo và giữa đám con cái của người dân nghèo giống như Ngài, ngài chọn các môn đệ. Thế thì ai lại không biết, nói về Don Bosco là nói về giới trẻ nghèo sao? Khi kể lại rằng chẳng có em nào thiếu thốn mà khi tới với ngài lại không nhận được giúp đỡ nào đó, nhà viết sử kết luận với một câu ý vị: “Don Bosco nghèo như thế, nhưng lại quảng đại như một ông vua”. Trong các dấu hiệu về sứ mệnh của mình, Đấng thiên sai chỉ ra: tin mừng được rao giảng cho người nghèo khó; người linh mục là linh mục hơn khi theo sát gương mẫu thần linh khi rao giảng tin mừng cho người nghèo.[178]

Là linh mục đối với những người có thế gía. Tôi xin được tóm lại câu theo sau câu nói về người nghèo trong lời tuyên bố tại Firenze để bao gồm những gì ngài diễn tả và những gì được hiểu ngầm trong đó. Câu nói lúc đó không xác định phân loại. Nhưng giữa người nghèo và các vua chúa, không chỉ có các bộ trưởng; có chỗ cho cả các người lớp người khác nữa, chẳng hạn như người giàu có và những người học thức. Don Bosco quen với nhiều người giầu về của cải cũng như kiến thức. Tại cửa nhà những người giàu có, ngài gõ cửa, gõ cửa không ngừng. Ngài nhận được rất nhiều. Có lòng biết ơn sâu xa, nhưng trong tư cách linh mục, nghĩa là ngài không là kẻ quỵ lụy kẻ có tiền. Thật vậy, ngài theo nguyên tắc này: “Chúng ta cũng làm việc bác ái cho người giầu nữa, giúp họ tuân giữ luật Chúa điều gì dư thừa, thì hãy đem mà bố thí.[179]

Đối với những người giầu có bủn xỉn nô lệ cho của cải chính ngài cũng cho họ của bố thí thiêng liêng qúi giá. Đên độ một ông Do thái giàu có kia, vốn ao ước được biết Don Bosco và đã được toại nguyện, khi ra khỏi Nguyện xá ông nói rằng, nếu trong mỗi thành phố mà có được một Don Bosco, thì tất cả thế giới này sẽ hối cải. Một ông Do thái giàu có khác nói với hội các rabbin rằng ông đã hai lần ở chỗ Don Bosco và sẽ không trở lại đó lần thứ ba, bởi vì có lẽ phải ở lại đó với ngài. Từ hai nhận xét này, dễ dàng thấy rằng cả hai đều nhìn Don Bosco không chỉ nơi tấm áo, nhưng còn nơi tâm hồn linh mục.

Nếu ngài không nịnh bợ những người giầu, thì với những người học thức ngài cũng không phục lụy họ. Ngài cũng có kiến thức của mình, đó là hiểu biết Kinh thánh mà vốn phải là kho kiến thức của các thừa tác viên thánh, và ngài phân phát cho kẻ muốn cũng như cho kẻ không muốn. Một luật sư ngoại quốc nổi tiếng kia, một người tài giỏi khi bảo vệ quyền lợi của Giáo hội, sau khi tìm được lý lẽ từ Thánh vịnh về hoạt động bảo vệ Giáo hội của mình, ông cảm thấy bị chất vấn bởi câu hỏi này của Don Bosco: “Thưa ngài, đạo giáo mà ngài đang bênh đỡ một cách đáng tôn vinh, ngài cũng thực hành chứ?”. Người kia cảm thấy lúng túng, tìm cách thay đổi đề tài, nhưng Don Bosco cầm chặt lấy tay ông và nài ép: “Đừng trốn chạy, xin hãy trả lời: đạo giáo mà một cách công khai ông bảo vệ rất tốt đó, ông cũng thực hành chứ?”. Qủa là cú đánh động do ân sủng cho người đối thoại, vì ông này hầu như không còn tin ở bí tích giải tội nữa.

Sau bữa ăn khi chia tay ra về với một gia đình qúi phái kia, Don Bosco trước đó đã nói với từng người những lời tốt lành, trừ ra với một vị tướng, cũng là khách mời như ngài. Là một người có học, nhưng dửng dưng trong vấn đề đức tin, vị tướng già kia cũng xin ngài vài lời để làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ vui vẻ hôm ấy. Vị đầy tớ Chúa nói: “Xin hãy cầu nguyện cho tôi, thưa ngài đại tướng, xin hãy cầu nguyện để Don Bosco nghèo khổ này được cứu rỗi linh hồn”. Ông tướng kia liền trả lời: “Sao lại thế, tôi mà lại cầu nguyện cho cha à! Tốt hơn, cha nên gợi ý cho tôi một lời khuyên tốt”. Don Bosco yên lặng một lát như thể để tập trung tư tưởng, rồi ngài trả lời trong một sự xác quyết rất bình thản: “Thưa ngài đại tướng, ngài hãy biết rằng ngài còn phải chiến đấu một trận lớn nữa; nếu ngài thắng, tất cả đều sẽ may mắn… Đó là trận chiến vì phần rỗi linh hồn”. Các người có mặt đều sửng sốt; nhưng vị tướng đó kêu lên rằng chỉ mình Don Bosco mới dám nói một cách chân thành như thế.

Cuộc đàm thoại của ngài với vị công tước bảy mươi tuổi Cibrario, một nhà viết sử theo phái tự do khá nổi tiếng và là một bộ trưởng, làm chúng ta cảm động. Cuộc đối thoại kết thúc với những lời đầy tính linh mục: “Thưa ngài công tước, ngài biết rằng tôi rất qúy mến ngài, tôi nuôi một sự kính trọng đặc biệt đối với ngài. Như ngài nói, cuộc sống ngài không thể kéo dài lâu nữa, xin ngài trước khi chết có một vài chỉnh đốn trước mặt Hội thánh”.

Ở Paris, Paolô Bert tới thăm ngài, ông đã là bộ trưởng bộ giáo dục, ngài chuyển sang nói về đời sống vĩnh cửu và từ từ dẫn ông duyệt xét lại lập tức một cuốn sách của ông về luân lý cho các trường học, trong đó có những câu ông viết hơi qúa đáng. Cũng ở Paris, cuộc đối thoại với Victor Hugo mang đầy kịch tính! Chúng ta có bản văn, soạn thảo theo lời kể của Don Bosco và ngài đã xem lại. Khi vào cuộc đối thoại nhà văn lãng mạn nổi tiếng này có những tư tưởng hoàn toàn khác, sau cuộc đối thoại đầy suy tư về mầu nhiệm cõi bên kia nấm mồ.

Don Bosco đã làm nhiều chuyện với các người có quyền hành. Kính trọng quyền bính, nhưng khi tiếp xúc với họ, ngài không để quên quyền linh mục của mình. Ông bộ trưởng Urbano Rattazzi đã nghiệm được điều đó một lần khi hỏi ngài liệu ông có lãnh vạ tuyệt thông do những hành vi của cầm quyền không, sau đó ba ngày ông nhận được câu trả lời sau: “Tôi đã xem xét câu hỏi, tôi đã tìm kiếm, đã nghiên cứu để có thể thưa với ngài là không mắc vạ, nhưng tôi đã không thành công làm việc này”. Người hãnh diện chủ trương tự do kia tỏ lòng cám ơn ngài về câu trả lời, tuyên bố với ngài rằng ông ủng hộ ngài, vì ông thấy sự rõ ràng của ngài.

Năm 1874 tại Roma, từ văn phòng của bộ trưởng bộ nội vụ đi ra, ngài thổ lộ với một người thân tín rằng ngài đã thưa những khó khăn với ngài bộ trưởng, và không phải là không có kết qủa. Hai năm sau tại Lanzo Torino khi khánh thành đường sắt, trường Salêdiêng được chọn làm nơi tiếp đón chính quyền. Hôm đó có ba bộ trưởng danh tiếng và nhiều nghị viên và đại biểu, tất cả đều là những người có tiếng theo chủ trương tự do. Don Bosco cũng có mặt. Trong giờ giải lao thư giãn khá dài, ngài từ từ trở thành trung tâm của cuộc trao đổi; nhờ điều này ngài lèo lái cuộc tán dóc của quí ông đó sang những suy tư hữu ích, những suy tư về tôn giáo mà họ từ lâu rồi không được nghe.

Nhưng ngay cả đối với những người còn có quyền chức hay đã hết, Don Bosco trong những năm trước đó, cũng không ngần ngại cho họ những chân lý cứu độ. Đối với triều đình Napoli, đang bị lưu đầy tại Roma, nhắc tới những lỗi lầm mà những chức bậc của họ đã gây ra cho Giáo hội, ngài khuyên họ hãy sống phó thác, vì chương trình của Chúa Quan phòng không phải là điều họ ao ước.

Trước đó nữa, sự qúi mến và tôn kính đối với các vua Sabaudi đã không ngăn được ngài lên tiếng để kéo nhà vua ra khỏi những bước sai lầm. Không may việc đó không có kết qủa; nhưng sau đó vua Vittorio Emanuele nói với đức tổng giám mục Genova, người trước đó đã làm thầy giáo trong triều đình, rằng ông tỏ lòng kính trọng sự chân thành linh mục của ngài và nói rằng Don Bosco quả thật là một linh mục thánh thiện. Như thế Don Bosco tuân thủ lời dạy của thánh Phaolô: hãy trả cho mỗi người điều thuộc về họ… sự kính trọng, đối với người phải kính trọng,[180] ngài không bao giờ nói một lời bất kính, và muốn các con cái ngài phải kính trọng quyền bính được thiết lập; nhưng về những điều phải phê phán thời cuộc, ngài luôn đứng trong phẩm cách linh mục.

Nếu Don Bosco là linh mục với tất cả mọi người, thì ngài cũng là linh mục đối với các bề trên và anh em trong chức linh mục. Ngài là linh mục với Đức thánh cha. Cách xử sự của ngài đối với vị Đại diện Chúa Kitô không thể nào phù hợp hơn nữa. Ngài vạch ra chương trình của mình như sau: “Yêu mến Đức thánh cha, tất cả cùng vời Đức thánh cha, vì Đức thánh cha”. Từ tiền đề này, các hệ lụy xuất phát cách tự nhiên. Ví dụ đối với thanh thiếu niên: “Khi các con thấy một tác giả viết không tốt về Đức thánh cha, các con hãy biết rằng cuốn sách đó không nên đọc”. Một hệ luỵ khác đối với một số người chất vấn ngài về sự sát nhập bằng bạo lực các tỉnh tại Roma: “Như là một công dân, tôi sẵn sàng bảo vệ tổ quốc ngay cả đến độ hy sinh mạng sống; nhưng như một Kitô hữu và một linh mục, tôi không bao giờ chấp thuận điều này”.

Đức giám mục Manacorda thuộc vùng Fossano, một người biết rõ Don Bosco, làm chứng trong diễn văn tang lễ: “Trong số các người đến gần ngài, chẳng có ai nghe thấy một lời nào của ngài mà không đượm vẻ dễ dạy như của một đứa trẻ ngây thơ đối với Đức thánh cha”. Chúng ta đã đề cập đến những tuyên bố của ngài về điều này trên giường chết.

Là linh mục đối với các giám mục. Ngài tôn kính nơi các vị và làm cho người ta tôn kính sự tròn đầy của chức linh mục. Những bằng chứng sáng ngời về sự tôn kính mà ngài tỏ ra cho các vị mục tử của Giáo hội bị bách hại: Đức tổng giám mục Torino, Fransoni trong thời kỳ bị cầm tù và lưu đầy; đức hồng y De Angelis, giám mục Fermo; và giám mục Guastalla, Rota bị kết án cưỡng bách giam tại gia ở Torino. Don Bosco coi việc tiếp đón một giám mục trong Nguyện xá được là một sự may lành. Ngài loan báo, ngài đón tại cổng, ngài giới thiệu cho các thanh thiếu niên, ngài đi theo giám mục với đầy sự chăm chú. Trong sắc lệnh công bố nhân đức anh hùng có một mục nhỏ ngắn ám chỉ về những khó khăn xảy ra giữa Don Bosco và tổng giám mục Gastaldi: lịch sử cho thấy ngay cả trong hoàn cảnh không thể tin nổi đó, ngài vẫn tỏ ra mình là linh mục đối với giám mục của mình.

Là linh mục đối với các linh mục. Phẩm vị linh mục được kính trọng ngay nơi bản thân ngài, ngài cũng kính trọng nó nơi những người khác. Biết bao sự thân tình đã luôn luôn có giữa các linh mục của Nguyện xá! Nhưng Don Bosco không bao giờ quên mình là linh mục cùng với họ, không bao giờ quên nhìn đến các linh hồn. Trên môi ngài thỉnh thoảng bộc phát tùy theo trường hợp những phương châm khác nhau: “Linh mục phải khao khát phần rỗi các linh hồn, nhưng trước hết phải lo cứu lấy linh hồn của chính mình… Một linh mục không bao giờ lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình… Đang khi cứu rỗi, hãy cứu chính con”.

Bao nhiêu kính trọng ngài tỏ ra trong tương quan đối với các cha xứ! Nhưng ngài đau khổ biết bao khi nghe có linh mục nào đó làm ô danh chức thánh của mình! Ngài không thất vọng để mình kêu than cách vô ích. Với đức ái tế nhị, khi thì dùng sáng kiến riêng, khi thì do sự gởi gắm của các đức giám mục, ngài dấn mình vào để tái ổn định họ, khuyên nhủ họ, trao đổi với họ lâu giờ, giúp đỡ tiền bạc, tiếp nhận họ ở với ngài trong một thời gian nào đó. Một cách thánh thiện ngài còn đi tìm kiếm các linh mục hay linh mục đã xuất đang đi theo con đường chính trị hay chống đức thánh cha với mục đích duy nhất là giúp họ suy nghĩ lại. Linh mục dòng tên và là nhà thần học nổi tiếng tên Passaglia, đã hồi tục, nói rằng Don Bosco có tất cả mọi đặc sủng của Thánh Thần ban, ông tránh gặp Don Bosco vì sợ bị ngài đánh bại.[181] Ngài đã hy vọng hoán cải cả vị cựu kinh sĩ Gioberti. Ngài cùng với nhà thần học Borel đã tới thăm ông, ngài hỏi thăm chuyện linh hồn, đi vào vấn đề nhức nhối; nhưng toan tính bác ái và mục tử đó thất bại đứng trước sự cao ngạo của con người.[182] Nhưng ngài đã đưa một số linh mục lạc đường trở về với phẩm chức linh mục. Về lòng nhiệt thành của ngài trong việc đào tạo các linh mục chúng ta đã đề cập tới rồi.

Cả hoạt động viết lách phong phú của ngài cũng thuộc về hoạt động linh mục: vấn đề đã nói trong chương mười hai. Tôi trình bày ở đây một nguyên tắc viết của ngài, để chúng ta thấy cảm thức linh mục của ngài tế nhị biết bao khi viết. Cắt nghĩa cho các Salêdiêng về cuốn Lịch sử Giáo hội của ngài, ngài nói: “Cha không viết cho các người học thức, nhưng cho dân chúng và cho các thiếu niên. Nếu khi thuật lại một sự kiện không tốt và đối kháng, cha gây nên xáo động cho đức tin của các linh hồn đơn sơ, thì không phải là dẫn họ vào chỗ sai lầm sao? Nếu cha trình bày cho một tâm trí ít học khuyết điểm của một dòng tu, không phải là cha đã làm nảy sinh nơi người ấy những nghi vấn đối với toàn thể cộng đoàn đó sao? Vậy thì đó không phải là sai lầm sao? Chỉ có người nhìn tất cả lịch sử hai ngàn năm, mới có thể thấy rằng tội lỗi ngay cả của những con người thế giá nhất không hề làm lu mờ sự thánh thiện của Giáo hội, nhưng là bằng chứng cho thấy tính cách thần linh của nó… Trong cái tuổi mỏng dòn, những ấn tượng nhận được do những lời nói bất cẩn thường mang tới những hậu quả đáng than khóc về đức tin và về đức hạnh”.

Vị thánh thiên thần nói rằng ai làm những việc của Chúa Kitô thì phải luôn ở cùng Đức Kitô. Không ngờ gì đó là một nguyên tắc tuyệt hảo của nghệ thuật tôn giáo; nhưng còn là luật căn bản hơn nữa cho thừa tác vụ linh mục, tức là, ai muốn hình thành Đức Kitô trong các tâm hồn, thì người ấy phải sống thường hằng với Đức Kitô.[183] Don Bosco có lẽ qủa là một sự bí ẩn lớn, nếu chúng ta nghi ngờ rằng sự hiệu lực kỳ diệu trong chức linh mục của ngài đến từ một nguồn khác không phải là sự kết hiệp cuộc sống với Đức Giêsu Kitô, Đấng mà ngài muốn và đã là một thừa tác trung thành.

Rồi cũng có người, ấn tượng vì khối lượng khổng lồ biết bao công việc mà Don Bosco đã làm, nên đã thưa với Đức Pio XI rằng khi nào Don Bosco có thể kiếm ra giờ để hồi tâm cầu nguyện; nhưng Đức thánh cha là người biết rõ Don Bosco, trả lời một cách sâu sắc rằng tốt hơn đừng nên tìm khi nào Don Bosco cầu nguyện, nhưng nên tìm xem khi nào ngài không cầu nguyện. Nếu muốn nói rằng ngài không dành lâu giờ để nguyện ngắm như các thánh khác, thì điều này đúng; nhưng cũng đúng điều thánh Têrêsa nhắn nhủ: “Hãy tin tôi, không phải cầu nguyện lâu giờ làm linh hồn tiến bộ; nếu như dành nhiều giờ cho những việc bác ái hoặc vì vâng lời, tình yêu của người đó sẽ bừng cháy lên trong chỉ ít phút, hơn là sau nhiều giờ nguyện ngắm. Tất cả phải xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa”.[184]

Tới đây phải nói tới điểm thứ tư, việc cầu nguyện; thế nhưng điều này đã được nói không biết bao nhiêu lần trong cuốn sách này. Dầu vậy tôi mong muốn nhấn mạnh trên tính chất độc đáo mà nhiều lần đã nói tới trong cách cầu nguyện của ngài. Thực ra nét độc đáo này không phải là của riêng ngài, nó đã có trong truyền thống giáo lý và thực hành cổ xưa. Chẳng hạn như, suy tư của thánh Grêgorio Cả, ngài đã viết nhiều trang rất thâm sâu về sự chiêm niệm phải gắn liền với tình yêu hoạt động.[185] Một đoạn văn viết ra đúng là cho chúng ta, trong đó ngài nói: “Đức ái của chúng ta phải được thiêu đốt bởi tình yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân, làm sao để sự yên hàn của chiêm niệm về tình yêu Thiên Chúa không làm tâm trí chúng ta quên lãng đức ái đối với tha nhân, và cũng không muốn bận tâm phục vụ tới độ làm tàn lụi trong mình ngọn lửa của tình yêu vĩnh cửu đó”. Don Bosco đã sống như thế: nơi ngài hoạt động hăng say không tách rời khỏi sự chiêm niệm mãnh liệt.

Bởi thế, ngài thực hiện nơi mình cách tuyệt hảo tình trạng được thánh Bernardo diễn tả khi ngài kết luận rằng sự chiêm niệm phải thu tư tưởng, tình yêu và năng lực về một mối, và do sự tràn đầy nó phải biến thành hành động. Tất cả những điều này phù hợp với nhận định của một tác giả tu đức hiện vẫn còn sống, ông này nhận ra nơi Don Bosco “một sự thống nhất hoá giữa cầu nguyện và chiêm niệm”, đến nỗi rằng có thể đuợc gọi là “một sự chiêm niệm hoạt động”.[186]

Ý tưởng về sự thánh thiện linh mục của Don Bosco chiếm lĩnh tâm trí của Đức Pio XI, khi ngài nói chuyện với một nhóm đông đảo các chủng sinh: “Năm thánh kết thúc với hình ảnh của một linh mục vĩ đại, người có một ý thức hoạt động chân chính, rằng mình là dụng cụ của ơn cứu độ, đặc biệt cho giới trẻ sống trong nguy hiểm và nghèo khổ”. Chuyển sang ý nghĩ của mình, ngài giải thích vị tân hiển thánh phải được đưa lên làm gương mẫu cho các linh mục tương lai, tức là những người đang lắng nghe ngài, như thế nào.[187] Bởi thế Don Bosco là và sẽ còn là mẫu gương cho các linh mục, tiêu hao sức lực mình hằng ngày vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn; bởi vì ngài thực sự là một viên ngọc của hàng tư tế, như Giáo hội gọi trong thần vụ ngày lễ thánh Martino thành Tours.

Nếu Don Bosco là viên ngọc của các linh mục, điều này không có nghĩa là chỉ đối với các linh mục ngài mới được coi như mẫu gương. “Đức thánh cha của Don Bosco”[188] trong rất nhiều buổi tiếp kiến chung sau cuộc phong chân phước và phong hiển thánh, khi ngỏ lời và phân phát ảnh của chân phước và tân hiển thánh cho nhiều lớp người khác nhau, ngài luôn tìm thấy một khía cạnh nào đó đặc biệt thích hợp để trình bày cho họ bắt chước. Ngài làm điều này mà không phải vận dụng suy tư biện chứng nào, nhưng với những nhận xét cụ thể tự nhiên và thực tế từ cuộc đời Don Bosco.

Sau khi rảo qua các tường trình, dường như chúng ta thấy sự thánh thiện của Don Bosco có thể nói được, là một sự thánh thiện bách khoa, nghĩa là có tính cách phổ quát. Sự hứng khởi khắp thế giới khi chào đón sự kiện nâng ngài lên bàn thờ đã chứng minh điều đó; sự tôn kính ngài phổ biến khắp mọi dân tộc và sự sùng kính ngài nơi mọi tầng lớp dân chúng cũng chứng minh điều này.

Ngài qủa thật là vị thánh của mọi người.

MỤC LỤC

TIỀN ĐỀ 1

DẪN NHẬP 4

Chương I: TRONG GIA ĐÌNH 10

Chương II: TẠI TRƯỜNG HỌC 17

Chương III: TẠI CHỦNG VIỆN 26

Chương IV: KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG 36

Chương V: GIAI ĐOẠN HAI TRONG SỨ MẠNG 41

Chương VI: ƠI ỔN ĐỊNH ĐỂ THỰC HIỆN SỨ MẠNG 48

Chương VII: THỜI KỲ SÁNG LẬP 59

Chương VIII: TRONG NHỮNG LÚC GIAN TRUÂN 78

Chương IX: NHỮNG ĐỐI KHÁNG MỌI MẶT 88

Chương X: VỊ GIẢI TỘI 99

Chương XI: NHÀ GIẢNG THUYẾT 107

Chương XII: NHÀ VĂN 113

Chương XIII: NHÀ GIÁO DỤC 121

Chương XIV: CON NGƯỜI CỦA ĐỨC TIN 137

Chương XVI: VỊ TÔNG ĐỒ ĐỨC ÁI 147

Chương XVI: ƠN SOI SÁNG 161

Chương XVII: CÁC GIẤC MƠ, THỊ KIẾN, XUẤT THẦN 173

Chương XVIII: ƠN CẦU NGUYỆN 188

Chương XIX: TRONG BUỔI HOÀNG HÔN YÊN BÌNH 202

Chương XX: VIÊN NGỌC CỦA HÀNG TƯ TẾ 214

MỤC LỤC 227

dịch từ “Don Bosco con Dio”
Roma, Editrice SDB, 1988
xong ngày 7 tháng giêng 2005,
Roma, áp lễ Hiển linh
 Giuse Đỗ Đức Dũng SDB

 ______________________________________

[1] Gal 2, 19.

[2] Gal 2, 20.

[3] Phil 3, 20.

[4] Theo nghĩa chung, lời cầu nguyện là ascensus mentis in Deum (thánh Gioan Damasceno, De fide orth., III, 24) và là mentis ad Deum afectuosa intentio (thánh Agustino, Ser. IX, 2).

[5] Prat. The!ologie de St. Paul, vol. II, 1. VI, 3, 5. Beauchesne Paris.

[6] Lemmens, Vita di S. Bonaventura, p. XIV. Soc. “Vita e Pensiero”, Milano 1921.

[7] Cfr. D. Eusebio Vismara, Don Bosco, il santo dei tempi moderni, in virt e glorie di S. G. Bosco, discorsi raccolti da D.G. Favoni, Torino, S.E.I., 1934, p. 328. Là một sự trình bày hệ thống, nhưng đầy đủ và chặt chẽ về đề tài.

[8] Act 1, 1.

[9] In Cant., Ser. XVIII, 3: Si sapis, concham te exhibebis et non canalem.

[10] Luc 18, 1.

[11] Zacc 12, 10.

[12] Eph 3, 16.

[13] Gal 5, 19-25

[14] Gioan 12, 36; Luc 16, 8.

[15] Phil 2, 15.

[16] 2 Cor 3, 18.

[17] Gio 3, 8.

[18] Xuất bản năm 1946 (S.E.I., Torino).

[19] Tanquerey, Abrégé de Théologie ascétique, p. 1348.

[20] Gv 51, 18-19-

[21] Cuộc đời Đaminh Savio, c. VII.

[22] 1 Tim 2, 1.

[23] 1 Thes 5, 17.

[24] Gioan 14, 23.

[25] 1 Tim 4, 8.

[26] Gioan 1, 9.

[27] Tv 99,1.

[28] Mat 12, 34.

[29] 2 Cor 1, 34.

[30] Col 4, 6.

[31] Mat 19, 14.

[32] 1 Pet 8, 9.

[33] Ngày nay tên này đã được đổi là “Istituto” (viện) thay cho cái tên Rifugio (nơi nương ẩn) có vẻ thấp hèn.

[34] Sáng thế 2, 7.

[35] Ant. Redire, Đời sống thánh Vicente Phaolô, p. 242-3, Brescia, Morcellinana, 1928.

[36] Lemoyne, L. c., vol. IV, pp. 307-8.

[37] Epist. LXXXVII, 7.

[38] Direttorio ascetico, tratt. I, n. 92.

[39] 2 Cor 3, 2-3.

[40] Trong cuốn Cattolico Provedutto, viết theo sự gợi ý của Don Bosco, người ta đọc thấy giữa những phương thức để giữ được ánh sáng của sự Hiệp lễ: “Hãy lưu tâm để đừng đánh mất sự điềm tĩnh trong tinh thần, không có nó người ta chẳng có thể tốt. Để gìn giữ nó, cần phải kết hợp chặt chẽ với Thiên Chúa” (p. 507, ediz. 1888). Một tác giả nổi tiếng hiện nay nhận xét: “Người thường xuyên lo lắng và qúa chìm trong công việc, linh hồn người đó khó mà mở ra được” (R. Plus, Irradiare il Cristo. Marietti Torino, p. 29).

[41] Mat 6, 22.

[42] I Cor 10, 31.

[43][43] Luc 19, 10.

[44] De cael. Hier., 3.

[45] Tv 125, 6.

[46] Tanquerey, Tổng lược về thần học tu đức và thần bí, n. 611. Desclée, Roma.

[47] Tđcv 17, 16.

[48] Maria, sự quan phòng và sự cứu giúp của những kẻ kêu cầu Người. Phụ lục I của báo Letture Cattoliche tháng 5 năm 1865, tựa đề Lịch sử của Tòa Điều Tra (Inquisizione).

[49] Letture Cattoliche, Phụ lục II.

[50] Tv 120, 1.

[51] Giud 8, 23.

[52] Hebr 12, 2.

[53] Ioris-Karl Huysmans, Don Bosco. Patronage St-Piere, Nice, p. 13.

[54] Is 40, 31.

[55] Tv 141, 2.

[56] Rom 12, 12.

[57] 2 Cor 7, 5.

[58] Dott. Giovanni Albertotti, Chi era Don Bosco. Tiểu sử – Tâm sinh lý bệnh học – Genova, Fratelli Pala 1934, p. 83.

[59] Tv 67, 36.

[60] Institutiones, 13.

[61] Luc 10, 41-42.

[62] I Cor 6, 17.

[63] Roma 1, 14.

[64] L. c, Ibid.

[65] II Esdr. 2, 4. 8.

[66] Capitolo della Società theo cách gọi thời đó.

[67] Gia 5, 13.

[68] Luc 6, 19.

[69] L. c., p. 161.

[70] L. c., pp. 136-7.

[71] G.B. Francesia, Don Bosco amico delle anime, pp. 222-26. S. Benigno Canavese, Sc. tip. Sal. 1908.

[72] 2 Cor 2, 17.

[73] Lc 1, 77.

[74] 1 Cor 13, 1.

[75] Is 24, 16.

[76] Filotea. Introduzione.

[77] Oevres, vol XVI, p. 55. Lettera al Duca di Belgarde.

[78] S. Bonaventura, De regula novitiorum, I.

[79] Thư của Mons. Eugenio Galletti, Giám mục Alba, ngày 3 tháng chín năm 1874.

[80] Thư của Don Marenco gởi Don Gusmano, Roma, ngày 21 tháng năm 1908.

[81] Giulio Salvadori, khi xuất bản những vần thơ “Ad una poetessa” (Ricordi dell’umile Italia, p. 111).

[82] Cv 6, 4; 20, 24.

[83] Tạp chí La Civiltà cattolica. A. IV, s. II, v. III, p. 112.

[84] Công báo Ban Thượng cố vấn, số 26, p. 314 (1925).

[85] Thánh Giovanni Bosco và trường họcin Virtú, ecc. pp. 207-8.

[86] Memorie Biografiche, vol. X, p. 1018.

[87] D. F. Cerruti: Ý tưởng của Don Bosco về giáo dục và về việc dạy học và sứ mệnh hiện thời trong trường học. S. Benigno Canavese, 1886.

[88] Cf. Mem. Biogr., vol. XIX, pp. 71 và 274.

[89] Trích lá thư của Don Bonavia, salêdiêng gởi cho Don Lemoyne, London ngày 12 tháng sáu năm 1903.

[90] D. G. Barberis, Cronachetta (inedita): 27 tháng mười một 1878.

[91] Marmion, L. c., p. 166.

[92] Vita, c. XVIII.

[93] Mem. Biogr., v. V, p.713.

[94] Ivi, VI, 401.

[95] Prov. 15, 15.

[96] An phong thánh tại giáo phận. Tóm tt, p. 62 (chứng từ của Don Barberis).

[97] Mem. Biogr., vol. II, p. 26.

[98] L. c., vol. X, p. 90.

[99] Ivi, p. 42.

[100] Mem. Biogr., vol. VI, p. 381.

[101] Summarium, p. 3362 (chứng nhân Mons. Anfossi)

[102] Lá thư của Conte Arborio Mella cho con gái. Bản gốc được giữ ở tại nhà bà bá tước Terzi a Sciolze (Torino).

[103] Huysmans, L. c. , p. 1.

[104] Mem. Biogr., vol. XIX, p. 282.

[105] IIa IIae, c. CLXI, a 2 ad 2: Est quaedam dispositio ad liberum accessum hominis in spiritualia et divina dona.

[106] Diễn từ ngày 3 tháng mười hai năm 1933.

[107] Mem. Biogr., vol. IV, p. 748.

[108] Mem. Biogr., vol. XI, p. 409.

[109] Ivi, vol. XVII, p. 273.

[110] Hiến Luật của Tu hội Salêdiêng, khoản 191, §4.

[111] Phil 4, 4.

[112] C. X, về sự Khiêm tốn, khoản 6.

[113] I Gio 4, 18.

[114] III Vua 4, 29; Roma IV, 18.

[115] Cfr. S. Theol., III, q. XXVII, a. 4.

[116] Mons. Landrieux, Ev. de Dijon, Le Divin Méconnu, p. 163.

[117] Luật sư C. Bianchetti. Diễn văn đọc trong buổi tưởng niệm Don Bosco 24 tháng sáu năm 1903.

[118] Qui luật dành cho các nhà của Tu hội Salêdiêng, khoảng 763.

[119] Châm ngôn 25, 12.

[120] Mem. Biogr., vol. VI, p. 417.

[121] L. c., p. 416; cfr. p. 433.

[122] Thư của cha xứ D.E. Sacco gởi Don Rua (năm 1888).

[123] Lemoyne, L. c., vol. VI, 441.

[124] Francesia, L. c., p. 6.

[125] Tường trình của dott. D. Giov. Turchi, người mà cha Lenoyne gọi là “con người thận trọng khi tin, người phê bình khắc nghiệt” (L.c., vol. VI, p. 453).

[126] Zelle S. I. , Việc xưng tội theo giáo huấn của  các bậc thầy, p. IX, Tip. Sal., S. Pier d’Arena, 1896.

[127] Francesia, L. c., p. 84.

[128] Francesia, L.c., p. 80. Cha Lemoyne kể lại sự kiện này mà không nêu tên. Cha Francesia cho chúng ta biết thầy tư giáo đó chính là ngài, ngài thêm một chi tiết này vào trong tuờng thuật: “Tôi đã già, và ở tuổi tôi không nên giả vờ kẻo bị che cười”.

[129] Xem bài viết của nhà thần học Vaudagnotti, giáo sư lịch sử Giáo hội của đại chủng viện Torino, trong Corriere d’Italia ngày 22 tháng năm 1929.

[130] IIa IIae , q. 174, a. 1, ad 3.

[131] Cv 2, 17.

[132] Lemoyne, L.c.,vol. IX, p. 11.

[133] Can. Giacinto Ballesio, Đời sống nội tâm của Don Bosco. Diễn từ tưởng niệm.

[134] Giov. Lindworsky S.I., Thủ bản về tâm lý thực nghiệm. Galli-Gatti, pp. 111-2 và 318-9. Soc “Sự sống và tư tưởng”, Milano.

[135] Cv 10, 10-16.

[136] Về các giấc mơ của Don Bosco, cfr. Mem. Biogr., Vol. XVII, pp.7-13.

[137] Aug. Poulain, S.I., Des grâces d’oraison, XXIV, 71. xuất bản lần thứ 10. Beauchesne, Paris, 1922.

[138] Trả lời cho các đối kháng, trang 27.

[139] De can. Sanct. III, 52, 3.

[140] L.c., XXVIII, 15.

[141] Homo apost. App. I, 17.

[142] Th. A. Vallgornera, Thần học thần bí của thánh Toma, Q. IV, disp. 2, a. 2, nn. 1-8. Marietti Torino, 1889 và 1911.

[143] Don Paolo Albera không thuộc vào số các nhân chứng; nhưng lời của ngài qui chiếu tới Don Amadei trong cuộc thẩm vấn.

[144] Lá thư gởi cho hồng y chủ tịch thánh bộ Nghi lễ, ngày 27 tháng chín năm 1926, trong Phụ lục tài liệu của các trả lời trình bày về các nhân đức (1926).

[145] Diễn từ sau Sắc lệnh về các nhân đức anh hùng của Đầy tớ Chúa Domenico Savio (Mem. Biogr., vol. XIX, p. 220).

[146] Cant. 5, 6.

[147] Dc 5, 6.

[148] Tv 118, 109.

[149] Cfr. Lá thu đã trích của Don Rinaldi.

[150] Tường trình về các nhân đức, p. 972, §1.

[151] Summ. X, 39.

[152] Các đối thoại, LXXXIX, 6.

[153] Tường trình về các nhân đức., p. 589, § 183.

[154] Castello interiore, C. I.

[155] Tường trình về các nhân đức., p. 416-7, §384.

[156] L.c., p. 788, §29.

[157] L.c., p. 793-4, §47.

[158] Teotino, lời tựa, đoạn thứ ba.

[159] IIa IIae, q. 91, a. 1. ad 1.

[160] 1 Gio 4, 16.

[161] Tường trình về các nhân đức., p. 592, §3.

[162] L. c., XII, p. 1-2.

[163] Dt 12, 6.

[164] Tường trình về các nhân đức., p. 319, §§ 52 và 55.

[165] De Montmorand, do Tanquerey trích dẫn trong in Précis de Théolog. Asc. Et myst., n. 43, C. Desclée, 1924.

[166] Hello, Physionomies de Saints. St. Bernard.

[167] Hun đc thiêng liêng, p. 136. (vers. di D. G. Albera). S.E.I. Torino.

[168] Ivi, p. 138.

[169] Col. 3, 3.

[170] L. c., p. 91.

[171] Tanquerey, l. c., n. 615.

[172] D. C. Marmion, Đức Kitô ý tưởng của người đan sĩ (vers.) Padova, Antoniana, p. 84.

[173] Diễn từ trong buổi tiếp kiến ngày 25 tháng sáu năm 1922 dành cho các học sinh của trường Salêdiêng “Thánh Tâm” Roma.

[174] Giovanni Joergensen. Don Bosco. Xuất bản tiếng Ý.do D. A. Cojazzi trách nhiệm, Torino, S.E.I. 1929. p. 8.

[175] Phil 4, 18.

[176] Mem. Biogr., vol. III, p. 278.

[177] Mat 5, 13.

[178] Mt 11, 5; Lc 4, 18.

[179] Lc 11, 41.

[180] Rom 13, 7.

[181] Mem.Biogr., vol. VII, p. 175.

[182] Ivi, vol. III, p. 423 và 526.

[183] Gal 4, 19; Phi 1, 21; Gal 2, 20.

[184] Oeuvres complètes, bản dịch của các Carmelitane tại Paris. T. III, p. 109.

[185] Mor., VI, 37 (MPL LXXV, 761).

[186] Don Portaluppi, Linh đạo của Don Bosco trong “Scuola cattolica”, tháng giêng 1930.

[187] Osservatore Romano, 15 tháng tư năm 1934.

[188] Đang khi Đức Pio XI ngồi trên kiệu di về ngai toà phía trước bàn thánh tích trong cuộc tiếp kiến vĩ  đại ngày 3 tháng tư năm 1934, vang lên trong vương cung thánh đường lời tung hô: Hoan hô Đức thánh cha của Don Bosco. Đức thánh cha trong diễn từ của ngài, sung sướng nhớ lại tíêng chào đó, ngài nói: “Cha cảm thấy một nỗi vui sâu xa khi nghe kêu lên: Hoan hô Đức thánh cha của Don Bosco”.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *