Linh đạo Sa-lê-diêng: Những Chủ đề căn bản
Nhập Đề
Tôi đặt các suy tư về Linh Đạo Salêdiêng này trong khung cảnh của ba sự kiện rất ý nghĩa.
Sự kiện thứ nhất là Năm Thánh 2000. Nó kêu gọi sự hoán cải cá nhân và tập trung vào các điều kiện và đường lối để loan báo tin mừng cho thế giới đang bước vào thiên niên kỷ 3: thế giới trần tục, kỹ thuật, đa nguyên, tự do, thống nhất, và chia rẽ.
Tâm điểm suy tư là giá trị mà Đức Kitô và đức tin có thể có trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta; tiếp đến là sự ý thức về tính độc đáo đích thực mà người Kitô hữu phải đạt được, sự rõ ràng của việc chứng tá của họ, sự hiện diện của họ như là men trong thế giới. Đây là một lời kêu mời chúng ta tái khám phá ơn gọi mình trong một thế giới cần có những dấu chỉ, cần nhìn thấy và sờ thấy.
Trong bối cảnh hẹp hơn của Đời Thánh hiến, đã có một cố gắng đào sâu và ý thức về phần đóng góp chuyên biệt của thánh hiến tu trì cho sự hiệp thông của Hội Thánh và cho nền văn hoá; và đây là sự kiện thứ hai. Người ta mong đợi nơi các tu sĩ một sứ điệp và một đề nghị về linh đạo. Trong thời hiện đại được đặc trưng bởi những cảm thức tôn giáo đa dạng và việc tìm kiếm ý nghĩa, nhiệm vụ của các tu sĩ là cống hiến những mẫu gương và việc thực hành đời sống linh đạo Kitô giáo.
Đã có nhiều suy tư về nét đặc trưng của người Kitô hữu trong bối cảnh thế tục hiện nay và của người thánh hiến, người chọn con đường theo Đức Kitô một cách triệt để. Người ta đạt tới kết luận là không phải các dấu hiệu bề ngoài, cũng không phải hoạt động tông đồ hay chuyên môn là nét đặc trưng cho người tu sĩ trong thế giới, mà là lối sống họ chọn thể hiện, được xây dựng trên việc nhận ra sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa.
Trong Tu Hội đã diễn ra Tổng Tu Nghị 24 (TTN24). Trước tiên, các tỉnh dòng đã được nghe các thành viên tham dự TTN báo cáo lại về TTN này, và sau đó đã nhận được văn kiện của TTN. Chúng ta tin rằng mọi người không chỉ đã đọc văn kiện này, mà còn học hỏi nó trong các cộng thể và trong các cuộc hội họp của các giám đốc. Bây giờ đã đến lúc có lẽ là quan trọng nhất trong tiến trình hấp thu và áp dụng: các Tu Nghị Tỉnh.
TTN24 đề nghị vận dụng những nguồn lực tốt nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để mở rộng hoạt động giáo dục và mục vụ. Tuy nhiên việc này cần một điều kiện: một chất lượng tu trì, tông đồ và đào luyện tốt hơn nơi mỗi hội viên Salêdiêng và nơi các cộng thể. Cần xua tan một sự ngộ nhận: có thể sinh động hoá giáo dân mà chỉ cần dựa vào khả năng phối hợp và tổ chức của chúng ta. TTN24 đánh cuộc về khả năng “thần bí” của chúng ta trong việc truyền thông, sự hăng say trong sứ mạng giáo dục, và sự chia sẻ linh đạo Salêdiêng.
Ngoài các bối cảnh này: việc rao giảng Tin Mừng mới, việc canh tân đời thánh hiến, TTN24, còn thêm một bối cảnh có liên quan cá nhân hơn với anh em. Đời sống anh em ngày nay được đánh dấu bởi một sự kiện: anh em được mời gọi để sinh động hoá một phần, có thể là phần nhỏ nhất của Tu Hội, có ảnh hưởng tới một tỉnh dòng và xa hơn tới cả một nước. Chúa đã trao cho anh em trách nhiệm ghi dấu ấn cho một hướng đi hiệu quả đối với đời sống của Tu Hội trong phần đất này của thế giới.
Tông huấn Vita Consecrata đã giúp chúng ta quen chiêm ngắm các biểu tượng Kinh Thánh. Biểu tượng chính là biểu tượng về cuộc Biến Hình, một trang Kinh Thánh phong phú vô tận về hai khía cạnh: sự chiêm ngưỡng Đức Kitô như Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc qua cuộc khổ nạn và sự chết; kinh nghiệm đức tin và theo Chúa của các tông đồ và của mọi tín hữu.
Trong lịch sử bản thân của Đức Kitô, cuộc Biến Hình xảy ra vào lúc kết thúc cuộc rao giảng và trước khi ngài đối diện với cuộc khổ nạn. Trong lịch sử cả các tông đồ, nó được xác định như cuộc vượt qua từ một sự gắn bó tình cảm nhân loại của họ đối với ngài, sang một đức tin vững mạnh sẽ phải chịu thử thách trước cái chết của Chúa Giêsu. Đây là một thời điểm đặc biệt của sự soi sáng, được gắn liền với tiếng gọi đầu tiên theo Chúa Kitô và với tất cả các cử chỉ khác mà ngài đã dùng để xác nhận lại lời mời gọi của ngài.
Thời điểm ân sủng này hệ tại điều gì? Trước hết là sự nếm cảm một tình thân mật đặc biệt với Chúa Giêsu. Sự thân tín đặc biệt này được diễn tả qua cử chỉ Chúa Giêsu chọn ba trong số các môn đệ, cảnh thanh vắng nơi các sự kiện diễn ra, việc cầu nguyện và chính nơi xảy ra biến cố: trên đỉnh núi.
Trong sự thân mật, các tông đồ có một thị kiến thuyết phục về Chúa Giêsu trong ánh sáng của kinh nghiệm tôn giáo của dân riêng, được đại diện bởi Môsê và Êlia, và của điều mà chính họ đã sống. Đây là một sự soi sáng và một ân sủng đến từ Cha.
Các tông đồ cảm thấy ngây ngất, bị cuốn hút, bị bắt chộp bởi mầu nhiệm ấy. “Ở đây thích quá”. Chúng tôi sẽ ở lại đây luôn. Đây là một sự đặt chỗ ở dứt khoát cho mình trong cuộc đời. Sau khi đã thưởng thức ý nghĩa của việc biết và theo Đức Kitô, thì phát sinh ước muốn, lời đề nghị và nếm cảm việc ở lại với ngài.
Các tông đồ cũng có sự xác nhận thẩm quyền rằng sự thu hút này là trung thực và đầy giá trị hiện thực, chứ không phải chỉ là tưởng tượng hay chỉ là tình cảm: tiếp theo là một chỉ dẫn dứt khoát cho tương lai: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời ngài!”
Họ cũng nhận được một chìa khoá, một đuốc soi đường, để trực diện với cuộc sống hằng ngày trong đó Chúa Giêsu vinh quang ẩn mình dưới những hình dáng thông thường và thậm chí còn biến mất dưới những khuôn mặt dị dạng và những cuộc đời xấu xa.
Chúng ta đọc thấy trong Tông huấn Vita Consecrata: “Các tông đồ, sau khi đã nếm cảm tình thân mật với Thầy, và một lúc được bao phủ ánh hào quang của sự sống Ba Ngôi, bất ngờ được kéo trở về lại đời sống thường ngày, trong đó họ chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu, trong bản tính nhân loại khiêm tốn và họ được mời gọi đi xuống núi, để cùng với ngài sống sự lao nhọc của kế hoạch Thiên Chúa. . .”[1]
Với chúng ta cũng như với các tông đồ, cuộc Biến Hình là một lời mời gọi chiêm ngắm Đức Kitô một lần nữa, nếm cảm lời ngài và mầu nhiệm ngài, để rồi dấn mình vào cuộc sống lao động, trong khi biết nhận ra khuôn mặt của ngài ở mọi nơi.
Trong kho văn chương của Phong trào Thần bí Do thái giáo của Đông Âu thế kỷ XIII, chúng ta đọc thấy câu truyện sau đây. Một rabbi Do thái đang bị giam trong một nhà tù ở San Petécbua. Một hôm, trong khi ông đang chuẩn bị ra hầu toà, người trưởng trại, vốn đã trở thành bạn thân với ông, bước vào phòng giam và bắt chuyện với ông.
“Ông có thấy lạ không—anh ta nói—Thiên Chúa là Đấng Toàn Tri mà lại hỏi Ađam: “Ngươi đang ở đâu?””
Vị rabbi trả lời, “Anh tin rằng Kinh Thánh bao gồm mọi thời đại, mọi thế hệ, và mọi cá nhân chứ? Thật thế—ông kết luận—vào mọi thời Thiên Chúa đều kêu gọi mọi người và nói với họ: “Ngươi đang ở đâu?” Những ngày những năm được ban cho ông sống, ông đã trải qua nhiều rồi: trong thời gian ấy, trong cuộc đời anh và thế giới của anh, anh ở đâu? Chẳng hạn, Chúa nói, “Ngươi sống đã được bốn mươi sáu năm rồi. Ngươi đang ở đâu?”
Vừa nghe nói chính xác tuổi đời của mình, người trưởng trại cố gắng tỏ ra thản nhiên, đặt tay lên vai thầy rabbi và nói: “Tuyệt!” Nhưng quả tim anh thì run rẩy.
Có lẽ có người có thể cảm thấy câu hỏi này như một lời cáo tội hay trách móc; trong thực tế, Chúa đòi hỏi chúng ta sự hiểu biết và trách nhiệm, biết sống một nếp sống tỉnh thức để có thể tận dụng và nếm cảm sự phong phú mà nếp sống này chứa đựng.
1
đời sống trong thần khí
- một nếp SỐNG hay một dấu chỉ?
Suy tư về đời thánh hiến bắt nguồn trong lịch sử của nó với những lý do đa dạng: bảo đảm sự cứu rỗi linh hồn, trốn tránh thế gian, theo gương Chúa Giêsu trong lối sống của ngài, tìm sự hoàn thiện Kitô giáo, hiến mình hoàn toàn cho Nước Trời.
Các văn kiện chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh hai tiêu điểm: đặc sủng và thánh hiến. Điều này được diễn tả trong phát biểu của chủ đề: “Đời thánh hiến, các đặc sủng trong Hội Thánh vì thế giới.” Tu sĩ là những con người “đặc sủng.” Họ có một ơn huệ để phát triển sự sống của Hội Thánh và lo việc phục vụ của Hội Thánh cho thế giới. Họ không diễn tả điều này qua việc sử dụng quyền bính nhưng qua đời sống chứng tá và qua sự hiến mình tự do của họ.
Và họ có ơn huệ này vì họ được “thánh hiến” bởi một sự hiện diện đặc biệt của Thánh Thần và đời sống của họ diễn ra dưới sự thúc đẩy và sức mạnh của Thánh Thần.
Ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần có thể nói là đã bùng nổ trong thời đại cuối này của Hội Thánh. Bằng chứng của sự kiện này là phong trào canh tân trong Thánh Thần, hay nhiều nhóm đặc sủng và các sự nhấn mạnh trong gần như mọi văn kiện của Huấn Quyền Hội Thánh.
Đức Gioan Phaolô II tóm lược và khai triển sự ý thức này trong thông điệp “Dominum et vivificantem”. Đó là một cái nhìn về lịch sử loài người trên đường tiến tới sự hoàn thành, được thúc đẩy bởi một sức mạnh và một sự soi sáng hoạt động trong lương tâm con người: Chúa Thánh Thần. Có thể nói đây là một sự giải thích “thiêng liêng” về lịch sử, giống như người ta có một sự giải thích “kinh tế”, “tâm lý”, “văn hoá”. Thông điệp tuyên bố điều đó trong số 2: “Bằng cách ấy, Hội Thánh đáp ứng các đòi hỏi thâm sâu mà Hội Thánh cho là đọc được trong thâm tâm con người ngày nay: một sự khám phá mới về Thiên Chúa trong thực tại siêu việt của Thần Khí vô biên. . . nhu cầu thờ phụng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật, niềm hi vọng tìm thấy nơi ngài bí mật của tình yêu và sức mạnh của một ‘cuộc tạo thành mới’”.[2]
Các ‘đòi hỏi thâm sâu’ mà bản văn nói tới tương ứng với các điều kiện sống của con người thời nay.
Trước hết về phía con người, và chúng ta thấy điều này nơi giới trẻ, đó là sự tìm kiếm một ý nghĩa cho đời sống mình. Nhưng đồng thời con người khó có thể nhận ra Thiên Chúa từ những gì là vật chất, bên ngoài con người. Thiên nhiên đã bị kiến thức khoa học và kỹ thuật làm mất đi tính thánh thiêng của nó. Nó cung cấp các tài nguyên để khai thác và các hiện tượng để nghiên cứu, nhưng không khơi dậy được những câu hỏi về thực tại siêu việt. Lịch sử và các truyền thống đã bị tương đối hoá. Các cơ chế xã hội và tôn giáo đã mất uy quyền tuyệt đối của chúng. Bầu khí tục hoá không cống hiến các dấu chỉ, lý do và kích thích để gán cho đời sống một ý nghĩa trong viễn tượng sự hiện diện của Thiên Chúa và định mệnh cuối cùng của chúng ta.
Kinh nghiệm tôn giáo tự thấy mình mất chỗ đứng trong đời sống xã hội. Thế nên con người tìm kiếm những dấu vết của Thiên Chúa trong kinh nghiệm nội tâm của mình, trong những tiếng nói vang lên trong trí khôn và cõi lòng mình. Thiên Chúa ở trong tâm khảm của họ như là tư tưởng, lương tâm, quả tim, thực tại tâm lý và siêu hình. Quả tim con người là nơi kín ẩn của cuộc gặp gỡ cứu độ với Chúa Thánh Thần, với vị Thiên Chúa ẩn mình, và chính nơi đây mà Chúa Thánh Thần trở thành mạch nước vọt ra sự sống đời đời.[3]
Chúng ta ở trong thời đại ưu việt của lương tâm trong các chọn lựa liên quan tới chính đời sống mình. Tự lương tâm phải phát xuất các câu trả lời tương xứng với các thách thức luân lý lớn của thời đại chúng ta: việc xử lý sự sống, sử dụng các phương tiện truyền thông, phân phối của cải công bằng, tôn trọng nhân phẩm mỗi người, tôn trọng thiên nhiên và môi trường.
Nói về linh đạo là nói về đời sống theo Thần Khí và việc phục vụ Thần Khí trong bối cảnh hiện tại. Nghĩa là muốn nói đến ba điều: nhìn nhận và tuyên xưng Thiên Chúa hiện diện trong nhân loại; sống đời sống mình hướng tới đức ái; khẳng định trong lịch sử tính ưu việt của con người và các giá trị con người. Thực vậy, ở đây phát sinh hành động của Thần Khí.
- Chúa Thánh Thần làm gì?
Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta cảm thức về Thiên Chúa. Ngài thiết lập một sự thông truyền huyền nhiệm giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với Thiên Chúa. Tất cả những gì trong thế giới hướng tới Thiên Chúa, tất cả những gì một cách minh nhiên hay mặc nhiên khơi dậy sự hiện diện hay can thiệp của Thiên Chúa, tất cả những gì thúc đẩy con người đi tìm Thiên Chúa, đều có Thần Khí như là một lực kín ẩn.
Thần Khí làm chúng ta nhận thức điều thần linh, cho dù chỉ như là “mầu nhiệm” mà chúng ta không thể cắt nghĩa. Ngài ban cho chúng ta đồng thanh tương ứng với sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Và sâu hơn nữa, ngài làm chúng ta cảm nhận mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa như là những thụ tạo và con cái của Thiên Chúa: “Những ai được Thần Khí hướng dẫn thì là con cái của Thiên Chúa.”[4]
Ai nhận thức thế giới mà không có Thiên Chúa, thì không được Thần Khí hướng dẫn. Ai nhận thức Thiên Chúa mà không có thế giới, người ấy cũng không được Thần Khí hướng dẫn. Còn người được Thần Khí thúc đẩy là người mà khi nhìn ngắm thế giới, thì đồng thời mở lòng thờ phượng Thiên Chúa hay thậm chí chỉ đặt câu hỏi về Thiên Chúa. Cho nên đức tin tuyên bố và xưng nhận rằng Thiên Chúa là tạo hoá và là Cha. Thần Khí là ánh sáng chiếu soi mối tương quan giữa con người, thế giới, và Thiên Chúa.
Nhưng còn hơn thế nữa, Thần khí được cảm nhận trong lịch sử loài người, trong lịch sử bé nhỏ của một thành phố hay một khu phố, trong lịch sử to lớn của các dân tộc và toàn thể nhân loại. Suy tư này ngày nay thúc đẩy Hội Thánh khám phá ra những “hạt giống của Lời” trong các nền văn hoá, để hiểu được các con đường khác nhau mà các dân tộc đi theo để đạt tới ơn cứu độ.
Điều này được diễn tả rất hay trong một đoạn của “Redemptoris Missio”: “Sự hiện diện và hành động của ngài là phổ quát, không bị giới hạn trong không gian hay thời gian. . . Ngài ở chính cội nguồn của câu hỏi hiện sinh và tôn giáo của con người, câu hỏi không chỉ phát sinh từ những hoàn cảnh phụ thuộc, mà phát sinh từ chính cơ cấu hữu thể của con người.”. . . Ngài “là nguồn phát sinh các lý tưởng cao quí và các sáng kiến đem lại sự tốt lành cho nhân loại trên đường lữ hành.”[5]
Vì thế cái nhìn của con người thấy được sự hiện diện của Thần Khí trong việc tìm kiếm tôn giáo dù chỉ là mơ hồ, niềm ao ước về nhân phẩm, và các sáng kiến cao quí.
Điều này được thấy rõ trong lịch sử của Dân Riêng, là mô hình lịch sử của mọi dân tộc. Có một lúc Thiên Chúa đích thân tự mặc khải, bằng cách tỏ lộ tên ngài, sự quan hệ của ngài với loài người và kế hoạch của ngài. Sự mặc khải này của một Thiên Chúa cá vị, nhân hậu với loài người, khác với các yếu tố của thế giới, là một sự kiện có hậu quả cao hơn các khám phá kỹ thuật vĩ đại trong sự phát triển của con người. Nó đã tạo ra một bước nhảy vọt về phẩm trong ý thức con người, được giải phóng khỏi sự lệ thuộc các tinh tú và các yếu tố vật chất, đã khắc phục được sự sợ hãi những điều không biết và làm người ta cảm thấy mình được Thiên Chúa bảo vệ. Thần Khí ban cho trí khôn khả năng nhận biết tầm mức và ý nghĩa của các lời nói và các sự việc mà Thiên Chúa dùng để mặc khải ngài, và khơi dậy sự đáp ứng là mối quan hệ của con người với Thiên Chúa mà chúng ta gọi là đức tin.
Với những người có khả năng chấp nhận phép lạ hoá bánh ra nhiều nhưng không hiểu ý nghĩa của phép lạ ấy, Chúa Giêsu nói: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và sự sống.”[6] Ai dừng lại ở bình diện vật chất của các sự kiện kịch tính hay kỳ lạ thì không được hướng dẫn bởi Thần Khí; còn ai nhận ra được ý nghĩa của chúng thì được hướng dẫn bởi ngài.
Trên cơ sở của niềm tin này, Thần Khí khơi dậy một sự khôn ngoan, một hình thức suy nghĩ và sống tạo nên khuôn mặt cho một cộng đồng nhân loại, có khả năng tổ chức mọi đời sống riêng tư và công cộng xung quanh giao ước với Thiên Chúa: đó là dân Israel. Dân Israel kinh nghiệm Thần Khí như nguồn sức mạnh biến đổi từ bên trong các con người, và làm họ có khả năng thể hiện các hành vi phi thường để giải phóng dân tộc hay để củng cố dân tộc trong ơn gọi và phẩm giá. Thần Khí tự mặc khải như là linh hứng, quyền năng, nguồn sự sống, sự hiện diện giải phóng khỏi mọi lệ thuộc, hoạt động một cách không thể lường trước được. Sức mạnh của ngài được mô tả bằng hình ảnh của gió, để nói lên nguồn gốc bí nhiệm, của lửa, để nói lên quyền lực không gì có thể chế ngự. Điều nghịch với Thần Khí không phải là vật chất hay thân xác, mà là sự ù lỳ, vô hiệu quả trong lịch sử, sự cằn cỗi, sự chết, sự nô lệ. Chúng ta đọc trong kinh Tin Kính: “Tôi tin Chúa Thánh Thần. . . là Chúa và là đấng ban sự sống.”
Có ba hướng hành động mà Thần Khí tác động như là “sức mạnh” hoạt động:
— hướng thiên sai hay cứu rỗi, thúc đẩy một số người thực hiện công cuộc giải phóng; chúng ta có thể nghĩ đến xuất hành, Ghêđêôn hay Samson, những nhân vật mà người ta gọi là “bị Thần Khí Thiên Chúa bắt chộp”;
— hướng sứ ngôn, của lời soi sáng và giáo hoá: đại diện là các ngôn sứ và các bậc khôn ngoan có vai trò duy trì sống động niềm cậy trông của dân và soi sáng ý nghĩa các sự kiện lịch sử;
— hướng tư tế, cổ võ kinh nghiệm tôn giáo, việc phụng tự, cầu nguyện, phục vụ và thực tại vật chất của đền thờ.
Như vậy, Thần Khí là đấng mở ra cho chúng ta mối quan hệ với Thiên Chúa, thì cũng là đấng soi sáng cho chúng ta biết sống thế nào trong thế giới và ban cho chúng ta sức mạnh để thể hiện một kiểu sống.
- chúa giêsu, biến cố của thần khí
Nhưng nếu đúng Chúa Thánh Thần là đấng tác động về mọi phương diện, thì mặt khác cũng đúng là những ai đã nhận biết và nghe lời Đức Kitô thì biết sự hiện diện của ngài và có khả năng giải thích các dấu chỉ.
Thực vậy, hoạt động của Chúa Thánh Thần đạt tới tột đỉnh nơi con người Đức Giêsu Kitô. Các tác giả Tin Mừng giải thích toàn thể đời sống của Đức Kitô như một biến cố của Thần Khí. Họ trình bày điều này như là “con người thiêng liêng” đối chọi với con người “phải chết hay xác thịt”.
Chúa Thánh Thần can thiệp trực tiếp vào các khả năng sinh sản của Đức Maria để hình thành thân xác và linh hồn Chúa Giêsu vào chính lúc ngài được thụ thai: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà.”[7] Vì thế nhân tính của Đức Giêsu được Thánh Thần xây dựng để biến ngài thành con người thiêng liêng hoàn toàn cởi mở với Thiên Chúa và hoàn toàn phục vụ con người.
Trước khi giáng sinh và để chuẩn bị cho cuộc giáng sinh, Thánh Thần đã ban ơn dồi dào và soi sáng cho các chứng nhân của cuộc Nhập thể. Biến cố này càng bị giấu ẩn đối với thế giới bao nhiêu, Thánh Thần càng mặc khải nhiều bấy nhiêu cho những con người tham dự gần gũi vào biến cố và thúc đẩy họ tuyên xưng biến cố: Elidabét, Dacaria, Maria, Simeôn. Thế nên cho tới ngày nay, việc nhận biết mầu nhiệm nhập thể nơi những con người, những biến cố lịch sử, vẫn còn là hoạt động của Thánh Thần.
Trong Phép rửa, Thánh Thần công bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: “Sau khi Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và khi người đang cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên người dưới hình thể chim bồ câu, rồi có tiếng từ trời phán ra: Con là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con.”[8] Như thế Chúa Thánh Thần làm tỏ lộ ý thức thần linh nơi nhân tính của Đức Kitô.
Chính Thánh Thần dẫn Đức Giêsu vào hoang địa, nơi để kinh nghiệm về Thiên Chúa, về giao ước, về thử thách, về đức tin. Nơi đây ngài chiến thắng các cám dỗ điển hình của con người và của dân Thiên Chúa: cám dỗ của việc theo đuổi các nhu cầu trước mắt và tìm kiếm đời sống độc lập với Thiên Chúa, muốn bắt Thiên Chúa phục vụ mình, tôn thờ hay biến mình thành nô lệ của các ước muốn loài người hay quyền lực trần tục.
Sứ mạng của ngài bắt đầu dười sự thúc đẩy của Thánh Thần. Ngài thi hành sứ mạng với sức mạnh của Thánh Thần: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. . .”[9] Với sức mạnh Thánh Thần, ngài trừ quỉ.[10] Nhưng nhất là trong Thánh Thần phát sinh các lời nói và các tình cảm của ngài: “Đúng lúc ấy, Đức Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Thánh Thần, ngài nói: Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con ngợi khen Cha, vì đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.”[11]
Chúa Thánh Thần là ân huệ của cuộc phục sinh. Các môn đệ sống tất cả cuộc mạo hiểm rao giảng Tin Mừng và thành lập các cộng đồng trong niềm tin chắc nơi sự hiện diện của ngài. Họ thậm chí nhận biết sự hiện diện ấy một cách trực tiếp như là điều chắc chắn, là nguồn sinh lực nội tâm, là khả năng thuyết phục. Ngài đặt họ làm những chứng nhân hiệu quả và những người rao giảng can đảm.
Ngài là Thần Khí của Lời. Các môn đệ không còn cần đến sự hiện diện thể chất của Chúa Giêsu nữa. Thánh Thần nhắc họ nhớ lại những điều Chúa Giêsu đã giảng dạy. Tuy nhiên ngài không phải Thần Khí của việc nhớ lại từng chữ. Ngài làm cho họ hiểu lời loan báo của Chúa Giêsu dưới hình thức mới trong ánh sáng của các biến cố và các tình huống mới. Ngài giúp họ rút ra từ lời lời loan báo ấy sự phong phú và ý nghĩa mới. Và ngài làm như thế là để Tin Mừng không trở thành một bản văn cổ kính hay khảo cổ, mà là một nguồn ánh sáng cho hiện tại. Ngài không chỉ là Thần Khí của việc nhắc nhớ và thấu hiểu một cách mới mẻ, mà ngài còn là Thần khí của sự sáng tạo. Ngài sẽ dạy các con biết phải nói gì.
Thần Khí của Lời cũng là Thần Khí của sứ mạng. Ngài thúc đẩy các môn đệ đến với thế giới lương dân và ngài thậm chí còn đi trước họ. Trong sách Công vụ các Tông đồ, có kể lại sự kiện viên sĩ quan Cornêliô, được nhiều người coi như là “lễ ngũ tuần của lương dân”. Thánh Thần đi trước Phêrô đến nhà viên sĩ quan này. Phêrô ngần ngại đến nhà ông ta và ăn uống những thức ăn mà người Do Thái không được ăn. Nhưng sau một thị kiến và nhìn thấy Thánh Thần đổ xuống trên những người nghe bài giảng của mình, ông đã phải qui phục. Để lý giải hành động của mình trước cộng đồng Do Thái, ông nói: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”[12] “Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?”[13] Thế là Hội Thánh “thận trọng”, khi để mình ràng buộc với Do Thái giáo và sợ mở ra cho thế giới, đã buộc phải hoàn thành bước quá độ. Ngài cũng là Thần Khí của sự hiệp thông. Ngài gợi ý thiết lập các thừa tác viên mới khi một mình các tông đồ không đủ sức thoả mãn tất cả các nhu cầu của cộng đoàn. Thế là phát sinh các chức phụ tá (diaconi) và trưởng lão (presbyteri). Ngài ban dồi dào các đặc sủng mới cho các cộng đoàn. Ngài thúc đẩy các cộng đoàn ấy biểu lộ các dấu chỉ để phân biệt họ là các môn đệ Chúa Giêsu: cầu nguyện, bẻ bánh, lắng nghe Lời, bác ái huynh đệ, chia sẻ của cải. Ngài ban cho họ quyền năng không chỉ thuộc lãnh vực pháp lý, mà có quyền biến đổi sâu xa để giao hoà con người với Thiên Chúa và với người khác: “Hãy nhận lấy Thánh Thần; các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. . .”
Như thế Hội Thánh trở thành không phải một tổ chức tôn giáo như biết bao tôn giáo vốn có trước đó, chỉ để giữ các nghi thức và các lời thánh, mà trở thành sự ý thức về lịch sử cứu độ và một sức mạnh mới được ban cho để biến đổi thế giới nhờ tình yêu.
Ngay cả hôm nay chúng ta vẫn đang chứng kiến sự hiện diện liên tục này. Nó có thể được thấy qua các biến cố hiện tại. Chúng ta đã dừng lại ở quá khứ vì thời đại và kinh nghiệm Tin Mừng là những sự kiện mẫu mực. Chúng ta có thể nghĩ đến Công đồng Vaticanô II, các Thượng Hội Đồng, các phong trào giáo hội, đời tu, sự hiện diện của sự thánh thiện, sự mới mẻ của đức tin.
Lumen Gentium tổng hợp rất hay điều đó ngày hôm nay bằng các lời này: “Thánh Thần cư ngụ trong Hội Thánh và trong lòng các tín hữu như trong một đền thờ. Ngài dẫn Hội Thánh tới toàn thể sự thật (xem Ga 16,13), hiệp nhất Hội Thánh trong sự hiệp thông và trong thừa tác vụ, dạy dỗ và hướng dẫn Hội Thánh với các ân huệ phẩm trật và đặc sủng đa dạng, trang điểm Hội Thánh bằng những hoa trái của ngài (xem Ep 4,11-12); 1C 12,4; Gl 5,22). Với sức mạnh Tin Mừng, ngài làm Hội Thánh nên tươi trẻ, liên tục đổi mới và dẫn dắt Hội Thánh tới sự kết hiệp hoàn hảo với phu quân của mình. . . Như thế Hội Thánh hoàn vũ được trình bày như một dân được thống nhất trong sự hiệp nhất của Cha, Con và Thánh Thần.”[14]
- linh đạo: sống theo thần khí
Nhưng có lẽ chủ đề sự sống mới mà Thánh Thần làm phát sinh nơi con người, là chủ đề đã từng được khai triển nhiều nhất trong suy tư Kitô giáo. Thánh Phaolô cắt nghĩa chủ đề này như là sự cư ngụ của Thánh Thần: “Anh em không ở dưới quyền thống trị của xác thịt, mà của Thần Khí từ lúc Thần Khí cư ngụ trong anh em.”[15]
Ở đây chúng ta nói tới một nhân cách mới mẻ đích thực được xây dựng, thống nhất và tổ chức một cách hoàn toàn độc đáo trong người tín hữu. Thánh Thần sáng tạo nơi họ một ý thức mới: ý thức mình được làm con cái Thiên Chúa, là ý thức được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu và cũng hiển hiện trên bình diện tâm lý. Chúa Giêsu, trong giờ phút bề ngoài có vẻ cô đơn nhất, đã nói: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha.”[16] Cho nên phải khẳng định rằng Đức Giêsu không bao giờ có cảm giác bị Cha bỏ rơi. Trong khi bị mọi người khác bỏ rơi, ngài vẫn cảm thấy được Cha nghe thấu. Như thế người tín hữu khi phát triển ý thức làm con này, trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào đều cảm thấy và diễn tả lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần còn làm phát sinh nơi tín hữu một sự hiểu biết mới; đó là sự hiểu biết của đức tin có khả năng nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa, khám phá ý nghĩa của thế giới và các biến cố lịch sử. Đức tin thường vẫn được coi là một sự khôn ngoan đến từ Thánh Thần. Ai quan niệm đời sống mình và lịch sử mà không có Thiên Chúa thì không được Thánh Thần thúc đẩy. Ai tìm thấy Thiên Chúa trong lịch sử đời sống mình và lịch sử nhân loại thì được Thánh Thần hướng dẫn, bởi vì Thiên Chúa tự mặc khải trong sự kiện chính yếu của lịch sử, sự kiện Chúa Giêsu.
Thánh Thần khơi dậy một quan hệ mới giữa con người, vượt qua mọi biên giới quốc gia, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo, tình trạng kinh tế: đó là tình yêu, sự tham dự vào tình yêu Thiên Chúa; đối với ngài không còn phân biệt người Hi Lạp hay man di, lương hay giáo, đàn ông hay đàn bà. . . nhưng tất cả là một tạo thành duy nhất.[17] Đó là việc khắc phục các thói kỳ thị, óc thống trị, ý thức tự tôn.
Thánh Thần dạy chúng ta một ngôn ngữ mới để làm chúng ta đồng tâm nhất trí quay về Thiên Chúa và diễn tả các tâm tình con thảo và gợi hứng cho chúng ta những điều phải nói. Ngài cho chúng ta ngôn từ để truyền lời loan báo và mở lòng người ta hiểu lời loan báo. Chính vì thế người ta nói rất nhiều về Thánh Thần trong bối cảnh việc loan báo Tin Mừng.[18]
Tóm lại, Thánh Thần tái tạo cơ cấu nội tâm của con người: ngài cho nó ý nghĩa về căn tính của nó, khả năng hoạt động trong thế giới với phong cách của các mối phúc thật, khả năng mong đợi sự tỏ lộ vĩ đại trong đó toàn thể tạo thành sẽ đạt tới tình trạng hoàn hảo của nó.[19]
Nhưng chưa hết. Ai sinh ra bởi Thánh Thần thì được kêu gọi phát triển sự sống mình theo một kế hoạch đời sống. Họ không chỉ nhận được một số đức tính cố định, như thể các quà tặng quí giá hay các bữa tiệc sinh nhật. Ngược lại, họ có một loại mã di truyền mà theo đó họ sẽ lớn lên.
Như mọi đời sống, đời sống Kitô hữu có một luật nội tại: luật phát triển. Trong phép rửa tội, chúng ta đón nhận hạt giống phát triển: khi chết chúng ta có kết quả cuối cùng. Những gì nằm giữa hai điểm này được giao phó cho ý chí và khả năng của chúng ta để làm phát triển, giống như đối với trí khôn và nhân cách của chúng ta. Có một tình trạng nảy mầm, có một sự trưởng thành: “Thưa anh em, về phần tôi, cho tới nay tôi đã không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi.”[20] Thánh Phaolô nói về những trẻ nhỏ và những người lớn, những người bất toàn và những người thành toàn, nhưng người mê muội và những người khôn ngoan, những người sống theo xác thịt và những người sống theo Thần Khí.
Chúng ta bước từ sự thiếu trưởng thành sang tình trạng trưởng thành nhờ sự soi sáng tiệm tiến và sự gắn bó với sự thật. Những điều này giúp chúng ta thấy ý nghĩa của đời sống và của thế giới, với một sự xác tín ngày càng vững chắc hơn, trong ánh sáng của biến cố Đức Kitô. Tiếp theo là sự thanh tẩy khỏi các mối lệ thuộc và nô lệ, các thói ích kỷ, các đam mê tệ hại, cho tới khi đạt tới tự do nội tâm. Và chúng ta còn được đưa tới sự trưởng thành trong nỗ lực làm cho đời sống chúng ta hoà hợp với đời sống Chúa Giêsu bằng cách sát nhập chúng ta vào mầu nhiệm của ngài. Sách Hướng dẫn Huấn giáo Tổng quát (DCG), khi nhắc đến người tín hữu, nói rằng mục đích của sự khai tâm Kitô giáo là “Giáo dục chúng ta biết suy nghĩ như Đức Kitô, nhìn lịch sử như ngài, chọn lựa và yêu mến như ngài, hi vọng như ngài dạy, sống sự hiệp thông với Cha như ngài.”[21] Nói cách khác, đó là điều mà thánh Phaolô đã diễn tả: “Không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi.”[22]
Kết quả đạt được là con người thiêng liêng. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, “thiêng liêng” có một nghĩa đặc thù. Nó không đối chọi với vật chất, như các nhà triết học nghĩ, nhưng đối chọi với xác thịt. Vì vậy nó không có nghĩa là “phi vật chất”, mà là “thấm nhuần Thiên Chúa và được ngài điều khiển”, bất kể bản chất vật lý của nó là gì. Con người thiêng liêng vì thế không phải là người từ chối, trốn tránh hay lơ là phần thể xác của mình, mà là người đảm nhận và điều khiển mọi sự trong đức ái. Thực ra chính đức ái lan toả trong cõi lòng chúng ta bằng Thánh Thần đã được ban cho chúng ta, bằng cách thấm nhuần toàn diện con người, thân xác và ý thức của chúng ta.
Chúng ta học được nhiều điều khi nghe thánh Phaolô nói về những biểu hiện của tình trạng trẻ nhỏ của đời sống chúng ta trong Thánh Thần hay của bình diện “xác thịt” trong lối suy nghĩ của chúng ta. Một biểu hiện là sự thiếu khả năng chấp nhận Tin Mừng trong toàn thể các đòi hỏi và tính độc đáo của Tin Mừng. Thánh Phaolô gọi những người Corinthô là thiếu trưởng thành bởi vì họ say mê theo đuổi sự hùng biện loài người và những sự cắt nghĩa phức tạp mà không đón nhận sự khôn ngoan đơn sơ được Thiên Chúa linh hứng, là sự khôn ngoan có trong biến cố Đức Kitô.[23]
Một dấu hiệu của tình trạng con nít là bị lôi kéo bởi những lý do người phàm như sự ganh tị, ước muốn trổi vượt trong cộng đồng với các đặc sủng nổi bật. Cũng thế là tư tưởng cho rằng tự do hệ tại thể hiện được sở thích riêng mình, hay sự không có khả năng khắc phục các xung đột bằng việc hi sinh bản thân mình. Trên hết là tình trạng chao đảo hay thay đổi của đức tin chưa được ăn rễ sâu trong Lời Chúa, khiến dễ bị lôi kéo bởi các lối sống trần tục, hay bởi các tư tưởng tôn giáo viễn vông, hay các học thuyết nhất thời.
Còn có những trang sách xuất sắc về sự trưởng thành của con người sống theo Thần Khí, đó là sự thanh tẩy khỏi sự dữ và khắc phục những gì bất toàn; nhưng cũng có sự phát triển tối đa các tiềm năng có trong chúng ta. Các dấu hiệu của sự trưởng thành trước hết là sự bảo đảm hay rõ ràng về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và từ đó có sự bình an và thanh thản nội tâm nhờ đó chúng ta biết rằng “dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay bất cứ tạo vật nào cũng không thể tách lìa chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô.”[24]
Cũng có lòng quảng đại nhờ đó chúng ta không chỉ giới hạn mình làm những điều luật buộc, mà còn hiến mình một cách tự do và vui vẻ. Đó là đòi hỏi triệt để và toàn diện của Tin Mừng. Có tình bác ái huynh đệ như qui luật để hành động trong mọi hoàn cảnh vượt trên các tính toán và các tục lệ xã hội, vượt trên các quyền lợi của chúng ta và của chính việc thờ phượng.
Khi những động năng và những thái độ này phát triển, người ta đạt tới tầm thước của Đức Kitô. Thần Khí ban sự thống nhất trong các tư tưởng, tình cảm, ước muốn, hành động. Và nơi con người biểu hiện các trái chín của ngài: tình yêu, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, ân cần, trung thành, dịu dàng, tự chủ.[25]
- gợi ý suy tư
Những điều vừa nói trên gợi ra cho chúng ta một vài dòng suy niệm cá nhân sau đây.
— Trước hết là tìm cách nhìn đời sống chúng ta là Kitô hữu và tu sĩ trong dòng chảy này của nguồn sinh lực phát xuất từ Thiên Chúa và, từ lương tâm của những con người, nó hướng nhân loại tiến tới một tình trạng tốt đẹp hơn và hướng tới sự hiệp thông với Thiên Chúa.
— Rồi chúng ta tìm cách cắt nghĩa lịch sử, lịch sử riêng của bối cảnh chúng ta và lịch sử lớn của đất nước chúng ta và của thế giới, bằng chìa khoá của Thánh Thần: trong các ước vọng, các cố gắng cao thượng, và các bước tiến nho nhỏ của lịch sử.
— Chúng ta suy tư về nhiệm vụ mình như là các nhà giáo dục phục vụ sự tăng trưởng đời sống trong Thánh Thần này. Hiến Luật FMA khẳng định rằng sự hộ trực Salêdiêng phải được coi như một sự hợp tác với Thánh Thần đấng hoạt động trong tâm hồn của mỗi người.[26]
— Và sau cùng chúng ta thờ lạy Thánh Thần nơi những con người mà nơi họ biểu lộ ý thức là con Thiên Chúa, những người mang danh Thiên Chúa ghi trên trán[27] và trong lòng, và họ diễn tả đỉnh cao nhất của nhân loại.
2
Don Bosco, mô hình và gương mẫu
của linh đạo chúng ta
Chúng ta nhắc lại ở đây theo dạng lược đồ điều 21 của Hiến Luật Salêdiêng:
“Don Bosco, mẫu gương của chúng ta”
- Chúa đã ban cho chúng ta Don Bosco
làm Cha và làm Thầy.
Chúng ta học hỏi và bắt chước ngài,
chiêm ngưỡng nơi ngài:
- Một sự hoà hợp tuyệt diệu giữa tự nhiên và ân sủng
- Thật sâu xa là một con người
- giàu các đức tính của dân tộc mình
- ngài cởi mở trước các thực tại trần thế
- thật sâu xa là người của Thiên Chúa
- đầy tràn ân huệ của Chúa Thánh Thần
- ngài đã sống ‘như thể nhìn thấy Đấng vô hình’.
- Cả hai khía cạnh này được đúc kết lại trong
một kế hoạch đời sống thống nhất chặt chẽ:
phục vụ các thanh thiếu niên.
Kế hoạch ấy ngài đã thực hiện:
- một cách cương quyết và kiên trì
- giữa những chướng ngại và lao nhọc
- với tính nhạy bén của một con tim quảng đại.
“Ngài đã không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào một việc mà không nhằm cứu vớt giới trẻ.
- Thật sự ngài không chú tâm vào điều gì khác ngoài các linh hồn”.
- một lưu ý cần thiết
Chúng ta đã nói đến sự thánh hiến bởi ân huệ của Thánh Thần. Cái đặc trưng của đời sống tu trì là nó tập trung vào Thiên Chúa. Nó muốn là kinh nghiệm, bằng chứng và sự loan báo về Ngài.
Tuy nhiên có nhiều hình thức thánh hiến đa dạng nhờ đó Thánh Thần tiếp xúc với những con người của Thiên Chúa. Lịch sử thì phức tạp: nó cần nhiều dấu hiệu thích hợp với các hoàn cảnh khác nhau. Mặt khác, con người có những khả năng diễn tả vô hạn. Thánh Phaolô từng nói rằng có các ân điển hay ân sủng khác nhau.[28] Cùng kết hợp lại, chúng làm cho Hội Thánh được sẵn sàng để hoạt động trong mọi bối cảnh và mọi điều kiện. Một số người được thu hút bởi mầu nhiệm của Thiên Chúa nên tìm đến sống trong các nơi cô tịch để chuyên chăm học hỏi và cầu nguyện. Các ẩn sĩ bị ấn tượng bởi sự phù phiếm của cuộc đời hiện tại và những lợi ích của cuộc sống vĩnh cửu, nên tự giam mình trong các am cốc cách ly với đời sống xã hội. Ngược lại, những người khác cảm thấy tình yêu Thiên Chúa như động lực thúc đẩy họ can thiệp vào lịch sử để cứu rỗi con người.
Thánh Thần hoạt động trong tất cả những con người này và thông qua họ, ngài hoạt động trong nhân loại. Như thế ngài là nguồn gốc phát sinh các kiểu mẫu hay tính cách Kitô giáo đa dạng. Các kiểu mẫu không tuỳ thuộc vào ý muốn của con người, cũng không phát xuất từ một học thuyết tôn giáo được suy tư trên lý thuyết. Chúng đâm chồi từ trong các cộng đồng Kitô giáo như cây cỏ mọc lên trên mảnh đất phì nhiêu. Để mô tả các kiểu mẫu này, tốt hơn nên kể ra việc chúng đã phát sinh thế nào và đã phát triển ra sao, hơn là trình bày giáo lý thiêng liêng của chúng. Để làm việc này, các sách hạnh các thánh ngay từ ban đầu đã là một yếu tố của huấn giáo.
Làm thế nào và tại sao Chúa Thánh Thần thánh hiến một người Salêdiêng, đó là điều được tỏ lộ cho chúng ta trong lịch sử nơi Don Bosco. Chiêm ngưỡng diện mạo ngài là điều quan trọng để chúng ta khám phá ra bộ mã di truyền của mình. Nó đã phát triển thế nào nơi ngài, thì cũng sẽ phát triển nơi chúng ta y hệt như thế.
Có nhiều lối trình bày khác nhau về diện mạo thiêng liêng của Don Bosco: ngắn, vừa, và dài. Don Caviglia đã tìm cách tóm tắt các nét thiêng liêng và luân lý của Don Bosco trong một tác phẩm tổng hợp dày 150 trang giấy nhỏ. Có những tác phẩm nghệ thuật (tranh vẽ và điêu khắc) tìm cách thu nhận đặc điểm nổi bật nhất nơi tính cách ngài. Rồi mỗi người Salêdiêng mang nơi mình một hình ảnh của Don Bosco được tạo hình dần dần theo năm tháng, qua kinh nghiệm, đọc sách, suy niệm, và chọn lựa. Có khi những hình ảnh cá nhân này đã phóng đại quá mức một sự kiện theo sở thích riêng của mỗi người và bỏ lại trong bóng tối những sự kiện khác mà lịch sử ghi lại. Một số người, chẳng hạn, đã phóng đại diện mạo của ngài như người bạn của thanh thiếu niên và hầu như không biết đến ngài như “Vị Sáng lập một phong trào linh đạo”.
Tương quan giữa hai loại hình ảnh này, loại hình ảnh theo khách quan và loại hình ảnh theo cá nhân, là một sự tương quan năng động: chúng làm phong phú và sửa sai lẫn cho nhau.
Có một diện mạo của Don Bosco “thánh hiến, tông đồ, con người thiêng liêng” làm cho hai loại hình ảnh này hoà hợp và thấm nhập vào nhau, vì nó được tạo ra bởi cộng đoàn và trở thành một vật gia bảo của cộng đoàn. Chúng ta tìm thấy nó trong chương hai của Hiến Luật Salêdiêng, là chương muốn mô tả một cách hệ thống tinh thần Salêdiêng: một chương với rất nhiều đoạn trích dẫn của Don Bosco và thường xuyên nhắc đến các thái độ của ngài.
Ở phần kết chương, giống như một tổng hợp, là cố gắng trình bày tính cách của ngài trong hai mươi hàng chữ.[29]
Chính hình thức của khoản HL này cũng độc đáo: nó có dáng dấp của một bản thánh thi hay thánh vịnh. Các câu khi đọc lên có tiết tấu chẳng khác gì một bài thơ. Các ý tưởng được trình bày với những thành ngữ khi thì đối chọi nhau, khi thì song song nhau hay theo một triền thăng giáng được chọn lựa kỹ lưỡng. Cấu trúc toàn thể được dàn dựng với những khoảng nối tiếp nhau bằng hai chủ đề chính: sự phong phú đa dạng và sự thống nhất kỳ diệu của nhân cách ngài.
Chỉ trong một ít hàng chữ mà xuất hiện gần như đủ các nhân vật chính của đời sống Salêdiêng: Thiên Chúa, Don Bosco, giới trẻ, dân tộc của ngài. Cũng có cả chuỗi nối tiếp các hoạt động được thể hiện: việc đào luyện nhân cách, kế hoạch đời sống, việc phục vụ giới trẻ, tìm kiếm các linh hồn, sáng lập một Gia đình tông đồ.
Đây không phải kết quả của một sức cố gắng hay tài năng văn chương. Nếu là thế, người ta có thể nhận ra sự giả tạo của nó. Ngược lại, nó là kết quả của sức cuốn hút, một sự quyến rũ mà Don Bosco thể hiện trên các con cái Salêdiêng của ngài. Thực ra tự nguồn gốc của bản văn này đã có cả một chuỗi suy niệm lâu dài của cộng đoàn. Nó được phác thảo một lần đầu, được duyệt đi duyệt lại liên tục ba lần, trong một thời kỳ 12 năm liền, bởi hai trăm người, tất cả từng là những thành viên của các Tổng Tu Nghị. Vì vậy, đây là hình ảnh của Don Bosco mà Tu hội đưa vào trong ý thức cộng đoàn. Nó cống hiến cho chúng ta một ít hạt nhân suy niệm về linh đạo.
- quan hệ của chúng ta với Don Bosco
Hạt nhân suy niệm đầu tiên là mối quan hệ đặc biệt của mỗi người chúng ta với Don Bosco: “Chúa đã ban cho chúng ta Don Bosco làm cha và làm thầy”. Cuộc gặp gỡ với ngài đã được an bài và quyết định tất cả đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc gặp gỡ này đã xảy ra thực sự như thế nào và ơn sủng của việc chúng ta liên tục tiếp xúc với ngài, nó đã làm giàu chúng ta với biết bao kế hoạch, biết bao tình cảm, lý tưởng và việc thể hiện xuyên qua các giai đoạn khác nhau của cuộc đời chúng ta: khi là ứng sinh cho đời sống Salêdiêng, khi là tập sinh, trong toàn thể tiến trình đào luyện tiếp theo và trong các thời kỳ suy nghĩ lại khi chúng ta đã trưởng thành.
Có ngài đồng hành luôn luôn là nguồn cảm hứng lớn trong tâm hồn chúng ta. Nếu ngày nay chúng ta từ bỏ tất cả những gì ngài đã mang đến, thì đời sống thiêng liêng hiện tại của chúng ta sẽ chỉ còn những cái rất nghèo nàn. Vì vậy Don Bosco quả thực là quà tặng của Thiên Chúa cho đời sống chúng ta. Thực ra nếu như không có ngài, thì có thể cũng có những người khác. Nhưng đời sống không được làm thành bởi những cái nếu, mà bởi những sự kiện hiện thực. Cho nên, trong thành ngữ mà chúng ta đang cắt nghĩa, đại từ “chúng ta” không có nghĩa tập thể, mà có nghĩa phân phối đích thực: cho từng người chúng ta, một cách cá nhân, chúng ta được ơn gặp gỡ và biết Don Bosco.
“Làm Cha và làm Thầy”: quan hệ của chúng ta với ngài là quan hệ con cái và học trò. Don Bosco từng có và vẫn còn có những người ngưỡng mộ, những “fans”, những cộng tác viên, những bạn bè. Cũng như Đức Kitô đã có các người nghe ngài, đi theo ngài, bạn bè, môn đệ, và tông đồ. Mỗi từ này diễn tả một quan hệ khác nhau. Chúng ta không chỉ là những người ngưỡng mộ, những cộng tác viên và bạn bè.
Thuật ngữ diễn tả quan hệ của ngài với chúng ta là “Cha”. Sẽ là một sai lầm nếu nghĩ đây chỉ là một thành ngữ mang ý nghĩa tình cảm, đạo đức hay tu từ.
“Cha” có nghĩa một điều gì vượt lên trên lòng nhân hậu của ngài và tình cảm của chúng ta. Nó nói rằng ngài là người khởi xướng, người sáng lập đã truyền lại cho chúng ta cái kinh nghiệm thiêng liêng là đặc sủng Salêdiêng. “Cha” có chỗ đứng trong lịch sử vào lúc và nơi ngài sinh ra. “Cha” sinh ra chúng ta trong việc theo Chúa Kitô vì giới trẻ. Cha, Abba, là một thuật ngữ truyền thống trong đời tu trì để chỉ người tỏ lộ đặc sủng và làm tăng trưởng đặc sủng.
“Cha” cũng nhắc chúng ta nhớ tới khả năng ngài làm chúng ta cảm nghiệm tình phụ tử của Thiên Chúa đối với thanh thiếu niên nghèo khổ: sau kinh nghiệm sống với họ, tình phụ tử trở thành một chủ đề của hệ thống giáo dục và phong cách thi hành quyền bính của ngài. “Các giám đốc và hộ trực viên như những người cha yêu thương phải nhắc nhở, hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.” Nó nhắc chúng ta nhớ rằng, đối với những người Salêdiêng hôm qua cũng như hôm nay, ngài thích tước hiệu “Cha” hơn bất kỳ tước hiệu nào khác; “Hãy gọi cha là Cha, và cha sẽ thấy hạnh phúc.”[30] Và nó cũng nhắc chúng ta nghĩ tới loại quan hệ mà những người theo ngài đã duy trì với ngài: thay vì như thủ lỉnh, người sáng lập, lãnh đạo đặc sủng, chúng ta biết ngài như là Cha. “Dù ở bất cứ đâu, các con hãy nhớ rằng ở Torino này các con có một người Cha yêu thương chúng con trong Chúa.”[31]
Chúng ta còn có thể tiếp tục xem xét thêm trách nhiệm làm cha của ngài. “Từ nơi cha có mọi sự: tình yêu dịu dàng và mạnh mẽ đối với các nghĩa tử, sự chịu đựng mọi mệt nhọc và đau khổ, ý thức sâu sắc về trách nhiệm làm cha gia đình và sự hiến mình vô giới hạn mà chỉ có tình yêu mẫu tử mới sánh bằng được.” (Don Caviglia).
Bên cạnh tước hiệu là “Cha” còn có tước hiệu là “Thầy”. “Thầy” không mang ý nghĩa áp đặt một giáo thuyết cho bằng nói lên nghệ thuật dạy dỗ, làm người khác hiểu mình, nói bằng ngôn ngữ của con tim, thông truyền bằng đời sống. Nó nhấn mạnh sự kiện rằng chúng ta đã theo ngài qua việc để ngài hướng dẫn bằng kinh nghiệm của ngài, và qua ngài, chúng ta đã muốn theo Chúa Giêsu là Thầy. Thầy là một chủ đề lặp đi lặp lại thường xuyên trong các lời khuyên và bình luận của ngài. Trong chúc thư ngài nói về Chúa Giêsu: “Người sẽ là thầy, là hướng đạo, và là khuôn mẫu của chúng ta. . .” Nó được liên kết với chủ đề về sự khôn ngoan, là trọng tâm trong khoa sư phạm của ngài, trong suy nghĩ của ngài, và trong đời sống thiêng liêng của ngài.
Cha và Thầy là một thành ngữ có xuất xứ trong kinh phụng vụ. Và khoản luật này có vẻ giống với một bản văn phụng vụ, một suy niệm khôn ngoan hơn là một qui luật pháp lý hay một mảng giáo thuyết.
Phản ứng và thái độ của chúng ta trước ân huệ này của Thiên Chúa là: “Chúng ta học hỏi và bắt chước ngài, chiêm ngưỡng nơi ngài. . .” Các khả năng trưởng thành của chúng ta từ nay được gắn liền với mối quan hệ sống chết của chúng ta với ngài. Thực vậy, chúng ta đang phát triển về đời sống thiêng liêng trong môi trường và với những nguồn lực của đặc sủng, cộng đoàn, và sứ mạng của ngài.
Khoản luật nói “chúng ta chiêm ngưỡng”: thái độ của chúng ta không phải là nghiên cứu khoa học và phê bình, tuy rằng không thể bỏ qua điều này; nhưng là một sự tiếp cận và gặp gỡ thường xuyên đầy tình âu yếm. Chiêm ngưỡng là động từ của sự chiêm niệm, của người ở lại để ngắm nhìn vì bị thu hút. Chúng ta hiểu được ngài nhờ tình yêu và sự đồng thanh tương ứng, chứ không phải bởi việc phân tích và chứng minh chặt chẽ các dữ kiện lịch sử.
Nhưng điều này cũng đòi hỏi một nghĩa vụ: “học hỏi ngài”. Ngày nay có những khó khăn lớn để hiểu biết Don Bosco một cách hiệu quả. Một khó khăn là sự xa cách về thời gian, nhưng nhất là sự cách biệt về văn hoá giữa chúng ta và ngài. Nguy cơ là sự quên lãng hay không có khả năng giải thích về ngài. Giữa các thế hệ tiền bối của chúng ta và thời của Don Bosco, vẫn còn có một sự giống nhau về lối sống. Cũng có những khác biệt nhưng rất giới hạn. Ngày nay để hiểu ý nghĩa thực của điều ngài đã suy nghĩ và hành động, cần phải đặt mình vào não trạng của môi trường của ngài và đặt ngài vào môi trường của chúng ta. Rồi có những khó khăn do việc thiếu thời giờ chung trong cộng đoàn để truyền thông. Trước kia những thời giờ đó rất nhiều và đều đặn: Huấn từ tối, các bài huấn đức, sách thiêng. Việc truyền thông “bằng miệng” có chỗ để thực hiện. Ngày nay đời sống làm chúng ta ngày càng phân tán hơn và nếu có nói được ít lời nào thì chúng cũng mất hút trong một rừng các hình ảnh và thông điệp mênh mông.
Đồng thời, như một yếu tố thuận lợi, ngày nay có một “văn hoá Salêdiêng” đích thực: một sự suy niệm về đời sống và đặc sủng của các vị sáng lập và của các Tu hội của các ngài, được tích lũy qua các thế hệ. Đặc biệt trong thời gần đây nhất đã có một cố gắng to lớn từ phía hai Tu hội (SDB và FMA) về ba phương diện: phương diện thiêng liêng, được thấy trong các Công báo của các Tổng Tu Nghị, các thư của các Cha Bề Trên Cả và các Mẹ Bề Trên Cả; phương diện lịch sử, với việc sáng lập một Viện Lịch Sử và việc tổ chức kho lưu trữ trung ương và ước muốn nghiên cứu lịch sử các tu hội trên khắp thế giới; phương diện sư phạm: thư tịch rất dồi dào về hệ thống dự phòng chứng tỏ tình cảm yêu mến của người Salêdiêng đối với di sản này. Người ta đang thu thập mọi đầu sách và bài viết liên quan đến Don Bosco, Mẹ Mazzarello và đặc sủng của các ngài. Ngày nay có khoảng 30.000 đầu sách. Việc học hỏi không chỉ là một hành trình của đời sống thiêng liêng, nó còn trở thành một điều kiện để có thể truyền thông và truyền đạt với sự trung thành và phong phú. Vì thế nó đã được đưa vào trong mọi giai đoạn đào luyện.
- diện mạo thiêng liêng của Don Bosco
Một hạt nhân suy niệm thứ hai là kiểu mẫu con người và kiểu mẫu Kitô hữu, nhân cách của Don Bosco: một sự hoà hợp tuyệt diệu của tự nhiên và ân sủng.
Trước hết cần ghi nhận sức của tính từ “tuyệt diệu”. Đây không nói đến một sự hài hoà khiêm tốn, bình thường, chung chung. Nó là một cái gây ấn tượng mạnh. . . như một toàn cảnh kỳ vĩ, một bức hoạ đạt một cách đặc biệt, một bản nhạc rung động. Không ít nhà nghiên cứu đã phát biểu theo nghĩa này. “Một trong số những con người hoàn hảo nhất mà lịch sử từng biết đến.” (Joergensen). “Augustinô, Phanxicô, Catarina da Siena, Don Bosco được kể vào số những đỉnh cao của nhân loại.” (Hertling).
“Ta đã nhìn thấy rất gần khuôn mặt này, trong một lần giáp mặt không ngắn, trong một cuộc trò chuyện không phải chỉ thoáng qua; một khuôn mặt kỳ diệu mà sự khiêm tốn bao la và sâu thẳm cũng không tài nào che giấu nổi. . . một khuôn mặt của con người vĩ đại, dài, lộ rõ uy lực và sức quyến rũ: một khuôn mặt điềm tĩnh, khuôn mặt của những con người mà dù làm bất cứ việc gì, họ đều để lại dấu vết lớn của nhân cách họ, vì họ được trang bị một cách tuyệt vời cho cuộc đời.” (Piô XI).[32]
“Tông đồ Phaolô, Augustinô ở Hippô, Phanxicô Assisi, Vinh Sơn Phaolô, và Gioan Bosco rõ ràng là những con người kiệt xuất về phương diện các nguồn lực và đức tính nhân bản của họ.” (Wackenheim).
Mục đích của chúng ta ở đây không phải là dệt nên một bài ca ngợi hay tán tụng, mà là khám phá ra “mô hình” về nhân cách và linh đạo: sự hoà hợp giữa bản năng sâu xa của sự sống và sự cởi mở với Thiên Chúa, niềm đam mê đối với tất cả những gì là con người và chiều sâu thiêng liêng. “Hoà hợp hay hài hoà”, thành ngữ này nói được nhiều hơn là sự thống nhất. Để có sự thống nhất, người ta có khi phải nối kết các phe lại, có khi phải hi sinh các khía cạnh: nó cho chúng ta hình ảnh của một cái gì chắp nối. Còn sự hoà hợp nói lên một sự đầy đủ đã trở nên rực rỡ giữa những mặt đối lập: không mặt nào bị hi sinh để được mặt kia hay để có sự an bình. Bản tính con người của ngài, dịu dàng và âu yếm, dễ gây tình bạn, trở thành dấu chỉ trong sáng về tình yêu Thiên Chúa. Rồi đến lượt tình yêu này lại tạo ra một sự tinh tế ngày càng lớn hơn cho nhân tính.
Một sự hoà hợp như thế toát ra nơi con người ngài: dịu dàng và nghiêm nghị, thông minh và thực tế, ngay thẳng và tinh ranh, thánh thiện và khoáng đạt giữa đời. Nó cũng toát ra trong linh đạo của ngài: lao động và chiêm niệm, Thiên Chúa và tha nhân, đức ái và tính chuyên nghiệp, vâng phục và tự do. Nó cũng toát ra trong khoa sư phạm của ngài: kỷ luật và thân mật, lý lẽ và tính tự phát, đòi hỏi và lòng tốt.
Đó cũng là chính những mặt đối lập mà chúng ta cảm thấy. Vì thế, gần đây người ta thường nhấn mạnh nét đặc trưng chính của ngài: ơn thống nhất.
Các chiều kích của nhân cách Don Bosco
Gắn liền với chủ đề hài hoà-thống nhất này, chúng ta có một hạt nhân suy niệm khác nữa: các chiều kích cơ bản của nhân cách ngài, được diễn tả bằng một hình thức song song hoàn hảo. “Thật sâu xa là một con người và là người của Thiên Chúa, giàu các đức tính của dân tộc mình và đầy tràn ân huệ của Chúa Thánh Thần, ngài cởi mở trước những thực tại trần thế và ngài đã sống “như thể nhìn thấy Đấng Vô Hình.”
Điều gây ấn tượng đầu tiên là tính nhân bản của ngài. Nó bộc lộ sự thánh thiện của ngài, trong khi sự thánh thiện này bộc lộ vẻ đẹp rực rỡ của tính nhân bản của ngài. “Mọi cái nơi Don Bosco đều là nhân bản và mọi cái đều chiếu dọi cách mầu nhiệm một ánh sáng siêu nhiên.”
Tính nhân bản được bộc lộ trong khả năng yêu mến sâu đậm và cá vị. Khả năng này trở thành hình thức quan hệ thường xuyên của ngài; không bao giờ kiểu cách, quan liêu, truyền khiến, nhưng luôn luôn gần gũi và nhìn người khác với lòng quí trọng. Người ta thấy ngài ở nguyện xá, nhưng cũng thấy ngài ở các cuộc tiếp kiến, các cuộc hành trình, trên đường phố. Tính khí ngài rất giàu tình cảm, nhưng nó đã trở thành cách thức riêng của ngài để bắt chước Chúa Giêsu. Trong hồi ký của ngài có kể chuyện hồi nhỏ ngài bắt được một con sáo và nuôi nó trong một cái lồng. Ngài chăm sóc và cho nó ăn như thể một người bạn. Một hôm con mèo lại gần chuồng và giết chết con sáo. Ngài buồn đến phát khóc. Mẹ nói: “Cần gì phải khóc? Còn có biết bao nhiêu con chim trong rừng.” Nhưng đối với cậu bé thì mọi con chim khác không đáng giá bằng con chim cậu yêu quí. Sau sự kiện ấy, ngài làm quyết định sẽ không bao giờ gắn bó quả tim mình vào bất cứ một tạo vật nào.[33] May thay—một tác giả bình luận—ngài đã không thực hiện quyết định ấy.
Hình thức quan hệ một cách thân thiết và tình cảm sâu đậm này là bí quyết của việc thực hành giáo dục của ngài. Có cả một sưu tập các giai thoại ghi lại điều này: từ câu ngài nói với Gastini: “Cha là một linh mục nghèo, nhưng cha mong muốn biết bao điều tốt lành cho con, đến nỗi nếu một ngày nào đó cha chỉ có một miếng bánh nhỏ, cha cũng sẽ chia sẻ với con”; cho tới lời kể lại thật cảm động của Don Albera: “Phải nói rằng Don Bosco ưu ái chúng tôi một cách hoàn toàn độc đáo theo kiểu riêng của ngài: ngài tỏ lộ tình yêu ấy bằng một sự cuốn hút không thể cưỡng lại được. Tôi từng cảm thấy mình như bị giam giữ bởi một quyền lực của tình cảm nuôi dưỡng tất cả tư tưởng, lời nói, và hành động của tôi. Tôi từng cảm thấy được yêu thương như chưa từng được yêu thương như thế bao giờ trước đó, một cách hết sức đặc biệt, vượt lên trên mọi tình cảm nào khác. Ngài như thể bao bọc tất cả chúng tôi một cách hoàn toàn trong một bầu khí của sự hài lòng và hạnh phúc. Mọi cái nơi ngài đều có lôi cuốn, tác động trên các quả tim non trẻ của chúng tôi giống như một cục nam châm mà ta không thể nào rút ra được, và cho dù có thể, chúng tôi cũng không dại gì rút mình ra khỏi đó cho dù có được tất cả vàng bạc trên thế giới, đến nỗi ngài cảm thấy hạnh phúc tràn trề vì uy lực tình yêu độc đáo này trên chúng tôi, mà ngài đã tỏ ra một cách hết sức tự nhiên mà không có vẻ gì là cầu kỳ hay phải cố gắng gì cả; và không thể khác đi được, vì mọi lời nói và việc làm của ngài đều toả ra sự thánh thiện của mối kết hiệp với Thiên Chúa, và đó là chính đức ái hoàn hảo. Ngài lôi cuốn chúng tôi về với ngài bằng tình yêu siêu nhiên sung mãn mà ngài chất chứa trong lòng. Từ sự cuốn hút đặc biệt này phát sinh công việc chinh phục cõi lòng chúng tôi. Nơi ngài các năng khiếu tự nhiên rất nhiều của ngài được nâng lên thành siêu nhiên bởi đời sống thánh thiện của ngài.”[34]
Cùng với tình cảm yêu thương, như một nét đặc trưng con người, còn phải thêm khả năng tình bạn. Ngài có biết bao nhiêu tình bạn khác nhau kể từ những năm đầu đời, trong thời niên thiếu, và trong tuổi trưởng thành! Niềm vui được chia sẻ, sống chung và làm việc chung là một nét đặc trưng cá tính của ngài. Là bạn thân của anh Giuse, ngài chia sẻ với anh những bữa ăn và những buổi hàn huyên tâm sự; là bạn của đám trẻ trong thôn xóm, ngài kể cho chúng các câu chuyện và đãi chúng các bữa ăn (nay được ghi nhớ bằng một tượng đài đẹp ở Colle Don Bosco); là bạn của các bạn học ở Chieri, ngài cùng với họ lập hội vui; là bạn chủng sinh của Comollo, ngài ký kết với anh một giao ước cho tới bên kia cái chết; là bạn của các trẻ nhỏ Do Thái bị phân biệt đối xử. Đặc biệt là bạn của một trẻ trong số đó, Giacomo Levi, biệt danh là Giona, mà ngài sẽ ghi nhớ lại bằng những lời này: “Có khuôn mặt rất đẹp trai, anh có một giọng hát tuyệt vời, thuộc hàng những giọng hát hay nhất. Anh chơi bi da khá giỏi. Anh rất đa cảm và điên dại vì tình bạn với tôi. Mỗi khi rảnh rỗi anh đều sang phòng tôi chơi. Chúng tôi cùng nhau ca hát, chơi đàn, đọc sách và kể chuyện.”[35]
Nét nhân bản này của ngài tiếp tục trong tuổi trưởng thành, vào thời này ngài nuôi dưỡng tình bạn với các linh mục, tu sĩ, cộng tác viên và thanh niên, các nhà văn, các người bị bách hại, các chính khách, và các nhà chức trách. Ngài để lại điều này bằng bút tích qua một loạt các lời khuyên nhủ các con cái ngài với nội dung như sau: “Hãy làm sao cho mọi người nói chuyện với con đều trở thành bạn con.”[36] Tình bạn sẽ là một chủ đề của khoa sư phạm của ngài. Để chứng minh điều này, chỉ cần nhớ lại chương ngài viết về tình bạn giữa Đaminh Savio và Camillo Gavio.[37]
Một khía cạnh khác của tính nhân bản của ngài được ghi nhận bằng thành ngữ “giàu các đức tính của dân tộc mình, ngài cởi mở trước các thực tại trần thế.” Kể ra những đức tính nào của dân tộc ngài không là điều quan trọng lắm. Có một cuốn sách nhỏ mang tựa đề này và cố gắng định nghĩa nó.[38] Chắc chắn có tính hào hiệp trong các kế hoạch, tính lý tưởng và thực dụng, tính kiên cường và đồng thời mềm dẻo, khả năng lao động và óc thực tế.
Có người đã định nghĩa ngài: sáng suốt trong kế hoạch, mạnh mẽ trong ý chí, chậm rãi trong quyết định, mực thước trong tiến hành. Bản thân Don Bosco đã nhìn nhận điều này: “Don Bosco không phải hạng người thích bỏ nửa chừng một khi đã bắt tay vào một công việc gì.”
Chúng ta có thể thấy phong cách này trong mọi công cuộc của ngài: nguyện xá bắt đầu với rất ít phương tiện, chỉ có những cái tối thiểu, nhưng ngay lập tức không chần chờ: ban đầu ngài chỉ thu thập một ít trẻ nhưng con số này không ngừng tăng lên. Sự tăng số khơi dậy các kế hoạch mới để thêm vào các chiều kích ngài đã dự kiến trong đầu. Công cuộc truyền giáo cũng bắt đầu như thế. Ngài bắt đầu bằng một trực giác. Ngài chuẩn bị một ít người. Một cách kiên trì và qua nhiều năm ngài tìm kiếm các cuộc tiếp xúc ích lợi. Ngài chuẩn bị tốt nhất những gì có thể bảo đảm được, nhưng nhiều điều còn không chắc chắn. Thế nhưng cứ lên đường. Cùng một điều như thế cũng sẽ diễn ra với các công cuộc giáo dục khác. Tổ chức các trường dạy nghề đã chiếm cả cuộc đời của Don Bosco và “kiểu mẫu” của chúng sẽ chín muồi trong vòng hai mươi năm.
Sự thánh thiện làm cho các giá trị trở thành phổ quát
Đây là chỗ thích hợp để đưa ra một lời bình luận: sự thánh thiện làm cho thành phổ quát một số giá trị đã được sống bởi một cộng đồng hay một môi trường đặc thù vốn đã được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo lâu năm. Chắc chắn một số điều của Piêmôntê và của nước Ý đã đi ra thế giới qua Don Bosco, cũng như một số điều của Do Thái giáo và văn hoá Hi Lạp và La Tinh đã truyền sang cộng đồng Kitô giáo.
Nhưng tính nhân bản phong phú, nhạy cảm, cụ thể, thực tế, có khả năng hoà nhập với những vấn đề của thời đại ngài là kết quả cuối cùng của một sự quảng đại đáp ứng ân sủng: “Là người của Thiên Chúa, đầy tràn các ân huệ của Chúa Thánh Thần”. Đây là một chiều kích bị giấu ẩn một phần bởi tính khí của ngài. Thực vậy, tuy rằng Don Bosco rất dễ bộc lộ tình cảm của mình với người đối thoại, nhưng điều này hoàn toàn không phải để tỏ lộ kinh nghiệm nội tâm của ngài. Các bài viết và các lá thư của ngài cho thấy rất ít các tình cảm thâm sâu của ngài.
Don Bosco không hề để lại một “Tiểu sử một tâm hồn”, giống như Têrêxa Hài Đồng hay Gioan XXIII. Ngài để lại lịch sử của nguyện xá. Ngài không hề viết “Nhật ký thiêng liêng”, nhưng ngài để lại sổ tay các kinh nghiệm sư phạm. Điều này làm chúng ta nghĩ đến phong cách linh đạo của chúng ta được làm bằng sự đơn sơ trong cách diễn tả các cảm xúc và tình cảm và bằng một sự nội quan chừng mực.
Nhưng chiều sâu thiêng liêng một phần cũng bị giấu ẩn dưới phong cách hành động của ngài. “Quá cứng đầu và xảo quyệt, quá tham tiền và dễ nói về mình hay làm người khác nói về mình”, một hồng y đã thấy ngài như thế (Hồng y Ferrieri). Người ta nghi ngờ chiều sâu thiêng liêng của ngài khi thấy dáng vẻ bất trật tự và những giới hạn thực sự trong công cuộc giáo dục của ngài, do việc ngài muốn tăng mãi con số trẻ nghèo và vì vậy không đáp ứng những “yêu cầu” của một công cuộc giáo dục tiêu chuẩn. “Nếu Don Bosco thực sự có lòng đạo đức, ông phải ngăn cản một số điều rối trật tự trong nhà của mình”, một hồng y khác đá nói thế khi bị ấn tượng xấu trước tình trạng tự phát không được kiểm soát hoàn toàn tại Valdocco.
Thế nhưng chiều sâu thiêng liêng ấy được thấy hiển nhiên nhất là qua lòng tin vào Thiên Chúa và đức ái đối với đồng loại. “Tôi đã từng điều tra nhiều án kiện: nhưng tôi chưa từng thấy một con người đầy tràn sự siêu nhiên như thế.” (Hồng y Vives).
“Để tìm lại được một khuôn mặt với những tầm cỡ như thế, cần đi ngược trở về nhiều thế kỷ lịch sử của Hội Thánh và thêm vào đó các vị thánh sáng lập các dòng tu lớn.” (Hồng y Schuster).
Một khía cạnh khác của chiều kích thiêng liêng của ngài là sự đầy tràn các ân huệ của Thánh Thần: hiểu biết, mạnh mẽ, khôn ngoan. Tất cả các ân huệ này liên quan đến hành động, việc đọc ra các dấu chỉ, hiểu biết các con người và các biến cố.
Nhưng một nét được nhấn mạnh trên tất cả: “Ngài đã sống như thể thấy Đấng Vô Hình.” Thành ngữ này lấy từ thư Do Thái. Tác giả thánh mô tả đức tin của các tổ phụ từng sống giữa những thăng trầm của cuộc đời với sự kiên trì chịu đựng những thử thách nhờ lòng cậy trông vững vàng rằng lời hứa của Thiên Chúa sẽ trở thành hiện thực. Đến chỗ nói về Môsê, thư Do Thái nhắc lại các công trình của ông và các khó khăn ông đã gặp. Và điều được khẳng định là tất cả đã được hoàn thành bởi vì “ông đã đi qua thế giới này như thể nhìn thấy Đấng Vô Hình.” Nguyên văn đoạn Kinh Thánh này là: “Nhờ đức tin, ông bỏ Ai Cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng Vô Hình.”[39] Câu này được áp dụng rất đúng cho Don Bosco, con người với những giấc mơ lớn về việc cứu rỗi các thanh thiếu niên khỏi sự khốn cùng vật chất hay tinh thần và việc loan truyền Tin Mừng. Nó mô tả rất hay cách xử sự của ngài trước các sự vật trần thế và các biến cố lịch sử như thể ngài nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa tác động trong chúng. Nó theo cùng triền tư tưởng với bài đọc phụng vụ, nhấn mạnh đức tin và sự đại độ của ngài.
- kế hoạch đời sống
Một hạt nhân suy niệm cuối cùng: điểm hoà nhập giữa tất cả sinh lực tự nhiên của ngài và các sự soi sáng của ân sủng: một kế hoạch đời sống thống nhất, phục vụ thanh thiếu niên. Khoản HL này dành một đoạn bình luận dài, với các thành ngữ càng lúc càng mạnh hơn để cho thấy rõ cố gắng của Don Bosco nhằm thực hiện kế hoạch, những khó khăn ngài đã khắc phục bằng sự hiến mình hoàn toàn và bằng việc tận dụng mọi năng lực thể chất, tinh thần, thiêng liêng của ngài. Không còn là “giấc mơ” nữa, mà là kế hoạch được thực hiện với sự nhạy bén của một con tim quảng đại và được tiến hành với sự chắc chắn và kiên định, cuối cùng đã khuôn đúc nhân cách ngài, và trở thành quĩ đạo lịch sử cho sự trưởng thành của ngài như một vị thánh độc đáo.
Hiến Luật Salêdiêng sẽ nói rằng sự thánh hiến của chúng ta bao gồm đồng thời đời sống chung, việc theo Đức Kitô và sứ mạng giới trẻ. Nhưng chính sứ mạng này là cái tạo cho toàn thể đời sống chúng ta sắc thái cụ thể.[40] Nó là cái phân biệt và hình thành con người chúng ta. Nó là nơi đòi hỏi và thể hiện các nhân đức của người Salêdiêng, là chỗ mà người Salêdiêng buộc phải tạo lại sự hoà hợp tuyện diệu giữa tính nhân bản và tinh thần Thiên Chúa.
- kết luận
Sẽ khó có thể hiểu và sống linh đạo Salêdiêng trong tư cách cá nhân và cộng đoàn nếu chúng ta không thường xuyên đến với nguồn mạch và gốc gác của nó. Một nguy hiểm thực sự là cắt nghĩa linh đạo này theo các khuynh hướng tự nhiên của chúng ta.
Trong đời sống của các cộng đoàn, tình yêu đối với Don Bosco cho tới nay đã được diễn tả một cách tự nhiên và là bảo đảm cho sự hiệp nhất và nhiệt huyết tông đồ. Nó thuộc về tinh thần của chúng ta. Don Stella đã viết một cuốn sách về việc đào tạo hình ảnh của Don Bosco như một mẫu người hấp dẫn đối với thanh thiếu niên và được thế giới chấp nhận, một mẫu người nhạy bén đối với việc thăng tiến những người hèn kém nhất. Vì thế trong số những nét đặc trưng của tinh thần chúng ta, có tình con thảo đối với Don Bosco, kèm theo những tình cảm gắn bó và ngưỡng mộ ngài. Trong khi đó sự xa cách và lạnh lùng đã tạo ra các hiệu quả tiêu cực.
Tuy nhiên ngày nay chúng ta cần có một sự thay đổi về ngôn ngữ và thái độ: chúng ta đi từ việc tường thuật đơn sơ và tán dương sang sự hiểu biết sâu xa, đặt các sự kiện và lời nói vào trong bối cảnh của chúng, nỗ lực suy nghĩ lại ý nghĩa của chúng trong hoàn cảnh và văn hoá của chúng ta. Và điều này đòi hỏi thật nhiều lòng yêu mến và chú tâm, và hơn nữa, đòi hỏi một sự phân định kiên nhẫn và sáng suốt.
3
chúa hiến thánh chúng ta
bằng ơn thần khí của ngài
- nền tảng linh đạo chúng ta: sự thánh hiến
Chúa Thánh Thần thúc đẩy lịch sử tới chỗ hoàn thành và hiệp thông với Thiên Chúa. Ngài làm điều này nhờ lương tâm của mỗi người, như Đức Gioan Phaolô II nói: “Chúa Thánh Thần không ngừng đi vào lịch sử thông qua cõi lòng của con người.”[41] Nhưng ngài làm điều này cách đặc biệt thông qua những con người và những cộng đoàn có ý thức về sự hiện diện của ngài, đi theo các gợi ý của ngài, và để mình bị lôi kéo bởi các hứng khởi của ngài.
Ví dụ điển hình trong Kinh Thánh là Abraham: phát xuất từ ông, sự hiểu biết về một Thiên Chúa duy nhất và đức tin đã trở thành di sản của một dân tộc.
Còn có các ví dụ khác là các ngôn sứ: từ các cử chỉ và lời nói của họ phát sinh niềm hi vọng, ánh sáng và sự nâng đỡ cho mọi người.
Trong lịch sử hiện đại, các ví dụ về hoạt động này của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người và cộng đoàn, là các Giáo Hội, các thánh và các đặc sủng, các nhà tư tưởng tôn giáo, các mục tử: họ giống như một sự hội tụ hay những điểm từ đó phát toả năng lực của Chúa Thánh Thần.
Giữa những người này cũng có chúng ta, những Kitô hữu, tu sĩ, và linh mục: chúng ta được tháp nhập vào Đức Kitô nhờ Phép Rửa và chúng ta đã chọn theo ngài bằng việc tuyên giữ các lời khuyên phúc âm, đời sống chúng ta diễn ra dưới tác động của Thần Khí mà Đức Kitô ban cho các môn đệ ngài. Điều quan trọng là có ý thức về điều này và không để ý thức ấy hao mòn theo năm tháng.
Một trong những nét ấn tượng nhất trong cuộc đời Don Bosco là việc ngài xác tín mình được Thiên Chúa chọn để thực hiện một sứ mạng. Đây là chủ đề của giấc mơ đầu tiên, nó sẽ tạo thành kịch bản của tác phẩm “Memorie dell’Oratorio” của ngài. Nhưng cũng chính nhận thức này cho thấy điều đó khi ngài tóm tắt lịch sử của các tu hội.
Don Stella diễn tả điều này qua mấy câu: “Sự xác tín rằng mình chịu một sức ép đặc biệt của Thiên Chúa đã chi phối cả cuộc đời Don Bosco, nó là gốc rễ của những quyết định táo bạo nhất của ngài và nó sẵn sàng bùng nổ thành những hành vi khác thường. Niềm tin chắc mình là một dụng cụ của Chúa cho một sứ mạng đặc biệt đã ăn rễ sâu và vững chắc nơi ngài. (. . .) Nó xây nơi ngài nền tảng của thái độ tôn giáo đặc trưng của Người Tôi Tớ trong Kinh Thánh, của người ngôn sứ không thể nào gỡ mình ra khỏi ý muốn của Thiên Chúa.”[42]
Vì vậy, đối với ngài, làm việc cho những thanh thiếu niên nghèo khổ nhất không chỉ là đi theo một khuynh hướng tự nhiên hay đáp ứng một sự nhạy cảm xã hội đặc thù nào, mà là hoàn thành một nhiệm vụ mà ngài coi là được Thiên Chúa uỷ thác.
Nhận thức này chính là cơ sở cho mọi sự phát triển của linh đạo Salêdiêng chúng ta.
- sự thánh hiến của chúng ta
Tông huấn Vita Consecrata nhấn mạnh rất nhiều về sự kiện tu sĩ là những con người được hiến thánh. Hai số nói rõ điều này ngay trong tiêu đề: “In Spiritu: Được hiến thánh bởi Chúa Thánh Thần”.[43] Khi nói về Chúa Cha, tông huấn nhấn mạnh “Sáng kiến của Thiên Chúa”;[44] khi nói về Chúa Con, tông huấn nêu rõ nhu cầu theo ngài “Theo chân Đức Kitô”.[45] Nhưng tông huấn khẳng định rõ ràng rằng cả hai điều này có thể thực hiện được là vì Thần Khí làm sống động bên trong chúng ta. “Được hiến thánh như Đức Kitô vì Nước Thiên Chúa”[46] là tiêu đề của một số khác trong tông huấn nói một cách minh nhiên về sự thánh hiến.
Tông huấn cũng có số 32 nói về “Giá trị đặc biệt của đời sống thánh hiến”.
Không phải hết mọi người đều hài lòng với sự nhấn mạnh này, nhất là vì sợ rằng nó khiến người ta nghĩ các tu sĩ như là những con người thánh thiêng trong môi trường văn hoá xã hội. Thực vậy, não trạng ngày nay có khuynh hướng nghĩ về chúng ta như là những công dân như mọi người, chỉ khác là chúng ta đã chọn Thiên Chúa.
Không ai phải lo lắng hay sợ hãi, dù là một nghị viên Quốc hội hay bộ trưởng nội vụ. . . Sự chọn lựa này nằm trong lãnh vực các chọn lựa cá nhân, tuy rằng sau đó chúng ta diễn tả nó trong cộng đồng. Tuy nhiên ý nghĩ rằng điều này có thể khơi dậy trở lại sự hiện diện của những con người thánh thiêng nào đó trong xã hội đã đặt một số người vào thế tự vệ.
Ngay trong Hội Thánh cũng có một số người nghi ngờ khi nghĩ rằng các người thánh hiến có thể tự nghĩ về mình, hay người khác có thể nghĩ về họ, như là trổi vượt hơn những người khác (sự “trổi vượt khách quan” của đời thánh hiến). Do đó, thái độ không thích nhấn mạnh vào sự thánh hiến phát xuất từ mối lo sợ rằng những con người thánh hiến, về mặt xã hội, có thể được coi là những con người đặc biệt và thánh thiêng, và trong Hội Thánh, tương phản với quan niệm về Hội Thánh ngày na, là những con người trổi vượt.
Hiển nhiên ngôn ngữ có những giới hạn nội tại của nó, nhưng không điều nào trong hai điều ấy nói lên ý nghĩa của sự thánh hiến. Ở đây có một chân lý cần thấu triệt.
Sự nhấn mạnh của Tông huấn vào sự thánh hiến như là nét đặc trưng và phân biệt của tu sĩ, chúng ta cũng gặp thấy trong Hiến Luật chúng ta. Không thể không lưu ý đến sự giống nhau giữa hai bản văn. Hiến Luật giới thiệu chúng ta thực tại này khi nó lặp đi lặp lại rằng chúng ta được hiến thánh bằng ân huệ của Thần Khí. Hiến Luật SDB nói: “Chúa Cha hiến thánh chúng ta bằng ơn Thần Khí của ngài và sai chúng ta đi làm tông đồ cho thanh thiếu niên.”[47] Còn trong Hiến Luật FMA chúng ta đọc thấy: “Chúa Cha mời gọi chúng ta sống bí tích Thánh Tẩy cách sung mãn hơn và thánh hiến chúng ta bằng hồng ân của Thánh Thần.”[48]
Cũng không thể không lưu ý đến sự giống nhau của thành ngữ mà thánh Luca sử dụng khi nói về Chúa Giêsu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi; . . . Người đã xức dầu hiến thánh tôi và sai tôi đi. . .”[49] Điều đó cho thấy một sự ý thức mạnh về một sự kiện của hiện hữu xảy ra nơi chúng ta mà chúng ta hoàn toàn không phủ nhận, thậm chí còn cảm thấy mình được Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Khi chăm chú đọc toàn thể bản văn Hiến Luật, chúng ta thấy chủ đề hay động cơ này được trình bày rất thường xuyên, gần như lặp đi lặp lại một cách thái quá. Điều đó muốn nói rằng nó tạo thành nền tảng của toàn bộ kế hoạch đời sống chúng ta. Nó cũng còn được diễn tả bằng những lời khác tương tự như thế: ơn gọi, giao ước với Thiên Chúa, hiến mình hoàn toàn, tình ưu ái, chọn lựa triệt để. Tất cả chỉ diễn tả một điều duy nhất: một mối quan hệ hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa đấng ghi dấu ấn của ngài vào kinh nghiệm cá nhân của chúng ta và hoạt động giáo dục của chúng ta.[50]
Ngoài sự nhấn mạnh này, việc sử dụng động từ ở dạng bị động cũng đáng chú ý. Hiến Luật không nói “chúng ta tự hiến thánh mình” mà nói “chúng ta được hiến thánh”: chúng ta được hiến thánh không phải bởi một người, một nghi thức hay một tổ chức nhân loại hay thần linh nào, mà bởi Thần Khí: “Thiên Chúa hiến thánh chúng ta bằng ơn của Thần Khí.”
Sự thánh hiến không phải một cố gắng của chúng ta để đạt một mức nhân đức nào đó hay đạt được chính Thiên Chúa, và để hoàn toàn thuộc về ngài. Nhưng nó là một sự viếng thăm, một quà tặng, là việc ngài đến với chúng ta, là sự tuôn đổ hồng ân của ngài trên đời sống chúng ta. Chúng ta thấy rõ điều này trong các ơn gọi ngôn sứ. Các ơn gọi này xảy ra đột xuất và không thể đoán trước. Không phải vị ngôn sứ cất bước đi tìm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa bao phủ họ, chiếm đoạt họ. Ngôn sứ Amos nói ông đang chăn đoàn chiên thì nghe tiếng Chúa gọi.[51]
Ít năm trước, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin xuất bản một văn kiện về “Một vài khía cạnh của việc suy niệm Kitô giáo” (15 tháng 10, 1989). Lý do dẫn tới việc xuất bản văn kiện này là sự phổ biến tràn ngập các lối thực hành suy niệm của phương Đông. Đọc văn kiện này chúng ta hiểu rõ sự khác biệt giữa một nền linh đạo duy lý-tự nhiên và nền linh đạo Kitô giáo. Nền linh đạo tự nhiên có vẻ là một sự chinh phục thuần tuý: qua một nỗ lực tìm kiếm tri thức và làm chủ các cử động bản năng, con người đạt tới giác ngộ. Ngược lại, đời sống thiêng liêng Kitô giáo được quan niệm như một ân huệ của Thánh Thần. Nó là một sự mở lòng lắng nghe, đáp lời, để mình bị chiếm hữu, đón nhận. Nó là ân sủng. Sáng kiến và các khả năng không ở trong chúng ta.
Cho nên trong linh đạo phương Đông, con đường chính yếu là sự ý thức về mình, sự tu luyện để làm mình tin tưởng vào khả năng của chính mình và sự thoả mãn vì có những thành công tiếp theo. Trong nền linh đạo Kitô giáo, con đuờng chính là đức ái. Đó là việc cảm thấy một sự hiện diện biến chúng ta thành đối tượng của tình yêu ưu ái và đáp lại bằng tình yêu. Nó hoàn toàn đặt nền trên mối quan hệ này. Điều quan trọng không phải là ý thức về giá trị của mình cho bằng tâm tình biết ơn. Người Kitô giáo là một hữu thể biết ơn: “Chúng con tạ ơn Cha vì vinh quang vô biên của Người.”
Còn một điểm đặc thù nữa cần rút ra từ các lời của Hiến Luật: ý nghĩa toàn diện được gán cho từ này. Thánh hiến không phải “một” yếu tố của đời sống Salêdiêng, mà nó bao gồm “toàn thể” đời sống chúng ta. Nó không chỉ bao gồm các lời khấn; nó là tất cả hữu thể và hành động của một người, trong suốt cuộc đời, được ghi dấu ấn bởi sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Về điểm này chúng ta phải ghi nhận sự khác biệt giữa một cô y tá giỏi, thậm chí dễ thương và ân cần, với một chị nữ tu làm y tá. Vấn đề không hệ tại chất lượng phục vụ hay thậm chí hệ tại cung cách bác ái, bởi có những cô y tá thật tuyệt vời cả trong phương diện này. Chất lượng của chị nữ tu nằm ở chỗ khác: ở những giá trị bên trong thực tại chị nữ tu, mà chị phải tìm cách biểu lộ qua đức ái.
Trong thực tại và nhận thức về sự thánh hiến này, sau một thời kỳ suy tư và tranh luận, người ta tìm ra nền tảng và nét đặc trưng của đời sống tu trì: một đời sống cảm thấy bị lôi kéo về Thiên Chúa và tập trung vào ngài, dù là tìm kiếm ngài trong kinh nguyện, trong thinh lặng và cô tịch, hay là dấn thân phục vụ ngài trong đồng loại qua đức ái.
Suy tư của Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng không một yếu tố nào, ngoài yếu tố này, có thể tạo căn tính cho đời sống tu trì trong thế giới hiện đại: không phải các hoạt động giáo dục hay xã hội, không phải việc tình nguyện phục vụ các nước nghèo, cũng không phải việc đấu tranh cho chính nghĩa của con người; chỉ có sự kiện người ta nhìn nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa trong việc định hướng và tổ chức đời sống của chính mình. Ngày nay hơn bao giờ, đời tu đòi hỏi sự trong sáng.
Từ đó chúng ta thấy sự yếu kém của một ơn gọi khi động cơ của nó chỉ là hoạt động giới trẻ hay công cuộc truyền giáo. Các động cơ này sẽ cạn kiệt dần nếu chúng không đâm rễ sâu nơi những động cơ khác vững chắc và lâu bền hơn.
iii. sự thánh hiến: ân huệ của Thiên Chúa và kinh nghiệm bản thân
Rõ ràng ngày nay khi nói về thánh hiến, người ta nghĩ đến một kinh nghiệm cá nhân và nội tâm, hơn là nghĩ đến các yếu tố bên ngoài, xã hội, tổ chức, nghi thức, là những cái có thể đưa những con người vào một tình trạng đặc biệt trong xã hội hay trong cộng đồng Kitô giáo.
Khi chúng ta nói về sự thánh hiến của mình, chúng ta nghĩ đến ba sự kiện của đời sống chúng ta.
Sự kiện thứ nhất là ân sủng, ân huệ, linh hứng, ơn gọi, sáng kiến, sự xâm nhập của Thiên Chúa. Ngài làm chúng ta cảm nghiệm được ngài trong đời sống chúng ta đến độ bao trùm toàn diện đời sống chúng ta và ở đó ngài trở thành “động cơ” chính. Ngài là người chúng ta nghe nhiều nhất và một cách chăm chú và hứng thú nhất. Sự quyến rũ hay say đắm Thiên Chúa này là một sự kiện và một kinh nghiệm mà chúng ta có thể khơi dậy trở lại.
Chắc chắn chúng ta nhớ rõ khi nào và như thế nào chúng ta đã quyết định chọn ngài, giống như các cặp vợ chồng nhớ rõ họ đã gặp nhau và phải lòng nhau như thế nào. Với một số người có thể là một sự soi sáng bất ngờ và đầy ấn tượng vào một giờ phút thiêng liêng sâu đậm nào đó, một cuộc tĩnh tâm chẳng hạn. Với đa số, mọi sự diễn ra một cách tiệm tiến: một cuộc tiếp xúc thử đầu tiên với các môi trường hay các con người có liên quan tới đời tu, mà nơi họ mình nhận ra một giá trị đặc biệt nào đó. Rồi sau đó, từng bước, khám phá ra nguồn mạch của các giá trị đó; tham dự vào kinh nghiệm của những người đã gây ấn tượng mạnh đối với mình, bằng tình bạn, sự cộng tác và tin cậy. Sau cùng, người ta cảm thấy bị “bắt chộp”, theo thành ngữ thánh Phaolô đã dùng: “Tôi đã được Đức Kitô chiếm đoạt.”[52]
Đó là kinh nghiệm Kinh Thánh của việc thuộc về Thiên Chúa và không thể nào gỡ mình ra khỏi ngài: “Ngài đã quyến rũ con, lạy Chúa, và con đã để cho ngài quyến rũ. . . Lời ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng không làm sao nén được!”[53]
Thế là trong thâm tâm chúng ta có sự xác tín mình được Thiên Chúa chú ý và yêu mến, không phải một cách chung chung như trong một đám đông, mà một cách cá nhân: “Ta đã gọi đích danh ngươi”[54] “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở.”[55]
“Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để chúng ta được làm nghĩa tử của Người.”[56] Các thành ngữ mang âm giọng này thì đầy dẫy trong Kinh Thánh khi mô tả thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta, đã lập cư trong lòng chúng ta và chúng ta đã nói: đây là điều làm tôi thuyết phục, đây là con đường tôi phải đi.
Đồng thời chúng ta có bằng chứng đây là một ân sủng, một điều gì mà chúng ta không đáng được cũng không tìm kiếm, nhưng nó đã đến gặp chúng ta, đã đi vào đời sống chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta nghe kể những câu chuyện cá nhân này khi trong các cuộc giao lưu giới trẻ, một giáo sư trẻ nào đó kể lại cho bạn bè làm thế nào và tại sao họ đã quyết định bước vào đời tu.
Năm 1993 các chị dòng Clarít mừng 900 năm dòng của họ. TV đã phỏng vấn một vài chị. Câu hỏi mà các nhà báo tò mò muốn biết nhất là đâu là các lý do hay sự kiện đã dẫn các chị đến quyết định chọn một nếp sống như thế. Các câu trả lời cho thấy các giai thoại hay các hoàn cảnh rất đa dạng. Nhưng ẩn bên dưới tất cả vẫn là cùng một ý tưởng: sau một tia sáng đầu tiên loé lên từ giá trị của Đức Kitô, của Thiên Chúa Cha đối với đời sống của mình, sự suy tư đã dẫn họ tới việc chọn các ngài làm “tình yêu” của cuộc đời họ, họ yêu thích các ngài hơn tất cả mọi sự và mọi kinh nghiệm nhân loại nào khác.
Kinh nghiệm này không suy giảm dần theo tuổi tác hay thói quen, nhưng trưởng thành và phải làm đầy cuộc sống. Nếu nó suy tàn, đời tu sẽ mất đi động cơ của nó và sẽ bị kéo lê trong thái độ của nghĩa vụ, nghĩa là chỉ làm đúng những bổn phận của mình.
Khi kinh nghiệm này mất đi, sự căng thẳng sẽ xảy ra cho chúng ta giống như xảy ra cho các cặp vợ chồng mệt mỏi phải tiếp tục sống chung trong hoà bình, vì họ không còn cảm nhận được tình yêu của nhau và đời sống không còn hứng thú nữa.
Sự thánh hiến không chủ yếu hệ tại một sắc lệnh, một tập hợp các dấu hiệu bề ngoài, một địa vị xã hội hay một sự cách ly khỏi thế gian; mà trên hết nó hệ tại sự kiện Thiên Chúa đã đi vào trong cuộc đời của một người và đã lấy nó làm nơi cư ngụ chính, ngài ngự ở đó và làm cho nó thành người đối thoại và đối tác của ngài. Cho nên sự thánh hiến không là độc quyền của các tu sĩ và thậm chí của các người Kitô giáo. Bất cứ ở đâu Thiên Chúa can thiệp, bằng việc sáng tạo hay cứu độ, ngài đều hiến thánh bằng sự hiện diện của tình yêu Người và ban cho phẩm giá bất khả xâm phạm. Sự thánh hiến đầu tiên là sự hiện hữu của con người: nó là hành vi tình yêu đầu tiên thiết lập tính chất bất khả xâm phạm của con người và địa vị của con người trên mọi tạo vật.
Nhờ đức tin và phép rửa, là sự Thiên Chúa tự thông truyền qua thừa tác viên của Hội Thánh, việc chúng ta thuộc về Thiên Chúa trở nên ý thức và biến đổi thành nguyên lý phát triển con người chúng ta. Chính chúng ta từng nhiều lần cắt nghĩa cho thanh thiếu niên khi nói về sự thánh hiến của phép rửa rằng nó làm chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, thành viên của dân ngài, và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Cái đặc sắc của người tu sĩ là họ cảm thấy tất cả điều này như là yếu tố chính, một điểm không thể từ chối để thể hiện bản thân mình. Sáng kiến của Thiên Chúa đến với họ vào lúc họ lập kế hoạch đời sống mình: nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần, họ lôi kéo sáng kiến ấy về với mình một cách triệt để và tuyệt đối. Cũng có thể họ không tuyên khấn tu trì và Hội Thánh không sát nhập sự kiện này của đời sống vào sứ mạng và sự hiệp thông hữu hình, nhưng sự kiện này tự nó vẫn tồn tại. Tất nhiên nó có ít sức mạnh và ý nghĩa. Sự kiện gia nhập một dòng tu cũng là sự tỏ lộ công khai việc gắn bó với một kế hoạch đời sống, là một chọn lựa tốt hơn và một con đường thoả đáng hơn. Tuy nhiên sự thánh hiến trước tiên là chỗ ở mà Thiên Chúa đã lấy trong một cuộc đời, trong trí khôn, trong con tim, v.v… Điều này là để nhấn mạnh rằng chúng ta hoàn toàn không phải như quan niệm của những người coi chúng ta là những con người thánh thiêng trong xã hội. . . . . . ; chính chúng ta cũng không hề tự nghĩ về mình như thế!
- một chọn lựa và một kế hoạch đời sống
Từ sự kiện đầu tiên này, trong đó nhân vật chính là Thiên Chúa, phát sinh một sự kiện thứ hai: sự chọn lựa đời sống của chúng ta. Chín muồi nơi chúng ta sự xác tín, sự hiểu biết hay cảm giác rằng chúng ta thuộc về ngài, rằng “trong ngài chúng ta sống, cử động và hiện hữu”,[57] rằng ngài là trên hết và quan trọng duy nhất, không phải một cách trừu tượng hay chung chung, cho thế giới hay cho loài người, mà cho chúng ta. Chúng ta tư duy trong ngài. Chúng ta tìm kiếm ngài “từ rạng đông”,[58] nghĩa là không ngừng.
Từ đó phát xuất một mối tương quan sẽ đổ đầy đời sống chúng ta bằng ý nghĩa và sự an bình, kể cả trên bình diện tâm lý, và tạo nét đặc trưng cho chúng ta trước mặt thế giới. Người thánh hiến là người đã đặt Thiên Chúa và giá trị tôn giáo (đức tin) vào trung tâm hiện hữu của mình. “Chúa là phần gia nghiệp con.”[59] Thế là người ấy tự trao ban mình, hiến mình hoàn toàn, tự hiến thánh mình theo nghĩa tương tự của từ này. Cố gắng của họ là đạt đến chỗ trở thành tạo vật chỉ có một ước muốn duy nhất, sống tình yêu Thiên Chúa hay mầu nhiệm Thiên Chúa không như một dịp nghỉ ngắn cuối tuần hay một chốc lát nghỉ ngơi trong ngày, ví dụ, trong thánh lễ hay lúc cầu nguyện, mà như một tình trạng và một sự quan hệ thường hằng, là nền tảng cho mọi chọn lựa của họ.
Nhiều người không hiểu được các lý do hay ý nghĩa của sự chọn lựa này. Nhưng họ lãnh hội được sự nhất quán nội tại của nó. Họ cảm phục những ai có khả năng diễn tả nó bằng đời sống và hành động, và ngược lại họ phê bình những ai, sau khi có sự chọn lựa này, đã đặt vào trung tâm hiện hữu của mình những giá trị không phù hợp hay xa lạ với nó.
Chúng ta đảm nhận một kế hoạch cụ thể, một hình thức hiện hữu hữu hình mang dấu ấn của Thiên Chúa, chúng ta sát nhập mình vào một cộng đoàn đã có cùng sự chọn lựa này và đã dọn sẵn một hành trình để phát triển nó. Cả kiểu sống này cũng là một kiểu “thánh hiến” không phải vì sự cách ly thể lý khỏi thế giới, khỏi các dấu hiệu hay việc thực hành bề ngoài (đây sẽ là một quan niệm xa lạ với đức tin Kitô giáo), nhưng bởi vì nó được hoạch định và tổ chức trong ánh sáng của mối tương quan với Thiên Chúa và Nước ngài, một mối tương quan có sức biến đổi con người chúng ta.
Về điểm này, người ta thường nhấn mạnh việc bắt chước Đức Kitô, được diễn tả trong các lời khấn. Cần phải thêm vào hai đòi hỏi khác. Trước hết là tình thân mật với Chúa Kitô. Chấp nhận những ưu tiên hành động và những thái độ của ngài mà thôi không đủ. Ngài muốn chúng ta quan hệ với ngài. Đức Giêsu là một con người sống mà chúng ta phải gặp gỡ và sống trong ngài. Giữa người thánh hiến và ngài có một mối quan hệ sâu xa. Đời sống của các tông đồ dạy chúng ta biết điều đó. Thực vậy, Chúa Giêsu từng có các người nghe ngài, ngưỡng mộ ngài, theo ngài, các môn đệ và một số người đặc biệt thân mật và nghĩa thiết với ngài: “Anh em là bạn hữu của thầy.”[60]
Ngày nay khi mọi yếu tố cơ chế tỏ ra suy yếu và mọi sự liên kết hình thức có vẻ “tạm bợ”, lối diễn tả phúc âm này về sự trung thành và tình yêu có thể gợi ý cho chúng ta nhiều điều.
Đây là chỗ thích hợp cho một lời bình luận: nên dành chỗ cho những biểu hiện tình cảm bằng hữu thân mật với Đức Kitô ngoài những biểu hiện thực tiễn. Cần tránh hai thái cực: biến đổi tình yêu thành một tình cảm hời hợt bên ngoài, một chuyển động thuần tuý của sự nhậy cảm gần như của tuổi thiếu niên; và ở thái cực kia, làm quả tim chúng ta khô cằn với một thái độ nặng về lý trí. Nếu nhiều lần ý chí bị kìm hãm trong tình yêu Thiên Chúa, đó là vì sự nhậy cảm con người của chúng ta bị khô héo. Bao lâu đức tin hay tư tưởng về Thiên Chúa còn chưa đạt tới các tình cảm, nó vẫn chỉ là phụ thuộc và cằn cỗi. Đã từng có những vị thánh bộc lộ một tình yêu rất dịu dàng đối với Thiên Chúa. Chúng ta có thể nhớ đến thánh Phanxicô Assisi, và cũng không kém, tuy với một phong cách khác, thánh Phanxicô Salê, vị thánh mà linh đạo của chúng ta từ đó phát sinh.
Ngoài việc bắt chước và tình thân mật với Chúa Giêsu, còn có sự tham dự tích cực vào mục đích của ngài, nghĩa là tiêu hao đời mình vì những người mà ngài đã làm việc và chịu đau khổ cho.
Ba yếu tố này chúng ta diễn tả bằng việc tuyên khấn. Các văn thức tuyên khấn xưa kia thì cô đọng và súc tích. Các văn thức ngày nay ngược lại dài dòng và phân tích hơn. Tuy nhiên tất cả đều mang tính đặc trưng bởi vì chúng nhấn mạnh rằng đối tượng của sự thánh hiến không phải là các sự vật, cũng không phải các hoạt động hay các bó buộc đạo đức, mà là con người; rằng lý do là tình yêu Thiên Chúa được nhận ra và ước muốn đáp lại tình yêu ấy. Vì vậy các đòi hỏi của sự thánh hiến là toàn diện, độc quyền, trọn đời: hoàn toàn, một mình, mãi mãi. Có một thời công thức phổ biến được viết là “cho đến chết.” Nó không phải mang ý nghĩa về thời gian mà mang ý nghĩa về cường độ: cho tới mức toàn thiêu, bị đốt cháy hoàn toàn.
Việc tuyên khấn có một tầm quan trọng đặc biệt trong tổ chức và sự phát triển đời sống thiêng liêng của chúng ta. Vì thế phụng vụ ngày nay làm tăng giá trị việc tuyên khấn bằng một cuộc cử hành phong phú. Sự hiện diện đông đảo của cộng đoàn làm nổi bật khía cạnh xã hội của nó. Thời kỳ chuẩn bị trực tiếp xác nhận cho nó một nét cá biệt độc đáo. Thực vậy, cùng một lúc có sự nhìn nhận công khai của cộng đồng Hội Thánh về sự đổ tràn Thiên Chúa vào đời sống một con người, lời đáp tình yêu của người này trước lời mời của Thiên Chúa, việc đảm nhận một kế hoạch đời sống. Trên nền tảng của sự cam kết mà họ thực hiện, họ sẽ xây dựng hiện hữu của mình.
Đây không phải một hành vi thoáng qua, một chữ ký vào một văn bản, mà là khởi điểm của một mối quan hệ lâu dài, giống như quan hệ của hôn nhân. Từ nó sẽ phải trào vọt ra các thái độ, cử chỉ và lời nói. Vì thế kết quả không phải chỉ là một ý hướng nên thánh mà còn là một nguồn mạch ân sủng, giống như đối với vợ chồng là lời hứa ban đầu sẽ thuộc về nhau.
- các hệ quả quan trọng
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể rút ra một ít suy tư cho đời sống chúng ta.
Những người thánh hiến:
- Là những người đàn ông và đàn bà theo nghĩa tôn giáo, và điều này bao gồm mọi người, dù là tín hữu hay không. Đời sống cá nhân và tập thể dựa trên một tập hợp các giá trị mà mọi người chấp nhận: tôn trọng người khác, lao động, sức khoẻ, lương thiện, trách nhiệm xã hội. Nói đến tập hợp là cho thấy giữa chúng có một tổ chức và một bậc thang để có thể coi chúng như một hệ thống. Mỗi người chúng ta đặt một số giá trị mình ưa thích hơn vào trung tâm, và tổ chức toàn bộ các giá trị một cách nhất quán các giá trị trung tâm này.
Những người thánh hiến chú tâm vào giá trị tôn giáo và từ đó họ dọi phóng ra các giá trị khác, đồng thời luôn quay trở về với giá trị tôn giáo như lý do biện minh và điểm xuất phát của tất cả những gì họ làm. Vì giá trị này, họ đảm nhận việc giáo dục, chăm sóc bệnh nhân, chuyên lo công việc nghiên cứu. Mọi lãnh vực hoạt động của con người đều mở rộng cho những người thánh hiến, miễn là sự gợi hứng và động cơ của chúng phù hợp với người đã lấy Thiên Chúa làm sự lựa chọn chính của mình. Có sự khác biệt lớn giữa một nhà giáo dục lương thiện và giỏi chuyên môn với một nhà giáo dục là tu sĩ.
Sẽ có sự bất thường khi một chiều kích khác lấn át và ý thức tôn giáo trở thành thứ yếu. Đặc biệt trong các tu hội chuyên lo giáo dục hay các việc phục vụ khác, có thể có một sự mất cân đối giữa vai trò chuyên môn và việc chứng tá tôn giáo. Tillard nói rằng ý thức tôn giáo đối với người thánh hiến là vệ sinh đối với bác sĩ. Một sự thiếu sạch sẽ có thể dung thứ được nơi bất cứ ai, nhưng nơi một bác sĩ phẫu thuật thì là điều thiếu nghiêm túc.
- Họ tỏ ra là những nhà chuyên môn trong kinh nghiệm về Thiên Chúa. Họ không chỉ chọn linh đạo làm con đường sống chính của họ; mà họ còn tự nguyện trở thành những người đối thoại cho tất cả những ai trên thế giới đang đi tìm Thiên Chúa. Với những ai đã là Kitô hữu, họ cống hiến những người này khả năng để cùng với họ có kinh nghiệm tôn giáo, và với những ai chưa là Kitô hữu họ đứng bên cạnh và đồng hành trên con đường tìm kiếm. Kinh nghiệm tôn giáo là nguồn gốc ơn gọi của họ. Kế hoạch đời sống mà họ đảm nhận giúp vun trồng ơn gọi này và đặt nó ưu tiên về thời gian và hoạt động. Đàng khác, mọi Kitô hữu đều phải và muốn có kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa; nhưng vì họ chỉ có thể dành phần nào thời gian và ở trong những điều kiện sống kém thuận lợi hơn, nên dễ có nguy cơ chểnh mảng việc này.
Các người thánh hiến đồng thời cũng là một sự nhắc nhở về Thiên Chúa cho những người Kitô hữu và không Kitô hữu, và một sự trợ lực cho những người muốn tìm kiếm, nhận ra và nếm cảm sự hiện diện của ngài.
Trong đời sống có một qui luật áp dụng cho mọi lãnh vực: không một giá trị nào tồn tại trong xã hội mà không có một nhóm người hoàn toàn hiến mình để phát triển và duy trì nó. Không có giới thầy thuốc và tổ chức của các bệnh viện thì không thể nào có sức khoẻ. Không có các nghệ sĩ và các tổ chức nghệ thuật thì óc nghệ thuật của dân chúng sẽ mai một. Điều này cũng xảy ra như thế với ý thức về Thiên Chúa: các tu sĩ, dù là người chiêm niệm hay hoạt động, là tập thể những con người thần bí có khả năng giúp đỡ đồng loại đọc được ý nghĩa đời sống của họ trong ánh sáng của cái tuyệt đối và kinh nghiệm cái tuyệt đối.
Đó là điều thuộc về các mục tiêu chính của đời tu. Vì thế các đấng sáng lập đã đặt ý thức về Thiên Chúa vượt lên trên mọi hoạt động và mọi khía cạnh khác. Những người tin đạo cũng như không tin đạo đều nhận ra tình trạng đạo đức tầm thường của các tu sĩ như là một sự thoái hoá. Bản thân các tu sĩ này cũng cảm nhận một sự trống rỗng không thể lấp đầy khi họ mất ý thức về Thiên Chúa. Lúc ấy bắt đầu có các khủng hoảng và chúng cứ lớn dần.
Tông huấn Vita Consecrata đã nhìn đời sống tu trì như là nơi ưu việt cho cuộc đối thoại giữa các tôn giáo lớn,[61] bởi vì tự nguồn gốc của nó có một sự chọn lựa được chia sẻ chung giữa mọi người có tình cảm tôn giáo sâu xa.
HL Salêdiêng nhắc nhớ điểm này ở điều 62: “Trong một thế giới bị quyến rũ bởi thuyết vô thần và việc sùng bái các ngẫu tượng khoái lạc, của cải và quyền lực, lối sống của chúng ta làm chứng, đặc biệt cho thanh thiếu niên, rằng Thiên Chúa hiện hữu và tình yêu ngài có thể lấp đầy một cuộc sống.”
Diện mạo chuyên nghiệp này của chúng ta được chứng tỏ bằng kinh nghiệm cá nhân của chúng ta về Thiên Chúa được nhận ra, trở nên ý thức, đào sâu, tìm kiếm và chín muồi nơi con người trưởng thành. Và bằng khả năng khơi dậy kinh nghiệm về Thiên Chúa nơi những người khác, đặc biệt các thanh thiếu niên. Họ ước ao, ít là vì tò mò hay vì một cảm giác thoáng qua, có những khoảnh khắc cảm nghiệm thiêng liêng. Sự kiện này được thấy rõ trong các nhà tĩnh tâm. Thế nhưng trong nhiều nhà tĩnh tâm, các hội viên Salêdiêng thường quan tâm nhiều tới việc điều hành hơn là việc hướng dẫn thanh thiếu niên khám phá Thiên Chúa, cảm nhận ngài trong cuộc đời họ.
- Đảm nhận sự thánh thiện như mục tiêu chính của cuộc đời. Không chỉ hướng tới nó như một sự đúng đắn tinh thần hay một nỗ lực tu đức, mà như một lối sống và quan hệ, qua đó chúng ta tỏ lộ một cách nào đó mầu nhiệm Thiên Chúa có sức giải phóng và gần gũi.
Các thánh thường được gọi là sự tỏ lộ khuôn mặt của Đức Kitô hôm nay. Thánh Vinh Sơn Phaolô từng nói: “Nếu Đức cha Phanxicô Salê dễ mến như thế, thì Chúa Giêsu còn tốt lành biết chừng nào.”
Hiến Luật nói sự thánh thiện là quà tặng quí báu nhất mà chúng ta có thể trao ban cho thanh thiếu niên. Trong thực tế, việc xây dựng nhân bản của họ là công việc rất khó khăn. Họ bị chìm ngập bởi biết bao những thông điệp và gợi ý từ bên ngoài, khiến họ rất khó có thể phân định và chọn lựa.
Không dễ để các thanh thiếu niên nhận ra được ý nghĩa rõ ràng trong bối cảnh trần tục, và bầu khí phóng khoáng của xã hội ngày nay làm họ khó có được các chuẩn mực đạo đức chín chắn; và cũng không dễ để họ tin rằng Đức Kitô hiện đang sống hôm nay chứ không phải chỉ là một câu truyện của quá khứ.
Có thể nói thêm rằng sự thánh thiện cũng là sự cống hiến của tu sĩ cho văn hoá và việc thăng tiến con người. Thực vậy, sự thánh thiện cũng có một giá trị trần thế không chỉ nhờ các công cuộc bác ái cho người nghèo, mà còn nhờ ý nghĩa và phẩm giá nó đưa vào trong cuộc sống chung của loài người.
Congar viết: “Cái mới to lớn nhất của Công Đồng là: nếu Hội Thánh ở trong thế giới và trong thế giới có các vấn đề, thì sự thánh thiện là một hiện tượng mà nền văn hóa phải quan tâm đến. Đây có vẻ là một khái niệm có thể tranh cãi, nhưng một trực giác trọng tâm của Công Đồng là sự thánh thiện có liên quan với lịch sử. Với biến cố Nhập Thể, lịch sử của con người là nơi bộc lộ tình yêu của Thiên Chúa; do đó sự thánh thiện không phát sinh từ việc trốn tránh hay phủ nhận thế giới, bởi vì tuỳ theo mức độ tôi dấn mình vào trong thế giới để cứu rỗi nó mà tôi tìm thấy món quà tặng lớn của Thiên Chúa.”[62]
Chúng ta đã suy tư đôi chút về sự thánh hiến và việc tuyên khấn của chúng ta; những suy tư này cho chúng ta thấy rõ ràng những hệ luỵ cho đời sống chúng ta. Từ đó, những người thi hành quyền bính có nhiệm vụ cấp bách sinh động hoá việc thánh hiến tu trì, để sống nó trong sự sung mãn các ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.
4
đức ái mục tử
Trên kia chúng ta đã thấy “kiểu mẫu” con người thiêng liêng là Don Bosco: nhân bản sâu xa và hoàn toàn cởi mở với Thiên Chúa; sự hoà hợp của hai chiều kích này được thể hiện trong một kế hoạch đời sống được đảm nhận bằng quyết định: phục vụ thanh thiếu niên. Điều này được nêu bật qua lời bình luận: “Ngài đã không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào một việc gì, mà không nhắm cứu vớt giới trẻ.”[63]
Tuy nhiên nếu xem xét kỹ kế hoạch của ngài đối với giới trẻ, chúng ta thấy ngài có một “tấm lòng”, một yếu tố tạo cho ngài hướng đi và nét độc đáo: “Thật sự ngài không chú tâm vào điều gì khác ngoài các linh hồn.”[64]
Sau đó có một giải thích xa hơn và đích đáng hơn về sự thống nhất đời sống của ngài: bằng việc hiến mình cho thanh thiếu niên, ngài muốn thông truyền cho họ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Sự hiến mình của ngài không chỉ là lòng quảng đại, mà là đức ái mục tử. Đức ái mục tử được coi là “tâm điểm và tổng hợp” của tinh thần Salêdiêng.[65]
“Tâm điểm và tổng hợp” là một khẳng định tích cực. Nếu chỉ liệt kê các nét đặc trưng, thậm chí cơ bản của linh đạo chúng ta, mà không tích cực thiết lập giữa chúng một tương quan hay bậc thang giá trị, thì dễ làm hơn là chọn lọc ra trong đó một nét đặc trưng chính yếu. Trong trường hợp này, cần đi vào tâm hồn của Don Bosco và của người Salêdiêng để khám phá ra điều gì cắt nghĩa phong cách của ngài.
Để hiểu đức ái mục tử bao gồm điều gì, chúng ta thực hiện ba bước sau đây: trước hết suy tư về đức ái, rồi riêng về tính chất mục tử, và sau cùng về đức ái mục tử Salêdiêng.
- đức ái
Thánh Phanxicô Salê từng nói câu này: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ; tình yêu là sự hoàn thiện của con người; đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu.”[66]
Đó là một vũ trụ quan nhìn bốn kiểu hiện hữu theo một trật tự lên dần: hữu thể, con người, tình yêu như dạng cao hơn mọi dạng ý thức và quan hệ nhân bản nào khác, đức ái như biểu hiện lớn nhất của tình yêu.
Tình yêu là điểm tối ưu của sự trưởng thành của mọi người, bất luận là Kitô hữu hay không. Cố gắng giáo dục nhằm mục tiêu đưa con người tới chỗ có khả năng tự hiến, tới một tình yêu nhân hậu.
Không riêng gì Chúa Giêsu, các nhà tâm lý học cũng nói rằng con người hoàn hảo và hạnh phúc có khả năng sống quảng đại và vô vị lợi, và tránh thứ tình yêu thuần dục vọng, nghĩa là để thoả mãn vì được yêu. Nhiều hình thức tâm bệnh hay rối loạn nhân cách phát xuất từ việc qui về bản thân mình. Và tất cả các liệu pháp tương ứng đều nhằm mở ra để hướng về người khác.
Do đó đức ái là mục tiêu chính của linh đạo: nó không chỉ là giới luật thứ nhất và chính yếu, và do đó là chương trình chính của hành trình thiêng liêng, mà còn là nguồn năng lượng để tiến tới. Có rất nhiều suy tư về đức ái, nhất là nơi thánh Phaolô[67] và thánh Gioan.[68]
Chúng ta nêu ra mấy điểm nòng cốt.
Đức ái được đốt lên trong lòng chúng ta là một mầu nhiệm và một ân sủng; nó không xuất phát từ sáng kiến con người nhưng là sự tham dự vào đời sống thần linh và là hiệu quả của sự hiện diện của Thánh Thần. Chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu ngài đã không yêu chúng ta trước, bằng cách làm chúng ta cảm nghiệm ngài và cho chúng ta sự thích thú và hiểu biết để đáp ứng điều này. Chúng ta cũng không thể yêu mến đồng loại và thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi họ, nếu chúng ta không có kinh nghiệm cá nhân về tình yêu Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.”[69] Mặt khác, chính tình yêu nhân loại cũng không thể lý giải được, vì thế người ta thường nói tình yêu mù quáng. Không ai có thể lý giải cách chính xác tại sao một người lại đem lòng say mê một người khác.
Vì bản chất này của đức ái, tham dự vào sự sống thần linh và kết hiệp mầu nhiệm với Thiên Chúa, đức ái tạo ra trong chúng ta khả năng khám phá và nhận biết Thiên Chúa: tôn giáo mà không có tình yêu thì đưa người ta xa rời Thiên Chúa. Tình yêu đích thực, dù là tình yêu thuần nhân loại, đưa những con người xa cách đến với đức tin và môi trường tôn giáo. Dụ ngôn người Samari nhân hậu làm nổi bật tương quan giữa tôn giáo và đức ái bằng cách đặt đức ái lên trên.
Thánh Gioan tóm tắt điều này như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.”[70] Ý nghĩa của động từ “biết” là “có kinh nghiệm”, hơn là có những khái niệm chính xác: ai yêu mến thì có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa.
Vì vậy đức ái là khả năng cho phép chúng ta biết Thiên Chúa qua kinh nghiệm, thì cũng làm chúng ta vui hưởng ngài: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.”[71]
Vì đức ái không chỉ là một nhân đức đặc thù, mà là mô thể và chất thể của mọi nhân đức và của tất cả những gì tạo thành con người: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa. . . Giả như tôi được ơn nói tiên tri hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non. . . và giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí. . . mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.”[72]
Vì vậy đức ái và những gì phát xuất từ nó là những thực tại sẽ tồn tại mãi, không bị mai một theo thời gian: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. . . Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi.”[73] Điều này không chỉ áp dụng cho đời sống, mà cho cả lịch sử chúng ta. Những gì xây dựng trên tình yêu thì tồn tại và kiến tạo con người chúng ta, cộng đoàn chúng ta, xã hội chúng ta. Trong khi những gì xây dựng trên sự giận ghét và ích kỷ thì sẽ tiêu tan.
Cho nên đức ái là đặc sủng lớn nhất và là gốc của mọi đặc sủng khác, nhờ đó Hội Thánh được xây dựng và hoạt động. Ngay sau khi cắt nghĩa mục đích và nhiệm vụ của các đặc sủng khác nhau, thánh Phaolô bắt đầu một bài giảng về đức ái với những lời này: “Anh em cứ thiết tha tìm kiếm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.”[74]
Nó là đặc sủng chính cả khi nó được diễn tả qua những cử chỉ hằng ngày và không tỏ ra điều gì phi thường hay ngoạn mục: đức mến “thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.”[75]
Đối với Don Bosco và Mẹ Mazzarello, cũng như đối với mọi vị thánh, đức ái trung tâm. Nó là điều chính yếu được nhấn mạnh trong cuộc đời các ngài. Chúng ta cần biết và nói lên điều này. Trong thực tế, thỉnh thoảng có một vài người Salêdiêng có kinh nghiệm về nó, khám phá tầm quan trọng của đức ái trong một phong trào Hội Thánh, sau nhiều năm sống trong Tu Hội. Có vẻ như trong Tu Hội chúng ta đã không được nghe nói về đức ái một cách hiệu quả, và đã không có thể sống nó một cách sâu đậm.
Trong giấc mơ mười viên ngọc—là một dụ ngôn về tinh thần Salêdiêng—đức ái được đặt ở phía trước và ngay trên quả tim của nhân vật: “Ba trong số các viên ngọc ở phía trước ngực. . .viên ở trên quả tim có hàng chữ: ĐỨC ÁI”.[76] Qua giấc mơ hay dụ ngôn này, chúng ta biết cái được đặt phía trước chính là phần nền tảng của tinh thần chúng ta.
Hơn nữa, đức ái được các đấng sáng lập của chúng ta khuyên dạy theo rất nhiều hình thức: như nền tảng của đời sống cộng đoàn, như nguyên tắc sư phạm, như nguồn mạch lòng đạo đức, điều kiện để có sự quân bình và hạnh phúc cá nhân, thực hành các nhân đức đặc biệt, như tình bạn, nền giáo dục tốt, sự từ khước các lợi ích cá nhân.
Cả trong HL chúng ta, học biết yêu mến là mục đích của chính đời sống tu trì: “Một con đường dẫn tới tình yêu”.[77] Toàn thể các việc thực hành và kỷ luật, các qui tắc và giáo huấn thiêng liêng đều chỉ nhằm đạt một điều duy nhất: làm chúng ta có khả năng đón nhận mọi người và dấn mình phục vụ với lòng quảng đại.
- đức ái mục tử
Đức ái có nhiều cách biểu hiện: tình mẫu tử, tình vợ chồng, lòng nhân đạo, sự cảm thông. Trong lịch sử của sự thánh thiện, các cách diễn tả bao gồm mọi lãnh vực của đời sống con người.
Các người Salêdiêng (SDB) và Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA) nói về một đức ái “mục tử”.
Cách diễn tả này xuất hiện nhiều lần trong các Hiến Luật, văn kiện và bài giảng của họ. Công Đồng đã nêu rõ ý nghĩa của đức ái mục tử là gì khi nhắc đến những người chuyên lo công việc giáo dục đức tin: “Họ được ban ân sủng bí tích, để khi cầu nguyện, thánh hoá và rao giảng. . . họ thể hiện một thừa tác vụ đức ái mục tử hoàn hảo: do đó họ không ngại hiến mạng sống mình cho đàn chiên, và trong khi trở thành mẫu mực cho đàn chiên, họ cũng dùng gương sáng của mình để làm cho Hội Thánh ngày càng trở nên thánh thiện hơn.”[78]
Lời này có ý vạch ra một hình thức của đức ái. Nó làm chúng ta hình dung ra khuôn mặt của Đức Giêsu Mục Tử Tốt Lành.[79] Tuy nhiên không chỉ ở các hình thức của các hoạt động của nó: nhân hậu, tìm kiếm kẻ lạc, đối thoại, tha thứ. Mà cũng là và nhất là ở chính bản chất thừa tác vụ của họ: mặc khải Thiên Chúa cho mọi người, nam cũng như nữ.
Và chúng ta thấy quá rõ nó khác với các hình thức bác ái xoay quanh việc quan tâm đặc biệt tới các nhu cầu khác nhau của con người: sức khoẻ, lương thực, việc làm.
Yếu tố điển hình của đức ái mục tử là loan báo Tin Mừng, giáo dục đức tin, thiết lập cộng đồng Kitô giáo, làm dậy men Tin Mừng trong môi trường sống. Vì thế nó đòi hỏi sự sẵn sàng hiến mình hoàn toàn vì sự cứu rỗi của mọi con người, của từng người, dù là của chỉ một người mà thôi. Don Bosco và các người Salêdiêng theo sau ngài diễn tả đức ái này bằng một câu: Da mihi animas, coetera tolle.
Các tu hội lớn và các trào lưu linh đạo lớn đã cô đọng tâm điểm của đặc sủng này vào một câu vắn gọn. Dòng Tên có câu: “Vì Vinh Quang Cao Cả của Thiên Chúa”; dòng Phanxicô có lời chào chúc “Bình An và Tốt Lành”; dòng Biển Đức có chủ trương “Cầu Nguyện và Làm Việc”; và dòng Đaminh có qui tắc: “Chiêm ngắm và truyền lại cho người khác điều đã chiêm ngắm”.
Các chứng nhân thời kỳ đầu và suy tư thời sau của Tu Hội đã dẫn đến niềm xác tín rằng châm ngôn tóm tắt linh đạo Salêdiêng chính là “Da mihi animas”.
Chắc chắn thành ngữ này đã thường xuyên xuất hiện trên cửa miệng Don Bosco và đã tác động trên diện mạo thiêng liêng của ngài. Đó là châm ngôn đã gây ấn tượng mạnh cho Đaminh Saviô trong phòng làm việc của Don Bosco khi ngài còn là một linh mục trẻ (34 tuổi) và đã khiến cậu đưa ra lời bình luận đã trở thành nổi tiếng: “Con hiểu ở đây người ta không lo chuyện tiền bạc, mà lo mua các linh hồn. Con hiểu rồi: con hi vọng linh hồn con cũng có phần trong chuyện mua bán này.”[80] Vì vậy, đối với cậu bé Savio, rõ ràng Don Bosco không chỉ cống hiến sự dạy dỗ và chỗ ăn chỗ ở, nhưng trên hết ngài cống hiến một cơ hội tăng trưởng thiêng liêng.
Cách diễn tả này đã được đưa vào trong Phụng vụ: “Chúa cũng khơi dậy nơi chúng con chính đức ái tông đồ ấy để thúc đẩy chúng con tìm kiếm các linh hồn để phụng sự Chúa, là mối lợi duy nhất và cao nhất”.
Quả đúng như thế, vì Don Bosco đã luôn luôn mang ý hướng đó trong việc thiết lập các hiệp hội: “Mục đích của hội này, đối với các hội viên của hội, không là gì khác hơn một lời mời gọi cùng nhau hiệp lực theo lời thánh Augustinô: divinorum divinissimum est in lucrum animarum operare (điều linh thiêng nhất trong các điều linh thiêng là làm việc vì lợi ích các linh hồn)”[81]
Chúng ta đọc trong lịch sử: “Chiều ngày 26 tháng 1, 1854, chúng tôi cùng tụ tập trong phòng Don Bosco và ngài đề nghị chúng tôi thử thực hiện việc thi hành đức ái nhờ sự trợ giúp của Chúa và thánh Phanxicô Salê. . . và thế là những người đã tự nguyện hay sẽ tự nguyện việc thực hành này được gọi là Salêdiêng.”[82]
Sau Don Bosco, từng vị Bề Trên Cả, theo các nhân chứng đáng tin cậy, đều tái xác nhận niềm xác tín ấy. Điều thú vị là sự kiện tất cả các nhân chứng đều đồng tình xác nhận điều này một cách nghiêm túc khiến chúng ta không còn chút nghi ngờ.
“Don Rua đã có thể khẳng định trong các án kiện: Ngài mặc cho những người khác thu tích của cải. . .và chạy theo danh vọng; Don Bosco thực sự không để tâm tới gì khác ngoài các linh hồn: Ngài nói bằng việc làm, không chỉ bằng lời: Da mihi animas, coetera tolle”.
Don Albera cũng vậy, người từng sống chung với Don Bosco lâu năm, làm chứng: “Khái niệm làm sinh động tất cả đời sống ngài là làm việc vì các linh hồn cho tới mức tiêu hao bản thân mình hoàn toàn. . . Cứu rỗi các linh hồn. . . có thể nói là lý do duy nhất của đời ngài.”[83] Một cách quả quyết hơn, cũng vì muốn nhấn mạnh các động cơ sâu xa của hành động của Don Bosco, Don Philippo Rinaldi thấy châm ngôn “Da mihi animas” là bí quyết của tình yêu, sức mạnh, và nhiệt tình của đức ái của Don Bosco.
Liên quan tới nhận thức ngày nay, sau cuộc suy tư lại về đời sống Salêdiêng trong ánh sáng Công Đồng, cha Bề Trên Cả Don Egidio Viganò diễn tả như sau: “Tôi xác tín rằng không có thành ngữ tổng hợp nào diễn tả tinh thần Salêdiêng hay hơn thành ngữ mà chính Don Bosco đã chọn: Da mihi animas, coetera tolle.
Châm ngôn này diễn tả một sự kết hợp nồng cháy với Thiên Chúa làm chúng ta thấm nhập vào trong mầu nhiệm của đời sống Ba Ngôi của ngài được tỏ lộ trong lịch sử nơi sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần như là Tình Yêu vô biên nhằm cứu rỗi các linh hồn”.[84]
Thành ngữ hay châm ngôn này có xuất xứ từ đâu và nó có thể có ý nghĩa chính xác nào cho chúng ta hôm nay? Tôi nói hôm nay, khi từ linh hồn không diễn tả và không gợi ra cùng một ý nghĩa như nó đã có trong các thời đại trước.
Thành ngữ này được gặp thấy trong sách Sáng Thế, chương 14. Bốn ông vua liên minh tiến đánh năm ông vua khác, trong đó có vua của Sôđôma. Trong cuộc vây hãm thành phố, Lot cháu của Abraham cũng bị bắt cùng cả gia đình. Abraham được tin báo. Ông cùng cả bộ lạc trang bị khí giới lên đường. Ông đánh bại quân địch, chiếm lại chiến lợi phẩm và chuộc lại người. Lúc ấy vua Sôđôma tạ ơn ông và nói, “Xin cho lại tôi những người của tôi, tất cả những cái khác ông cứ việc lấy.” Sự xuất hiện của Melchisedech, vị tư tế mà không ai biết lai lịch, tạo một ý nghĩa tôn giáo và thiên sai đặc biệt cho câu truyện, nhất là qua việc ông này chúc phúc cho Abraham. Đây là một tình huống hoàn toàn không có nghĩa gì là “thiêng liêng”. Tuy nhiên trong lời yêu cầu của vua có sự phân biệt rõ rệt giữa những con người và các “cái khác”, tức là các sự vật.
Don Bosco gán cho câu nói này một giải thích cá nhân của ngài qua quan niệm tôn giáo-văn hoá của thế kỷ trước. “Linh hồn” chỉ yếu tố thiêng liêng của con người, là trung tâm của tự do và lý do của nhân phẩm họ, là nơi để họ mở ra với Thiên Chúa.
Sự pha trộn của hai ý nghĩa, ý nghĩa Kinh Thánh và ý nghĩa do Don Bosco gán cho, gần với nền văn hoá chúng ta, cho thấy những chọn lựa rất cụ thể.
Trước hết, đức ái mục tử quan tâm đến con người và xoay quanh con người: con người toàn diện; trước hết và trên hết nó quan tâm đến con người, phát triển các nguồn lực của con người. Rồi mới đến các “cái khác”; cống hiến việc phục vụ là vì mục đích tăng trưởng ý thức và ý nghĩa của chính nhân phẩm.
Hơn nữa, đức ái liên quan trước hết tới con người là đức ái được huớng dẫn bởi một “quan niệm” về con người. Con người không chỉ sống vì cơm bánh; họ có những nhu cầu trực tiếp, nhưng cũng có những khát vọng vô biên. Họ ước muốn những của cải vật chất nhưng cũng muốn những giá trị thiêng liêng. Theo cách nói của thánh Augustinô, con người “được dựng nên cho Thiên Chúa, khao khát Thiên Chúa.”
Cho nên sự cứu rỗi mà đức ái mục tử tìm kiếm và cống hiến là sự cứu rỗi toàn diện và dứt khoát. Tất cả các cái khác được nhắm đến là vì sự cứu rỗi này: được hưởng sự giáo dục tốt đẹp; sự khai tâm vào đời sống tôn giáo; sự khai tâm tôn giáo vào đời sống ân sủng và hiệp thông với Thiên Chúa.
Có thể nói cách khác rằng trong nền giáo dục hay thăng tiến của chúng ta, chúng ta dành ưu tiên cho chiều kích tôn giáo. Không phải để dụ dỗ ngườit ta theo đạo, mà để chúng ta xác tín rằng nó là nguồn mạch sâu xa hơn của sự trưởng thành nhân vị. Trong thời đại tục hoá hôm nay, không dễ gì thể hiện ý hướng này.
Châm ngôn cũng hàm chứa một chỉ dẫn về phương pháp: trong việc đào luyện hay tái tạo con người cần phải nỗ lực và làm sống lại các sức mạnh thiêng liêng của con người, lương tâm, sự mở lòng ra với Thiên Chúa, tư tưởng về số phận vĩnh cửu của con người. Khoa sư phạm của Don Bosco là khoa sư phạm của linh hồn, của sự siêu nhiên. Khi người ta chạm tới được điểm này, mới gọi là bắt đầu công việc giáo dục thực sự. Các cái khác chỉ là giai đoạn dự bị hay chuẩn bị.
Don Bosco nói rõ điều này trong tiểu sử Micae Magone. Cậu bé từ đường phố đến sống tại nguyện xá. Cậu thấy hài lòng, và về nhân bản là một đứa bé tốt: hồn nhiên và thành thật, chơi đùa, học tập, có nhiều bạn bè. Cậu chỉ thiếu một cái: hiểu biết đời sống ân sủng, quan hệ với Thiên Chúa, và sống quan hệ ấy. Cậu mù tịt về tôn giáo. Cậu gặp khủng hoảng và trở nên buồn rầu khi so sánh mình với các bạn và nhận thấy mình thiếu điều ấy. Don Bosco nói chuyện với cậu. Từ lúc ấy bắt đầu cuộc hành trình giáo dục được mô tả trong cuốn tiểu sử: dẫn đến nhận thức và chấp nhận chiều kích tôn giáo và Kitô giáo.
Do đó có một sự chọn lựa và một khoa tu đức cho những ai được thúc đẩy bởi đức ái mục tử: “Coetera tolle”, “Mọi thứ khác cứ lấy đi”. Cần phải từ bỏ nhiều cái để cứu rỗi cái chính yếu; có thể giao phó cho những người khác và thậm chí bỏ mặc nhiều hoạt động khác để có thời giờ và điều kiện mở lòng các thanh thiếu niên ra cho Thiên Chúa. Và không chỉ trong đời sống cá nhân mà cả trong các chương trình và các công cuộc tông đồ.
“Những ai tìm hiểu đời sống của Don Bosco, bằng cách lần theo các cơ cấu tinh thần và khám phá các dấu vết tư tưởng của ngài đều nhận ra một điểm then chốt: ơn cứu độ của Hội Thánh công giáo, kho tàng trữ duy nhất các phương tiện cứu rỗi. Ngài cảm thấy mối thách thức của giới trẻ bị bỏ rơi, nghèo khổ và lang thang như đánh thức nơi ngài nhu cầu khẩn trương giáo dục để giúp những thanh thiếu niên này hội nhập vào thế giới và Hội Thánh nhờ phương pháp của lòng hiền từ và bác ái; nhưng với một ý hướng bắt nguồn từ niềm ao ước ơn cứu độ vĩnh cửu của giới trẻ.”[85]
- gợi ý suy tư
Chúng ta tổng hợp lại những điều là nòng cốt để suy tư.
- Linh đạo chúng ta là một linh đạo tông đồ: được diễn tả và phát triển trong hoạt động mục vụ.
- Để hoạt động tông đồ trở thành một “linh đạo” chứ không chỉ là những hoạt động có thể hao mòn, phải có một cái hồn: đó là đức ái. Đức ái tạo sự dễ dàng, tin tưởng, và niềm vui trong hoạt động tông đồ.
- Đức ái thể hiện sự thống nhất đời sống của người Salêdiêng. Nó làm dịu những căng thẳng phát sinh giữa hoạt động và cầu nguyện, giữa đời sống cộng đoàn và sứ mạng, giữa giáo dục và mục vụ, giữa tính chuyên môn và việc tông đồ.
- Tất cả cố gắng của chúng ta trong đời sống thiêng liêng hệ tại việc làm sinh động, thanh tẩy, và kiện cường đức ái: “Ama et fac quod vis”, “Hãy yêu và làm những gì bạn thích”.
5
cộng đoàn:
nơi, dấu chỉ, và trường học
của linh đạo Salêdiêng
- sự cấp bách của đời sống “huynh đệ”
Nơi để chúng ta kinh nghiệm đời sống thánh hiến và bổn phận giáo dục hằng ngày là cộng đoàn: cộng đoàn tu trì, cộng đoàn giáo dục và cộng đoàn nhân loại rộng lớn hơn mà chúng ta hiến mình phục vụ. Khi cộng đoàn hoạt động tốt, mọi cái khác đều trôi chảy. Khi chúng ta tự giáo dục mình cho và trong cộng đoàn, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng tốt trên đời sống thánh hiến và sứ mạng.
Tông huấn Vita Consecrata dành phần thứ hai trong ba phần để nói về tình huynh đệ và đời sống cộng đoàn, và cho thấy tính chất thiết yếu của nó. “Đời sống huynh đệ đóng vai trò cơ bản trong hành trình thiêng liêng của những người thánh hiến, qua việc không ngừng canh tân họ cũng như qua việc thể hiện đầy đủ sứ mạng của họ trong thế giới. Vì vậy tôi khuyên những người nam và nữ thánh hiến cố gắng vun trồng nó, noi gương các Kitô hữu đầu tiên ở Giêrusalem, từng chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, cầu nguyện chung, tham dự tiệc Thánh Thể, chia sẻ của cải vật chất và ân sủng (xem Cv 2,42-47)”.[86]
Mọi hình thức đời tu, do đó, đều có yếu tố không thể thiếu là cộng đoàn. Tuy nhiên mỗi loại đời tu thể hiện nó dưới một dạng riêng biệt và khác nhau. Có thể nói các dạng cộng đoàn khác nhau đều được gợi hứng từ ba mô hình trong Tin Mừng.
- Mô hình thứ nhất là Nadarét, Thánh Gia: nhấn mạnh trên các mối quan hệ yêu thương lẫn nhau sâu đậm, dựa trên sự ý thức về Thiên Chúa, như các mối quan hệ giữa Đức Maria, thánh Giuse, và Chúa Giêsu.
- Mô hình thứ hai là cộng đoàn tín hữu, được mô tả trong sách Công vụ Tông đồ:[87] nhấn mạnh việc cầu nguyện chung, để chung của cải, chứng tá các giá trị Tin Mừng.
- Mô hình thứ ba là cộng đoàn của Chúa Giêsu và các tông đồ: nhấn mạnh việc sống với Chúa Giêsu, người rao giảng Nước Thiên Chúa và cùng ngài lo việc phục vụ dân chúng.
Đời sống cộng đoàn của chúng ta được gợi hứng trên hết từ mô hình cộng đoàn mà Chúa Giêsu và các tông đồ đã sống: đó là một cộng đoàn vì Nước Trời, vì Tin Mừng, vì việc phục vụ dân chúng.
Thực vậy, sứ mạng mang lại cho tất cả đời sống chúng ta sắc thái cụ thể và hướng đi của nó. Các cộng đoàn chúng ta là các cộng đoàn trong sứ mạng và vì sứ mạng, nhưng không vì thế mà coi nhẹ khía cạnh tình huynh đệ. Nếu trong các nhà của chúng ta mất đi ý thức về sứ mạng, thì chính tình huynh đệ cũng mất đi màu sắc và sức mạnh của nó.
Mặt khác, cộng đoàn chúng ta không phải là một sứ mạng bao gồm các cá nhân chỉ trở về cộng đoàn vào dịp này hay dịp khác để cầu nguyện và nghỉ ngơi, nhưng là một sự chia sẻ đời sống với nhau: “sống và làm việc chung đối với chúng ta là một đòi hỏi của ơn gọi chúng ta”.[88]
Sứ mạng Salêdiêng tự bản chất là sứ mạng cộng đoàn. HL nói rất rõ điều này, thậm chí diễn tả thành một định nghĩa: “sứ mạng được trao phó cho một cộng thể”.[89]
Đó là vì chính phương pháp của hệ thống giáo dục dự phòng đòi hỏi một bầu khí gia đình và do đó một mạng lưới các mối quan hệ. Chúng ta không phải là những người dạy học tư, cũng không phải những nhà giáo dục riêng lẻ: chúng ta hoạt động trong và qua một cộng đoàn và chúng ta tìm cách xây dựng những môi trường giới trẻ rộng lớn.
Toàn bộ nội dung và các kinh nghiệm mà hệ thống dự phòng cho là đáp ứng đầy đủ nhu cầu tăng trưởng nhân bản và đức tin, cũng đòi hỏi một sự hiệp lực can thiệp của nhiều người mà một cá nhân không thể hiện được.
Cũng cần nói thêm rằng thanh thiếu niên phải được dẫn dắt tới trưởng thành về các mối quan hệ và đời sống xã hội với tất cả những gì nó bao gồm, và hành trình đức tin mà chúng ta đề nghị có mục tiêu là đưa các thanh thiếu niên tới một kinh nghiệm Hội Thánh và kinh nghiệm cộng đoàn Kitô hữu được sống theo các chiều kích đặc trưng của nó.
Các chương trên đã nêu ra một loạt các gợi ý đáng quan tâm về việc giáo dục đức tin cho giới trẻ và việc thông truyền tinh thần Salêdiêng cho người thường. Chúng giả thiết có sự thể hiện các mục tiêu khác cũng rất đáng chú ý: thành lập cộng đồng giáo dục mục vụ, sinh động hoá cộng đồng này do một tập thể Salêdiêng, một kế hoạch giáo dục mục vụ đặt trọng tâm vào việc tăng trưởng đức tin của thanh thiếu niên.
Khi xem xét kỹ các mục tiêu này, chúng ta thấy chúng được thể hiện dựa trên một yếu tố được coi là chắc chắn và hiệu quả: cộng đoàn Salêdiêng.
Cộng đoàn được mời gọi đọc ra những thách đố đến từ giới trẻ. Cộng đoàn phải suy tư về hành trình đề ra để đức tin của họ được trưởng thành. Cộng đoàn phải sống và thông truyền linh đạo Salêdiêng mà thiếu nó thì sẽ trở thành vô ích mọi cố gắng giúp giới trẻ tiếp xúc với mầu nhiệm Chúa Giêsu và những mục đích kết hợp loài người.
Cộng đoàn có mặt khắp nơi trong các mục đích này cho dù đề tài này không luôn luôn được nói ra một cách minh nhiên. Chúng ta nói với cộng đoàn, hơn là nói về cộng đoàn.
Bản văn HL nói về loại cộng đoàn nào? Cộng đoàn địa phương, cộng đoàn tỉnh, hay cộng đoàn thế giới? Nó nói về ba cấp cộng đoàn cùng hoạt động và có quan hệ hỗ tương, như được nói tới trong các điều 58 và 59 của HL.
Tuy nhiên khi xem xét kỹ hơn các điều khoản HL, chúng ta thấy chúng tập trung vào cộng đoàn địa phương và cộng đoàn tỉnh. Cộng đoàn địa phương được trao phó nhiều nhiệm vụ có tính quyết định hơn. Cộng đoàn tỉnh có nhiệm vụ bảo đảm các điều kiện để cộng đoàn địa phương hoạt động tốt, lên kế hoạch cho sứ mạng trong phạm vi tỉnh, sinh động hoá, hỗ trợ và kích thích, đồng thời tạo ra một vòng truyền thông phong phú giữa các cộng đoàn địa phương.
Quan tâm chính không phải là sự thịnh vượng hay việc canh tân tổ chức toàn thể của tu hội, như khi bàn về bản chất của sứ mạng Salêdiêng, đời sống tu trì hay cơ cấu quản trị. Điều được nhấn mạnh bây giờ là khả năng phản ứng, sinh lực của cái mà chúng ta gọi là tế bào và các cơ quan của cơ thể lớn này: các cộng đoàn địa phương và tỉnh.
Hiểu các lý do của điều này không khó. Đó là các cộng đoàn phải tiếp xúc với thanh thiếu niên và dân chúng. Đó là các cộng đoàn tự cảm thấy nơi xương thịt mình những khó khăn để giúp họ thực hiện cuộc hành trình đức tin, và phải nghĩ ra những sáng kiến để đáp ứng các khó khăn ấy. Vì vậy trong các cộng đoàn địa phương chúng ta có thể thấy rõ những dấu chỉ hoạt động và thẩm định được giá trị và tính thực tiễn của các hoạt động ấy trong các hoàn cảnh hiện thời của chúng ta.
Còn một lý do khác nữa. Chỉ khi có sự dấn mình của các cộng đoàn địa phương thì mới có thể làm cho mọi hội viên hay ít là đa số hội viên nỗ lực suy tư lại một khoa sư phạm đức tin và một sức năng động mới của cộng đoàn. Chúng ta biết rằng trên cấp tỉnh và thế giới, chỉ có sự tham dự của một số ít hội viên, tuy rằng các sáng kiến của họ có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn.
- cộng đoàn huynh đệ hôm nay
Thời gian gần đây người ta suy tư khá nhiều về cộng đoàn thánh hiến, về hai phương diện:
- phát triển nội bộ, nghĩa là các đòi hỏi, các điều kiện sống và khả năng diễn tả mới được biểu hiện trong các cộng đoàn như hậu quả của nền văn hoá mà các cộng đoàn đang sống, của việc canh tân Hội Thánh và của sự nhạy cảm hiện nay về con người;
- mở rộng sự hiệp thông với bên ngoài: là một chiều kích mới rất được nhấn mạnh hôm nay sau khi có sự đào sâu hiểu biết về Hội Thánh như mầu nhiệm hiệp thông.
Văn kiện Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn năm 1994 triển khai khá nhiều về khía cạnh thứ nhất. Tông huấn Vita Consecrata dành nhiều chỗ cho khía cạnh thứ hai.
Trong phần suy tư này, chúng ta xem xét một chút những gì liên quan tới khía cạnh thứ nhất.
Việc xem xét đời sống nội bộ của cộng đoàn tu trì hôm nay không đơn giản. Có nhiều khía cạnh được tập trung chú ý và giải quyết theo các tiêu chuẩn đức tin, nhưng cũng một cách thực tế: việc phục vụ của quyền bính, sự đồng trách nhiệm và tham dự, các mối quan hệ liên vị, tương quan lao đông-đời sống hay cộng đoàn tu trì-hoạt động của công cuộc, sự quân bình giữa kế hoạch cộng đoàn và đặc sủng cá nhân, bầu khí riêng tư, sự truyền thông giữa các thế hệ.
Không dễ đề cập đến tất cả các khía cạnh ấy chỉ trong một bài nói chuyện, vì chúng đòi hỏi sự đào sâu và phân tích. Mặt khác để xử lý chúng một cách chín chắn, chỉ nghiên cứu lý thuyết mà thôi không đủ. Trong cộng đoàn có sự tương tác của các cá nhân rất khác biệt nhau. Vì thế đôi khi “tập thể” phải tìm ra một thế quân bình đúng đắn trong một tiến trình suy tư chung hơn là trong các lời khuyên tổng quát có ích cho mỗi cá nhân. Cần có các thái độ quảng đại và các cố gắng kiên trì đối với ai có, biết hay có thể đôi khi bù đắp cho những giới hạn của những người khác: đó là cố gắng của tình yêu biết thích ứng, giúp đỡ, kiên nhẫn, tạo điều kiện, lưu tâm vào lúc thuận lợi của cá nhân, hướng dẫn. Các kiến thức nhân văn và các phương tiện tôn giáo đều ích lợi, nhưng không phải tất cả đều có thể là những giải pháp được áp dụng chung cho mọi trường hợp. Việc thể hiện tình huynh đệ là cơ sở của tất cả.
Chắc chắn một số thay đổi đã làm biến đổi đời sống cộng đoàn và sẽ làm biến đổi nó trong tương lai.
Trước hết là thành phần cộng đoàn: con số hội viên trong mỗi cộng đoàn giảm đi và trong một số trường hợp con số ấy ở mức tối thiểu. Ngoài sự giới hạn về số lượng, các hội viên còn thuộc những thế hệ khác nhau; thậm chí đôi khi phần lớn là những hội viên già. Điều này tất nhiên không xấu, nhất là nếu có đời sống tích cực: như mỗi người sẽ có nhiều trách nhiệm hơn, trong trường hợp có ít hội viên; và như chứng tá của tình yêu và liên đới giữa các thế hệ trong một đời sống theo đặc sửng, trong trường hợp cộng đoàn gồm phần lớn hội viên già. Tuy nhiên, điều chắc chắn là thành phần này của cộng đoàn đòi hỏi một khả năng mới trong các quan hệ và những thái độ đặc thù.
Một sự thay đổi thứ hai liên quan đến mối quan hệ giữa cộng đoàn và công cuộc tông đồ. Hiện nay không còn có sự độc quyền về trách nhiệm đối với công cuộc và không còn có sự tham dự của tất cả mọi hội viên của cộng đoàn tu trì vào công cuộc; thường xuyên hơn, có một ít hay nhiều người tham gia trực tiếp, còn những người khác thì đã nghỉ ngơi. Người ta cảm thấy có sự mất cân đối giữa số lượng tu sĩ và chiều kích của công cuộc tông đồ. Sự mất cân đối này đã được tạo ra khi có sẵn nhiều hội viên. Hậu quả là có sự trao đổi dồi dào giữa các tu sĩ vẫn còn hoạt động, với các người đời đảm nhận các trách nhiệm trong các công cuộc, và trong nhiều trường hợp việc đảm nhận quá nhiều trách nhiệm làm các hội viên rời xa cộng thể.
Một sự thay đổi thứ ba là sự hội nhập nhiều hơn của cộng đoàn vào hoạt động của Hội Thánh và một sự cởi mở hơn đối với môi trường. Đời sống thánh hiến được nhìn không như một sự “rút lui”, mà như một sự hội nhập bằng sự đóng góp và cho sứ mạng. Hậu quả là có một sự gia tăng các mối quan hệ và trao đổi với bên ngoài. Thời gian dành cho cộng thể ít đi và bầu khí tĩnh tâm và bảo vệ của cộng thể kém đi, bị thu hút nhiều hơn bởi sự phức tạp của đời sống và của các kích thích từ môi trường.
Tuy nhiên sự thay đổi quan trọng hơn diễn ra liên quan đến việc chuyển đổi từ nhấn mạnh về đời sống chung sang nhấn mạnh về đời sống huynh đệ trong cộng thể.
Tôi nghĩ rằng hai thành ngữ, đời sống chung và đời sống huynh đệ, ngay lập tức cho chúng ta khái niệm và sự khác biệt về tầm quan trọng. Đời sống chung có nghĩa là làm cùng một việc trong cùng một thời gian (hội họp, cầu nguyện, ăn uống, lao động, v.v…). Đối với đời sống chung, điều quan trọng là “tất cả cùng nhau”: cùng một giờ và ở cùng một nơi. Đời sống huynh đệ trong cộng thể có nghĩa là đón nhận mỗi người trong tính độc đáo hợp pháp của họ, chất lượng các mối quan hệ liên vị, sự tham gia tích cực của mọi người vào đời sống của tập thể. Ngày nay chúng ta để ý nhiều hơn tới sự hiệp nhất giữa các con người, tình huynh đệ của các mối tương quan, sự giúp đỡ và nâng đỡ lẫn nhau, sự đồng qui các ý hướng. Điều này tương ứng với bầu khí văn hoá và sự hiểu biết mới về con người, đòi hỏi được nhìn nhận, đánh giá cao và có vai trò tích cực.
Văn kiện Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn nhắc đến sự phát triển đã xảy ra vào thời gian đầu của cuộc canh tân công đồng: quá đề cao tính tự phát và bất ngờ.
Sau khi mô tả sự phát triển này, văn kiện khẳng định rằng cần tìm ra một sự quân bình: không là sự hiệp thông tinh thần thuần tuý mà đánh giá thấp các biểu hiện của đời sống chung; cũng không quá nhấn mạnh tính pháp lý của đời sống chung để rồi đặt những khía cạnh cốt tuỷ của tình huynh đệ trong Chúa Kitô xuống hàng thứ hai: “Anh em hãy thương yêu nhau. Trong điều này người ta sẽ nhận ra anh em là môn đệ thầy.”[90]
Do đó hai điều trên phải được đặt một cách quân bình và đúng chỗ: cái gì là phương tiện cho cái gì là chính yếu. “Hiển nhiên ‘đời sống huynh đệ’ sẽ không được thể hiện một cách máy móc do việc tuân giữ các qui luật điều hành đời sống chung; nhưng rõ ràng đời sống chung có mục đích nâng đỡ mạnh mẽ đời sống huynh đệ.”[91]
Hiến Luật của chúng ta giúp hiểu và thể hiện sự quân bình này. Nó nói rằng chúng ta có những lúc sống chung: những lúc này giúp tạo ra giữa chúng ta mối quan hệ trưởng thành, cởi mở cho sự truyền thông, hợp tác, chia sẻ, tham dự, và tiếp nhận người khác theo bản chất của họ.
Việc sắp đặt một cách quân bình và đúng vị trí của hai yếu tố này thể hiện ước muốn và đòi hỏi của việc thành lập các cộng đoàn mới phù hợp với các điều kiện và khát vọng của các con người, như được diễn tả trong Tổng Tu Nghị mới đây của Dòng FMA: “Các cộng đoàn mới, dù nhỏ, vừa, hay lớn, dù phải thực hiện các công cuộc truyền thống hay hội nhập sống động hơn giữa dân chúng, nhưng luôn luôn phải có khả năng giúp các con người tăng trưởng về nhân bản và tôn giáo, giúp họ diễn tả một cách rõ ràng điều mình tin và thông truyền, càng phải diễn tả rõ ràng hơn các giá trị tôn giáo và thích hợp để khơi dậy ước muốn thuộc về đó, nghĩa là các cộng đoàn có khả năng ơn gọi.”
Như chúng ta đã nói, điều này bắt nguồn từ một nhãn giới đức tin. Chúng ta xác tín rằng các anh chị em cùng tụ tập lại nhân danh Chúa thì được sự hiện diện của ngài: “Ở đâu có hai hay ba người tụ tập lại nhân danh thầy, thì thầy ở giữa họ.”[92] Chúng ta cũng xác tín rằng sống tình huynh đệ nhân danh Chúa là bí quyết hiệu quả trong việc rao giảng Tin Mừng.
Ngoài nhãn giới đức tin cần luôn luôn được đào sâu, ước muốn tạo lập một gia đình đích thực của những con người trưởng thành cần có một hình thức mới trong việc hiểu và thể hiện các quan hệ nhân vị: tìm ra các cơ sở chung của chúng, các hình thức đổi mới chúng trước khi chúng bị hao mòn hoàn toàn, làm cho mọi cá nhân hài lòng về chúng.
Tôi tin rằng hai chủ đề này là cấp bách trong đời sống huynh đệ: chủ đề các quan hệ và chủ đề truyền thông. Chúng là những năng động lực lớn của cộng thể, chúng tập hợp quanh chúng và làm cho có thể có các năng động lực khác mà chúng ta coi là có tầm quan trọng lớn như sự đồng trách nhiệm, việc làm kế hoạch, việc phân định v.v…
Các mối quan hệ liên vị
Các quan hệ liên vị là một trong những bằng chứng hay thước đo của sự trưởng thành nhân cách; chúng thậm chí có thể là dấu chỉ chính phản ánh các đức tính và các giới hạn của các con người. Cho nên ngày nay chúng ta đặc biệt lưu tâm đến chúng trong việc đào luyện; và không chỉ trên quan điểm đào luyện, mà còn liên quan tới khía cạnh bản chất và nội tâm. Đối với một người, khả năng sống vui vẻ với anh chị em và hiệu quả trong hoạt động mục vụ phần lớn tuỳ thuộc vào các mối quan hệ này.
Sắc lệnh Optatam Totius khi nói về các ứng sinh chức linh mục, nói rằng phải đòi hỏi nơi họ một mức độ trưởng thành nhân bản nhất định.[93] Và sắc lệnh nêu ra các đặc tính hay dấu hiệu.
- Sự ổn định tinh thần, để bảo vể họ khỏi tính thất thường và những thay đổi bất ngờ và vô cớ của tính khí, trong các mục tiêu, các niềm xác tín và các kế hoạch đời sống, trong các tiêu chuẩn đánh giá. Chúng ta có kinh nghiệm nhiều về những con người thất thường, đặc biệt giữa các thanh niên. Và điều này xảy ra nhiều giữa các thanh niên là một sự kiện rất có ý nghĩa.
- Khả năng đánh giá một cách chín chắn các sự kiện và con người: sự trưởng thành trong phán đoán biết lưu ý tới mọi khía cạnh của một vấn đề theo tầm quan trọng của chúng, giúp tránh ảnh hưởng quá đáng bởi tính chủ quan và tránh hành động vội vàng; nhất là nó đặt họ vào trong cái nhìn tốt lành về con người, tình yêu và Nước Trời.
- Các quan hệ: khả năng thiết lập các quan hệ sâu xa và trao hiến; có khả năng lâu dài, đánh giá cao con người, nghĩa là có lòng quảng đại vô vị lợi và hướng tới lợi ích của người khác, đặt nền trên các động cơ không vị kỷ. Cần nhấn mạnh vài điểm về các mối quan hệ này.
Các quan hệ lâu dài và trung thành, nghĩa là có khả năng khắc phục các thử thách. Các thử thách luôn luôn có mặt trong các mối quan hệ. Các cặp vợ chồng có các thử thách. Là các mục tử và cố vấn, chúng ta thường phải cảnh giác họ rằng sau một thời gian hạnh phúc thì các khó khăn cũng đến, rằng họ cần tập khắc phục sự mệt mỏi, thói quen, rằng họ cần phải làm sống lại và canh tân các mối quan hệ để chúng lâu bền và không bị xói mòn. Các thử thách cũng có nơi các bạn bè. Chúng ta từng thấy rất nhiều lần các thiếu niên thiếu nữ từng là bạn rất thân của nhau m ột thời gian, sau đó họ trở thành ác cảm với nhau hay thù địch của nhau. Cần phải học để sẵn sàng khắc phục các thử thách ấy. Giống như trong tình yêu, sự thân thiết ban đầu có thể là sự thiện cảm tự nhiên. Còn sự trung thành là một nhân đức.
Nhưng các mối quan hệ cần phải sâu xa và nội tâm, không chỉ là các quan hệ thuần tuý vì công việc, nhưng có khả năng trưởng thành để trở thành tình bạn. Chúng ta không kết tình bạn với tất cả mọi người. Ngay cả trong tình huynh đệ tu trì, sự giống nhau về quan điểm, và một cách chung chung hơn, chiều kích tình cảm không thể giải thích là sự thiện cảm hợp pháp, tạo thành các mức độ tình bạn khác nhau. Tình trạng này, nghĩa là chúng ta là anh em với mọi người và là “bạn” của những ai có thể là bạn, được chấp nhận một cách tự nhiên, như một điều có lợi cho cá nhân và cho cộng đoàn. Một khoản của Hiến Luật[94] SDB nói rằng tình huynh đệ phải có khả năng làm cho mọi người thiết lập được tình bạn thân thiết, được diễn tả theo các mức độ khác nhau tuỳ theo tính khí, sở thích, sự giống nhau, các hoàn cảnh cộng tác hay làm việc chung, việc chia sẻ các kinh nghiệm thiêng liêng (. . .).
TTN24 của Tu hội SDB nói đến một linh đạo quan hệ;[95] linh đạo, nghĩa là một đức ái biết để ý, quan tâm, có khả năng và sẵn sàng sáng tạo, sửa chữa, tái lập và gia tăng các quan hệ. Nó là đức ái “mục tử” khi nó được thể hiện trong thừa tác vụ cai quản hay hướng dẫn một cộng đoàn hội thánh.
Sự Truyền thông
Gắn liền với chủ đề các mối quan hệ là chủ đề truyền thông: sự sẵn sàng và khả năng truyền thông và được truyền thông. Ở đây không nói tới lãnh vực truyền thông diễn cảm, chuyên nghiệp hay trình diễn của các ngôi sao TV; nhưng nói về sự truyền thông hằng ngày mà qua đó chúng ta cống hiến một cách dễ dàng kinh nghiệm của mình và đón nhận kinh nghiệm của những người sống quanh ta.
Đánh giá đúng việc truyền thông, biết các qui luật của nó và các trở ngại của nó mà không rơi vào tính chuyên môn, là điều quan trọng đối với mọi nguời, nhưng một cách đặc biệt đối với những người phải tạo ra cho nó một khung cảnh thích hợp. Điều này đòi hỏi:
- Vạch ra các hướng mà việc truyền thông phải lưu chuyển: không chỉ hướng thẳng từ người có quyền đến các người khác và từ người khác đến người có quyền; nhưng hướng vòng tròn và đa hướng, nghĩa là giữa mọi người;
- Bảo đảm một sự phân phối quảng đại các “vai” chủ động của việc truyền thông: không chỉ một vài người triển khai việc truyền thông còn những người khác chỉ là những người “thụ hưởng” một cách hài lòng;
- Hướng tới một mức độ thoả đáng về truyền thông: chúng ta truyền thông về điều gì? Chúng ta dấn mình tới mức độ nào trong việc truyền thông?
Liên quan tới truyền thông là việc đối thoại cởi mở, các cuộc tranh luận tự do và vui vẻ vào các lúc được ấn định, sự thông truyền tự nhiên các tình cảm, ý tưởng, kế hoạch và sở thích, sự phối hợp nhuần nhuyễn các trách nhiệm, các cuộc kiểm điểm chung, các cuộc trò chuyện cá nhân tích cực, và việc đối thoại thiêng liêng.
Chúng ta nhận ra ngay rằng sự truyền thông có các mức độ khác nhau.
- Có một mức độ mang giá trị âm, nghĩa là dưới zêrô: đó là sự thiếu, không truyền thông, tình trạng có thể xảy ra cho thái độ phản kháng âm thầm, hệ tại thái độ không biết đến sự tồn tại của người khác, dù sống dưới cùng mái nhà, ăn cùng bàn: “Tôi coi anh như thể không có!” Đôi khi chúng ta cảm thấy điều này nơi một hội viên giận dữ đến độ nói rằng họ không thèm tranh cãi, không thèm chứng minh họ đồng ý hay có thái độ hoà giải; họ đối xử với anh em mình như thể sống trong hai thế giới khác. Tuy nhiên thường tình trạng này xảy ra mà không có tuyên bố gì trước: không nói một lời, trốn tránh, không muốn trả lời. Cũng có sự không truyền thông ít trầm trọng hơn, được chấp nhận, tử tế. Hãy nghĩ đến biết bao hoàn cảnh quen thuộc hằng ngày trong đó người ta sống bên cạnh nhau, không gây hấn, không can thiệp vào các ý tưởng, sở thích hay kế hoạch, nhưng không mảy may có ý hướng chia sẻ những gì mình có trong lòng. Sự không truyền thông là một trong những căn bệnh của kỷ nguyên truyền thông đại chúng. . .
- Rồi có một mức độ tích cực tối thiểu, trên zêrô: sự truyền thông hời hợt. Người ta nói về các chuyện tầm phào, dửng dưng hay xa xôi, chỉ để không có bầu khí im lặng; nó thường tốt hơn sự im lặng và không truyền thông, vì ít ra người ta còn muốn ở chung với nhau, trong hoà bình, không tỏ ra “bất lịch sự”, vui vẻ với nhau: người ta bàn về thời tiết, các sự kiện trên TV, các nhân vật, thể thao. Đây là một tình trạng có thể chấp nhận để xích lại gần nhau, ít ra là một bước đầu. Nhưng chúng ta vẫn còn bàn về tất cả các chuyện này như với một “người xa lạ” ngồi bên cạnh chúng ta trên một chuyến xe lửa hay trong một chuyến bay.
- Giữa chúng ta có thể xảy ra, và nhiều lần chúng ta có thể không đi xa hơn một sự truyền thông vì công việc: chúng ta làm công việc ấy thế nào, thế nào là thích hợp hơn, phân phối lại giờ giấc, vai trò, nhiệm vụ thế nào. Đây là dấu hiệu của sự đồng trách nhiệm và thường mang một hình thức đúng đắn. Nhưng nó có nguy cơ ở lại tình trạng đó trong các quan hệ của chúng ta với các hội viên và thanh thiếu niên. Một cách sửa sai thường được gợi ý cho các cộng đoàn là làm thế nào đừng coi chính mình hay để người ngoài nhìn mình như chỉ là một “nhóm làm việc”.
- Ở mức độ cao hơn có sự truyền thông nhân vị, trong đó chúng ta chia sẻ kinh nghiệm ơn gọi của chúng ta. Chúng ta trao đổi những sự đánh giá, nhu cầu, trực giác liên quan đến đời sống chúng ta trong Đức Kitô và hình thức chúng ta hiểu về đặc sủng. Đó là điều mà chúng ta nhiều lần chúng ta được mời gọi thực hiện trong các cuộc duyệt xét đời sống, kiểm chứng cộng đoàn chúng ta, trao đổi trong kinh nguyện, phân định về các kế hoạch hay các biến cố.
Thời hiện đại càng cảm thấy có nhu cầu hơn trong việc truyền thông trong các cộng đoàn tu sĩ và đã thay đổi các tiêu chuẩn và các cách thức. Sự phức tạp của đời sống đòi hỏi chúng ta đối diện với các khuynh hướng, tiêu chuẩn và biến cố gia đình và các sự kiện bên ngoài gia đình: hoặc là chúng ta thành công trong việc hiểu và cắt nghĩa chúng, hay là chúng ta mãi mãi đứng bên ngoài cuộc sống và chuyển động của thế giới.
Vì vậy cần tạo thói quen đánh giá và triển khai các tiêu chuẩn đánh giá chung. Thường điều này đòi hỏi một tiến trình tìm hiểu và chứng minh. Chúng ta phải sẵn sàng để tự phát biểu một cách đơn sơ, chứng tỏ mình luôn sẵn sàng thay đổi các phán đoán và lập trường của mình, dù chỉ với mục đích tạo sự nhất trí trong tình huynh đệ và hành động: sự dung hoà luôn luôn có ích cho cộng thể, khi các giá trị cơ bản không bị thiệt hại.
Sự truyền thông cũng cần thiết vì sự đa dạng tích cực của các quan điểm và tài năng có trong cộng đoàn: có những nguồn phong phú về trí thông minh, tinh thần, óc tưởng tượng, khả năng truyền thông thực tế. Hơn nữa, có rất nhiều đề tài để truyền thông một cách ích lợi trong viễn tượng thánh hiến: kế hoạch tông đồ, kinh nghiệm thiêng liêng, thách đố của sứ mạng, các đường hướng của Tu Hội, các khuynh hướng của Hội Thánh.
- các mối quan hệ và việc truyền thông để tăng trưởng
Các mối quan hệ và việc truyền thông không chỉ giúp chúng ta cảm thấy mọi sự tốt đẹp, nhưng cũng giúp tăng trưởng; chúng làm phong phú trên quan điểm văn hoá, tâm lý, xã hội, và cả thiêng liêng nữa.
Có sự tăng trưởng văn hoá, vì khi nghe người khác, chúng ta nhận được các thông tin, quan điểm, số liệu và đọc được các thực tại khác nhau. Chỉ cần hình dung ra các mối quan hệ và sự truyền thông với những nhà chuyên môn quí giá biết bao và có ích cho chúng ta như thế nào. Cũng có những nhà chuyên môn như thế giữa các hội viên trong các cộng thể chúng ta, thậm chí mỗi người đều có một khả năng chuyên môn nào đó để cống hiến cho chúng ta.
Có sự tăng trưởng tâm lý, vì có sự phát triển tình cảm, khả năng tiếp nhận người khác và các lối suy nghĩ khác; chúng ta trở nên có khả năng hơn để trao ban, khắc phục những thất vọng và những trở ngại nội tâm, những ám ảnh về bản thân mình hay về thành công của mình.
Có sự tăng trưởng xã hội, vì có sự gia tăng khả năng hội nhập vào các nhóm làm việc, các ê kíp tham dự và các môi trường khác nhau, với sự tự do và thẳng thắn; chúng ta kiểm soát được sự lo âu xã hội, là cảm giác đầu tiên của sự xa lạ và không thích ứng mà chúng ta thường đối diện khi chúng ta đi vào một môi trường hay một tập thể mới lạ hay ít quen thuộc.
Sau cùng và ở chóp đỉnh có một sự tăng trưởng thiêng liêng, hay toàn diện, bởi vì các thái độ và các khả năng nói trên được hoà nhập trong một cố gắng đáp lại Thiên Chúa một cách phù hợp với đặc sủng và giúp phát triển sứ mạng.
Tất cả điều này cũng được đòi hỏi và thực hành trong cộng đoàn giáo dục. Đây là một môi trường phong phú thứ hai để thể hiện đức ái mục tử về điều liên quan tới các mối quan hệ và truyền thông, với các hậu quả quyết định đối với việc giáo dục và rao giảng Tin Mừng. Chúng ta không dừng lại ở đây để khai triển điều này, vì cần có cả một bài nói riêng về nó mới đủ.
Đào luyện thường xuyên
Ở đây chúng ta đi vào một khía cạnh đã thay đổi nhiều của cộng đoàn tu trì, chính là vì tầm quan trọng được nhìn nhận đối với các mối quan hệ và việc truyền thông: việc đào luyện thường xuyên.
Các kinh nghiệm đầu tiên về đào luyện thường xuyên, được thực hiện ở cách xa cộng đoàn mình, đã mang lại những lợi ích, như một sự suy nghĩ lại, một tổng hợp mới, một sự canh tân lý thuyết, một hứng khởi mới về ơn gọi; nhưng khi trở về lại với cộng đoàn và với nếp sống hằng ngày, cái viễn tượng đổi mới đời sống và công việc mà người ta đã thoáng thấy trong những hoàn cảnh đặc biệt về thời gian và môi trường, bây giờ trở nên khó áp dụng. Cuộc sống lại tiếp tục nhịp điệu bình thường trước kia, và môi trường con người “bình thường” và chung chung làm phai nhạt những kinh nghiệm điển hình về cầu nguyện, trao đổi, học tập. Khóa đào luyện thường xuyên do đó trở thành tách rời với đời sống.
Vì vậy người ta đã nghĩ tới việc cải thiện khái niệm và các sáng kiến. Người ta đưa vào khái niệm đào luyện thường xuyên bốn khía cạnh. Chúng liên quan tới nơi chốn, thời gian, nội dung và phương pháp.
- Nơi ưu tiên cho việc đào luyện thường xuyên là cộng đoàn địa phương. Nơi đặc biệt là nơi tổ chức các khóa đào luyện dài. Thực tế nhất là cộng đoàn địa phương, bởi vì tại đây người Salêdiêng học cách điều hành cuộc sống và phản ứng trước các điều xảy ra trong đời sống hằng ngày.
- Thời gian thích hợp nhất và liên tục nhất cho đào luyện thường xuyên không phải thời gian dành riêng và rảnh rỗi, mà là thời gian xen kẽ giữa lao động, học tập, thảo luận, và gặp gỡ với người khác. Thời gian dành riêng thì ích lợi cho việc bồi dưỡng và hỗ trợ.
- Nội dung: chắc chắn việc trình bày hệ thống về Hội Thánh, Chúa Giêsu Kitô, cộng đoàn, là điều hữu ích vì nó tạo động lực, soi sáng và tái định hướng. Tuy nhiên tất cả điều này sau đó bị phân tán và hầu như tan loãng dần trong cuộc sống hằng ngày. Chính cộng đoàn là nơi người ta phải đọc được một cách thực tế những gì đã học được trên lý thuyết, vì cộng đoàn chính là bốn hay năm hội viên mà người ta chung vai sát cánh sống hằng ngày, họ có các ý tưởng của họ, có một quá khứ riêng của họ, có những giới hạn, và cũng có biết bao ưu điểm mà chúng ta phải biết khám phá ra và đón nhận. Cũng có thể nói như thế về giáo hội học, về Mục vụ giới trẻ, về Hệ thống dự phòng đã được lắng nghe, cắt nghĩa và đào sâu: đó là những khung đối chiếu hữu ích vì chúng soi sáng nhiều điều. Nhưng chúng phải được đưa vào trong thực tế đặc thù của mỗi cộng đoàn giáo hội và các điều kiện của nó, vào môi trường hoạt động mục vụ và những thanh thiếu niên mà ta gặp trong môi trường đó, vào cảnh sống Salêdiêng trong đó ta phải đem áp dụng Hệ thống dự phòng đã được giảng dạy. Cách thức áp dụng các viễn tượng, khung đối chiếu hay bài học này vào các trường hợp cụ thể, chính là nội dung của việc đào luyện thường xuyên diễn ra trong cộng đoàn địa phương. Tại đây, chúng ta suy tư và kiểm chứng nội dung đó để thấy mình phải có đáp ứng hiện thực thế nào cho những đòi hỏi của ơn gọi và công việc. Có thể nói việc đào luyện thường xuyên lặp lại mô hình của thời kỳ tập vụ hơn là thời kỳ học viện.
- Cuối cùng, nhưng gắn liền với ba điều trên đây, phải nhấn mạnh về phương tiện hay phương thức hiệu quả nhất của việc đào luyện thường xuyên: không phải việc nghe các bài giảng, mà là sự truyền thông huynh đệ: lắng nghe nhau một cách thanh thản, chăm chú ghi nhận và tổng hợp, khai triển các phán đoán và tiêu chuẩn, vạch ra các đường hướng được suy nghĩ kỹ. Đương nhiên điều này được hỗ trợ và phát động cùng với các “thời điểm mạnh”.
Vì vậy, các mối quan hệ và việc truyền thông thể hiện các qui trình đào luyện và tăng trưởng. Có lúc không phải ai cũng hiểu điều này. Không nên đổ lỗi cho ai bởi vì trong thực tế đào luyện trước đây, việc truyền thông không được chú trọng cũng không có các khả năng hiện thực. Tuy không thể đổ lỗi cho ai, chúng ta phải biết tạo ra và gia tăng các cơ hội truyền thông, duyệt xét vấn đề về các mối quan hệ, hiểu biết về cơ sở mà chúng đòi hỏi và chăm lo nó như một việc thực hành của đức ái mục tử đối với các hội viên và cộng đoàn.
6
linh đạo Salêdiêng
trong nếp sống hằng ngày
Linh đạo Salêdiêng đã được tổng hợp trong một vài công thức vắn gọn như các công thức Don Bosco đã dùng cho các học sinh của ngài. Nó là một tập tục gia đình: đơn giản, thống nhất, giúp ghi nhớ. Đời sống thần bí được tổng hợp qua châm ngôn: Da mihi animas. Khoa sư phạm của linh đạo chúng ta là: lý trí, tôn giáo, lòng thương mến. Nó không chỉ liên quan đến mối quan hệ với các thanh thiếu niên, mà còn liên quan đến hình thức xây dựng tính cách người tông đồ giáo dục. Công thức của lòng đạo đức là Chúa Giêsu Thánh Thể, Mẹ Maria Phù Hộ, và Đức Thánh Cha.
Đâu là chương trình thực tiễn để sống hằng ngày và lâu dài? Lao động, cầu nguyện, tiết độ.
Ba từ bình dân ấy, gần như là của giới vô sản, tương ứng với ba chiều kích mà Vita Consecrata nêu ra như là không thể thiếu cho mọi linh đạo: chiêm niệm, tông đồ, tu đức.
Vì vậy chúng ta phải đào sâu nội dung truyền thống và hiện đại của các từ này vì lợi ích của chúng ta, và để làm “la bàn” thực hành cho việc sinh động hoá cộng đoàn.
Chúng ta sẽ xét từng từ một.
- chiêm niệm trong hoạt động
Theo Vita Consecrata, mọi người cần chiêm niệm, và luôn luôn cần: các nhà thần học để có thể đánh giá đầy đủ bản chất nhận thức và thiêng liêng của khoa học của họ; những người chuyên cầu nguyện cần nó để không quên rằng xem thấy Chúa có nghĩa là đi xuống núi với một khuôn mặt quá chói loà khiến họ buộc phải lấy mạng che mặt; những người chuyên hoạt động cần nó để không nhốt mình trong một cuộc chiến không tình thương và không tha thứ.[96]
Có nghĩa là chiêm niệm không đồng hoá với việc học các môn học thánh, cho dù điều này cũng có ích. Có nghĩa là nó bao gồm kinh nguyện nhưng vượt trên kinh nguyện: chiêm niệm là cái mà truyền thống chúng ta gọi là sự “kết hợp với Thiên Chúa”, là ý thức và niềm vui vì sự hiện diện của ngài, là quan hệ con thảo với ngài.
Có nhiều câu hỏi cần đào sâu về chiêm niệm: chiêm niệm là gì, các hình thức chiêm niệm khác nhau, các nơi chốn thích hợp và ưa thích theo các kinh nghiệm thiêng liêng khác nhau. Tôi từng có dịp thảo luận các khái niệm này với các “nhà chiêm niệm” khi đề cập đến linh đạo hoạt động của chúng ta. Tôi thấy không phải thừa khi đưa ra một vài giải thích để hiểu hình thức chiêm niệm của chúng ta là gì và đi tới một sự thực hành thuyết phục.
Hai nơi cần được quan tâm đến trong sự duy nhất, gần như chúng được truyền thông cho nhau, để chứng minh định nghĩa về những nhà chiêm niệm trong hoạt động: kinh nguyện và hoạt động.
Kinh nguyện
Một trong những đòi hỏi nghiêm trọng nhất được nêu lên khi đưa ra một linh đạo về cầu nguyện. Ngày nay, một loạt các hiện tượng làm xuất hiện đòi hỏi này, không phải chỉ như biểu hiện đức tin Kitô giáo mà còn như để thoả mãn một nhu cầu của con người. Không ít người, thuộc các tín ngưỡng khác nhau, thậm chí không có tín ngưỡng nào, đang đi tìm một hình thức cầu nguyện nơi các phương pháp của phương đông hay nơi các hình thức tôn giáo mới.
Trong Hội Thánh cũng phổ biến các trường cầu nguyện được hướng dẫn bởi các giám mục hay linhmục. Người ta tập họp lại một lần mỗi tuần hay mỗi tháng vào mùa chay hay mùa vọng để đọc Kinh Thánh, các thánh vịnh, cầu nguyện trong thinh lặng. Phong trào canh tân trong Thánh Thần đã lấy việc cầu nguyện làm nét đặc trưng của nó; và phong trào “Taizé” mời gọi giới trẻ đến với kinh nghiệm chiêm niệm.
Đặc biệt có các ngày “tu viện”. Tu viện được coi là một địa điểm xã hội để suy tư và có các biểu hiện nghệ thuật gắn liền với sự thiêng liêng. Người ta rất chú ý đến các chương trình TV về các “nhóm cầu nguyện” liên tôn (Kitô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo) vì các lý do lớn như hoà bình. Trong hầu hết các cuộc cử hành liên quan đến các biến cố tôn giáo, người ta thường tổ chức một đêm canh thức cầu nguyện. Tóm lại, hình như thế giới hay cá nhân con người cảm thấy một nhu cầu cấp bách tiếp xúc với những thực tại khác chứ không phải là các máy tính, máy móc, túi tiền, ngân quĩ, sản xuất, kế toán, và những cái giống như thế.
Một khuynh hướng giống như thế, vừa có ý nghĩa vừa mơ hồ, cũng xuất hiện trong tâm tình tôn giáo của giới trẻ. Có những nhóm trẻ đi tìm chiều sâu của kinh nguyện và các bậc thầy để dẫn dắt họ. Người ta tổ chức ngày càng nhiều các địa điểm cầu nguyện cho giới trẻ: các ốc đảo, các nhà tĩnh tâm, các “lều cầu nguyện”.
Một số họ đã có những sự nếm cảm, kinh nghiệm thoáng qua mà không ăn rễ sâu trong tâm hồn. Có thể họ muốn tìm một sự thoả mãn cá nhân, muốn chứng tỏ cái “khác người”, cái lạ thường. Nhưng cũng không bao giờ thiếu những người có ước muốn thực sự đi tìm “ý nghĩa”, hay một yếu tố vững chắc và rõ ràng cho đời sống của họ.
Người Salêdiêng và kinh nguyện
Việc mục vụ giới trẻ của chúng ta cũng được trang bị để cống hiến câu trả lời cho đòi hỏi của giới trẻ. Chúng ta đã đề nghị cho họ những hành trình cầu nguyện được cập nhật. Ngày nay đã có việc xuất bản khá phong phú những sách nguyện gẫm và cầu nguyện cho các hoàn cảnh khác nhau (các dịp lễ, các cuộc cắm trại, gặp gỡ, thể thao, các lúc vui chơi, và cả những lúc đau khổ). Cách riêng, các phong trào giáo hội mang những hình thức cầu nguyện chuyên biệt với các bản văn riêng và các tuyển tập thánh ca: tất cả cho thấy dấu hiệu của việc “nhân vị hoá”, của chất lượng kinh thánh, của sự tham dự.
Tất cả các sự kiện này chất vấn chúng ta trước tiên trong tư cách là những tu sĩ. Theo lối suy nghĩ bình dân, tu sĩ là người thực hành và nếm cảm việc cầu nguyện, người biết cầu nguyện và cầu nguyện.
Hơn thế nữa, chúng chất vấn chúng ta trong tư cách là những nhà giáo dục-rao giảng Tin Mừng. Chúng ta có nhiệm vụ khởi xướng nơi thanh thiếu niên thái độ rất Kitô giáo được gọi là lòng đạo đức. Nếu chúng ta không muốn giản lược Tin Mừng vào một lý thuyết tôn giáo, một cắt nghĩa trí thức về Thiên Chúa, chúng ta phải vun trồng vững chắc những thái độ yêu mến đối với Cha bằng những biểu hiện tương ứng.
Nhìn chung người Salêdiêng đã đón nhận một cách thuận lợi những kích thích đến từ môi trường và từ Hội Thánh: nhiều điều đã được cải thiện trong việc cầu nguyện của cộng đoàn. Và chúng ta có những gương cầu nguyện đáng cảm phục: tôi nghĩ tới những người bệnh tật, những người già cả.
Mặt khác, đối với những người đang gánh các trách nhiệm, cũng có những khó khăn trong thái độ và việc thực hành cầu nguyện đều đặn và nghiêm túc. Trong thực tế nếp sống của họ không đưa họ đến với kinh nguyện hay làm họ suy nghĩ dựa trên kinh nguyện. Có vẻ họ nghiêng hơn về các hoạt động thế tục, trường học, môi trường giới trẻ, các quan hệ xã hội, tổ chức. Tất cả điều này đặt họ đối diện với những việc đột xuất, chồng chất thêm những công tác không tạo thuận lợi cho họ đạt được sự thanh thản và đều đặn.
Nếp sống này giống với nếp sống của Don Bosco: hoạt động nhiều và liên tục của ngài hình như lôi kéo ngài ra khỏi kinh nguyện hình thức vốn rất dồi dào trong tiểu sử của tất cả các thánh: “Về kinh nguyện đúng nghĩa–người Bảo vệ đức tin trong Vụ án phong chân phước nói–điều mà mọi vị sáng lập các tu hội mới đều chăm lo một cách đặc biệt, thì có thể nói hoàn toàn không có nơi Don Bosco. Làm thế nào có thể gọi là anh hùng một con người chểnh mảng như thế về việc thực hành khẩu nguyện? Trong đời sống các thánh chưa từng thấy có một trường hợp nào giống như thế.”[97]
Thêm vào điều này còn có khó khăn nội tại của kinh nguyện, đó là nó không chỉ hệ tại việc tập trung chú ý, đi vào trong con người mình hay hệ tại việc nói chuyện với một người đối thoại vô hình không trả lời, mà còn hệ tại sự kiện kinh nguyện là tấm gương của đức tin sống động và của sự chú tâm mà Thiên Chúa đón nhận trong cuộc đời chúng ta. “Kinh nguyện là tổng hợp mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Có thể nói chúng ta là cái chúng ta cầu nguyện và giống như cái chúng ta cầu nguyện. Mức độ đức tin của chúng ta là mức độ kinh nguyện của chúng ta; sức mạnh đức cậy của chúng ta là sức mạnh kinh nguyện của chúng ta; sức nóng đức mến của chúng ta là sức nóng kinh nguyện của chúng ta.”[98]
Từ cách thức nói năng của chúng ta lộ rõ ngay lập tức mức độ tin tưởng của chúng ta đối với một người. Với một người bạn thân chúng ta nói chuyện thoải mái về bất cứ điều gì. Với một người lạ chúng ta không tìm được từ ngữ hay cách diễn tả. Điều này cũng thế khi chúng ta đặt mình trước mặt Thiên Chúa.
Do đó với một số người thì hình như giữa những người Salêdiêng không có một sự khai tâm vào việc cầu nguyện, hình như không có ai hướng dẫn họ thực hành cầu nguyện. Vì vậy người ta nhận thấy giữa họ có một sự trốn tránh để đến với các nhóm hay các phong trào cống hiến điều đó cho họ một cách ấn tượng và tích cực hơn.
Vì vậy rất hợp lý để tự hỏi việc cầu nguyện của người Salêdiêng là thế nào, khi họ là người dấn mình vào hoạt động giáo dục và mục vụ.
Người Salêdiêng có hai mẫu gương để biết mình phải cầu nguyện như thế nào: Chúa Giêsu Mục Tử và Người Rao Giảng Nước Trời, và Don Bosco.
Kinh nguyện của Chúa Giêsu
Thánh Luca nói rất nhiều về việc cầu nguyện của Chúa Giêsu và về các lời dạy của ngài liên quan đến cầu nguyện. Nhưng trước khi trình bày cho chúng ta về thái độ cầu nguyện của Chúa Giêsu, thánh Luca đặt toàn thể tường thuật về cuộc đời Chúa Giêsu trong một bầu khí cầu khẩn, ngợi khen, tạ ơn và xin ơn. Sự giáng sinh và tuổi thơ của Chúa Giêsu được đặt khung trongbốn bài thánh ca vui mừng, cậy trông và ngợi khen: thánh ca của bà Elidabét, của Đức Maria, của các Thiên thần và của ông già Simêon. Cái chết khơi dậy lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.”[99]
“Con xin phó thác thần khí con trong tay Cha.”[100]
Đó là một chỉ dẫn cho thấy phải nhìn và sống các biến cố cứu độ như thế nào. Những ai cầu nguyện thì thấy được tầm quan trọng của các sự kiện mà những người khác cho là bất thường hay có ý nghĩa tiêu cực.
Những lúc chính yếu của sứ mạng Chúa Giêsu được đánh dấu rõ ràng bởi kinh nguyện.
Lúc cầu nguyện khi chịu phép rửa, ngài được tôn phong công khai trước dân chúng và làm hài lòng Chúa Cha: “Sau khi Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và khi người đang cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên người dưới hình thể chim bồ câu, rồi có tiếng từ trời phán ra: Con là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con.”[101]
Một thời gian cầu nguyện dài tiếp theo sau những ngày nhịn đói trong hoang địa cho ngài ý thức về công cuộc và sức mạnh để kháng cự lại các cám dỗ lôi kéo ngài đi theo các hình thức khác với điều mà Chúa Cha muốn.[102]
Trước khi chọn các môn đệ ngài phó thác trong tay Cha việc quyết định và những người mà ngài sẽ chọn: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, ngài kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông. . .”[103]
Lời cầu nguyện của ngài được Cha ban cho lời tuyên xưng của Phêrô. . . và nâng đỡ đức tin của ông trong lúc gặp thử thách: “Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin.”[104]
Cuộc biến hình xảy ra tại một nơi mà ngài cầu nguyện thân mật với Cha. Và trong thái độ này của ngài, các môn đệ nhìn thấy đúng nhân tính của ngài.
Nhiều phép lạ dẫn trước hay theo sau một hành vi cầu nguyện: phép lạ hoá bánh, chữa người mù bẩm sinh, trừ quỉ, cho Ladarô sống lại.
Lời cầu nguyện vĩ đại cuối cùng của ngài là một giao ước, một cái nhìn về hiện hữu của ngài: nó tóm tắt những lý do của đời sống và cái chết của ngài:[105] lập trường của ngài đối với thế gian, thái độ hoàn toàn sẵn sàng thực hiện kế hoạch của Cha, lòng yêu thương các môn đệ, mối quan tâm tới sự hiệp nhất và sự bền chí của tất cả những ai tham dự vào hành động cứu độ của ngài. . .
Lời cầu nguyện trong vườn cây dầu và trên thập giá là sự chấp nhận các sự kiện như đến từ ý Thiên Chúa hơn là do ác tâm của con người. Với lời cầu này, ngài phó thác sự sống ngài trong tay Chúa.
Như thế kinh nguyện của Chúa Giêsu xuất hiện như một thái độ thường xuyên, nọi tâm, được diễn tả bằng những biểu hiện vui tươi tự nhiên,[106] tạ ơn,[107] cầu khẩn, sẵn sàng, suy tư. Ở đàng sau tất cả những biểu hiện này là một lời duy nhất: Cha. “Lạy Cha, con ngợi khen Cha.”[108] Đối với Cha, cũng có những thời gian và nơi chốn thích hợp để trò chuyện thanh thản: trên núi, trong hoang địa, ban đêm, các nơi thanh vắng, sự có mặt của một ít bạn bè.
Nhưng kinh nguyện đích thực là đời sống được thể hiện theo ý Cha và để phục vụ con người.[109] Vì thế lời dạy của ngài cho các môn đệ tập trung vào bốn lời khuyên mà chúng ta phải tìm ra sự duy nhất giữa chúng:
– pregate sempre, hãy cầu nguyện luôn luôn, không đứt quãng;[110] không có nghĩa là luôn luôn cầu nguyện, mà là biến mọi giây phút của đời sống chúng ta thành một lời cầu cùng Chúa Cha.
– quando pregate “non dite molte parole”, khi các con cầu nguyện, “đừng nhiều lời”. . .[111] Nói nhiều lời là thói quen của dân ngoại. Họ tưởng các thần sẽ chỉ biết được các vấn đề và tình cảm của chúng ta nếu chúng ta nói ra cho các thần ấy;[112]
– tự bản chất sâu xa nơi mọi lời và mọi sự chọn lựa, luôn luôn có một lời, một tình cảm: “Cha”. Khi cầu nguyện, các con hãy nói “Lạy Cha chúng con ở trên trời. . .”[113] Giá trị và nền tảng của mọi lời là sự quan hệ và địa vị mà chúng ta dành cho Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta;
– phải cầu nguyện “in Spiritu et veritate”, “trong Thần Khí và sự thật”. . .[114] Cường độ và sự trung thực của kinh nguyện được bộc lộ bằng một đời sống phục vụ Thiên Chúa và anh chị em.
Don Bosco và Mẹ Mazzarello đã học được thể thức cầu nguyện này nơi Đức Kitô Mục Tử. Các ngài khám phá ra đặc trưng của kinh nguyện có hoạt động tông đồ và bác ái khi hoạt động này được thể hiện theo thánh ý Chúa và trong sự hiện diện của Chúa. Điều này cũng đã từng được các nhà thần bí biết đến.
Đối với thánh Têrêxa: “Kinh nguyện là việc cư xử với Thiên Chúa trong tình bằng hữu. . .”; nó bao gồm toàn thể đời sống bất kể ta đang làm công việc gì; chúng ta có thể nói chuyện với ngài hay làm việc cho ngài; nghĩ đến ngài hay chịu đau khổ vì ngài.
Cho nên, vẫn theo thánh Têrêxa, kinh nguyện chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong hoạt động: “Nguyện ngắm không là gì khác hơn việc thực hành tình bằng hữu bằng cách gặp gỡ thường xuyên với người ta yêu. . . không phải để thụ hưởng nhưng để tích luỹ năng lượng để phục vụ.” Vì vậy hoạt động thay thế kinh nguyện một cách hữu ích trong những giờ phút nhất định: “Bỏ việc ở lại một mình với Người để hiến mình cho một trong hai chuyện này (hành động và chịu đau khổ) thì làm vui lòng Người.”
Don Bosco lúc cầu nguyện
Tuy nhiên phải nói rằng người Salêdiêng biết ít về đời sống cầu nguyện của Don Bosco. Người ta thường lặp đi lặp lại rằng “cầu nguyện là kết hợp với Thiên Chúa.” Nhưng nếu chúng ta hỏi mỗi người Salêdiêng rằng theo họ Don Bosco có là Bậc Thầy của việc cầu nguyện như ngài là Bậc Thầy của khoa sư phạm chẳng hạn, thì có lẽ câu trả lời phần lớn là không. Con đường dẫn Don Bosco tiến xa trong kinh nguyện hoạt động chắc chắn ít được biết đến và bình luận hơn là con đường đã dẫn ngài tới sự chín chắn của hệ thống dự phòng. Về hệ thống dự phòng chúng ta biết và có rất nhiều giai thoại và châm ngôn; nhưng về cầu nguyện thì chúng ta chỉ có một hình ảnh chung chung.
Các sách tiểu sử dành nhiều chỗ cho thiên tài sáng tạo của ngài và thêm vào một vài trang tượng trưng về các giờ kinh nguyện ban sáng của ngài.
Có một cuốn “cổ điển” trong văn học Salêdiêng với cố gắng quan sát chính xác hơn về đời sống thần bí của Don Bosco. Đó là cuốn Don Bosco con Dio của Don Ceria. Trong sách này chúng ta thấy ngài nhấn mạnh thường xuyên rằng người Salêdiêng có nhu cầu nguyện gẫm và khẩu nguyện: “Cầu nguyện. . . đây là điều trước hết. Không gì bắt đầu tốt đẹp nếu không bắt nguồn từ trời. Kinh nguyện đối với chúng ta giống như nước đối với cá, khí trời đối với chim, suối nước đối với nai, và nhiệt đối với thân thể.”[115]
Sẽ là một sai lầm khi trình bày Don Bosco luôn luôn đọc kinh, cũng như sai lầm khi nghĩ rằng ngài không có biểu hiện bề ngoài của lòng đạo đức. Tuy nhiên điều làm người ta ngưỡng mộ hơn chính là điều mà Don Ceria bình luận: “Nơi Don Bosco tinh thần cầu nguyện là cái mà nơi người lính giỏi là tinh thần chiến đấu, nơi người hoạ sĩ tài hoa là khiếu thẩm mỹ, nơi nhà khoa học là tinh thần quan sát: một đức tính thường xuyên của tâm hồn tự thể hiện một cách dễ dàng, bền bỉ và thích thú.”[116]
Như thế nơi ngài có một sự hoà lẫn một cách tự nhiên và thanh thản giữa hoạt động và cầu nguyện. Đời sống không chia cắt giữa hai việc này. Tình yêu được diễn tả trong cả hai: “Nét đặc trưng phân biệt của lòng đạo đức Salêdiêng hệ tại việc biết làm cho hoạt động biến thành kinh nguyện. . . Đây là một trong những nét đặc trưng đẹp nhất của Don Bosco.”[117]
Đi theo hai “mẫu gương” trên đây, người Salêdiêng phải đạt tới chỗ trở thành một “con người cầu nguyện” giống như mọi tu sĩ khác. Nhưng họ phải làm điều này “trong lòng thế giới và giữa những lo toan của đời mục vụ”,[118] “trong một tinh thần hoạt động không mỏi mệt được thánh hoá bởi kinh nguyện và sự kết hiệp với Thiên Chúa.”[119]
Để diễn tả điều này, trong từ vựng Salêdiêng, chúng ta sử dụng hai thành ngữ: là người chiêm niệm trong hoạt động, cử hành phụng vụ đời sống.
Là người chiêm niệm trong hoạt động
Chiêm niệm trong hoạt động là một thành ngữ cổ điển của linh đạo thánh Ignatiô, được Don Rua áp dụng cho Don Bosco. Nói cách khác, thành ngữ này nói lên điều mà chúng ta đã chú giải trong phần suy niệm về diện mạo Don Bosco: “Sống trong thế giới này như thể nhìn thấy Đấng Vô Hình.”
Nhưng “chiêm niệm” trong hoạt động như thế nào? Đây là một vài chỉ dẫn.
Trong công việc của mình, chúng ta luôn có ý thức sống động rằng chúng ta là những dụng cụ để Thiên Chúa hành động vì lợi ích giới trẻ. Thiên Chúa sử dụng các cố gắng, các hành vi phục vụ, các lời nói của chúng ta, để làm cho giới trẻ cảm nhận được ngài trong đời sống họ và đánh thức nơi họ ước muốn trở nên “nhiều hơn”. Chúng ta không đi vào được quả tim và lương tâm của họ. Nhưng sự hiện diện của chúng ta, lời nói của chúng ta là cánh cửa qua đó Thiên Chúa tự thông truyền cho họ.
Rồi chúng ta làm quen với việc khám phá ra sự hiện diện của Thánh Thần trong đời sống của con người, đặc biệt của thanh thiếu niên. Chúng ta kết hợp mình vào công trình mà Thiên Chúa dẫn dắt, bằng cách tạ ơn, vui hưởng, cầu khẩn. Nếu các vấn đề và các niềm hi vọng của dân chúng làm tâm trí chúng ta phân tán, chúng ta có thể đưa các mối phân tâm này vào trong kinh nguyện của mình. Theo thánh Têrêxa nhỏ, các mối phân tâm giống như những đứa trẻ làm cha mẹ chia trí trong thánh lễ. Chỉ cần chắp tay chúng lại và làm chúng nhìn lên bàn thờ.
Còn một điều nữa: chúng ta hiến mình hoàn toàn để phục vụ giới trẻ bằng cách chấp nhận những đòi hỏi hằng ngày của việc phục vụ này theo gương vị Mục Tử tốt lành; bằng cách ấy chúng ta tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, qua việc hành động giống như ngài để phục vụ sự sống từ những hình thức cơ bản hơn (lương thực, nhà ở, dạy dỗ) tới những hình thức cao hơn (mặc khải của Tin Mừng, đời sống đức tin).
Cử hành phụng vụ đời sống
Một thành ngữ tổng hợp khác của kinh nguyện Salêdiêng là: cử hành phụng vụ đời sống. Trong văn kiện Laudis Canticum có nhắc đến tất cả các Kitô hữu hiến dâng đời sống mình cho Thiên Chúa và đồng loại, qua việc tháp nhập đời sống mình vào đời sống Đức Kitô linh mục. Đó là một trong những cách trình bày đẹp nhất và đúng nhất về phụng tự Kitô giáo, một việc phụng tự vượt lên trên mọi nghi thức và lễ nghi; và nó làm con người trở thành đền thờ Thiên Chúa và đời sống họ trở thành việc thờ phượng và ca ngợi Chúa.
Nó có thể được suy niệm và đào sâu bằng nhiều cách: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa: đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa.”[120]
“Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa.”[121]
Phụng vụ đời sống được chấp nhận như “qui luật” cầu nguyện trong Hiến Luật của hai Tu hội SDB và FMA.[122] Nó đặc biệt thích hợp trong các hoàn cảnh thực tế của công việc “giáo dục”.
Làm việc và cầu nguyện hoà nhập vào nhau trong bí tích toàn diện của đời sống hướng về Thiên Chúa và được thúc đẩy bởi đức mến. Sự kết hợp của kinh nguyện và của đời sống với Thiên Chúa là hai nhịp đập của cùng một quả tim. Mỗi chuyển động có những nhịp điệu và hình thức riêng. “Sự kết hợp của kinh nguyện tạm ngưng những quan hệ với các thụ tạo để trực tiếp chú tâm hoàn toàn vào ánh sáng và đời sống thâm sâu của Thiên Chúa. Sự kết hợp của hoạt động được thể hiện giữa lòng của cuộc sống, trong sự đan dệt của các mối quan hệ con người.”[123]
Người chiêm niệm trong hoạt động giáo dục
Trong hệ thống dự phòng chúng ta gặp sự liên tục không đứt quãng giữa hai thời điểm; thậm chí, hai thời điểm này kết hợp với nhau ở một điểm nối cao hơn: đức ái. Và đối với loại đức ái giáo dục mục tử của chúng ta, thời điểm hành động là chính yếu như nhiệm vụ và sự biểu hiện. Vì thế Don Viganò thích sử dụng thành ngữ của thánh Phanxicô Salê: “sự xuất thần của hoạt động”.
Một bản văn Salêdiêng diễn tả điều này như sau: “Đối với người Salêdiêng, giáo dục đức tin cho thanh thiếu niên là làm việc và cầu nguyện. Họ biết rằng dấn mình cho việc cứu rỗi giới trẻ làm chúng ta cảm nghiệm tình phụ tử của Thiên Chúa. (. . .) Don Bosco đã dạy chúng ta nhận ra sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa trong công việc giáo dục của chúng ta, cảm nghiệm nó như là đời sống và tình yêu. (. . .) Chúng ta tin rằng Thiên Chúa đang đợi chúng ta nơi giới trẻ để ban cho chúng ta ơn gặp gỡ ngài và giúp chúng ta sẵn sàng phục vụ ngài trong giới trẻ, bằng cách nhìn nhận phẩm giá họ và giáo dục họ tới sự sung mãn của đời sống.
Như thế thời điểm giáo dục trở thành nơi ưu việt để chúng ta gặp gỡ ngài”[124] và để chiêm ngưỡng công trình của ngài trong đời sống con người.
Thái độ cầu nguyện thường xuyên
Nhưng có một tương quan giữa thái độ cầu nguyện thường xuyên và việc thực hành cầu nguyện, giữa kinh nguyện bằng lời và kinh nguyện-đời sống, giữa kinh nguyện qui định và kinh nguyện trải ra suốt ngày, giữa cử hành phụng vụ và phụng vụ đời sống.
Có lẽ trong chính sự tương quan này mà chúng ta gặp thấy những khó khăn và đồng thời sự phong phú của người Salêdiêng. Và đó cũng là điểm cơ bản của việc đào luyện thiêng liêng-tông đồ của họ.
Hai yếu tố hay khía cạnh này rất quan trọng: yếu tố này đối với yếu tố kia; cả hai cần thiết cho sự ổn định và sung mãn của đời thánh hiến. Ai bỏ đi cái này thì cũng mất cái kia.
Tương quan giữa chúng thay đổi tuỳ theo “kiểu” đời sống. Ngay từ thời kỳ đâu của hai tu hội chúng ta, đã có sự khẳng định: “Đời sống hoạt động mà tu hội hướng tới làm cho các hội viên không thể có nhiều việc thực hành đạo đức chung. Họ sẽ cố gắng bù đắp bằng gương sáng và việc chu toàn các bổn phận của người Kitô hữu tốt.”[125] Cần giải thích bản văn này bằng cách đặt nó vào trong “thời” của nó.
Điều nó gợi ra là, cần sự đào sâu và những thời gian tập trung đặc biệt. “Nhiều người tin rằng kinh nguyện tự nó đến và họ không muốn biết đến việc tập luyện nó, nhưng họ lầm.”[126]
Kinh nguyện phải phát xuất “một cách tự nhiên”, có người nói thế; nhưng tất cả những gì chúng ta làm một cách quá tự nhiên đều là kết quả của một chuỗi luyện tập dài: chơi thể thao, đi bộ, đánh đàn. Việc thực hành cá nhân thường xuyên và tham dự chăm chỉ việc thực hành của cộng đoàn là những điều không thể thiếu.
Cần có việc khai tâm thanh thản và tiệm tiến vào các hình thức cầu nguyện khác nhau: khẩu nguyện, tâm nguyện, đọc sách, thinh lặng, chiêm niệm, dựa theo các công thức, sáng tạo. Cần thực hành chúng vào các hoàn cảnh và thời điểm khác nhau, để làm cho đời sống chúng ta thấm nhuần kinh nguyện bằng những đường lối khác nhau và những hình thức khác nhau.
Việc thực hành tạo thành thói quen: sự đều đặn có tính quyết định; tất cả những việc quan trọng trong đời sống chúng ta đều có một thời biểu, một giờ giấc riêng; nếu một ngày chúng ta không thể làm các việc ấy vào giờ vẫn quen làm, chúng ta lập tức định nó vào một giờ khác. Việc ăn uống, ngủ nghỉ, tắm rửa cũng thế.
Nguyện ngắm chung là cần thiết đối với chúng ta: địa điểm, thời gian, hình thức, cộng đoàn. Tôi nói “đối với chúng ta”, vì phong cách cộng đoàn bao trùm mọi chiều kích của đời sống chúng ta. Với các tu sĩ khác có thể khác. Tuy nhiên cũng cần việc thực hành nguyện ngắm cá nhân. Kết quả và cách áp dụng có thể khác nhau nơi mỗi người. Mỗi người có cách cầu nguyện riêng, cũng như họ có cách nói chuyện riêng, đi đứng và nhìn riêng. Đây là chìa khoá để giải thích tính cảm xúc mạnh hay yếu, các sự chia trí, các sở thích riêng về suy tư hay theo công thức, các thời kỳ mệt mỏi.
Nhưng cầu nguyện là một hồng ân. Đức Kitô là người cầu nguyện duy nhất. Ngài tháp nhập chúng ta vào kinh nguyện của ngài trong Thần Khí. Chúng ta không biết nói gì hay nói thế nào. Thần Khí đặt trên môi miệng chúng ta điều gì chúng ta cần phải xin. “Thần Khí đến giúp đỡ sự yếu hèn của chúng ta, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa.”[127]
Đời sống chúng ta cần kết hợp suy tư và thực hành, học tập và hoạt động, thinh lặng và gặp gỡ, tuy rằng đối với chúng ta điều này không bị trói chặt vào một giờ giấc khắt khe nào. Và sự thật là thế trong hoàn cảnh đời sống hiện tại của chúng ta, khi chúng ta sống giữa sự đa dạng, căng thẳng, và thúc bách của biết bao bổn phận.
- lao động
Ý nghĩa của lao động trong đời sống chúng ta, chúng ta dễ nhận ra qua một loạt các sự kiện có tầm quan trọng thực tế và biểu tượng: thân thế nông dân và các kinh nghiệm đầu đời của Don Bosco, các nhân vật chính và sắc thái các kinh nghiệm thời kỳ đầu của Tu Hội, việc tuyên khấn khó nghèo, giai cấp lao động mà chúng ta ưu tiên hiến mình phục vụ. Lao động là nội dung chính yếu của các chương trình giáo dục của chúng ta trong các trường dạy nghề và kỹ thuật, là đặc điểm của một thành phần hội viên, các sư huynh; là hình thức hội nhập của chúng ta vào xã hội và văn hoá. Nó tạo nét gần như cơ bản của người Salêdiêng: người Salêdiêng là một người lao động. Don Cagliero từng phát biểu một câu rất mạnh: “Ai không lao động, không phải người Salêdiêng.”
Hai sự kiện sau đây được dùng như một tổng hợp: việc nhắc đến lao động trong huy hiệu mà chỉ được dùng “hai” từ mà thôi, và những lời trối cuối cùng của Don Bosco: “Cha khuyên các con: lao động, lao động, lao động.”
Tuy nhiên cần làm sáng tỏ thêm đôi điều. Đối với Don Bosco, lao động không đơn thuần là dành thời giờ vào một hoạt động nào đó, thậm chí có thể mệt nhọc. Mà là hiến mình cho sứ mạng với tất cả khả năng và trọn thời giờ. Lao động theo nghĩa này không chỉ là lao động tay chân, mà cũng là lao động trí óc và tông đồ. Lao động khi viết sách, giải tội, giảng dạy, học hành, sắp đặt nhà cửa. Lao động là đặc trưng của đức vâng phục, của đức ái mục tử, của ý ngay lành và của tinh thần cộng đoàn. Vì vậy không phải là sự hiếu động, hoạt động vì không thể ngồi yên, mà phải có mục đích, chọn lựa, và sắp đặt các hành động. Cũng cần nói thêm là trong từ “lao động” có sự nhấn mạnh đặc biệt về lao động chân tay và thực dụng. Người Salêdiêng học biết lao động tay chân và thấy vui cả khi làm các công việc “thấp hèn”: dọn dẹp nhà cửa, lo vật chất. Nhưng chắc chắn “lao động” lớn là hiến mình cho việc giáo dục “Kitô giáo” cho thanh thiếu niên.
Đức ái mục tử là cái hướng dẫn lao động, có thể được biểu hiện nơi những hoạt động tự phát và quảng đại. Nhưng điều thông thường hơn là nó phải làm chúng ta dấn mình lâu dài vào một công việc kiên trì và hằng ngày để thăng tiến con người và sinh động hoá cộng thể.
Hơn là một thái độ tốt bụng hay một cử chỉ thiện cảm, nó là một việc thực hành: một hình thức tác động thường xuyên vào một môi trường một cách đầy khả năng, giống như việc thực hành chính trị, xã hội, y khoa. Tất cả đòi hỏi một hành động nhất quán, có suy tư và có mục tiêu. Điều này đòi hỏi chúng ta một số thái độ và khả năng thường xuyên. Và đây là thứ lao động giúp hình thành diện mạo thiêng liêng của con người chúng ta.
Niềm say mê lao động, trước hết, là ở “tấm lòng” mục vụ: sự ham thích, nhiệt tình, ước muốn lao động, tìm thấy hứng thú trong các công tác mục vụ, sẵn sàng lao động, sự hiến mình vui vẻ, coi mọi sự mệt nhọc là đáng giá, cảm thấy được lôi kéo đến với những người có nhu cầu hơn, dễ khắc phục những thất bại nho nhỏ, không bỏ cuộc, chấp nhận các rủi ro và các khó khăn như là chuyện nhỏ. Ngược lại là sự dửng dưng, lười biếng mục vụ, đến với các công tác mục vụ như một gánh nặng hay một bó buộc phải trút bỏ càng nhanh càng tốt.
Nhưng vượt lên trên “tấm lòng”, lao động được đức ái hướng dẫn thì đòi hỏi và phát triển óc mục vụ. Óc mục vụ giống như óc nghệ thuật hay óc thương mại. Nó giống như một sự đánh hơi, một cách đánh giá nhanh nhạy trước một tình huống. Khi đi thăm các trường học hay nguyện xá của chúng ta, người ta nhận ra ngay cộng đoàn đó có “óc” mục vụ hay không nhờ đường hướng của các hoạt động và sắc thái của các mối quan hệ. Trong một số nơi, người ta nhận thấy trước hết là óc kinh tế, nơi khác là óc tổ chức hay óc kỷ luật.
Óc mục vụ hệ tại việc dừng lại để đánh giá sự vật dựa trên quan điểm sự cứu rỗi con người; định hướng đúng khi đọc các biến cố, có các tiêu chuẩn, chìa khoá hay điểm đối chiếu hợp lý để suy tư và quyết định một hành động sao cho nó có thể giúp con người trưởng thành về nhân bản và làm họ ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời họ.
Lao động giúp chúng ta đạt được và phát triển khả năng mục vụ: nó là một sự chuẩn bị nghiệp vụ chuyên môn mà đức ái đòi hỏi, vì nó mà chúng ta đã học tập và hoàn thiện mình trong việc khơi dậy động lực, dạy dỗ, thánh hoá, sinh động hoá. Chúng ta luyện tập để có khả năng nhận thức một bối cảnh, triển khai một kế hoạch đáp ứng các nhu cầu cấp bách của nó và thể hiện kế hoạch ấy, đồng thời lưu ý đến yếu tố vô hình và không thể đo lường được vốn luôn có trong hoạt động mục vụ.
Cuối cùng, lao động bao gồm óc sáng tạo mục vụ: đó là thái độ tinh thần và thực tế giúp tìm ra những giải pháp độc đáo cho các vấn đề và các tình huống mới. Don Bosco đã cưu mang một kế hoạch cho các thiếu niên đường phố đang khi các giáo xứ tiếp tục với việc dạy giáo lý “chính qui”. Lập tức ngay sau đó, khi nhận thấy các thiếu niên không được chuẩn bị cũng như không được bảo đảm trong lao động, ngài đã nghĩ ra một giải pháp “nhỏ” thuộc loại “cây nhà lá vườn” và nó đã phát triển: các hợp đồng lao động, các xưởng thợ, các trường dạy nghề. Cũng thế với các nhu cầu khác, như nhà ở, việc dạy dỗ.
Don Ceria nêu điểm này như nét đặc trưng của tinh thần Salêdiêng: “Đặc điểm đầu tiên, cái đập vào mắt mọi người là một hoạt động lạ thường của cá nhân cũng như tập thể.”[128]
Đặc điểm này được ghi nhận trong HL: “Đức ái mục tử đầy sức năng động trẻ trung đã biểu hiện thật mãnh liệt nơi Đấng Sáng Lập và trong thời kỳ đầu của Tu Hội chúng ta. . .”[129]
Lao động có nghĩa là sử dụng thời giờ và các nguồn lực một cách tốt hơn, chú ý tới sự phát triển của chúng ta trong mọi tiềm năng của nó, khôn ngoan trong các chọn lựa, hoàn toàn tận tuỵ.
- tiết độ
Linh đạo cũng bao gồm chiều kích tu đức, sự kháng cự hay chiến đấu thiêng liêng, mà Tông huấn diễn tả qua biểu tượng Giacóp chiến đấu với Thiên thần. “Việc tập luyện tu đức giúp chúng ta làm chủ và sửa chữa các khuynh hướng của bản tính tự nhiên con người vốn bị tội lỗi làm thương tổn, nó thực sự cần thiết cho con người thánh hiến để sống trung thành với ơn gọi và theo Đức Kitô trên con đường thập giá.”[130]
Nó gắn liền với chiều kích sám hối là chiều kích cơ bản của sự trưởng thành Kitô giáo. Thiếu điều này thì không thể nào bắt đầu hay tiến xa trên hành trình hoán cải: nó hệ tại việc chấp nhận một số điều và bỏ đi nhiều điều khác, chọn lựa và cắt tỉa, phá đi những điều cũ hay thói quen cũ hay vô ích và để mình được tái tạo lại. Các câu truyện về Abraham và các tông đồ nói với chúng ta theo nghĩa này.
Đây là một khía cạnh không dễ chấp nhận đối với cảm xúc thông thường có khuynh hướng tìm sự thoả mãn các ước muốn và biện minh cho nó. Mỗi dòng tu có một truyền thống tu đức riêng phù hợp với phong cách thiêng liêng của mình. Trong dòng chúng ta, công thức tóm tắt khoa tu đức là “coetera tolle”: mọi thứ khác cứ lấy đi, nó qui tất cả các thứ khác vào điều này, đó là vào “da mihi animas”, vào khả năng sống nội tâm và diễn tả tình yêu đối với thanh thiếu niên, bằng cách lôi kéo chúng ra khỏi những hoàn cảnh ngăn trở đời sống của chúng. Đó là hai khía cạnh tương quan với nhau.
Khía cạnh quan trọng của tu đức này là tạo sự thống nhất cho con người, bằng cách kết hợp trong kế hoạch đời sống trong Thiên Chúa một số khuynh hướng mà, nếu phát triển một cách độc lập, sẽ làm thiệt hại đến chất lượng của kinh nghiệm thiêng liêng và mục tiêu của sứ mạng: một thái độ chỉ lo theo đuổi tính hiệu quả và tính chuyên môn tách rời khỏi mục tiêu mục vụ, sự thế tục hoá lối suy nghĩ và lối sống, các hình thức nguỵ trang của sự khẳng định quá đáng tính đặc thù văn hoá.[131]
Câu “các cái khác cứ lấy đi”, bỏ đi hay sắp đặt trật tự các cái khác, được biểu hiện trong đời sống hằng ngày bằng sự tiết độ “Salêdiêng”. Tôi nói “Salêdiêng” bởi vì nó được nhắc đến rất dồi dào trong lịch sử chúng ta và trong các văn kiện của chúng ta.
Tiết độ là nhân đức trụ điều hoà các bản năng, lời nói, và hành động theo lý trí và các đòi hỏi của đời sống Kitô giáo. Xoay quanh nó là sự tiết dục, khiêm nhường, điều độ, giản dị, khắc khổ. Trong hệ thống dự phòng các thực tại này đuợc bao gồm trong phần lý trí. Các biểu hiện của nó trong đời sống hằng ngày là: quân bình, nghĩa là chừng mực trong mọi sự, một kỷ luật thích hợp, khả năng cộng tác, sự thanh thản bên trong và bên ngoài, một mối quan hệ vui tươi và uy tín với mọi người, đặc biệt với thanh thiếu niên.
Tiết độ trên hết là “tình trạng vận động viên thể thao” thường xuyên đối với bất cứ yêu cầu nào có ích cho giới trẻ; giữ mình tự do khỏi những sự trói buộc chi phối, khỏi áp lực của những sở thích hay đòi hỏi cá nhân tạo nên sự lệ thuộc: “Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thuởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đánh vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.”[132]
Tiết độ được áp dụng trong lao động: nó là trật tự nhờ đó các hành động có một động lực trong các mục đích và một sự ưu tiên; nó giúp kiểm soát và dung hoà các tham vọng cá nhân và các tham vọng “tông đồ”, nó đòi hỏi nơi người khác điều chừng mực chứ không quá đáng hay chỉ để tạo tiện nghi cho chúng ta; nó giúp cho lao động không loại bỏ việc cầu nguyện hay các quan hệ huynh đệ. Phải điều độ trong cử động, trong việc đi ra khỏi nhà, trong việc tìm kiếm tiền bạc, trong ước muốn làm xong một việc để bắt đầu một việc khác; trong việc làm chủ hành động của mình, dù chỉ để không bị hoạt động lôi kéo như vào trong một bánh xe. . .
Tiết độ được áp dụng vào đời sống huynh đệ: thậm chí không có nó thì không thể có một quan hệ cộng đoàn tốt được.[133] Tình yêu huynh đệ bao hàm sự tự chủ, cố gắng chú ý đến nguời khác, kiểm soát các tình cảm tự nhiên, khắc phục các xung đột, cảm thông các đau khổ của người khác. Tất cả là một việc tập luyện để ra khỏi chính mình và thay đổi khuynh huớng riêng của mình. Đối với chúng ta còn có bổn phận minh chứng nó một cách dễ hiểu: một tình cảm có khả năng khơi dậy sự tương ứng vì lợi ích của người khác.
Tiết độ được áp dụng vào phong cách sống cá nhân: điều hoà các mối quan hệ theo sứ mạng; sử dụng các đồ dùng (máy móc, dụng cụ); thời giờ thư giãn và nghỉ ngơi; tỉnh thức và thanh tẩy nội tâm.
Tiết độ cũng được áp dụng trong việc cầu nguyện và chiêm niệm: nó là đức tin không đòi phải thấy và cảm được; và khi “cảm” thì không liên quan đến cảm giác. Các tác giả nói đến uớc muốn không kiềm chế của sự “an ủi”.
Tất cả những điều này có thể tỏ ra quá bình thường xét như là một chiều kích tu đức, và gần như là vui vẻ trước sự nghiêm khắc của lời kêu gọi hoán cải và thái độ triệt để. Don Bosco diễn tả dáng vẻ mâu thuẫn này bằng giấc mơ giàn hoa hồng. Người Salêdiêng bước đi trên những cánh hoa. Mọi người nghĩ rằng họ “vui lắm”. Mà quả thực họ “hạnh phúc”. Bị gai đâm không làm họ mất niềm vui. Cả điều này cũng là một tu đức: sự đơn sơ, nét mặt tốt lành, không “đóng kịch”. Nó đáp lại lời khuyên phúc âm: khi anh em ăn chay, đừng làm bộ rầu rĩ, nhưng hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt cho sạch.[134]
7
linh đạo Salêdiêng
trong thực hành mục vụ:
hệ thống dự phòng
- đức ái mục tử và đức ái sư phạm
- một hình thức độc đáo của đức ái mục tử
Đức ái mục tử bao gồm mọi việc phục vụ của Hội Thánh cho con người: loan báo Tin Mừng, thăng tiến con người, sinh động hoá cộng đoàn, thực hiện các công cuộc từ thiện cho thân xác và linh hồn.
Công Đồng đã nêu đức ái mục tử làm con đường nên thánh cho những ai có ý hướng dấn mình sâu xa vào sứ mạng của Hội Thánh: các giám mục, linh mục, các tu sĩ hoạt động, các giáo dân dấn thân.
Đức ái mục tử Salêdiêng có một sắc thái khác chính xác hơn, không giới hạn nó nhưng định nghĩa nó hay hơn: là một đức ái sư phạm. Nó là một tình yêu biết tạo ra một quan hệ giáo dục: nó được diễn tả theo mức độ của thiếu niên và là thiếu niên nghèo cần được giúp đỡ để mở lòng ra, khám phá sự phong phú của đời sống, tăng trưởng.
Đối với thiếu niên nghèo này, nhiều khi thiếu can đảm, ít giáo dục, ít ngôn ngữ và tư tưởng, đức ái của người Salêdiêng phải trở thành dấu chỉ có thể đọc được về tình yêu Thiên Chúa. Vì vậy nó là một đức ái có thể đạt tới những con người hèn kém nhất, thấp nhất, những con người có nhiều khó khăn nhất.
Một số hội viên làm việc tại các vùng nghèo khổ thuật lại cho tôi rằng một trong những khó khăn lớn mà các trẻ em của các môi trường này gặp lúc ban đầu là việc phát biểu trước những người lớn xa lạ, trước các tổ chức và những người đại diện các tổ chức ấy, kể cả Giáo hội. Đối với các em, các tổ chức là hình ảnh của thế giới có tổ chức mà các em bị gạt ra ngoài. Tình yêu của người Salêdiêng, nếu muốn trở thành dụng cụ cứu rổi cho những em nghèo khổ nhất, phải có khả năng làm các động tác giúp các em thực hiện việc phát triển bản thân các em với sự vui vẻ và hi vọng, mở lòng đón nhận sự tin tưởng và đối thoại, kể cả trong bối cảnh của một đời sống nghèo túng và lệ thuộc.
Điều này gợi lại cử chỉ bác ái của Don Bosco đối với Bartolomeo Garelli, chủ yếu hệ tại giúp nó thấy thoải mái để nó có thể “cười”. Do đó, cùng với nhiệt tình thiêng liêng, đức ái này kết hợp sự khôn ngoan, tài khéo sư phạm và óc thực tế, sự lạc quan giáo dục và lòng kiên nhẫn của người phải nâng đỡ và vun trồng những mầm sự sống. Tất cả điều này diễn tả điều đã được Don Caviglia khẳng định và được Đức Gioan Phaolô II lấy lại trong Juvenum Patris: “Sự thánh thiện của Don Bosco mang hình dáng của sự thánh thiện giáo dục.”[135]
Anh chị em đã có dịp nào được thấy nhiệt tình ngôn sứ của một số nhà giảng thuyết, phần đa không phải công giáo, mà trên bục giảng họ trở thành những người diễn giải lệnh truyền hối cải của Thiên Chúa và loan báo ngày tận thế chưa? Không ai có thể phủ nhận rằng họ có tình yêu và nhiệt tình tôn giáo. Nhưng dù sao chúng ta không thể nói được rằng đó là “phong cách” của đức ái “sư phạm” biết lắng nghe, thông cảm, giúp đỡ và đồng hành với con người.
Đức ái sư phạm chứng tỏ nhiệt tình, nhưng cũng chứng tỏ sự tế nhị, óc phán đoán, sự chừng mực và tình cảm. Nói tóm, nó là sự khôn ngoan phụ tử dạy người ta biết đối diện với cuộc đời. Gia sản của sự suy tư và kinh nghiệm về hình thức đức ái này được diễn tả trong các Hiến Luật[136] với các lời sau đây: “Được Đức Maria, vị thầy của mình hướng dẫn, Don Bosco đã sống một kinh nghiệm giáo dục và thiêng liêng mà ngài gọi là “Hệ thống Dự phòng”. Đối với ngài, đó là lòng yêu thương tự hiến cách nhưng không, kín múc từ lòng mến của Thiên Chúa, Đấng tiên liệu mọi sự cho mọi tạo vật bằng sự Quan phòng, hằng hiện diện bên cạnh chúng, và trao ban sự sống mình để cứu vớt chúng.
Don Bosco đã chuyển giao cho chúng ta hệ thống giáo dục này như một lối sống và làm việc để thông truyền Tin Mừng và cứu rỗi các thanh thiếu niên cùng với chúng và nhờ chúng. Hệ thống này thấm nhập vào mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, vào những giao tiếp cá nhân và đời sống cộng thể, trong việc thực thi một tình yêu khả dĩ gợi được sự đáp trả.”
Trong khoản HL này có một tập hợp các nhấn mạnh mà chúng ta không thể không chú ý đến.
– Hệ thống Dự phòng được gọi là “kinh nghiệm thiêng liêng” cú không chỉ là khoa sư phạm.
– “Được kín múc từ lòng mến của Thiên Chúa”: vì thế nó không chỉ là kết quả của những nghiên cứu giáo dục cả về những gì liên quan đến các nền tảng của nó lẫn những gì liên quan đến việc thực hành.
– Kinh nghiệm phát sinh và phát triển “trong việc gặp gỡ với thanh thiếu niên” và “trong nguyện xá”. Đây là mảnh đất mà chúng ta tìm thấy các chất dinh duỡng cho cây trồng này. Kinh nghiệm không phát sinh và phát triển trong các tu viện, trong các thư viện, trong phòng riêng. . . , tuy rằng những thứ này cũng ích lợi đối với người Salêdiêng.
–“Nó thấm nhập vào các mối tương quan của ta với Thiên Chúa”. Người Salêdiêng là một “loại nguyện xá” cả trước Thiên Chúa và trong các vấn đề thiêng liêng, trực tiếp và rộng mở, đơn sơ và tự nhiên, tin tưởng và phấn khởi.
Vì vậy cần suy tư về các thái độ mà đức ái mục tử này đòi hỏi và tạo ra, và về việc thực hành mà nó đòi hỏi.
- các thái độ của đức ái sư phạm
Lòng ưu ái đối với thanh thiếu niên
Thái độ đầu tiên là lòng ưu ái đối với thanh thiếu niên. Mỗi người Salêdiêng, nơi họ có đức ái hoạt động, phải có thể lặp lại với Don Bosco: “Ở giữa các con cha thấy hạnh phúc. Đời sống cha chính là để ở giữa các con.”
Hậu quả cụ thể của lòng ưu ái nơi Don Bosco đối với thanh thiếu niên là chọn giới trẻ làm lãnh vực hoạt động riêng của mình. Với Don Bosco trong tư cách linh mục, người ta từng đề nghị những lãnh vực hoạt động khác có những lợi thế kinh tế rõ rệt, có uy tín và phù hợp với khả năng của ngài. Việc ngài chọn sống với thanh thiếu niên đường phố và trẻ em học nghề và từ chối chức vụ cha phó xứ, làm gia sư cho một gia đình khá giả, làm tuyên uý cho một trường học hay giáo sư luân lý, đã đánh dấu tất cả hành trình sau này của ngài.
Với Mẹ Mazzarello cũng thế. Công việc tông đồ giữa các thiếu nữ trong làng tạo ra nơi mẹ sự đồng cảm dẫn mẹ tới một cuộc gặp gỡ “nồng nàn thiêng liêng” với Don Bosco, từ đó phát sinh lối biểu hiện nữ của linh đạo Salêdiêng.
Nhưng từ sự chọn lựa quyết định này phát sinh hai hệ quả: hiến mình cho thanh thiếu niên trọn thời giờ của mình và đảm nhận các vấn đề của họ: sự nghèo khổ, lao động, sự thiếu giáo dục, những khó khăn của sự tăng trưởng, thiếu một mái ấm gia đình.
Chúng ta cũng phải có thể khẳng định rằng chúng ở giữa giới trẻ không phải “vì thời biểu bó buộc”, “vì nghề nghiệp” hay để kiếm tiền; rằng chúng ta không đợi lúc về hưu để có thể hiến mình cho một công việc khác thích hơn, mà chúng ta coi là nghiêm túc hơn và sâu xa hơn, và trong đó chúng ta đặt sự quan tâm mục vụ chính của mình vào, lúc thư giãn của mình, hay điểm cao hơn của đời sống thiêng liêng của mình.
Chúng ta không tiêu hao sức lực thiêng liêng giữa thanh thiếu niên để sau đó nạp lại năng lượng thiêng liêng vào những lúc khác. Sống với họ chúng ta thấy tốt đẹp. . . đó là lúc thiêng liêng của chúng ta!
Bằng một lối diễn tả hiện đại, TTN23 diễn tả điều này về các người Salêdiêng: “Chúng ta tin Thiên Chúa yêu thương thanh thiếu niên.” Đây là niềm tin ở gốc rễ ơn gọi của chúng ta, nó là động lực thúc đẩy đời sống và mọi hoạt động mục vụ của chúng ta.
Chúng ta tin Chúa Giêsu muốn chia sẻ “sự sống mình” cho thanh thiếu niên: họ là niềm hi vọng của một tương lai mới, và ẩn dưới các mong đợi của họ, họ mang nơi họ các hạt giống Nước Trời.
Chúng ta tin Chúa Thánh Thần hiện diện nơi thanh thiếu niên và nhờ họ ngài muốn kiến tạo cộng đồng nhân loại và Kitô giáo trung thực hơn. Ngài đã đang hoạt động, nơi từng cá nhân và nơi các nhóm. Ngài đã trao phó cho họ một nhiệm vụ ngôn sứ phải thể hiện trong thế giới cũng là chính thế giới của mọi người chúng ta.
Chúng ta tin Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta nơi thanh thiếu niên để ban tặng chúng ta ơn gặp gỡ ngài và giúp chúng ta sẵn sàng phục vụ ngài trong chúng, bằng cách nhìn nhận phẩm giá chúng và giáo dục chúng tới sự sung mãn của đời sống.
Như thế, thời điểm giáo dục trở thành nơi ưu việt để chúng ta gặp gỡ ngài.[137]
Ở giai đoạn đầu đời Salêdiêng và khi bản thân chúng ta còn ở tuổi thanh niên, sống với và giữa trẻ em là một điều tự nhiên và thú vị, nhất là nếu chúng ta có khả năng đồng cảm và được chấp nhận với sự thiện cảm. Các thanh thiếu niên có sức hấp dẫn vì sự sinh động của chúng, khả năng sáng tạo, lòng muốn sống và chia sẻ.
Nhưng khi ước muốn tự nhiên cạn dần, quyết định “sống với trẻ em” đòi hỏi sự dấn thân và cố gắng tu đức. Tới một lúc nào đó chúng ta bắt đầu cảm thấy quả là một hi sinh để ở giữa thanh thiếu niên về mặt thể chất; và nhất là về mặt tâm lý và văn hoá, yêu thích thế giới của họ hơn mọi môi trường khác thân thiết và nghiêm túc hơn.
Ngày nay điều này càng trở nên khó hơn. Thanh thiếu niên trong thời kỳ giáo dục có tuổi cao hơn, nhiều tự do hơn, các thái độ của chúng đa dạng và thay đổi nhiều hơn, chúng nói chuyện cởi mở hơn về mọi vấn đề. Điều này tạo ra một sự “trốn tránh”, một sự “rời bỏ” từ từ lãnh vực giới trẻ của không ít người Salêdiêng, dưới ấn tượng không thành công trong việc thông truyền bằng ngôn ngữ, với các khát vọng hay nếp sống của các thế hệ mới. Công việc trong cộng đoàn giúp chúng ta kết hợp những đóng góp của mọi người: của những người đặc biệt có năng khiếu tiếp xúc với giới trẻ và của những người chỉ có thể góp phần nhỏ bé và giới hạn.
Đây là cái may và đặc điểm của Tu Hội. Một nét đặc trưng của linh đạo cá nhân và cộng đoàn là tất cả những gì Tu Hội làm đều làm với và bởi giới trẻ. Từ nguyện xá và các thanh thiếu niên đã phát sinh, ít là theo thứ tự thời gian, các thực tại khác mà ngày nay hợp thành cây cổ thụ của phong trào Salêdiêng. Từ chúng đã phát sinh Tu Hội và mọi điều khác. . . không có chúng thì không có gì cả!
Trong các cuộc cử hành vào tháng giêng 1988 có sự hiện diện ở Torino của 56 giám mục Salêdiêng. Nhìn thấy họ chúng ta cảm thấy hài lòng vì sự đóng góp quí báu này của Tu Hội cho Hội Thánh, vì sự tin tưởng mà Hội Thánh tỏ ra đối với Tu Hội, vì trách nhiệm và tình yêu của những anh em hội viên này đối với cộng đoàn Salêdiêng. Nhưng giữa chúng ta có một số người bình luận: các giám mục Salêdiêng là một thành phẩm tuyệt vời của hoạt động mục vụ được bắt đầu và không ngừng phát sinh trong môi trường nguyện xá và giới trẻ. Nếu người Salêdiêng chúng ta không có giới trẻ thì cũng không thể có các giám mục.
Nơi mà Tu Hội phát sinh, nơi sản xuất các cách diễn tả thiêng liêng mới và phát sinh các thành viên của mình, được Thánh Thần gợi hứng; nơi đổi mới nhiệt tình và diễn tả tính sáng tạo đoàn sủng là khung cảnh giới trẻ. Nơi khung cảnh này có sự khai sinh của chúng ta và tiếp tục là lục địa của sứ mạng chúng ta và là đất hứa của chúng ta. Linh đạo của chúng ta sẽ không thể tìm thấy những biểu hiện mới nếu người Salêdiêng rời xa giới trẻ.
Khoản HL 20 diễn tả: “Trong cuộc đời tiếp xúc với các thanh thiếu niên của nguyện xá đầu tiên, Don Bosco đã triển khai một kinh nghiệm thiêng liêng” vẫn còn giá trị cho tới hôm nay. Đức ái mục tử, trong hình thức mà người Salêdiêng sống nó, tạo ra thái độ cơ bản này: lòng ưu ái đối với giới trẻ, nó có nghĩa là “ở trong”, “đặt mình vào”, “trở về với” nơi đặc trưng của kinh nghiệm chúng ta về Thiên Chúa.
Tin tưởng thanh thiếu niên
Nhưng có một thái độ thứ hai: đó là tin tưởng thanh thiếu niên. Đức ái Salêdiêng muốn bắt đầu không phải từ những người thứ nhất, mà từ những người cuối cùng; không phải từ những người giàu có vật chất và thiêng liêng, những người đã được sự chú ý và phục vụ; mà từ những người không biết mình thuộc giáo xứ nào hay phải đi học trường nào. Nơi các thanh thiếu niên này chúng ta phải khơi dậy niềm hi vọng và đánh thức các nguồn lực của họ.
Vì vậy, do niềm tin của mình rằng Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ, người Salêdiêng cần phải tin điều Don Bosco đã nói: “Nơi mỗi thanh thiếu niên, cả nơi những em bất hạnh nhất, có một điểm phản ứng rất quảng đại nếu được nhà giáo dục khám phá và kích thích một cách thích hợp”,[138] và tương ứng với năng lượng mà em cần có để tự biến đổi mình.
Đức tin vào Thiên Chúa Cha và biến cố Đức Kitô Cứu Thế dạy chúng ta rằng không ai bị hư mất vĩnh viễn. Mỗi thanh thiếu niên mang nơi tâm khảm mình dấu hiệu của kế hoạch cứu độ, trong đó có một lời hứa về sự sống viên mãn và hạnh phúc cho mọi người.
Ba mẫu tiểu sử mà Don Bosco viết cho thấy làm thế nào có thể đưa lên một mức độ cao hơn trong đời sống Kitô giáo những em có thiên khiếu đặc biệt (Đaminh Savio), phục hồi những em từng có một quá khứ không mấy thuận lợi (Micae Magone); đồng hành cho tới khi đạt một sự phát triển thoả mãn đối với những em có nguồn lực bình thường (Phanxicô Besucco).
Sự thoả mãn thiêng liêng của người Salêdiêng không chỉ là cống hiến một phương thế cho ai có khả năng bay cao, mà là “cứu vớt”, đón nhận từ mức độ thấp hơn để đưa lên cao, giúp để có tiến bộ. Đây cũng là sự tham dự của người Salêdiêng vào công trình của Thiên Chúa, một sự tham dự đòi hỏi đức tin và đức cậy. Việc thực hành thường xuyên các nhân đức đối thần này, do đó, tạo thành khoa tu đức Salêdiêng: khả năng gieo hạt giống một cách không biết mỏi mệt và không keo kiệt, luôn luôn cống hiến cơ hội mới, kể cả khi kết quả có vẻ không cân xứng, nhìn đời sống trong tất cả giá trị tiềm năng của nó như một mầu nhiệm không thể lường trước, luôn luôn chờ đợi tác động của ân sủng.
Nhà giáo dục giỏi là người có khả năng luôn luôn cống hiến và tạo ra một cơ hội mới. Là người không bao giờ nói: Đủ rồi!
Vì vậy chúng ta nói ba nguồn lực nội tâm của trẻ em–tôn giáo, lý trí, tình yêu–cũng là ba khía cạnh và nguồn mạch tăng trưởng đối với nhà giáo dục. Nhà giáo dục phải không ngừng lớn lên về đức tin, nhận ra sự phong phú của hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào cuộc đời của thanh thiếu niên nhờ Lời và sự hiện diện của ngài; phải nuôi dưỡng niềm lạc quan của mình tức là niềm hi vọng và tin tưởng vào tương lai của công việc mình làm; phải biến đổi lại mọi sự trong một đức ái luôn mau mắn và có khả năng can thiệp để mưu lợi ích cho thanh thiếu niên.
Tất cả điều này làm chúng ta phải suy nghĩ lại về ý nghĩa của khái niệm phòng ngừa và dự phòng. Có lẽ nhiều người cho rằng nó có nghĩa là chỉ chăm lo cho các thanh thiếu niên nào chưa từng bị tiêm nhiễm sự xấu. Ngăn ngừa trước chắc chắn là một luật vàng. Nhưng “phòng ngừa” cũng có nghĩa là ngăn cản sự sụp đổ hoàn toàn của những người đã ở trên con đường xấu nhưng vẫn còn sức lực lành mạnh để phát triển hay phục hồi. Trong suy tư sư phạm-xã hội học ngày nay, người ta nói đến một sự dự phòng thứ nhất và cơ bản, một sự dự phòng thứ hai để phục hồi và kiện cường, và một sự dự phòng cuối cùng có khả năng ngăn chặn những hậu quả tai hại nhất của sự xấu.
Tỏ lộ tình yêu
Cùng với lòng ưu ái giới trẻ và niềm tin vào ơn cứu độ hoạt động trong họ, còn một thái độ thứ ba: tình yêu được tỏ lộ bằng lòng thương mến.
Tình yêu đích thực hướng đến lợi ích tuyệt đối của người khác, ước muốn và tìm kiếm nó như lợi ích của chính mình. Đây là cách diễn tả cơ bản của tình yêu, không lệ thuộc sự thiện cảm hỗ tương giữa những người yêu nhau. Nhưng tình yêu của người Salêdiêng, như Don E. Viganò nói, là tình yêu gợi được sự tương ứng, vì sự tương ứng này giúp cho thanh thiếu niên phát triển. Khi cảm thấy mình được quí mến, người này sẽ biết tự quí mến mình, có lòng tin tưởng và cũng tự trao ban một cách vô điều kiện.
Bản thân chúng ta có thể nhớ lại những ai đã từng khơi dậy nơi chúng ta ước muốn tự khắc phục mình và cho chúng ta can đảm để lướt thắng những khó khăn: đó là những người đã chứng tỏ cho chúng ta lòng quí mến, sự tin tưởng, tình cảm.
Ngược lại những ai từng phất lờ, làm ngơ hay coi thường chúng ta, những người ấy khơi dậy nơi chúng ta bản năng tự vệ và cảm giác thất vọng. Tình yêu tạo nên con người!
Đây là chủ đề của lá thư viết từ Roma năm 1884. Nó cũng là một kết luận của kinh nghiệm giáo dục của Don Bosco. Khi ngài còn là một chủng sinh, các cha dòng Tên, trong một thời kỳ dịch bệnh, đã mời ngài đến trông coi một khu nội trú của họ ở gần Torino, mà họ đã gửi đến đó các học sinh nội trú của họ. Don Bosco chấp nhận lời mời để có việc làm, kiếm tiền và thoả mãn khuynh hướng tự nhiên muốn sống giữa thanh thiếu niên của ngài. Các thanh thiếu niên là các học sinh trung học, vì thế thuộc thành phần tốt.
Don Bosco không gặp khó khăn trong quan hệ với các em. Ngài giúp các em ôn các bài học tiếng Hi Lạp, hộ trực các em trong nhà ngủ, và, theo lời ngài kể lại, ngài có trong số các em những người bạn tuyệt vời luôn muốn điều tốt cho ngài và kính trọng ngài. Nhưng ngài nêu lên một điểm đặc biệt: cái khó trong việc tạo ảnh hưởng sâu xa trong các mối quan hệ giáo dục khi ngài được “trả lương” và thanh thiếu niên có thể nói: “Thầy làm tốt nhiệm vụ, em công nhận điều đó. Nhưng em trả tiền cho việc phục vụ của thầy.” Quan hệ này không miễn phí. Thanh thiếu niên cảm nhận được một “việc phục vụ tốt”, nhưng không cảm nghiệm rằng mình được “cứu độ”. Bấy giờ ngài có một suy tư được nhà viết sử kể lại cho chúng ta: “Ở Montalto ngài nhận ra sự khó khăn trong việc tạo trên các thanh thiếu niên một ảnh hưởng đầy đủ cần thiết để có thể mang lại lợi ích cho họ. Vì vậy ngài nhận ra rằng ngài không được kêu gọi để chăm lo cho các thanh thiếu niên thuộc các gia đình giàu có.”[139]
Kiểu giáo dục của ngài không hiệu quả đối với những thanh thiếu niên này. Cũng có một quan hệ tốt. Nhưng đó là một quan hệ về sự vật hơn là về con người. Làm một việc phục vụ để đổi lấy tiền bạc, cả hai việc đều được làm một cách tử tế và trách nhiệm. Từ đó phát sinh lòng tôn trọng và tình bạn, nhưng không tạo ra lòng biết ơn. Ngược lại, phương pháp mà ngài kinh nghiệm sau đó dựa trên sự tương ứng của tình yêu cho không và được áp ứng vô điều kiện.
Biết khơi dậy sự tin tưởng là một khía cạnh của đức ái giáo dục của chúng ta, vì chỉ ở đâu có nó thì mới có công việc giáo dục. Như Don Bosco nói, nó là “việc của con tim”.
Liên quan tới linh đạo, không ai không thấy rằng tu đức và thanh tẩy đòi hỏi sự sẵn sàng hiến mình cho thanh thiếu niên, không phải để thoả mãn mình nhưng nhằm mưu cầu sự thăng tiến của các em; về đức tin. . . nó đòi hỏi sự canh tân thái độ sẵn sàng của mình, tạo ra các cơ hội gặp gỡ thanh thiếu niên, mau mắn có các hình thức truyền thông mới, hiểu biết những tình huống mới để có thể giúp đỡ thanh thiếu niên.
Đó là điều được diễn tả trong HL 15: “Được Thiên Chúa, đấng là “trọn cả tình thương” sai đến với các thanh thiếu niên, người Salêdiêng sống cởi mở và thân tình, sẵn sàng đi bước trước và luôn luôn tiếp đón với lòng nhân hậu, kính trọng và kiên nhẫn. Tình thương nơi người Salêdiêng là tình thương của một người cha, người anh, và người bạn, khả dĩ tạo được mối tương giao thân thiết: đó là lòng thương mến Don Bosco hằng tha thiết khích lệ chúng ta. Đức thanh khiết và sự quân bình mở lòng người Salêdiêng cho tình phụ tử thiêng liêng và làm lộ rõ nơi họ tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.”
- đức ái mục tử trong việc giáo dục
Ngoài các thái độ mà đức ái mục tử tạo ra, còn có một số cách cư xử cụ thể tạo nên việc thực hành nó. Người Salêdiêng biểu lộ thế nào lòng ưu ái của mình đối với thanh thiếu niên? Sự tin tưởng của họ vào các nguồn lực của thanh thiếu niên, khả năng yêu mến của họ đối với các em có vượt lên trên sự thiện cảm tự nhiên hay sự đáp ứng tức thời của các em không?
- gặp gỡ thanh thiếu niên
Cách biểu hiện đặc trưng của đức ái mục tử trước hết là sự gặp gỡ. . . biết gặp gỡ các thanh thiếu niên và đi bước trước. Anh em nghĩ điều này có liên quan tới linh đạo chứ? Chắc chắn rồi! Ở đâu và khi nào người ta thấy được linh đạo, ví dụ của một nữ tu y tá, nếu không phải trong việc gặp gỡ các bệnh nhân? Ở đâu và khi nào thấy được linh đạo của nhà giáo dục nếu không phải trong “lúc” giáo dục?
Don Bosco là một chuyên gia hàng đầu về việc gặp gỡ thanh thiếu niên. Ngài có khả năng khơi dậy ngay lập tức sự tin tưởng, xoá bỏ hàng rào ngăn cách, kích thích niềm vui. Có biết bao cuộc gặp gỡ như thế được chính ngài thuật lại.
Một số cuộc gặp gỡ diễn ra trong lịch sử như những thời điểm “sáng lập”. Cuộc gặp gỡ với Bartolomeo Garelli trong phòng thánh nhà thờ thánh Phanxicô Assisi đã đặt nền móng cho nguyện xá.
Trong các sách tiểu sử viết về các thiếu niên, Don Bosco thích thú nhớ lại các cuộc gặp gỡ với các thiếu niên ấy và tìm cách xây dựng lại từng bước những trao đổi then chốt. Trong tiểu sử Đaminh Savio ngài mô tả lại cuộc gặp gỡ-đối thoại đã diễn ra tại nhà xứ ở Murialdo và phòng giám đốc ở Nguyện xá. Trong tiểu sử Micae Magone, đó là cả một chương, chương đầu tiên của cuốn sách, mang tựa đề: “Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ”.
Don Bosco không chỉ làm sống lại các cuộc gặp gỡ này, ngài còn đề nghị chúng làm qui tắc giáo dục. Nó được bộc lộ hầu như trong nghệ thuật chạm đến được đời sống của thiếu niên. Cuộc gặp gỡ luôn luôn bắt đầu với một cử chỉ quí mến, thương yêu, đồng cảm tuyệt đối. Don Bosco một cách đơn sơ và bất ngờ đi vào các điểm quan trọng của đời sống đứa bé đối thoại với ngài (việc học giáo lý, lao động, cha mẹ, sự bỏ rơi, lêu lổng).
Vì vậy đối thoại mang tính nghiêm túc trong nội dung, tuy rằng mỗi một cách diễn tả đều chứa chất sự vui vẻ và khôi hài. Vì chúng đối diện với các điểm nóng của đời sống và đối diện với chúng một cách nghiêm túc và vui vẻ, các cuộc gặp gỡ này chan chứa tình cảm. Micae cảm động, Phanxicô Besucco xúc động đến khóc, Đaminh Savio “không thể tả nổi niềm vui và sự biết ơn; em cầm lấy tay tôi, xiết chặt và hôn nó nhiều lần”.[140] Những tình cảm này cắt nghĩa tại sao việc hồi tưởng lại những cuộc gặp gỡ ban đầu không bao giờ phai nhoà cả trong ký ức của các thanh thiếu niên. Don Rua không bao giờ quên được những cử chỉ và lời nói của lần gặp gỡ đầu tiên với Don Bosco, khi ngài còn là một cậu bé.
Nếu sự nhớ lại như thế đã ghi khắc các cuộc gặp gỡ trong tâm hồn mình, nếu đó là ý nghĩa mà ngài đã đưa vào trong các sách tiểu sử, tới độ biến nó thành cái bản lề của tường thuật, chính là vì ngài xác tín rằng phẩm chất của nhà giáo dục-mục tử được chứng tỏ trong gặp gỡ cá nhân, và đây là điểm mà môi trường và chương trình nhắm tới.
Khi một hồng y ở Roma muốn thử tài giáo dục của Don Bosco, Don Bosco cung cấp khung cảnh và chứng minh điều này bằng một cuộc gặp gỡ cá nhân và một cuộc đối thoại với các trẻ em tại Quảng trường Popolo. Hai người cùng đi đến địa điểm đã chọn. Xe chở hai người dừng lại gần quảng trường. Hồng y đứng quan sát từ đàng xa. Don Bosco tiến lại gần một nhóm thiếu niên đang chơi đùa và la hét. Chắc chắn chúng không phải những thiếu niên hư hỏng, nhưng là những đứa trẻ phá phách và thiếu giáo dục. Đây là một giai thoại có thực nhưng có lẽ đã được dựng lại như một “chứng minh hay bài học sư phạm”. Đọc lại câu chuyện này chúng ta thấy được cấu trúc tường thuật của tất cả các cuộc “gặp gỡ” khác: bước tiếp cận đầu tiên, trẻ em bỏ chạy, khắc phục sự nhút nhát, đối thoại nghiêm túc-vui vẻ, cảm xúc sâu đậm của kết luận.[141]
Sự gặp gỡ khơi dậy sự tín nhiệm và đánh thức lòng tự tin là một phạm trù Tin Mừng. Chúa Giêsu đón nhận và đến gặp gỡ mọi hạng người: Dakêu, Lêvi, Nicođêmô, người phụ nữ Samaria, người phụ nữ ngoại tình. Và gặp gỡ với ngài để lại một dấu ấn.
Có lẽ giữa những người Salêdiêng có những người đã mất đi khả năng này. Nhưng bù lại tại nhiều nơi trên thế giới chúng ta thấy một số nam nữ tu sĩ tìm đến gặp gỡ các thanh thiếu niên mà cả các tổ chức giáo dục lẫn xã hội đều không có khả năng đến được. Và họ gặp gỡ chúng trên đường phố, dưới gầm cầu, tại những nơi chúng tụ tập thành băng nhóm. Nói với chúng bằng cách này có thể được hiểu là một việc thực hành đức ái.
Có một vấn nạn cho mọi người Salêdiêng: chỉ gặp gỡ thanh thiếu niên trong các tổ chức giáo dục hay cả ở những nơi tự do và mở rộng hơn? Các nơi thứ nhất đang ngày càng giới hạn nhiều hơn vào các hoạt động và thời gian giảng dạy. Và chúng không phải nơi thích hợp để các thanh thiếu niên tự nhiên bộc lộ các vấn đề cá nhân của họ. Các nơi thứ hai thì không có bản sắc giáo dục rõ ràng và khó điều hành.
Trong việc gặp gỡ bên trong một cơ sở giáo dục, quan hệ ban đầu giữa thanh thiếu niên và nhà giáo dục được bảo vệ bởi các qui tắc ứng xử. Ở đây có thể có sự đúng đắn mà không có sự tín nhiệm. Ở bên ngoài các cơ sở giáo dục thì đòi hỏi phải chứng minh khả năng chứng tỏ được cho thanh thiếu niên rằng chúng ta quan tâm tới đời sống chúng và khả năng truyền thông với chúng. Có lẽ ngày nay cả hai nơi gặp gỡ này đều được cộng đoàn xét đến, tuy rằng không phải mọi người sẽ có thể hành động trong nơi gặp gỡ thứ hai.
- thái độ tiếp nhận
Một việc thực hành đức ái mục tử thứ hai là sự tiếp nhận. Biết vui vẻ tiếp nhận thanh thiếu niên như tiếp nhận một ân sủng.
Đây không nói đến sự tiếp nhận thể lý. Nhưng là sự tiếp nhận tất cả những gì mà một người mang nơi mình như hành trang cuộc đời: các sở thích hợp pháp, các khát vọng, văn hoá của người ấy.
Có lẽ trước đây sự tiếp nhận đối với giới trẻ chủ yếu mang tính chất “cơ chế”. Thiếu niên gia nhập một môi trường của chúng ta và cảm thấy được tiếp nhận, bởi vì khả năng sử dụng một cơ hội giáo dục như thế là một đặc ân. Đời sống của tu hội chúng ta được tổ chức có nhịp điệu với các bổn phận học hành, cầu nguyện hằng ngày, chơi đùa, các sinh hoạt đa dạng, là một cái gì mới mẻ thực sự đối với các em. Các em cảm thấy ở đây thú vị hơn ở nhà quê hay gia đình.
Trong bối cảnh này, các người Salêdiêng làm cho mình trở thành gần gũi: các hộ trực viên, giáo sư, giám linh, giám đốc. Cần phải ý thức về ảnh hưởng phụ thuộc, và về sự thiếu hấp dẫn của các cơ sở này đối với các thanh thiếu niên hôm nay. Việc đi vào một môi trường trang nghiêm và trật tự nhưng vô danh thì không có ý nghĩa gì đối với thanh thiếu niên. Ngược lại, cái có giá trị là sự tiếp nhận cá nhân và đầy tình người, được biểu lộ bằng các cử chỉ chấp nhận có thể nhận thấy rõ ràng. Điều này đòi hỏi sự cảm thông và thấu cảm đối với mọi hoàn cảnh và mọi khuynh hướng lành mạnh của tuổi trẻ, của các cá nhân và các nhóm. HL khuyên chúng ta “mở ra để hiểu biết cách sinh động thế giới tuổi trẻ và liên đới với mọi biểu hiện chân chính của tính năng động tuổi trẻ”.[142]
- tạo dựng một môi trường
Biểu hiện thứ ba là sự hiến mình kiên trì và chăm lo xây dựng một môi trường đầy nhân tính, tự nó đã là biểu hiện và phương tiện truyền đạt các giá trị. Kinh nghiệm về sức mạnh của môi trường thuộc về những năm đầu cuộc đời tông đồ của Don Bosco và trở thành một bài học vĩnh viễn cho cả đời ngài. Hồi ấy ngài đi thăm các nhà tù. Theo lời ngài kể, “chính trong những dịp như thế tôi thấy được tại sao khá nhiều em bị đưa trở lại nơi này, đó là vì các em bị bỏ mặc một mình. Biết đâu nếu các em nhỏ này có một người bạn ở bên ngoài chăm lo cho chúng, giúp đỡ chúng và dạy dỗ chúng về đạo giáo trong các ngày lễ, biết đâu chúng có thể tránh được sự huỷ diệt”.[143]
Don Bosco sẽ là người bạn của nhiều thanh thiếu niên được gặp gỡ từng người một tại những nơi rất khác nhau; nhưng ngài cũng là người sinh động một cộng đồng thanh thiếu niên, mang một số đặc điểm và có một chương trình phát triển. Các lý do tâm lý, xã hội và đức tin làm ngài xác tín rằng cần có một môi trường giáo dục, trong đó tôn giáo và bổn phận là hơi thở và trong đó đức ái thấm nhuần các vai trò, các mối quan hệ và bầu khí.
Vì vậy, không những ngài chọn môi trường, bằng cách tìm kiếm sự ổn định cho nguyện xá của mình và soạn ra một nội qui nhỏ, ngài còn phát biểu một lý thuyết: “Nhiều em sống chung với nhau rất có ích để làm ra mật ngọt này của niềm vui, lòng đạo và học tập. Các con được sống chung trong nguyện xá là một lợi thế. Nhiều người chung sống với nhau làm tăng niềm vui trong các cuộc giải trí của các con, lấy đi sự buồn sầu khi nó len lỏi vào lòng các con; nhiều người chung sống với nhau giúp khích lệ để các con chịu đựng những mệt nhọc của việc học hành, giúp kích thích các con khi nhìn thấy lợi ích của người khác; người này thông truyền cho người kia những hiểu biết, ý tưởng và như thế học hỏi lẫn nhau. Nhiều người chung sống với nhau để làm việc thiện sẽ làm chúng ta trở nên sinh động mặc dù chúng ta không nhận ra nó”.[144]
Môi trường không có tính chất chung chung. Nó có các nét đặc trưng. Không phải một nơi vật chất để người ta làm vừa lòng mỗi cá nhân, mà là một cộng đoàn, một chương trình, một khuynh hướng mà người ta hội nhập vào để trưởng thành.
Đức ái mục tử, tình yêu thương giáo dục làm chúng ta tiêu hao thời giờ và sức khoẻ, chăm lo tổ chức một môi trường rộng lớn, tích cực, giàu mục tiêu, có khả năng tiếp nhận nhiều thanh thiếu niên và cống hiến họ một kinh nghiệm tích cực về cuộc sống chung, về trách nhiệm, bổn phận, đời sống đức tin.
Ai nhìn thấy người Salêdiêng, nhiều khi mệt nhọc vất vả trong khi làm công này việc kia, tạo ra những quan hệ, tổ chức các cuộc hội họp, và trang hoàng các bức tường, để có thể tạo ra bầu khí này, thường dễ bị cám dỗ nghĩ rằng: dán các bích chương hay viết các khẩu hiệu thì liên quan gì đến linh đạo? Đúng là nếu người Salêdiêng hoàn toàn bị cuốn hút vào các việc vật chất này, có lẽ họ đang sử dụng sai thời giờ và khả năng của họ. Nhưng nếu ai đó nghĩ rằng tất cả sự lo lắng này để tạo một bầu khí tích cực cho thanh thiếu niên là mọt sự phí phạm thời giờ, thì người ấy phải suy niệm tư tưởng của thánh Phaolô. Theo thánh Tông đồ, các sự vật tự chúng không phải là thần khí hay xác thịt. Mà chính con người, tuỳ theo họ được thúc đẩy bởi bản năng, tính ích kỷ hay bởi đức ái, mới tạo phẩm chất cho hành động và khiến các sự vật có tính chất thần khí hay xác thịt.
- quan hệ giáo dục cá vị
Cùng với việc biết và muốn gặp gỡ, tiếp nhận thanh thiếu niên, sinh động hoá việc giáo dục và tôn giáo của một môi trường, chúng ta còn một sự biểu lộ đức ái mục tử cuối cùng: sự quan hệ cá nhân giúp thanh thiếu niên tăng trưởng.
Việc tiếp nhận thanh thiếu niên có lẽ chỉ cần một bước gặp gỡ đầu tiên. Sau đó việc giáo dục họ đòi hỏi theo dõi họ một cách thanh thản nhưng lâu dài. Thiên nhiên cung cấp sự giáo dục trong quan hệ cha-con. Trong quan hệ này, sự sinh sản đời sống sinh vật được tiếp tục trong việc chăm sóc sự sống qua việc nuôi dưỡng.
Liên quan tới điểm này, đặc biệt có hai cách biểu hiện: tình bạn và tình phụ tử. Tìh bạn thường xuất hiện trong các tường thuật của Don Bosco liên quan tới kinh nghiệm bản thân và việc thực hành giáo dục. Chúng ta đã thấy tình bạn đã là một nét đặc trưng của tuổi thiếu niên của ngài, nó chứng tỏ ngài có khả năng cho và nhận tình cảm một cách vui vẻ và luôn luôn mang tính cá vị và sâu xa.
Trong việc giáo dục, tình bạn sâu xa phát sinh từ những cử chỉ và từ ý muốn thân mật, và được nuôi dưỡng bằng những điều này. Rồi tình bạn làm phát sinh sự tin cậy. Và tin cậy là tất cả trong giáo dục, vì chỉ lúc thanh thiếu niên tin cậy thổ lộ những bí mật của họ, việc giáo dục mới có thể có được.
Cách diễn tả cụ thể tình bạn là việc hộ trực. Nó được nhắm đến như một ước muốn ở với thanh thiếu niên và chia sẻ đời sống của họ. Vì vậy, nó không phải một “bó buộc của chức vụ”, mà là một niềm say mê để hiểu và giúp sống các kinh nghiệm tuổi trẻ. Và đồng thời sự hiện diện thể lý ở những nơi mà thanh thiếu niên sống, trao đổi hay dự phóng kế hoạch; nó là sức mạnh tinh thần với khả năng sinh động hoá, kích thích và khơi dậy tiềm năng. Nó mang hai khía cạnh của sự dự phòng: bảo vệ khỏi những kinh nghiệm tiêu cực quá sớm và phát triển những tiềm năng của con người nhờ các mục tiêu tích cực. Nó phát triển các động lực được khơi dậy cho lý trí (đời sống lương thiện, lòng yêu sự sống) và cho lương tâm, trong khi nó kiện cường nơi thanh thiếu niên khả năng đáp ứng một cách độc lập tiếng gọi của các giá trị.
Việc hộ trực của chúng ta cũng đã trải qua một bước tiến hoá và phong phú dần dần. Mô hình hộ trực đầu tiên là mô hình nguyện xá, tất cả dựa trên quan hệ tình bạn, sự hợp tác và ý muốn sống chung và giúp đỡ lẫn nhau. Đòi hỏi kỷ luật và kiểm soát chỉ chiếm một tỉ lệ tối thiểu trong đó.
Tiếp đến là “mô hình” trường học. Việc chu toàn bổn phận, ngăn ngừa rối loạn, kỷ luật có chỗ đứng lớn hơn. Quan hệ cá vị và sự truyền thông tự phát mất đi thế mạnh của nó. Ngày nay người ta nhấn mạnh lại chiều kích đồng hành, giúp đỡ trong tự do, gợi ý, sinh động hoá các hoạt động giới trẻ. Vì vậy người ta cũng thực hiện việc “hộ trực” ở bên ngoài các công cuộc.
Sự tiếp nhận, tình bạn, và việc hộ trực đạt tột đỉnh trong một biểu hiện độc đáo nhất: tình phụ tử hay mẫu tử. Nó còn hơn là tình bạn. Nó là một trách nhiệm tình yêu và ảnh hưởng cống hiến sự hướng dẫn và dạy dỗ cần thiết, và đòi hỏi kỷ luật và bổn phận. Nó là tình yêu và quyền bính. Nó là nét đặc trưng phân biệt người chịu trách nhiệm thứ nhất của một chương trình. Nó liên quan đến từng người và tập thể và trong tập thể này nó được giữ gìn, bảo vệ và nhấn mạnh.
Nó được biểu hiện trước hết trong việc “biết nói với quả tim”, một cách cá vị và đề cao nhân vị, bởi nó rút ra được những vấn đề đang có của đời sống và tâm hồn thanh thiếu niên; biết nói để bộc lộ tầm quan trọng và ý nghĩa của những gì thuộc về họ, giúp họ hiểu để có thể chạm tới lương tâm sâu xa và giúp họ đạt một sự hiểu biết nhờ đó họ đối diện với các niềm vui, khó khăn và thử thách của cuộc đời họ: biết nói thế nào để thông truyền nghệ thuật sống.
Tình bạn và tình phụ tử tạo ra bầu khí gia đình, trong đó các thanh thiếu niên lĩnh hội được các giá trị và chấp nhận các đòi hỏi. Như thế có một lằn ranh được vạch ra giữa thái độ cậy quyền, có nguy cơ không ảnh hưởng được tới tâm hồn, và thái độ buông lỏng, không thông truyền được các giá trị, và trong đó thứ tình bạn nhất thời không giúp cho sự tăng trưởng.
- kết luận
Đức ái mục tử của chúng ta có một diện mạo riêng: nó là một khoa sư phạm.
Đức ái mục tử bao gồm những thái độ tinh thần, những việc thực hành hằng ngày, thói quen lao động, các tiêu chuẩn tổ chức, v.v…
Tất cả được suy nghĩ và thực hành để có thể bộc lộ cho thanh thiếu niên niềm say mê cuộc sống con người viên mãn và tình yêu Thiên Chúa: chúng ta muốn là những “dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa”.
Theo nghĩa này công việc giáo dục của chúng ta cũng tạo thành kinh nghiệm thiêng liêng tiêu biểu của chúng ta. Khi chúng ta muốn chứng minh cho ai về linh đạo Biển Đức, chúng ta dẫn họ đến “tu viện”; nếu muốn cho người ta kinh nghiệm điểm cao của linh đạo Focolare, chúng ta mời họ đến “Mariapolis”. Muốn thấy trong thực tế sống động và trực tiếp linh đạo Salêdiêng, phải ra sân chơi và quan sát các người Salêdiêng ở giữa và với thanh thiếu niên.
8
CÁC NHÀ GIÁO DỤC
- NGƯỜI Salêdiêng LÀ NHÀ GIÁO DỤC
Nhiều khoản HL khi mô tả các thái độ, các việc thực hành và các công cuộc của đức ái mục tử của chúng ta, bên cạnh từ rao giảng Tin Mừng còn có một từ khác: giáo dục, các nhà giáo dục. Điều này cũng xuất hiện trong các sách vở và văn kiện có thẩm quyền về linh đạo chúng ta, đến nỗi người ta đã đúc hẳn thành một khẩu hiệu mà chúng ta còn cần làm sáng tỏ tầm quan trọng chính xác của nó: “Rao giảng Tin Mừng bằng giáo dục, giáo dục bằng rao giảng Tin Mừng”.
Một trong những khía cạnh của nhân cách, sứ mạng và linh đạo của Don Bosco–cũng như của Mẹ Mazzarello–mà lịch sử đã nói đến nhiều nhất, đó là sự chú trọng về lãnh vực giáo dục và thiên tài sư phạm của ngài. Như thế, chúng ta có thể nói một cách hoàn toàn chắc chắn rằng đây là những khía cạnh ưu tiên hơn mọi khía cạnh khác. Phần lớn các đại hội và hội nghị tổ chức trong Giáo Hội và ngoài đời, tại các nước khác nhau vào các dịp kỷ niệm, đều chọn chủ đề giáo dục-sư phạm như là chủ đề có thể nói tốt hơn cho con người thời nay.
Giữa người Salêdiêng đã chín muồi ý tưởng xin phong danh hiệu “Tiến sĩ Hội Thánh” cho Don Bosco. Không phải vì học thuyết “thần học” của ngài, mà vì nguồn cảm hứng và việc thực hành giáo dục của ngài. Tông thư “Cha và Thầy của Giới Trẻ” hoàn toàn đề cập đến việc phục vụ, lòng tận tuỵ và tài năng giáo dục của Don Bosco.
Về nét đặc trưng này của linh đạo Salêdiêng, chúng ta đã có một bài giới thiệu nhân dịp phong chân phước Mẹ Mađalêna Moranô (30 tháng 4, 1994): là nhà giáo trước khi vào dòng nữ Salêdiêng, đời tu của Mẹ nổi bật về lối suy nghĩ, nhiệt tình, việc phục vụ và sáng tạo giáo dục.
Không phải bây giờ người ta mới chú ý về điểm này. Thậm chí có thể nó là khía cạnh mà ngay từ đầu đã thu hút nhiều nhất sự chú ý của mọi người và đã được đề cập tới nhiều nhất trong các sách tiểu sử đầu tiên theo ý muốn của chính Don Bosco. Và điều này có thể cắt nghĩa được. Chỉ nguyên việc một linh mục đi rảo khắp các đường phố để tìm kiếm thanh thiếu niên và thích ứng với ngôn ngữ và sở thích của chúng, cũng đủ là đề tài cho một cuốn phim hôm nay.
Don Auffray trong chương XII của cuốn tiểu sử sinh động của mình, chương nói về “Don Bosco nhà giáo dục”, đã có một đánh giá và đan cử một sự kiện. “Nếu một số người bẩm sinh là thi sĩ, số khác là nghệ sĩ, số khác là nhà khoa học, thì Don Bosco bẩm sinh là một nhà giáo dục. Giống như thể Thiên Chúa đã giao một nhiệm vụ chính xác cho Don Bosco, nên cũng đã ban cho ngài các phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ ấy mọt cách vô cùng hiệu quả như thế. Các hoàn cảnh và sự quan tâm tông đồ đã thúc đẩy Don Bosco nghĩ đến vô vàn các vấn đề: có thể nói, trong Hội Thánh và ngoài đời, có ít người đã làm nhiều việc và làm những việc rất khác nhau như ngài. Thế nhưng, công việc của nhà giáo dục là ơn gọi mà ngài cảm thấy là của mình hơn mọi ơn gọi khác. Trên giấy hộ chiếu cấp cho ngài năm 1850 cho chuyến đi Milano, vị thánh đã khai nghề nghiệp của mình là “giáo viên tiểu học”, một lời khai rất ý nghĩa.”
Những sự đánh giá này làm nảy sinh một tranh luận: xét về thời gian và sức mạnh, ơn gọi của ngài là nhà giáo dục hay linh mục? Don Pietro Braido lần theo mối quan hệ của cả hai ơn gọi này trong cuộc đời ngài để đi đến kết luận rằng ơn gọi linh mục có trước và nó gợi hứng và tìm thấy lãnh vực riêng trong việc giáo dục giới trẻ. Điều này lý giải tại sao ngày nay chúng ta hiến mình cho công việc giáo dục nhằm các mục tiêu mục vụ.
Sắc lệnh phong chân phước nói về Don Bosco như là “một nhà giáo dục lỗi lạc (princeps) đã mở ra các con đường có giá trị mãi mãi cho khoa sư phạm Kitô giáo”.
Các Tu hội SDB và FMA đã sống những thời gian đầy phấn khởi và hầu như ngây ngất về khía cạnh này của công việc của họ và đã chứng tỏ điều đó bằng nhiều cách khác nhau. Trong nhiều năm họ đã triển khai ưu tiên nhiều lãnh vực giáo dục khác nhau: trường học, trường dạy nghề, trường nông nghiệp, tạo ra các cơ cấu và các vai trò ở mọi cấp. Họ đã dồn phần lớn nhân sự và chuẩn bị những người chuyên môn và có bằng cấp cho các lãnh vực này. Sau khi suy xét chín chắn, họ đã muốn tự giới thiệu và khẳng định mình trong các môi trường dân sự như là những con người quan tâm đến sự phát triển văn hoá và sự thăng tiến của giới trẻ và giới bình dân. Như tột đỉnh của tất cả, họ đã sáng lập hai phân khoa về Khoa học Giáo dục, và việc thiết lập này là một điều mới mẻ tại các Đại học Giáo hoàng. Thực ra các khoa học giáo dục không được coi là môn học “giáo hội” hay “mục vụ”. Cần thời gian và phương tiện để chúng được chấp nhận như phân khoa trong một đại học giáo hoàng. Gần đây người ta đã sẵn sàng có sự đối thoại với các chính phủ và các Giáo hội địa phương để tìm câu trả lời cho các vấn đề giáo dục cấp bách.
Sự phấn khởi này bao gồm đồng thời việc giáo dục nhân bản, nghĩa là sự tăng trưởng văn hoá của con người trong môi trường sống của họ, và việc đào luyện Kitô giáo, hay sự phát triển con người, như là con cái Thiên Chúa và phần tử của Hội Thánh. Thời trước, hai khía cạnh này từng được trình bày kết hợp với nhau, thấm nhập vào nhau, hầu như dồn vào nhau trong các chương trình và các cơ sở giáo dục, và cả trong ý hướng của những người sử dụng chúng.
Nguồn gốc và truyền thống này vẫn còn được khắc ghi trong căn tính chúng ta. Trong Hiến Luật, các thuật ngữ rao giảng Tin Mừng và giáo dục tạo thành một cặp từ bất khả phân ly. Có một tương quan độc đáo giữa hai từ này. Cùng một mục tiêu duy nhất: soi sáng, làm tăng trưởng, trang bị cho đời sống, tạo khả năng sử dụng tự do, cho thanh thiếu niên niềm yêu thích các giá trị.
Tuy nhiên giữa hai thuật ngữ này có một sự lệ thuộc về giá trị: chúng ta xác tín rằng nơi Đức Giêsu Kitô chúng ta tìm thấy ánh sáng và sức mạnh để định hướng đời sống mình. Mọi sự đều giúp làm người ta nhận biết ngài cho dù chúng ta tôn trọng thời giờ và hành trình cuộc đời của mỗi người.
Giáo dục-rao giảng Tin Mừng là hai chương trình tuy không có giá trị ngang nhau, nhưng chúng thông truyền và bổ sung cho nhau. Cách rao giảng Tin Mừng của chúng ta giúp đào luyện một con người trưởng thành về mọi phương diện. Việc giáo dục của chúng ta giúp người ta mở cửa đón nhận Thiên Chúa và định mệnh vĩnh cửu của con người.
Người Salêdiêng không chỉ là giáo lý viên hay mục tử, mà còn là nhà giáo dục. Các chị FMA không phải một tu hội các giáo lý viên của giáo xứ, cho dù các chị cũng làm công việc này. Các chị lấy công việc giáo dục làm việc thực hành đức ái của mình. “Don Bosco xuất hiện trước thế giới và Hội Thánh như một vị thánh giáo dục, nghĩa là một người đã làm cho nhiệm vụ giáo dục thấm nhuần sự thánh thiện.” (Don Viganò).
- giáo dục và kinh nghiệm về Thiên Chúa
Điều gì có liên quan đến linh đạo? Nó chỉ là một việc thực hành chuyên môn thêm vào cho đời sống thiêng liêng hay nó hình thành linh đạo của con người?
Gần đây xuất hiện nhiều nghiên cứu về các tu sĩ giáo dục. Trong tất cả các nghiên cứu này đều thấy có sự quan tâm xác nhận một đặc tính tông đồ và đoàn sủng của công việc giáo dục. đồng thời người ta nhận thấy nguy cơ của “tính chuyên nghiệp”, nghĩa là sự tách rời công việc giáo dục chuyên môn với kinh nghiệm về Thiên Chúa. Người ta không nhấn mạnh việc một tu sĩ biểu hiện rõ ràng đời sống thánh hiến của mình qua vai trò giáo dục; người ta muốn trở thành và tỏ ra là một “khoa trưởng” hay “giáo sư” hơn là một con người của đức tin.
Kế đến, các nghiên cứu này cho thấy một cảm giác thất vọng trước các kết quả nghèo nàn trong các cơ cấu giáo dục liên quan đến đức tin. Và cuối cùng chúng thúc đẩy canh tân việc mục vụ các môi trường giáo dục, để thích nghi với thời đại, bắt đầu từ các thái độ và não trạng của chúng ta trong một xã hội đa nguyên, tục hoá, trong đó hoạt động giáo dục độc lập với các mối quan tâm về đức tin, tuy nó có thể và phải thông truyền với đức tin.
Cần đảm nhận công việc giáo dục bằng cách coi nó như sự hợp tác với Thiên Chúa nhằm tăng trưởng con người.
Thực ra Kinh Thánh trình bày lịch sử cứu độ như một tiến trình giáo dục. Thiên Chúa giáo dục con người và dân ngài, theo một hành trình chính xác.
Trước hết ngài nói với con người. Họ là những người đối thoại với ngài. Họ lắng nghe nhưng cũng trả lời và đặt câu hỏi. Hình ảnh của con người đặt câu hỏi, tìm lý do và hiểu, là ông Gióp. Nhưng ông Abraham cũng đặt câu hỏi cho Thiên Chúa. Nói là đặc tính của Thiên Chúa chân thật, đối chọi với các ngẫu tượng không biết nói. Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân ngài đạt tột đỉnh nơi Lời nhập thể.
Nhưng Thiên Chúa không chỉ nói, ngài còn thúc đẩy và gần như buộc dân có các kinh nghiệm luôn mới mẻ và trưởng thành, tuy không dễ: đoạn tuyệt sự nô lệ Ai Cập, phiêu lưu trong sa mạc, tạo lập cộng đồng trên đất riêng, diễn tả căn tính tôn giáo, chấp nhận luật pháp.
Bằng việc này ngài kích thích và đồng hành với các cá nhân và cộng đồng trong một cuộc hành trình giải phóng: giải phóng các gông cùm của con người và mở ra cho Thiên Chúa giữa những chiến đấu và thử thách.
Như thế ngài làm họ ý thức về điều mà tự con người không có khả năng khám phá ra về định mệnh của mình: họ không phải những nô lệ, cũng không lệ thuộc các sức mạnh ma thuật, mà là “dân Thiên Chúa”, đối tượng tình yêu của ngài.
Kinh Thánh không chỉ mô tả hành động của Thiên Chúa theo các thái độ mà chúng ta gán cho việc giáo dục (tôn trọng tự do, kiên nhẫn, các cơ hội mới, thử thách); Kinh Thánh không chỉ sử dụng ngôn ngữ mà chúng ta dùng để mô tả công việc giáo dục (hướng dẫn, sửa sai, đồng hành, trừng phạt để cứu rỗi), nhưng trực tiếp gán cho Thiên Chúa vai trò của Nhà Giáo Dục. . . bằng cách chọn từ Do Thái “Musar” được dịch sang tiếng Hi Lạp là “Paideia”, Nhà Giáo Dục.
“Gặp thấy dân giữa miền hoang địa, giữa cảnh hỗn mang đầy tiếng hú rợn rùng, Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa. Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình. Duy một mình Đức Chúa lãnh đạo dân; chẳng có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa.”[145] Đoạn văn này thật thơ mộng và dễ thương, nhưng không phải đoạn duy nhất. Có thể thu thập hàng trăm đoạn văn Kinh Thánh ngắn hay dài về công việc giáo dục của Thiên Chúa đối với con người theo cùng một giọng văn như thế: “Khi Ítraen còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta về. . . Ta đã tập đi cho Epraim, đã đỡ cánh tay nó. . . Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. . . Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn.”[146] “Anh em hãy ghi tạc trong lòng rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, giáo dục anh em như một người giáo dục con mình.”[147]
Hành động giáo dục của Thiên Chúa được diễn tả trong việc đòi hỏi một sự tăng trưởng dần dần, nhưng cũng đòi hỏi một sự đoạn tuyệt tức thời với quá khứ và lập tức chuyển sang các thế giới mới và các lối sống mới. “Hãy ra khỏi đất ngươi” không chỉ là một lời hay một mẩu chuyện, mà là một mối quan hệ liên tục giữa con người và Thiên Chúa. Tất cả đều nhằm nâng tinh thần và đời sống lên một chất lượng các mối quan hệ hỗ tương và các viễn tượng lịch sử cao hơn. . .
Đường hướng giáo dục này đạt tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài tự xưng mình là Thầy. Tìm ra các điểm nhấn mạnh và tính chất giáo dục trong Tin Mừng không khó. Chỉ cần nghĩ đến các đối thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ và dân chúng mà ngài gặp gỡ: ngài mở lòng họ ra, ngài mời họ suy tư và hiểu. Chúng ta thêm vào đây ngôn ngữ của các dụ ngôn mà ngài dùng để giúp người nghe dễ hiểu chân lý hơn; và nhất là ngài mời gọi người ta vượt qua các đòi hỏi vật chất để tìm đến các đòi hỏi sâu xa hơn của Nước Trời.
Hành động giáo dục của ngài trở thành có hệ thống và thường xuyên mỗi ngày với các tông đồ.
Mỗi lần một ít, ngài giúp họ hiểu giá trị và những đòi hỏi của một kế hoạch cộng đoàn lâu dài; trong khi họ chỉ tỏ ra quan tâm tới các lợi ích riêng và muốn có các hiệu quả tức thời.
Ngài giúp họ khắc phục thái độ độc quyền và sự say mê quyền lực. Họ cần học biết chấp nhận các địch thù, các người cạnh tranh, và suy nghĩ khác với mình.[148]
Ngài dạy họ thấy, nhìn sâu các vấn đề cơ bản của con người, ví dụ, bệnh tật, các tai họa không cắt nghĩa nổi, sự chết.[149] Họ cần học biết rằng không có mối liên hệ trực tiếp giữa đau khổ và tội lỗi.
Ngài giúp họ đi từ quan niệm và các lợi ích “địa phương” sang các câu hỏi tôn giáo và sự cứu rỗi của quốc gia và thế giới. Họ cần phải ra khỏi não trạng làng xóm để suy nghĩ với não trạng hoàn vũ.
Ngài cũng hướng dẫn họ biết phê bình một số khía cạnh của tôn giáo mà đi ngược lại con người: thái độ nệ luật, thái độ thanh sạch hình thức, việc lợi dụng tôn giáo của những người cai trị, thái độ nghi thức.[150]
Ngài dạy họ biết phán đoán bằng sự thận trọng và tinh tế, khắc phục những đánh giá nông cạn và vội vàng về con người. Chúng ta nghĩ đến sự phán đoán về người phụ nữ xức dầu thơm chân ngài tại nhà ông Simon và câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình. Ngày nay chúng ta cũng vẫn còn nghe các lời phê phán nặng nề của các tín hữu trước các tình huống tương tự. . .
Chính trong viễn tượng này chúng ta phải hiểu chức năng giáo dục của Hội Thánh trong thế giới hôm nay. Giáo dục con người không phải là một việc biểu lộ đức ái một cách tuỳ ý, như cho người đói ăn hay cho người lữ khách có chỗ nghỉ chân. Nó là chính con tim của sứ mạng của Hội Thánh. Hội Thánh trở thành trung gian ân sủng giáo dục của Thiên Chúa, sự tiếp nối việc giảng dạy của Đức Kitô, và dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi con người.
Thế nên trong Hội Thánh mọi sự đều mang tính giáo dục, nhằm giúp con người ý thức về hiện hữu và định mệnh của mình, đánh thức các năng lượng kiến tạo, khám phá những gì là tốt lành, cao quí, và vĩnh cửu mà Tạo Hoá đã đặt trong lòng họ. Một vài tác giả (Dietrich von Hildebrand) đã chú tâm nghiên cứu về sức mạnh giáo dục của phụng vụ với các cử chỉ, nhịp điệu, thái độ, lời nói, và ý nghĩa của nó. . .
Hội Thánh luôn luôn nâng đỡ sự liên kết hay sự nhất quán giữa việc sinh con, giáo dục nó, mở lòng nó nhận biết Thiên Chúa, khai tâm nó vào mầu nhiệm Đức Kitô và vào sự sống theo Thần Khí, hợp với lời thánh Phaolô: “Tất cả những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý.”[151]
Ngoài các thừa tác viên phụng tự và các nhà rao giảng, trong Hội Thánh cũng sẽ luôn luôn có rất nhiều nhà giáo dục dân chúng. Sẽ luôn luôn có những con người đặc sủng để sáng lập các tổ chức giáo dục cho mọi giai cấp xã hội và mọi bối cảnh văn hoá.
Nhiều tu sĩ sẽ hiến mình một cách chuyên nghiệp cho hoạt động giáo dục, lấy nó làm chọn lựa cơ bản về Thiên Chúa: không phải một khía cạnh thêm thắt vào sự thánh hiến tu trì, mà là một cách đặc biệt để diễn tả nó.
Để kết luận: giáo dục là tham dự vào công cuộc của Chúa Cha đấng tạo dựng con người, của Chúa Kitô đấng mặc khải tư cách con cái Thiên Chúa của chúng ta và giúp chúng ta sống tư cách ấy, của Chúa Thánh Thần đấng từ thâm tâm chúng ta gợi hứng sự tăng trưởng tự do và các biểu hiện đặc trưng của những người con Thiên Chúa.
Điều này được diễn tả một cách rất can đảm và đơn sơ bởi một khoản HL của các chị FMA: “Việc hộ trực Salêdiêng (cách giáo dục của chúng ta!). . . chú tâm đến Chúa Thánh Thần đấng hoạt động trong mọi người”.[152]
- giáo dục và linh đạo
Chúng ta quen đề cập đến chủ đề giáo dục theo ba cách.
Một cách là kinh nghiệm sống. Nó cho chúng ta một khái niệm thực sự về những khó khăn của việc giáo dục, nhưng cả những lợi ích mà thanh thiếu niên hưởng nhận từ đó. Giáo dục là một nghệ thuật khó nhưng không thể thay thế.
Một cách khác là dựa vào chuyên môn: nó cho chúng ta các kiến thức và kỹ thuật để thể hiện nhiệm vụ giáo dục.
Cách thứ ba là dựa vào đức tin hay “đặc sủng” giúp tỏ lộ giá trị của đức ái có trong việc phục vụ giáo dục của chúng ta và các mục tiêu cao nhất mà nó nhắm tới.
Vậy, cái gì tăng trưởng trong đời sống chúng ta khi chúng ta giáo dục? Chúng ta phải khắc phục và hi sinh cái gì? Chúng ta phát triển những chiều kích nào?
Nhà giáo dục được kêu gọi chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa hoạt động nơi con người, và hiến mình phục vụ mầu nhiệm này: rất giống với điều Đức Maria đã làm với Chúa Giêsu, cho tới lúc sự trưởng thành con người của người con này đạt tới ý thức Thiên Chúa. Đức Maria đã phải theo dõi và nâng đỡ nhân tính này bằng việc cho bú mớm, tắm rửa, yêu thương, khuyên bảo, dạy ngôn ngữ và truyền thống, mà không biết một cách chắc chắn Chúa Giêsu sẽ có thể tự mặc khải mình là gì.
Có một sự đối thoại thầm kín và bí nhiệm bên trong mỗi con người. Từng chút một, con người đạt được ý thức về mình, bằng cách triển khai một kế hoạch đời sống trong đó con người đánh cuộc các sức mạnh của mình và thi thố các tiềm năng của mình.
Tương lai của họ là một tương lai còn chưa biết. Nhà giáo dục được kêu gọi cống hiến tất cả những gì họ tin là thích hợp và tôn trọng tự do của chủ thể đối thoại, qua việc sống cái tương lai chưa biết ấy bằng niềm hi vọng. Don Bosco đã thích nghi một câu nói trong Kinh Thánh theo bản dịch của thời ngài, và cho viết trên tường nguyện xá một câu nói mà ngày nay chúng ta vẫn còn đọc thấy: “Người ta không thể biết được dấu vết con rắn để lại trên đá, cũng không biết được con đường một đứa trẻ sẽ đi trong cuộc đời”. Tuy nhiên nhà giáo dục thực lòng quan tâm tới cái không chắc chắn của con người. Thực ra trong cái không chắc chắn này, nhờ sự tăng trưởng, Thiên Chúa sẽ được đón nhận và tự mặc khải ngày càng rõ ràng hơn.
Có thể người tu sĩ tự hỏi: tôi có thể cống hiến điều gì trong giáo dục, khác với điều mà một người ngoài đời có thể cống hiến? Về lãnh vực chuyên môn, không gì cả. Người tu sĩ thánh hiến làm và nói cũng giống như người đời. Nhưng khi nói như thế, chúng ta đang giới hạn việc giáo dục vào việc dạy dỗ, xã hội hoá, hay đào luyện chuyên môn.
Ngược lại, nếu chúng ta hiểu giáo dục như sự thăng hoa các tiềm năng con người và mở ra cho các chân trời kinh nghiệm rộng lớn hơn, thì người tu sĩ đặt vào đó tất cả sức nặng của sự chọn lựa cơ bản của họ. Việc tiếp xúc của họ có thể nói được điều gì đó về các giá trị của Tin Mừng.
“Trong một thế giới bị quyến rũ bởi thuyết vô thần và việc sùng bái ngẫu tượng khoái lạc, của cải và quyền lực, lối sống của chúng ta làm chứng, đặc biệt cho thanh thiếu niên rằng Thiên Chúa hiện hữu và tình yêu ngài có thể lấp đầy một cuộc sống. Nó cũng làm chứng rằng nhu cầu yêu thương, sự ham muốn sở hữu và quyền tự do định đoạt về số phận mình đạt được ý nghĩa tột đỉnh nơi Đức Kitô Cứu Chúa.”[153]
Là nhà giáo dục đòi hỏi khả năng chuyên môn và sự tận tuỵ kiên trì với bổn phận. Giáo dục là một công việc chuyên môn, mà để hoàn thành nó thì thiện chí mà thôi không đủ. Cũng như với các nghề chuyên môn khác, nó là cả một khoa học và một việc thực hành tích luỹ. Can thiệp trên nguyên tắc bằng hình thức đại khái hay ngẫu hứng thì cũng giống như làm một cuộc can thiệp phẫu thuật trong bóng tối hay với một dụng cụ xoàng. Lịch sử tâm bệnh học thì đầy các chấn thương xảy ra trong thời kỳ giáo dục.
Ngày nay hơn bao giờ hết, việc giáo dục trở nên phức tạp vì nhiều yếu tố: thanh thiếu niên đón nhận nhiều ảnh hưởng và họ rất khó tổng hợp chúng, các tác dụng giáo dục thì nhiều và hầu như luôn luôn không liên quan gì với nhau, các thông điệp thì đủ kiểu. Cho nên giáo dục đã được định nghĩa là “một nhiệm vụ bất khả thi”.
Nhà giáo dục cần sự làm việc nghiêm túc và tinh thần tỉnh táo. Họ phải có hành động trước mọi trào lưu ảnh hưởng đến thanh thiếu niên và giúp họ đánh giá và chọn lựa. Điều này đòi hỏi kiên nhẫn và tình yêu.
Cuối cùng, là khả năng chia sẻ và truyền thông. Biết mà thôi không đủ, cần phải có khả năng truyền đạt. Truyền đạt mà thôi không đủ, cần phải tự truyền thông. Ai truyền đạt một khái niệm mà không tự truyền thông thì chỉ dạy chứ không giáo dục.
Mặt khác, không thể có truyền thông nếu không ra khỏi bản thân mình. Cần yêu mến điều mình truyền đạt và những người mà chúng ta truyền đạt cho. Không phải là vấn đề chọn những dụng cụ tốt nhất hay những kỹ thuật tốt nhất, mà là vượt lên trên những bài học “đóng hộp” và những bài thuyết trình “đông lạnh”.
Chắc chắn các loa phóng thanh, tivi, cassettes, tranh ảnh có ích để làm sáng tỏ các khái niệm. Nhưng điểm cơ bản là tin vào những gì được cống hiến, có khả năng suy tư lại trong ánh sáng kinh nghiệm và văn hóa hiện nay những gì đã tạo nên sự phong phú của chúng ta để có thể chia sẻ chúng cho thanh thiếu niên. Cả điều này cũng đòi hỏi một lao động mang tính tu đức thực sự.
9
các nhà rao giảng Tin Mừng
- đức ái mục tử thúc đẩy rao giảng tin mừng
Đức ái mục tử hoạt động một cách phi thường. Nó luôn luôn được diễn tả trong việc phục vụ một cộng đoàn, hay con người nói chung. Việc phục vụ này không chỉ là làm một công việc, dành thời giờ cho kinh nguyện, một loại lao nhọc thiêng liêng. Nhưng tự nó là một kinh nghiệm về Thiên Chúa và một hành trình tiến bộ trong đời sống thiêng liêng.
“Trong các Tu hội (đời hoạt động) này, hoạt động tông đồ và bác ái thuộc về chính bản chất của đời tu, khi đó là một thừa tác vụ thánh hay một công cuộc bác ái được giao phó cho Hội Thánh và phải được thực thi nhân danh Hội Thánh”.[154]
Chung chung người ta vẫn chưa gạt bỏ đuợc ý tưởng về sự đối lập giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa Maria và Mátta. Người ta tiếp tục nghĩ rằng chiêm niệm là dừng lại để cầu nguyện hay tích trữ năng lượng, trong khi hoạt động là tiêu hao năng lượng và phân tâm về những sự vật. Đúng là chiêm niệm có địa vị ưu tiên. Nhưng cũng đúng là nó hoàn toàn có chỗ ngay cả trong hành động và vì thế không đối lập với hành động.
Các HL của SDB và FMA nói rằng người Salêdiêng là những người rao giảng Tin Mừng cho thanh thiếu niên, đặc biệt các em nghèo khổ nhất, và cho dân chúng. HL cũng nói thêm rằng Hệ thống dự phòng là cách để họ sống và truyền thông Tin Mừng.[155] Trong việc này chúng ta không chỉ dành thời giờ để việc phục vụ đồng loại, mà còn tìm sự thánh hoá bản thân mình.
Tại sao là những người rao giảng Tin Mừng? Chúng ta không gặp thấy từ này nơi Don Bosco và Mẹ Mazzarello. Các ngài nó đến việc dạy giáo lý cho trẻ em và giảng cho dân chúng. Rao giảng Tin Mừng là một thuật ngữ phổ biến ngày nay trong ngôn ngữ của Hội Thánh vì hoàn cảnh mà Hội Thánh đang sống, đó là sự xa cách đức tin Kitô giáo của đa số và sự tin tưởng phổ biến rằng người ta có thể sống mà không cần đến đức tin.
Chúng ta hãy xem ý nghĩa của nó.
Thánh Phaolô khi nói về các đặc sủng như là các ân huệ của Chúa Thánh Thần để thành lập cộng đoàn tín hữu, ngài kể ra năm: tông đồ, ngôn sứ, rao giảng Tin Mừng, mục tử, tiến sĩ.
Chúng không phải các đặc sủng duy nhất cũng không hoàn toàn phân biệt vào thời ấy cũng như hôm nay. Nhưng chúng ta nhắc lại hoạt động và sự phối hợp của các đặc sủng này để hiểu vai trò của người rao giảng Tin Mừng và vai trò của chúng ta như những người rao giảng Tin Mừng cho giới trẻ.
- Người tông đồ đặt nền móng cho cộng đoàn và cai trị cộng đoàn. Vì liên kết với mười hai tông đồ đầu tiên do tính tông truyền, họ bảo đảm chân lý của đức tin và sự hiệp thông với Hội Thánh hoàn vũ. Họ có thể không phải người rao giảng Tin Mừng hoạt động nhất hay hiệu quả nhất. Đặc sủng của họ là đặt nền móng và hiệp thông. Không phải vì sự hiểu biết riêng của họ hay mức độ sứ ngôn riêng của họ, nhưng một cách khách quan vì sự liên kết với mười hai tông đồ. Như thế Kitô giáo không được trình bày như là một học thuyết tôn giáo trong đó các vị tiến sĩ giữ ưu thế, nhưng như một biến cố lịch sử, biến cố Đức Giêsu Kitô, mà nền móng của nó được ban cho những người có mối liên kết lịch sử với các tông đồ.
- Người ngôn sứ giải thích các kế hoạch của Thiên Chúa cho thời điểm hiện thời của cộng đoàng. Họ không ít liên quan tới việc tiên báo tương lai. Ngược lại họ đọc các biến cố và khám phá các dấu chỉ của hành động của Thiên Chúa trong lịch sử.
- Người mục tử gìn giữ, chăm sóc, sinh động hoá và làm tiến bộ cộng doàn đã được thiết lập. Hình ảnh của họ được biểu thị nơi người có một đàn chiên, biết đàn chiên mình và cung cấp cỏ và nước cho chiên; đó là hai biểu tượng vẫn còn mang ý nghĩa rõ rệt hôm nay.
- Người tiến sĩ đào sâu giáo lý đã nhận lãnh. Họ rút ra các ý nghĩa và giáo huấn mới và đối chiếu nó với văn hoá của dân chúng và những người khôn ngoan.
- Người rao giảng Tin Mừng công bố Tin Mừng cho những ai chưa nghe nói đến Tin Mừng và ở những nơi chưa được loan báo đầy đủ. Họ mang Tin Mừng đến với cộng đoàn các tân tòng. Họ là “nhà truyền giáo”, nhưng không nhất thiết họ được sai đến từ xa. Họ đi lại trong chính thành phố hay môi trường của họ, thông truyền Chúa Giêsu và mời gọi người ta tham gia cộng đoàn.
Nơi người rao giảng Tin Mừng trổi vượt óc sáng kiến, sức năng nổ, khả năng đối diện các tình huống mới, giải thích các niềm mong đợi của những người có vẻ ở xa, khai mào đối thoại với những người dửng dưng. Họ đến đến để gặp gỡ người ta thay vì chờ đợi người ta đến với mình trong giáo hội. Là người rao giảng Tin Mừng cho giới trẻ cũng giống như là “nhà truyền giáo cho giới trẻ”; có khả năng đến với những người xa cách về thể lý, tâm lý hay văn hoá.
Hình ảnh của người rao giảng Tin Mừng trong sách Công vụ Tông đồ là phụ tá Philípphê. “Ông Philípphê đi rao giảng Tin Mừng tại khắp các thành thị.” (Cv 8,40). Ông rảo khắp các thành phố, đi từ làng nọ sang làng kia, từ nhóm này đến nhóm khác. Có thể gọi ông là một chuyên gia loan báo, khêu gợi Tin Mừng. Ông không dừng lại để củng cố cộng đoàn hay cung cấp các cơ cấu vật chất cho cộng đoàn. Công việc của ông là cày xới đất. Chính Chúa Giêsu đã từng truyền cho các môn đệ đi trước ngài để chuẩn bị lúc ngài đến.
Có và phải có trong Hội Thánh một sự cân đối giữ việc chăm lo mục vụ và sự thôi thúc rao giảng Tin Mừng; trong các Tu hội và từng cá nhân cũng thế.[156]
Hội Thánh và việc Rao giảng Tin Mừng hôm nay
Hội Thánh hôm nay đang sống một “thời đại” rao giảng Tin Mừng. Các cộng đoàn đã được chăm sóc nay trở thành một chủ thể lớn của hoạt động rao giảng Tin Mừng, và đi đến với các cộng đoàn khác. Nếu không như thế, con số các cộng đoàn sẽ ngày càng giảm dần và cuối cùng chúng ta sẽ bị “dồn chết về một giáo hội cuối cùng,” theo lời của một tác giả. Vì thế thời đại chúng ta là thời đại phải dành vị trí đầu tiên cho việc rao giảng Tin Mừng, loan báo, đối thoại, vượt qua hàng rào của mình bằng sự mới mẻ mà chủ thể hành động là tất cả Hội Thánh, chứ không chỉ một vài người; những ai có khả năng hơn được giao nhiệm vụ lay động Hội Thánh, sinh động hoá, đồng hành, thúc đẩy Hội Thánh tiến tới. Và điều này phải làm ở khắp nơi, nhưng một cách đặc biệt ở thế giới phương tây. Đặc sủng rao giảng Tin Mừng hình như đổ tràn mọi người và chuyển lên bình diện đầu tiên. Sứ mạng quan trọng nhất của các tín hữu ngày nay là loan báo Tin Mừng và khơi dậy uớc muốn đón nhận đức tin. Vì vậy người ta nói đến giáo xứ như là cộng đoàn truyền giáo và chúng ta cũng nói đến các cộng đoàn giáo dục như là các cộng đoàn truyền giáo, bên trong và bên ngoài.
Từ “thời đại”, theo nghĩa lịch sử, cũng chỉ về một toàn thể các cơ hội, các biến cố, các chọn lựa và thách đố, đánh dấu một mảng lịch sử loài người: chúng ta nói chúng ta đang sống một thời đại biến đổi, một thời đại bạo lực, hay các thời điểm khó khăn. Chúng ta nói về thời đại của Don Bosco hay của Gioan Phaolô II. Những ngày tháng nối tiếp nhau được đánh dấu bằng một biến cố, một con người, một mối quan tâm. Không có nghĩa là không xảy ra các biến cố thuận lợi hay bất lợi khác, nhưng sự chú ý cá nhân và cộng đoàn chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi một hiện tượng mà người ta sống một cách sâu đậm, như là nguồn của các mối lo âu hay niềm vui, là điểm hội tụ của mọi cố gắng và đòi hỏi. Những ngày tháng trôi qua được đánh dấu bằng một hiện tượng như thế. Theo nghĩa này chúng ta nói rằng Hội Thánh đang sống một thời đại rao giảng Tin Mừng.
Thực ra, việc loan báo Tin Mừng luôn luôn là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đến độ phải đồng hoá nó với chính sứ mạng của Hội Thánh.[157] Tuy nhiên trong lịch sử Hội Thánh có những thời kỳ nổi bật các mối quan tâm khác: tổ chức, kỷ luật nội bộ, việc bảo vệ Kitô giáo. Chúng ta nói đến thời đại thập tự chinh, thời đại các vương cung thánh đường, thời đại phản cải cách.
Ngược lại có những thời kỳ mà mọi nỗ lực được tập trung thuần tuý vào việc loan báo Tin Mừng và thiết lập các cộng đoàn Kitô hữu. Chúng ta có thể đưa ký ức ngược trở về thời kỳ tiếp theo sau Công Đồng Giêrusalem. Các tông đồ phân tán đi khắp nơi để mang hạt giống của sứ điệp đến cho thế giới thời ấy. Trên hết họ tìm cách giúp biết bao nhiêu người đã trở lại đạo để họ sống theo Tin Mừng trong một bầu khí ô hợp các nền văn hoá khác nhau.
Thời chúng ta cũng giống như thời các tông đồ. Nó bắt đầu với Công Đồng Vaticanô II, là thời Hội Thánh đứng trước thế giới hiện đại một cách tích cực, nhưng đồng thời không bỏ qua tinh thần phê bình lành mạnh. Thế giới hiện đại không bị coi là đối kháng hay thù nghịch, nhưng như là bột mà Hội Thánh phải hành động như là men trong đó. Được Thánh Thần soi sáng, Hội Thánh nhận ra vai trò không thể thay thế của mình trong việc phục vụ phải cống hiến cho bầu khí mới này của loài người.
Mười năm sau Công Đồng, một Thượng Hội Đồng Giám Mục và Đức Thánh Cha Phaolô VI đã phác họa một văn kiện thực hành, được đánh giá là văn kiện rõ ràng và quyết định nhất của cuối thế kỷ, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1975). Tiếp theo có các hội nghị và các văn kiện trên cấp đại lục, trong số đó có văn kiện của Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh, La evangelización en el presente y en el futuro de la América Latina (1979).
Phong trào này được củng cố với hội nghị lần thứ bốn của Thượng Hội Đồng, tập trung chú ý vào việc rao giảng Tin Mừng cho thanh thiếu niên, là nguồn gốc của Tông huấn về Huấn Giáo (1979). Sau cùng, trong thập niên 90, và trước thềm thiên niên kỷ 3, Đức Thánh Cha đã phát động và tung ra “cuộc rao giảng Tin Mừng mới”.
Thời đại Rao giảng Tin Mừng
Nếu muốn xác định thời đại chúng ta bằng một từ, nếu muốn định nghĩa những thách đố, sự quan tâm nổi bật của thời đại, hướng tập trung các nguồn lực, thì từ thích hợp hơn để dùng có lẽ là “rao giảng Tin Mừng”: “thời đại rao giảng Tin Mừng”. Chứng minh cho điều này là các tông huấn của đức Phaolô VI và phong trào rao giảng Tin Mừng mới ngày nay.
Nhưng tại sao thời đại này là một “thời đại” nổi lên sự thúc bách và cả nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng? Chúng ta đang thấy một số hiện tượng thách thức tính đáng tin của Kitô giáo trong thời đại chúng ta.
Trước hết chúng ta thấy mở ra những không gian địa lý rộng lớn: Châu Phi là một đất mới; Châu Á là một đại lục trong đó chúng ta chưa thâm nhập vào được các tôn giáo lớn, mà mới chỉ có một hạt giống nhỏ bé; Châu Mỹ là một đại lục đã được rửa tội, nhưng phải được rao giảng Tin Mừng; với một tín ngưỡng bình dân lớn trong đó vẫn cần thấm nhuần những hệ quả luân lý và xã hội của Kitô giáo. Bản thân Châu Âu là một đại lục đang xa dần các tiêu chuẩn Kitô giáo và cả các mục tiêu cho các giáo hội và các cộng đoàn Kitô giáo. Đây là những hội chứng chúng ta thấy nổi bật và làm chúng ta ý thức sự cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng.
Bên cạnh đó, có sự tìm kiếm ý nghĩa cho đời sống, mà nhiều người cảm thấy sau sự suy tàn của các thuyết không tưởng chính trị và các cắt nghĩa khoa học. Tin Mừng có thể cho một ý nghĩa không? Và nó là thực tế và khả thi, hay chỉ là lý tưởng và vô ích? Từ chính những câu hỏi này phát xuất một yêu cầu mới về ý nghĩa và về Tin Mừng.
Có những vấn đề lương tâm được đặt ra cho các cá nhân và xã hội liên quan đến sự sống, sự chết, tình yêu, gia đình, tính dục. Luân lý Kitô giáo có thoả đáng không? Luân lý Kitô giáo được kêu gọi cho một hướng đi, một ý nghĩa đạo đức mới.
Ngoài ra, còn có sự đồng hiện diện của các tôn giáo khác nhau và nhiều giáo phái, bên cạnh sự khác biệt của nền văn hoá. Đức tin có cần thiết không, và đức tin Kitô giáo có phải là đức tin chân thật duy nhất. . . hay tốt nhất không?
Còn có các hiện tượng mới, ví dụ, sự thăng tiến-giải phóng phụ nữ, tình hình giới trẻ, tình trạng nghèo khó không thể ngăn chặn của nhiều người và nhiều dân tộc, tất cả đòi hỏi sự chú ý và soi sáng của Tin Mừng. Và cũng có các thực tại cũ (giáo dục, văn hoá) đang xa dần Tin Mừng, nhưng đồng thời để lại những vấn nạn mạnh cần được Tin Mừng soi sáng lại.
Về tất cả điều này chúng ta có thể nói đang sống trong một “thời đại” rao giảng Tin Mừng. Điều này mang ba ý nghĩa:
- Đối với Hội Thánh, đây là một vận hội “lịch sử”; một vận hội có nhiều thách thức, nhưng đang chín muồi một khái niệm mới về đời sống (hãy nghĩ đến đạo đức, tự do cá nhân), một hình thức mới trong các quan hệ xã hội và cách điều hành chính trị, một sự hoạch định mới về giáo dục. Cái người ta đánh mất hôm nay, có thể sẽ bị mất mãi mãi. Có thể là Tin Mừng chăng? Ý nghĩa tôn giáo chăng? Đức tin chăng? Cái người ta gieo hôm nay có thể trở thành trái chín trong tương lai.
- Mỗi sáng kiến và sự hiện diện từ nay được đo lường bằng khả năng rao giảng Tin Mừng. Rao giảng Tin Mừng là thước đo cho mọi cơ cấu và mọi cộng đoàn. Rao giảng Tin Mừng không chỉ là đích đến, mà còn là hành trình, không chỉ là mục đích, mà còn là phương tiện; điều này có nghĩa là khẳng định rằng ngày nay các sáng kiến của Hội Thánh phải đuợc đánh giá trên cơ sở chúng có khả năng làm chứng và loan báo Tin Mừng. Các hội đoàn của Hội Thánh khi duyệt xét về giá trị của mình, phải tự hỏi mình có giúp các thành viên sống Tin Mừng sâu xa hơn và có loan báo sứ điệp của Đức Giêsu mà không cắt xén hay che giấu nó không, không để cho tính chất đặc trưng tôn giáo hay Kitô giáo bị mất đi không. Các nơi thờ phượng, các cơ cấu giáo hội, các cơ sở giáo dục, đời sống tu trì. . . ngày nay phải được tái kế hoạch, lấy chất lượng rao giảng Tin Mừng của mình làm tiêu chuẩn. Các dấu chỉ tôn giáo và các biểu tượng thờ phượng không có ích bao nhiêu nếu người ta không có chìa khoá để cắt nghĩa chúng. Vì vậy, rao giảng Tin Mừng không phải một khía cạnh đặc thù của việc mục vụ, mà là kênh ưu việt mà mọi thứ khác chảy vào trong đó.
- Chúa Thánh Thần khơi dậy các đoàn sủng và ban các ân sủng chuyên biệt. Đó là sự nếm cảm Lời Chúa, được bộc lộ trong các cộng đoàn Kitô giáo, hoạt động truyền giáo chưa bao giờ sâu đậm như trong thời đại chúng ta, sự dấn thân của giáo dân, các phong trào thiêng liêng và tông đồ xuất hiện trong những năm gần đây.
Chúng ta sống “thời đại” này giữa giới trẻ. Chúng ta thấy chúng đang rời xa Hội Thánh, và đồng thời thấy chúng đang đi tìm một kinh nghiệm tôn giáo chủ quan.
Chúng ta thấy trong văn hoá tuổi trẻ, khía cạnh tôn giáo không quan trọng. Cái mà tuổi trẻ quan tâm là sự sinh tồn (lao động) và sự hội nhập vào một xã hội mà cái được tìm kiếm ưu tiên là cái tức thời và hữu hình.
Sự truyền thông với cộng đoàn Hội Thánh do đó trở nên khó khăn: sau một thời kỳ huấn giáo đầu tiên, và với một số người sau phép thêm sức, là một sự xa cách dần trong thầm lặng. Trong khi đó môi trường đưa ra các thông điệp vô cùng đa dạng và các cắt nghĩa về cuộc đời và về mọi khía cạnh của nó.
Điều này thúc đẩy chúng ta dấn mình mạnh mẽ trên bình diện rao giảng Tin Mừng và tìm kinh nghiệm của chúng ta trong việc truyền đạt Tin Mừng, trong việc làm bừng cháy niềm khao khát Tin Mừng và giúp người ta thấy biết bao ánh sáng, biết bao khôn ngoan, biết bao tin tưởng phát xuất từ Đức Giêsu.
- rao giảng Tin Mừng khuôn đúc linh đạo chúng ta
Căn tính “người rao giảng Tin Mừng” của chúng ta và “thời đại” chúng ta đang sống thúc đẩy chúng ta tìm kiếm chiều sâu của đời sống thiêng liêng chúng ta trong niềm đam mê vì Tin Mừng, và do đó vun trồng một số thái độ đặc trưng của người rao giảng Tin Mừng.
Niềm đam mê, nhiệt tình thông truyền Tin Mừng bởi những chứng nhân hơn là những chuyên gia, phát sinh từ kinh nghiệm cá nhân của chúng ta về Chúa Giêsu hơn là từ việc làm chủ các khái niệm và kỹ thuật. Đây là trường hợp của các tông đồ như chính thánh Gioan từng thú nhận:
“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy tận mắt và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng toi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.”
Thế nên niềm đam mê được tỏ lộ như là một niềm vui sâu xa trong việc mặc khải cho những ai có khả năng đón nhận các sự phong phú của mầu nhiệm Đức Kitô. Hơn là cho những “bài học” tôn giáo, chúng ta dẫn đưa người khác vào một kinh nghiệm thu hút và hấp dẫn chúng ta trước tiên. Hơn là một bổn phận của chức vụ hay một nghề nghiệp, nó là một khuynh hướng không kìm giữ nổi. Thánh Phaolô ví điều này với hành vi “đưa vào ánh sáng”, là hành vi được tạo ra với sự đau khổ được nâng đỡ bởi một thúc đẩy của đam mê. Đồng thời ngài liên kết nó với một trách nhiệm đời sống, mà ngài không thể trốn chạy, bởi vì nó liên quan tới một điều gì quá quí giá đối với những ai muốn sống hạnh phúc: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”[158]
Đức Phaolô VI nhắc nhở chúng ta điều này với giọng hùng hồn quen thuộc của ngài trong một trang của Evangelii Nuntiandi:
“Vì vậy chúng ta hãy giữ vững nhiệt tình của tinh thần. Hãy giữ vững niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt. Với chúng ta hôm nay–cũng như xưa kia với Gioan Tẩy Giả, với Phêrô và Phaolô, với các Tông đồ, và đông đảo các nhà rao giảng Tin Mừng lỗi lạc trong suốt lịch sử Hội Thánh–nó phải là một ngọn lửa bừng cháy trong tâm hồn chúng ta mà không một ai hay một điều gì có thể dập tắt. Nó phải là niềm vui trong các cuộc đời dấn thân của chúng ta. Thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới luôn tìm kiếm khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, chớ gì thế giới ấy có thể nhận được Tin Mừng không phải bởi những con người rao giảng buồn rầu và thất vọng, nôn nóng và lo lắng, nhưng bởi những thừa tác viên của Tin Mừng mà đời sống của họ dọi chiếu lửa nhiệt tình, là những người trước tiên đã nhận nơi mình niềm vui của Đức Kitô, và chấp nhận hi sinh mạng sống mình để cho Nước Chúa được loan báo và Hội Thánh được gieo trồng trong lòng của thế giới.”[159]
Kinh nghiệm này (biết Đức Kitô và niềm vui thông truyền) giúp chúng ta đặt việc loan báo lên địa vị thứ nhất trong đời sống chúng ta: “Tất cả chúng ta và trong mọi hoàn cảnh, chúng ta là những người giáo dục đức tin.”[160] Không nhất thiết phải là những “nhà giảng thuyết”, giáo lý viên hay giáo viên tôn giáo. Không có sự phân cách giữa các nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng và các nhiệm vụ khác, giữa các công việc tôn giáo và trần thế. Trong bất cứ chức vụ hay vai trò nào, người ta luôn có thể nói một lời, làm một cử chỉ, khơi dậy một mối quan hệ để mở lòng người ta đón nhận đức tin.
Chúng ta nhớ lại chuyện Don Bosco trong một chuyến hành trình, ngồi cạnh anh đánh xe lỗ mãng và luôn miệng chửi thề, sau khi ngài hỏi chuyện anh ta về các con vật và về các chuyện khác của đời anh, ngài đã lái cuộc đối thoại về quá khứ tôn giáo của anh và về Thiên Chúa, để cuối cùng dẫn anh tới chỗ hoà giải với Thiên Chúa.
Tương ứng với vị trí hàng đầu của việc rao giảng Tin Mừng trong tư tưởng và trong tâm hồn, phải có vị trí hàng đầu trong việc tổ chức các hoạt động. Nó là chiều kích cơ bản của các công cuộc của chúng ta, cũng như mục tiêu của các công cuộc ấy.[161]
Vị trí hàng đầu của nó phải xuất hiện trong mối quan tâm của mỗi người, trong việc phân phối giờ giấc, việc gợi ra các chủ đề, việc sử dụng các nguồn lực. Có thể điều này có nghĩa là duyệt lại cách sắp đặt việc giáo dục trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.
Còn một điểm cần nhấn mạnh liên quan đến linh đạo.
Rao giảng Tin Mừng đưa chúng ta đi sâu hơn vào sự hiểu biết Đức Kitô và nhờ đó được lớn lên trong ngài. Đức Kitô không sống chủ yếu trong các sự vật, dù là các sự vật thánh thiêng hay các mệnh đề giáo điều. Ngài sống đặc biệt trong trí khôn và quả tim con người và trong sức sống của cộng đoàn. Khi anh em đi vào trong trí khôn này để nói một điều gì, nhưng cũng để gợi ra phản ứng của nó, anh em tìm thấy mầu nhiệm Đức Kitô hoạt động trong con người và trong cộng đoàn. Việc rao giảng Tin Mừng phát sinh trong chính đời sống, mọi điều khác đều chỉ là những con đường nó để nó đi vào.
Trong một tác phẩm của mình, Paul Ricoeur cam đoan với độc giả rằng những gì ông nói đều đã được trình bày và thảo luận trước với các sinh viên. Vì thế ông đã kiểm chứng rằng những điều ông nói đều có thể hiểu và cảm nhận như hiện thực và các lời ông dùng đều thích hợp. Đó là kinh nghiệm của mọi người truyền thông. Họ thấy rằng biết bao điều họ nói ra mà không cảm nghiệm trong tâm hồn và họ bị thúc đẩy phải nghiền ngẫm lại những điều ấy; một số điều khác họ không lãnh hội đủ và phải đào sâu chúng. Nhưng sau đó, trong cố gắng diễn tả chúng, họ khám phá ra những ý nghĩa mới và trong khi lắng nghe những người đối thoại họ nhìn ra được những âm vang và lối áp dụng mới. Đó là kinh nghiệm của những người cắt nghĩa Tin Mừng trong các cộng đoàn Hội Thánh cơ sở. Nhưng điều này đã từng được thánh Grêgoriô nhận ra khi ngài nhấn mạnh: “Nhiều điều một mình tôi không hiểu, tôi đã lãnh hội được nhờ lắng nghe dân chúng”. Rao giảng Tin Mừng không phải một hoạt động làm chúng ta hao mòn đi, nhưng là một hoạt động làm phong phú chúng ta trên bình diện thiêng liêng và trên quan điểm hiểu biết về mầu nhiệm Đức Kitô.
Mặt khác, đây là lời thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Người được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình”.[162] Có thể ngài muốn nói về của cải vật chất, nhưng cũng có thể về của cải thiêng liêng chứ, sao lại không?
- các thái độ và thực hành của người rao giảng Tin mừng
Tất cả các nghiên cứu và các tài liệu đều dừng lại để trình bày các thái độ của người rao giảng Tin Mừng hôm nay. Thực ra họ có thể bị sốc vì thế giới phát triển không thấy được tầm quan trọng của đức tin, hay họ có ấn tượng rằng việc loan báo Tin Mừng không có những cơ sở thuyết phục trong một thế giới mang não trạng khoa học, hay cố gắng của họ không tác động bao nhiêu trong việc thâm nhập vào các môi trường trong đó người Kitô hữu chỉ là một thiểu số mỏng ở rải rác.
Tông huấn Evangelii Nuntiandi[163] nêu lên các thái độ sau đây của người rao giảng Tin Mừng:
– tin tưởng vào hơi thở của Thần Khí,
– là nhân chứng trung thực,
– trở nên người kiến tạo hiệp nhất và tôi tớ của sự thật,
– hoạt động được thúc đẩy bởi đức ái và với nhiệt tình của các thánh.
Chúng ta làm sáng tỏ một vài thái độ có thể khuôn đúc nên một linh đạo Salêdiêng.
- Trước hết, tương quan cá nhân với Lời Chúa. Cần siêng năng đọc và đào sâu Kinh Thánh và nhất là Tin Mừng. Kinh Thánh chứa đựng kinh nghiệm về Thiên Chúa đấng đã tạo dựng loài người và vẫn còn có khả năng khơi dậy và soi sáng kinh nghiệm như thế.
Ngày nay người ta đã nghĩ ra và thực hành nhiều hình thức học hỏi và suy niệm Lời Chúa: ngoài Phụng vụ Giờ Kinh và bài đọc phụng vụ, việc “Đọc Kinh Thánh” đã trở thành phổ biến với bốn bước: đọc, hiểu và đào sâu bản văn, suy niệm cá nhân, chia sẻ.[164]
Trước khi lời được đọc ra, nó phải trở thành “lửa nóng bỏng trong ruột gan và mật ong ngọt ngào trên môi miệng.”[165]
Trong điều này gương của chúng ta là Chúa Giêsu, người luôn trưng dẫn Kinh Thánh trong các bài giảng và ngài cho thấy sự hiểu biết và mến chuộng Lời Chúa; và chúng ta cũng có gương của các nhà rao giảng Tin Mừng lớn. Nơi họ việc suy niệm Lời được liên tục thực hiện đã trở thành một bản tính thứ hai của họ. Thánh Augustinô kể rằng khi ngài đến thăm giám mục Ambrogiô, ngài thấy vị giám mục này đang cầm Sách Thánh trong tay, trong khi miệng đọc và mắt nhắm lại để suy niệm. Đối với chúng ta, cần phải đọc và lãnh hội sứ điệp của Kinh Thánh, đối chiếu nó với hoàn cảnh hiện thực và với các thánh đố của đời sống thanh thiếu niên.
Câu hỏi cơ bản là câu hỏi này: khi chúng ta không truyền đạt Tin Mừng, đó là vì không có thời giờ, vai trò hay phương tiện, hay vì Lời chưa gây ấn tượng trên chúng ta như một nguồn sáng lạ thường, như sự khôn ngoan, như một con đường rộng mở?
Vì vậy trước hết chúng ta phải tìm về tiếp xúc sâu xa và sinh động với Tin Mừng.
- Một thái độ thứ hai là sự tin tưởng và thanh thản đứng trước “thời đại” mà chúng ta đang sống và rao giảng Tin Mừng.
Chấp nhận và yêu mến nó (“Thiên Chúa quá yêu thương thế gian”![166]), không phải với thái độ ngây thơ nhưng cũng không phải với tinh thần tiêu cực chỉ để ý tới các giới hạn của thời đại mà không khám phá ra và vui hưởng những tiềm năng to lớn của nó. Chắc chắn rao giảng Tin Mừng trong một môi trường “có đạo”, hay một cách đơn giản, ở nơi có nhiều sự đáp ứng thì dễ dàng hơn. Nhưng không thể nói rằng nó ích lợi hơn hay có hiệu quả nhiều hơn cho tương lai cho bằng rao giảng trong một môi trường kém thuận lợi hơn.
“Chúa Giêsu đến giảng dạy ở Caphanaum”.[167] Qua chỉ dẫn này, Hồng y Martini nhận ra chuyển động của Chúa Kitô hướng về các nơi có đời sống thế tục, các nơi không mang nét đặc trưng tôn giáo. Ngược với ở Nadarét và Cana là miền đồng quê, Caphanaum là môi trường thành thị. Sánh với Giêrusalem, nơi có Đền thờ, thì Caphanaum là thành phố của các doanh trại quân đội, thương mại, hành chính, quyền lực chính trị. Tại đây đã diễn ra sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu ở ngoài trời, trong nhà (ví dụ, nhà của Phêrô), gặp gỡ các bệnh nhân và người bị quỉ ám, ngoài các bài giảng trong hội đường.
Trong mỗi thách đố hiện nay đều có một cơ hội mới cho Tin Mừng. “Thời gian đứng về phía chúng ta”. Đây là thời đại Thiên Chúa ban cho chúng ta, thời đại mà chúng ta phải làm dậy men và biến đổi. Mơ tưởng đến một thời đại tốt đẹp hơn trong quá khứ hay tương lai là chuyện vô ích và tai hại. “Sống một cách mâu thuẫn và bất hoà thường xuyên với thực tại và văn hoá mà chúng ta đang sống sẽ dẫn tới cảm giác cay đắng và mất an bình nội tâm. Nó ngăn trở chúng ta thể hiện một kế hoạch cá nhân và làm ô nhiễm các nguồn mạch phát sinh đời sống thường ngày của chúng ta.”[168]
Thực ra chúng ta thấy việc rao giảng Tin Mừng cho một số nhóm và hiện tượng tỏ ra chậm chạp. Sống hi vọng có thể là một dấu hiệu của sức khoẻ tâm thần và một việc luyện tập đức tin không dễ dàng.
- Một thái độ thứ ba là ý thức về sức sống của hạt giống.
Nước Trời, sự thiện, Lời Chúa thường được ví với những vật bé nhỏ nhưng có năng lực nội tại: men, hạt giống. Điều đáng chú ý là các ví dụ hay giải thích về việc rao giảng Tin Mừng hoàn toàn không nhắc đến các thực tại vật chất lớn. Nhiệm vụ của người hoạt động giống như tiêm truyền các yếu tố bé nhỏ và phong phú này vào trong đúng môi trường. Sau đó, chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng Máccô, “dù người ấy (người gieo hạt) ngủ hay thức, ngày hay đêm, hạt giống cứ nảy mầm và lớn lên; bằng cách nào, người ấy cũng không biết. Thế rồi đất tự động sinh ra hoa màu; trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.”[169]
Nhiệm vụ của chúng ta là gieo hạt không dè sẻn, để ý nhiều hơn đến những hạt nảy mầm hơn là những hạt chết đi trong thời gian và lời nói. Cả trong thiên nhiên cũng có một sự phí phạm lớn. Nhiều hạt được gieo vãi nhưng chỉ có một ít vượt qua được qui trình tăng trưởng khó khăn để lớn lên thành cây. Nhưng chính những cây này bảo đảm giống loài và sự sống.
- Cuối cùng, linh đạo người rao giảng Tin Mừng đòi hỏi họ có những đức tính thích hợp cho việc phục vụ.
Đây là một nghề giống như bao nghề khác. Nó đòi hỏi hiểu biết về nội dung và thực hành việc truyền thông. Các khả năng liên quan đến mọi việc phục vụ rao giảng Tin Mừng: từ bài giảng đến giáo lý cho trẻ em, xuyên qua khả năng cống hiến cho thanh thiếu niên một sứ điệp hay một cơ hội để suy niệm, như các cuộc tĩnh tâm chẳng hạn.
Một nhà chính trị nói: “Chỉ Hội Thánh có mọi ngày chủ nhật một lượng thính giả tụ tập đông như trong các thánh lễ. Khi tất cả các linh mục giảng tốt ngày chủ nhật, trong thành phố tôi (một thành phố cỡ vừa) người ta cảm thấy ảnh hưởng tốt.” Các tiềm lực chúng ta có chung với nhau thì vô cùng to lớn. Đôi khi có sự phí phạm vì chúng ta thiếu chuẩn bị hay thiếu chiều sâu trong việc sống và loan báo Lời Chúa.
10
bí tích hoà giải
Không thể phác họa diện mạo linh đạo của chúng ta và của mọi linh đạo tông đồ mà không nói đến các bí tích.
Trong việc mục vụ tất cả là bí tích. Thực vậy việc mục vụ liên quan đến một thực tại vô hình, mà người ta chỉ có thể nhận ra qua các dấu hiệu.
Đời thánh hiến đối với chúng ta và đối với thế giới là một “dấu hiệu”, một bí tích. Chúng ta tìm cách làm chứng về một thực tại vô hình thông qua một số chọn lựa và lối sống.
Ngoài ra, là nhà giáo dục, chúng ta nại đến một chiều kích rất thâm sâu của con người mà Don Bosco gọi là “tôn giáo”. Đó là sự nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống mình. Vì vậy chúng ta như thể chìm ngập trong một bầu khí bí tích.
Lúc này thời giờ chỉ cho phép chúng ta suy niệm về một bí tích: Hoà giải. Nó liên quan mật thiết với chúng ta theo hai nghĩa.
- Như những người “thánh hiến”: xung quanh bí tích Hoà giải tập hợp một chùm chủ đề cơ bản cho đời sống trong Thần Khí, mà thiếu nó thì không thể có khái niệm gì về Tin Mừng: sự hoán cải, ý thức tội lỗi, sự hoà giải, sự khổ chế, lòng thống hối (đau đớn vì xúc phạm đến Chúa), việc “vác thập giá”.
- Như những nhà giáo dục: sự hoà giải liên quan đến nhiều khía cạnh của việc trưởng thành Kitô giáo của thanh thiếu niên, nhưng nhất là một khía cạnh có tính quyết định: đào luyện lương tâm.[170] Sự gìn giữ và phát triển đức tin tuỳ thuộc vào sự đào luyện này. Đức tin được kiện cường và kích thích trong một lương tâm được soi sáng và chính trực, trong khi nó bị bóp nghẹt, biến mất hay đứng bên lề cuộc sống, khi người ta không hành động theo lương tâm.
Đối với chúng ta, hai khía cạnh này kết hợp mật thiết với nhau: nếu giáo dục và rao giảng Tin Mừng không phải là cung cấp những bài học, mà là thông truyền một kinh nghiệm sống, thì chỉ nguyên sự kiện chính chúng ta có một kinh nghiệm về sự hoà giải, đủ để chúng ta có khả năng dẫn đưa thanh thiếu niên vào khía cạnh cơ bản này của đời sống Kitô giáo.
Tương quan này được diễn tả trong một đoạn văn rất hay của thánh Phaolô nói về Hội Thánh: “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa, là đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.”[171]
Có hai điều liên kết với nhau: kinh nghiệm cá nhân và việc phục vụ hoà giải.
Suy tư của chúng ta tập trung vào bốn khía cạnh:
– là những nhà giáo dục-rao giảng Tin Mừng có óc thực tế;
– là những con người được hoà giải với Thiên Chúa và với đời sống;
– là những hối nhân. . . với sự đơn sơ và vui tươi;
– là những nhà giáo dục và thừa tác viên của bí tích hoà giải.
- những nhà giáo dục với ý thưc về thực tại
Có óc thực tế có nghĩa là nhìn nhận sự tồn tại và các chiều kích của sự ác, biết rằng có những sự kiện nguy hiểm cho đời sống và trong thế giới chúng ta cũng phải kháng cự lại chúng.
Sự trưởng thành về phán đoán chính là ở chỗ nhận thức được tiềm năng mà cuộc đời cống hiến và các nguy cơ tương ứng với chúng trong cuộc đời. Chỉ nhận ra một chiều kích mà thôi là cái nhìn phiến diện và thực chất là thái độ ấu trĩ.
Mọi sự thiện đều có mặt trái đối lập với nó trong thâm tâm chúng ta và trong thế giới xung quanh chúng ta: yêu và ghét, dấn thân và dửng dưng, chính trực và bất lương . . . tự cơ bản là ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết.
Chiến tranh, bi kịch, đấu tranh là cuộc sống của con người trên trái đất. Không gì thiếu trưởng thành hơn là loại bỏ sự nhận thức về một sự thất bại có thể xảy ra. Trong khoa sư phạm của Don Bosco, “các sự sau”, “các châm ngôn đời đời” gợi tới hoàn cảnh này như là “sự rủi ro” của con người.
Trong các văn kiện mới đây của Hội Thánh có nêu lên những hậu quả của sự dữ trên bình diện vĩ mô: sự vi phạm phẩm giá con người, sự phân biệt chủng tộc, xã hội, tôn giáo, sự chuyên chế của quyền lực chính trị và kinh tế, bạo lực và các cuộc tấn công hiếu chiến, sự bóc lột người nghèo, sự phân phối bất công các của cải, sự tham nhũng trong quản trị của công.
Chúng ta cũng thấy các hậu quả tương tự nơi thanh thiếu niên: sự ác (trốn đời, tự do phóng túng, vô trách nhiệm) phá hoại các năng lượng tốt nhất của họ. Như thế cuộc đời bị tiêu hao trong sự phù phiếm; sinh lực được dùng vào các điều vô giá trị, và nhiều thanh thiếu niên đi tới chỗ vong thân và thất vọng.
Nhận thức được sức mạnh phá hoại của sự dữ là có ý thức về tội lỗi.
Có câu nói: “Giới hạn lớn nhất của thời đại chúng ta là sự mất ý thức về tội lỗi.” (Piô XII). Và do đó: “Tái lập ý thức đúng về tội lỗi là hình thức đầu tiên để đối diện với cuộc khủng hoảng thiêng liêng nghiêm trọng đang xảy ra cho con người của thời đại chúng ta.”[172]
Cần nói rằng sự đào luyện lương tâm và ý thức về tội không thể có được chỉ bằng việc rao giảng về sự cáo tội và thú tội, nhưng bằng một việc giáo dục đức tin chú ý hơn đến chiều kích luân lý.
Trong thực tế, đào luyện ý thức về tội bao gồm:
– nhận ra sự ác luân lý như phá hoại nhân vị và các mối quan hệ, cho dù nó mang đến bất kỳ cái lợi trước mắt nào: tại sao nó là xấu?. . . cuộc đời là trách nhiệm và sứ mạng chứ không chỉ là khoái lạc và quyền lợi;
– nhận diện sự ác: cái gì là xấu. . . đâu là ranh giới giữa thiện và ác: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối;
– đặt sự ác trong tương quan với tự do và trách nhiệm cá nhân: khuynh hướng giảm thiểu trách nhiệm cá nhân hay đặt sự ác bên ngoài con người;
– nhận thức mối tương quan với ý chí và tình yêu Thiên Chúa: khó nghĩ về sự siêu việt.
Trong thực tế, môi trường và nền văn hoá mà chúng ta đang sống làm cho chúng ta một cách hầu như không ý thức, ít nghĩ đến sự hiện diện của sự dữ và do đó giảm bớt sự tỉnh táo đề phòng. Người ta thấy sự dữ dưới mọi sắc thái nhưng không ai coi là quan trọng. Chúng ta gần như quen với sự kiện rằng mỗi người tự chọn nền đạo đức cho mình miễn là nó không vi phạm các qui luật sống chung và các quyền lợi của người khác. Có thể xảy ra chuyện chính các tu sĩ cũng không bị ấn tượng trước các cách cư xử xấu xa và ít lưu tâm tới một hướng dẫn đạo đức nghiêm khắc.
Các nguyên nhân thì nhiều.
Phán đoán đạo đức hiện nay thường dựa trên các lý do trực tiếp: ý kiến của đa số xuất hiện trên các thống kê, các lợi thế, hoàn cảnh cá nhân.
Ý thức về Thiên Chúa bị yếu. Hình ảnh của ngài hầu như bị xoá trong lương tâm cá nhân và xã hội. Điều này khiến người ta khó nghĩ rằng các hành động của chúng ta có liên quan đến ý muốn của ngài. Chúng ta lưu ý để không mâu thuẫn với người đồng loại và không xúc phạm những người sống quanh chúng ta. Các nhân vật vô hình hay xa xôi không có ảnh hưởng quyết định đối với cách cư xử của chúng ta.
Phân tích các nền văn hoá cho thấy nhiều qui tắc xưa kia vốn được coi là tuyệt đối, nay được coi là lệ thuộc các nền văn hoá như thế nào : cảm giác xấu hổ, sự tôn trọng quyền bính, chế độ hôn nhân nhất định, cách diễn tả tính dục. Người ta đã tương đối hoá chúng và coi chúng là có thể thay đổi và không bó buộc.
Nghiên cứu về cách ứng xử con người qui gán “cảm giác có tội” cho loại nhân cách, cho giáo dục gia đình, cho môi trường xã hội. Người ta nhấn mạnh các chi phối của hoàn cảnh và nhu cầu tự giải phóng khỏi các hoàn cảnh chi phối ấy hơn là trách nhiệm cá nhân.
Người ta đã đi đến chỗ tách rời giữa đạo đức “riêng tư” và đạo đức “công cộng”. Sự tách rời này không giúp duy trì các chuẩn mực đạo đức. Nhiều điều ngày nay được để tuỳ chọn lựa cá nhân: phá thai, cái chết êm dịu, ly dị, tính dục đồng giới, thụ thai nhân tạo. Về tất cả vấn đề này, trong môi trường xã hội và cả trong môi trường giáo dục người ta đã khơi dậy được một sự nhậy cảm, nhưng chỉ liên quan tới các rủi ro và lợi ích của nó; người ta không cống hiến một nền tảng đạo đức vững chắc, càng không có ám chỉ gì về đấng siêu việt.
Tất cả điều này ảnh hưởng tới thanh thiếu niên giống như một đám mây độc hại. Không lạ gì giữa thanh thiếu niên xuất hiện một tập hợp các hội chứng và phản xạ đối với nền văn hoá mà họ đang hít thở. Việc đào luyện luân lý của họ trở thành chắp vá. Nó giống với chiếc áo của anh hề hơn là một bức tranh được vẽ một cách hợp lý.
Thực ra họ lấy các chuẩn mực và qui tắc từ nhiều nguồn khác nhau: từ gia đình và trường học, từ báo chí và TV, từ bạn bè, từ suy tư cá nhân. Sự chọn lựa được bỏ mặc cho sở thích chủ quan mỗi người.
Người ta nói đến sự nhậy cảm của giới trẻ về các giá trị mới. Nhưng khó có thể hiểu được tới mức nào đây là một sự dấn thân hay không phải là một sự giải trí nhất thời, một hình thức để sống chung với nhau và kích thích lẫn nhau.
Các điểm nòng cốt của sự nhậy cảm đạo đức ngày nay là: nhân vị như là giá trị quyết định và hầu như tuyệt đối; lương tâm cá nhân như qui luật tuyệt đối; hoàn cảnh sống của cá nhân như nhân tố quan trọng để đánh giá đạo đức con người.
Trong cùng hướng này môi trường cũng ảnh hưởng trên những người lớn, các tu sĩ và các nhà giáo dục, nếu họ không chú tâm tới việc đọc Lời Chúa và việc phân định để giúp họ biết cảnh giác. Sự nhạy cảm có thể trở nên phai nhạt. Như thế chúng ta gần như đi theo qui luật của quả lắc đồng hồ, từ một não trạng nghiêm khắc và thấy mình có tội trước kia sang một não trạng đối nghịch khác, “vui vẻ” và dửng dưng, từ chỗ thấy đâu cũng là tội sang chỗ không thấy tội ở đâu hay ở người nào cả; từ chỗ nhấn mạnh về hình phạt mà tội đáng phải chịu, tới chỗ trình bày một tình yêu của Thiên Chúa mà không có phần trách nhiệm của con người: số phận của con người có thể là “như nhau” bất kể họ đáp lại Thiên Chúa như thế nào; từ sự nghiêm khắc trong việc sửa chữa lương tâm sai lạc, sang thái độ tôn trọng lương tâm đến độ không màng tới việc đào luyện nó; từ mười giới răn được học thuộc lòng, sang chỗ không còn dạy gì về các giới răn trong một hệ thống đạo đức Kitô giáo.
Vì vậy, để là các “Kitô hữu trưởng thành”, các “nhà giáo dục đức tin đích thực”, các nhà rao giảng Tin Mừng thực tế, có nghĩa là:
– không ngộ nhận hay nguỵ trang và cũng không cường điệu sự hiện diện của sự dữ trong đời sống cá nhân và xã hội, và ý thức về các khả năng phá hoại của nó;
– biết nhận diện sự dữ trong gốc rễ của nó, được Lời Chúa soi sáng, để có thể dẫn đến sự tái sinh;
– biết rằng Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, rằng sự sát nhập của chúng ta vào sự chết và phục sinh của ngài dạy chúng ta đi theo chính con đường của ngài, để khắc phục chính bản thân mình: đó là con đường kháng cự, tỉnh thức, chiến đấu tinh thần, luân lý, thiêng liêng.
- những con người được hoà giải sâu xa
Đó là những con người tự chất vấn mình và để mình bị chất vất một cách thanh thản, không nhắm mắt trước các thái độ và cách ứng xử của chính mình, biết vui vẻ tha thứ và cảm thấy mình cần được tha thứ, cảm nghiệm sự an bình với Thiên Chúa, với bản thân, với anh chị em mình. Như thế họ tự giải phóng mình khỏi sự dữ nhờ việc nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính sự nghèo hèn của mình và nhờ nỗ lực hướng đời sống mình về ngài.
Kinh nghiệm sau đây mà thánh Phaolô nói cho chúng ta trong một đoạn văn mà chúng ta có thể suy nghĩ, hệ tại điều gì: “Vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. . .Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu rỗi nhờ sự sống của Người Con ấy. Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.”[173]
Bản văn nói đến sự bình an, cứu rỗi, niềm tự hào, và sự sống. Đối chiếu với nhiều bản văn khác mà chúng ta gặp trong Kinh Thánh, có nhiều kiểu chú giải. Chúng ta chọn ra đây một số.
Sự giao hoà là một sáng kiến và một hồng ân của Thiên Chúa
Trong Tin Mừng, người cầu xin hay muốn ơn tha thứ không phải một người, đàn ông hay đàn bà, mà là Chúa Giêsu đề nghị ban ơn tha thứ.
Hành trình hoà giải không bao giờ phát xuất từ việc cáo tội, mà từ việc cảm thấy mình là những “con người” được nhìn nhận, trong một mối quan hệ mới và bất ngờ soi sáng đời sống mình và cho thấy sự xấu xa của đời sống ấy. Chính theo cách ấy mà ông Dakêu nhận ra tội của mình. Chính Chúa Giêsu nhìn về phía Dakêu và được ông mời về nhà ông. Chính Chúa Giêsu đến để bênh vực người phụ nữ ngoại tình. Chính Chúa Giêsu nhìn ông Phêrô, và ngay lúc ấy ngài đã quên đi tội bất trung của ông.
Ở gốc rễ ước muốn giao hoà luôn luôn có tác động của lời nói hay của người đánh thức sự thờ ơ của chúng ta trong một đời sống nghèo nàn và mời gọi chúng ta tự thắng mình.
Cần vượt qua não trạng coi việc chúng ta vi phạm các giới răn hay không hoàn thành các mục đích như là yếu tố chính của sự hoà giải. Ngược lại cần đặt mình trước các mối quan hệ đích thực với Thiên Chúa: ngài có ý nghĩa lớn đối với chúng ta hay không, chúng ta có mong đợi nhiều ở ngài, có lo lắng nhiều để không mất ngài hay không. Tôi nghĩ đến các cặp vợ chồng. Khi có một quan hệ yêu thương, họ bằng lòng nhìn nhận những khiếm khuyết nho nhỏ của mình và nhìn nhận sự quảng đại của người bạn đời; người ta luôn luôn sẵn sàng để dàn xếp những mối khác biệt lớn. Khi mối quan hệ quí chuộng, yêu thương và mong đợi lẫn nhau không còn, họ cảm thấy ghê tởm và nặng nề khi phải thú nhận các khiếm khuyết nho nhỏ của mình. Nguyên chỉ sự có mặt hay ý nghĩ về người kia thôi cũng đủ trở thành nhàm chán và không thể chịu đựng nổi.
Vì vậy điều quan trọng hơn đối với chúng ta liên quan đến con người và hoạt động mục vụ của chúng ta là nhìn nhận, nếm cảm và công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, và tập trung mọi chú ý vào ngài, Cha của Đức Giêsu và của chúng ta; đây là chủ đề trung tâm của lịch sử cứu độ. Lòng thương xót của Thiên Chúa làm lại lịch sử mà lẽ ra bị hư hỏng, và không ngừng lập lại giao ước mà tính yếu đuối và dễ quên của chúng ta phá vỡ.
Tình yêu đối với Thiên Chúa không bắt nguồn từ sự hoàn thiện đạo đức của chúng ta, mà là nguồn gốc của sự hoàn thiện đạo đức. Nó là ân huệ của Thánh Thần. Chúng ta không yêu mến Thiên Chúa vì chúng ta tốt lành, mà ngược lại.
Thiên Chúa hoạt động bằng cách ban Thần Khí cho chúng ta
Điều Thiên Chúa làm nơi chúng ta không chỉ đơn giản hay chính yếu là xoá bỏ tội lỗi và hình phạt mà trí khôn loài người chúng ta cho là đích đáng. Nhưng ngài ban cho chúng ta Thần Khí, xây dựng nơi chúng ta một thực tại mới, mở ra cho chúng ta một chân trời mới, ban cho chúng ta một quả tim mới.
Ngài không đưa chúng ta trở về lại tình trạng trước kia của mình. Có lợi gì cho ngài và cho chúng ta nếu ngài làm chúng ta trở lại giống như trước kia, một con người mang những sự sám hối của mình? Ngược lại ngài tái tạo chúng ta thành những con cái ngài!
Điều kỳ diệu là vì các hành động xấu xa của chúng ta lẽ ra phải đưa chúng ta tới một tương lai hư mất, thì với sự hoà giải, Thiên Chúa không đưa chúng ta trở lại điểm xuất phát, mà đặt chúng ta vào một mối thân tình mới của giao ước với ngài. Cần phải suy niệm lại toàn cảnh cuộc trở về của đứa con hoang đàng.
Sự hoà giải do đó không phải bí tích của quá khứ một con người, giống như thể một tấm khăn phủ lên sự tự do phóng túng của họ hay trên các ước muốn hưởng thụ của họ. Ngược lại nó là bí tích của tương lai họ, của các khả thể mới, của tinh thần mới, của dự phóng cho tương lai.
Chúng ta được thúc đẩy tạ ơn
Sự hoà giải tuôn đổ trên mọi khía cạnh của đời sống nhờ ân sủng chúng ta nhận được: nó làm dịu mối căng thẳng trong con người, làm cho con người sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa một cách thanh thản trong cuộc đời, mở ra cho sự khoan dung và giáo dục để biết tha thứ. Dakêu sau khi được hoà giải đã trở nên sẵn sàng hoàn trả lại nhiều hơn những gì ông đã ăn cắp.
Vì thế kinh nghiệm hoà giải trong Tin Mừng luôn luôn là kinh nghiệm của niềm vui và cảm xúc vô bờ. Người ta ăn mừng tột độ, khiến gây gương mù cho những người đứng đắn. Người ta đổ dầu thơm đắt tiền làm những người keo kiệt phản đối. Người ta ăn uống linh đình và mời mọi hạng người đến dự khiến những người nghiêm túc phàn nàn.
Bối cảnh của sự hoà giải luôn luôn là bối cảnh ngợi khen và tạ ơn. Tiếp theo các sự kiện này là biết bao bài thánh vịnh được liên tục hát lên: “Hãy ca mừng Đức Chúa vì Người tốt lành; vì tình thương của Người muôn đời.”[174] “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi. . . Người tha thứ mọi tội ngươi và chữa lành mọi bệnh tật ngươi.”[175]
Thực vậy, Lời Thiên Chúa diễn tả thực tại của việc hoà giải bằng một bản giao hưởng với các lối ẩn dụ và loại suy: ân sủng, tạo dựng mới, tái sinh, công chính hoá, giải phóng. Hình ảnh này không phủ nhận hay đối chọi với hình ảnh kia: mỗi hình ảnh diễn tả một khía cạnh của tâm trạng mà đương sự cảm thấy. Thật ra chúng không phải những định nghĩa khoa học, cũng không phải những mô tả về trạng thái tâm lý, nhưng là một cố gắng để thông truyền điều xảy ra trong một người khi họ khám phá ra mình có giá trị đối với Thiên Chúa và được ngài yêu thương.
Chúa Kitô Trung gian vĩ đại
Trung gian và dụng cụ hoà giải vĩ đại là nhân tính Đức Kitô. Ngài đã phá bỏ mọi bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và loài người. Bằng sự hoà giải mối liên lạc giữa Thiên Chúa và chúng ta đã đạt tới mức độ cao nhất. Khi nghe nói như thế, nhiều người trong anh em có thể ngĩ rằng đó là một khẳng định thần học, đúng nhưng không thực tế. Ngược lại, nó có những áp dụng vô cùng cụ thể trong việc thực hành và đời sống chúng ta.
Người ta khó đạt được ước muốn hoà giải nếu không có kinh nghiệm nhân loại về sự đón nhận và tình yêu. Cộng đoàn huynh đệ là trung gian cần thiết để đạt điều này. Việc thực hành của người Mục Tử Tốt Lành vì thế đòi hỏi chứng tỏ trước hết sự để ý, quí chuộng và lắng nghe con người. Đây là con đường dẫn đến việc duyệt xét đời sống mình và ước muốn thay đổi.
- các hối nhân
Chúng ta có lý khi phân biệt giữa sám hối-bí tích, hành động cứu độ của Thiên Chúa qua trung gian của Hội Thánh, và sám hối-nhân đức, nghĩa là thái độ hoán cải nội tâm, quyết tâm tu đức của việc tự chủ, đền tội và thay đổi, được kéo dài trong đời sống và thực hành mỗi ngày.
Giữa hai điều này phải có sự liên kết nếu chúng ta không muốn biến bí tích thành một nghi thức “thánh thiêng và hầu như pháp thuật” hay biến đời sống thành một cố gắng thuần tuý của ý chí mà không qui chiếu về Thiên Chúa và ân sủng của ngài.
Việc thực hành xưa kia của Hội Thánh có một qui luật: sự nghiêm khắc của việc ban bí tích ít lần, thậm chí chỉ một lần, và nhiều cơ hội sám hối, kể cả sám hối công cộng trong đời sống. Nguy cơ của ngày hôm nay là điều ngược lại: đó là chúng ta quá quen với bí tích vì không có sự giới hạn số lần “sử dụng” và chúng ta quên việc thúc đẩy một cuộc đời “sám hối”.
Ngày nay chiều kích sám hối là cơ bản cho sự trưởng thành Kitô giáo. Không có sự sám hối thì không thể bắt đầu cũng không thể tiến bộ xa hơn trên con đường hoán cải: sự hoán cải này hệ tại chấp nhận một số điều và bỏ đi nhiều điều khác, chọn và tỉa gột, phá huỷ những điều cũ hay thói quen cũ hay vô ích và để mình được tái tạo lại. Chính là theo nghĩa này mà chúng ta kể về các câu chuyện của Abraham và của các tông đồ.
Sự sám hối-hoán cải là sứ điệp khai mào, là gương mẫu chính và lời khuyên thường xuyên của Chúa Giêsu: “Hãy hối cải và sám hối,[176]ai muốn theo tôi phải vác thập giá”.[177] Vì vậy trong Hội Thánh việc này sẽ được đảm nhận, dưới dạng công khai bởi những cá nhân và nhóm, như một đoàn sủng đặc biệt. Chức năng của họ sẽ là làm cho việc noi gương Chúa Giêsu trong khía cạnh này trở thành “triệt để” và nhắc nhớ nó cho toàn thể Dân Chúa.
Linh đạo Salêdiêng sát nhập khía cạnh này theo ơn gọi và phong cách riêng, và cống hiến các hành trình sám hối.
Lao động
Không phải chỉ là dùng thời giờ vào bất kỳ một hoạt động nào. Mà là sự hiến mình cho sứ mạng với tất cả khả năng và thời giờ. Theo nghĩa này lao động không chỉ bao gồm lao động tay chân, mà cả lao động trí óc và tông đồ. Viết sách, giải tội, giảng thuyết, học hành đều là lao động.
Tầm quan trọng của lao động trong đời sống chúng ta có thể dễ thấy từ hai sự kiện: việc nhắc đến lao động trong huy hiệu và các lời trối cuối cùng của Don Bosco: “Cha khuyên các con: lao động, lao động, lao động!” Nhưng nó cũng có một giá trị biểu tượng: lao động là biểu hiện sự nghèo khó của chúng ta, là một nét đặc trưng của giai cấp nghèo hèn mà chúng ta ưu tiên hiến mình phục vụ, là nội dung chính của các chương trình giáo dục của chúng ta trong các trường dạy nghề và kỹ thuật, là đặc điểm của một trong các diện mạo hội viên, người sư huynh; nó là hình thức chúng ta hội nhập vào xã hội và văn hoá.
Biết bao sự sám hối hàm chứa trong lao động, chúng ta thấy được điều này khi nghĩ đến sự chuẩn bị và canh tân nghiệp vụ, là công việc đòi hỏi việc kiểm soát các sở thích cá nhân, sự bền bỉ, sự mệt nhọc.
Ở đây cũng có một động lực thiêng liêng: người Salêdiêng biết rằng “qua lao động họ tham gia vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa và cộng tác với Đức Kitô trong việc xây dựng Nước Chúa.”[178]
Tiết độ
Tiết độ là nhân đức trụ điều hoà các bản năng, lời nói, và hành động theo lý trí và các đòi hỏi của đời sống Kitô giáo. Xoay quanh nó là sự tiết dục, khiêm nhường, điều độ, giản dị, khắc khổ. Trong hệ thống dự phòng các thực tại này đuợc bao gồm trong phần lý trí. Các biểu hiện của nó trong đời sống hằng ngày là: quân bình, nghĩa là chừng mực trong mọi sự, một kỷ luật thích hợp, khả năng cộng tác, sự thanh thản bên trong và bên ngoài, một mối quan hệ vui tươi và uy tín với mọi người, đặc biệt với thanh thiếu niên, vui tươi và uy tín.
Tiết độ trên hết là “tình trạng vận động viên thể thao” thường xuyên đối với bất cứ yêu cầu nào có ích cho giới trẻ; giữ mình tự do khỏi những sự trói buộc chi phối, khỏi áp lực của những sở thích hay đòi hỏi cá nhân tạo nên sự lệ thuộc
Bác ái huynh đệ
Bác ái huynh đệ[179] bao gồm sự tự chủ, cố gắng chú ý đến người khác, kiềm chế các tình cảm tự phát, khắc phục các xung đột, thông cảm những đau khổ của người khác. Nó là một việc thực hành làm người ta ra khỏi bản thân mình và thay đổi đường lối của mình, với quyết tâm chứng tỏ nó một cách dễ hiểu.
Tất cả điều này có vẻ quá nhẹ nhàng và hầu như là vui vẻ đứng trước sự nghiêm khắc của sám hối và hoán cải. Don Bosco diễn tả vẻ mâu thuẫn bề ngoài này bằng giấc mơ giàn hoa hồng.[180] Người Salêdiêng bước đi trên những cánh hoa. Mọi người nghĩ rằng họ “vui lắm”. Mà quả thực họ “hạnh phúc”. Bị gai đâm không làm họ mất niềm vui. Cả điều này cũng là một tu đức: sự đơn sơ, nét mặt tốt lành, không “đóng kịch”. Nó đáp lại lời khuyên phúc âm: “Khi anh em ăn chay, đừng làm bộ rầu rĩ, nhưng hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt cho sạch.”[181]
- các nhà giáo dục và thừa tác viên của sự sám hối
Chúng ta từng nhiều lần nghe nói rằng, theo Don Bosco, bí tích Hoà Giải và Thánh Thể là hai cột trụ của việc giáo dục. Có lẽ chúng ta đã không dừng lại để suy niệm ý nghĩa đầy đủ của lời khẳng định này. Chúng ta đã coi nó như những gợi ý duy trì việc thực hành đạo đức hơn là lời khuyên về một kinh nghiệm giáo dục đa dạng và phức tạp.
Chắc chắn chúng ta thấy trong đời Don Bosco có những cách diễn tả chứng tỏ tầm quan trọng ngài gán cho bí tích. Trong mỗi sách trong ba cuốn tiểu sử gương mẫu (Đaminh Savio, Micae Magone, Phanxicô Besucco) đều có một chương nói về phép giải tội. Trong sách tiểu sử Đaminh Savio, là cuốn ngài viết đầu tiên, có một chương bàn chung về hai bí tích, sám hối và thánh thể. Ngược lại, trong tiểu sử Micae Magone có hai chương, chương bốn và năm, bàn về phép giải tội. Dưới hình thức tiểu sử, Don Bosco đề nghị một khoa sư phạm để giúp thanh thiếu niên khắc phục các khuynh hướng xấu, trưởng thành nhân bản và qui hướng về Thiên Chúa qua bí tích sám hối.
Một nhà nghiên cứu về Don Bosco, Don Alberto Caviglia, cho rằng chương năm của cuốn tiểu sử ấy là một trong những bài viết sư phạm quan trọng nhất của Don Bosco, một tài liệu xuất sắc về việc linh hướng của ngài.
Ngoài ra còn có một tấm hình được phổ biến rất nhiều vào sinh thời của Don Bosco và đã lưu hành trên khắp thế giới sau khi ngài qua đời. Đây là tấm hình Don Bosco ngồi chụp lúc đang giải tội cho thanh thiếu niên. Cậu bé Phaolô Albera dựa đầu vào đầu Don Bosco như đang xưng tội với ngài, trong khi nhiều thiếu niên khác đang ngồi chờ đến lượt mình.
Bức hình này không phải là tình cờ. Nó được chụp theo ý muốn của Don Bosco và đã được Don Bosco chuẩn bị với ý định lưu truyền nó. Nó là một bảng quảng cáo, một tuyên ngôn, một thông điệp. Nó muốn diễn tả bằng hình ảnh điều ngài đã nói và viết với những lời này: “Kinh nghiệm đã chứng minh cho chúng ta rằng các cột trụ chống đỡ vững chắc nhất cho thanh thiếu niên là các bí tích xưng tội và rước lễ. Hãy cho tôi một em thiếu niên năng xưng tội rước lễ, bạn sẽ thấy nó sẽ lớn lên trong tuổi trẻ, đạt tới tuổi trưởng thành, và nếu Chúa muốn, đạt tới tuổi già với một hạnh kiểm gương mẫu cho tất cả những ai từng biết em. Chớ gì các thiếu niên hiểu châm ngôn này để thực hành nó; và chớ gì cả những người chăm lo việc giáo dục các em cũng hiểu để ghi tạc nó.”[182]
Tuy nhiên điều độc đáo nhất nơi ngài không phải ở sự nhấn mạnh việc đến với bí tích, mà ở việc biết tạo một bầu khí giáo dục hoà giải, qua đó người ta có một sự liên tục giữa kinh nghiệm sống và thời điểm bí tích. Ở nguyện xá thanh thiếu niên cảm thấy mình được lắng nghe và quí mến, trong một bầu khí gia đình và tin tưởng, được kích thích truyền thông cho nhau và được mời gọi tiến bộ, với các mối quan hệ kêu mời họ tự chứng tỏ mình. Điều này tạo một bầu khí chuẩn bị đích thực cho việc hoà giải. Sự hoà giải này được cảm nghiệm trước hết dưới dạng nhân bản và trực tiếp. Không ít lần các thanh thiếu niên đi từ các cuộc trò chuyện thân tình với Don Bosco trong sân chơi để đến với hành vi sám hối.
Việc hoà giải, đặc biệt việc hoà giải ngoại thường, được diễn ra trong một bầu khí ngày lễ, theo phong cách Tin Mừng: cử hành thánh thể, tiếp theo là một cái gì “đặc biệt” ở bàn ăn, giờ chơi thể thao, biểu diễn văn nghệ đi cùng với việc lãnh nhận ơn tha thứ. Các thanh thiếu niên có thể có mọi điều kiện thuận lợi: giờ giấc, nơi chốn, con người, sự mời gọi.
Chính trong bầu khí này đã phát sinh nhiều cha giải tội Salêdiêng cho thanh thiếu niên, và họ đã có ảnh hưởng lớn đối với các ơn gọi nam cũng như nữ.
Ngày nay chúng ta đang sống giữa một hiện tượng ba mặt: thứ nhất là sự rời bỏ của đa số, thứ hai là việc sử dụng chiếu lệ của một số nào đó, và thứ ba, tích cực, là yêu cầu thực sự được linh hướng của một nhóm, ít người thôi, nhưng là những người đi tìm chất lượng cho đời sống thiêng liêng.
Việc đáp ứng cho đòi hỏi đa dạng này hệ tại việc làm lại hành trình giáo dục với nhóm đa số, sẵn sàng ở bên cạnh nhóm thứ hai để nâng đỡ những cố gắng còn khiếm khuyết của họ, và trở nên có khả năng hướng dẫn nhóm ít người mà cần được giúp đỡ sâu sát hơn.
11
biểu hiện trưởng thành của đức ái mục tử :
tình phụ tử
- Linh mục-nhà giáo dục
Chúng ta đã thấy hình ảnh đầy đủ của Don Bosco. Bây giờ chúng ta xem ngài “hành động”: thực hiện một kế hoạch, cai quản một cộng đoàn.
Có hai đặc điểm nổi bật, hai đường nét lớn luôn luôn ở lại trong mọi hình ảnh mà chúng ta có về ngài.
Thứ nhất là ơn gọi linh mục: quả tim và thừa tác vụ linh mục; thứ hai là thiên tài giáo dục, bản năng bị lôi cuốn về thanh thiếu niên, sự dễ dàng trong việc hiểu biết và đối xử với chúng. Ảnh thánh được nhiều người biết nhất mô tả thật tuyệt điều này: một linh mục vây quanh bởi các thiếu niên, nhìn chúng với nét mặt âu yếm, nắm lấy tay chúng và nghe chúng nói. Nếu xoá bỏ hay chỉ cần làm yếu đi một nét nào trong đó, hình ảnh của ngài hẳn không còn trung thực nữa.
Nét độc đáo giáo dục đã may mắn hơn trong lịch sử: ngay từ đầu, nó đã được trình bày và bình luận sâu rộng, đến nỗi trong một số trường hợp nó làm quên đi và để lại trong bóng tối chiều kích kia: chiều kích linh mục. Nó cũng có vị trí ưu tiên trong các cuộc mừng bách chu niên. Khi đọc lại các tựa đề của các bài diễn thuyết, các tiểu sử và các nghiên cứu chuyên đề toàn bộ hay từng phần, chúng ta thấy chủ đề “Don Bosco nhà giáo dục” xuất hiện thường xuyên hơn: Don Bosco và các trường dạy nghề, Don Bosco và thời giờ rảnh rỗi, Don Bosco và văn hoá bình dân, Don Bosco và việc thăng tiến giới trẻ bị bỏ rơi và nghèo khổ.
Người đã tập trung cái nhìn đặc biệt về “Don Bosco linh mục”, trong dịp kỷ niệm một trăm năm, là Hồng y Ballestrero của Torino. Ngài đã tập trung khoá tĩnh tâm cho các giám tỉnh của Ý vào chủ đề “Một linh mục cho thanh thiếu niên”, đồng thời nhấn mạnh vào từ “một linh mục”. Sau đó ngài gửi cho hàng linh mục của ngài một thư mục vụ mang tựa đề “Thánh Gioan Bosco linh mục của Đức Kitô và của Hội Thánh”. Và cũng trong bài giảng thánh lễ ngày khai mạc kỷ niệm một trăm năm, ngài đã nhắc đến cảm hứng linh mục như là nguồn mạch của tất cả cố gắng giáo dục của Don Bosco.
Về “Don Bosco linh mục” các nhà viết tiểu sử hầu như luôn luôn dành một chương nào đó trong các sách của họ. Don Auffray, chẳng hạn, trong cuốn “Don Bosco nhà giáo dục” đã viết một chương về diện mạo linh mục của Don Bosco, nhưng là để chứng minh ngay sau đó rằng ngài là một thiên tài giáo dục giữa thanh thiếu niên. Don Ceria trong “Don Bosco con Dio”, nói nhiều về Don Bosco cha giải tội, giảng thuyết, và cuối cùng khai triển một chương nhan đề “Gemma sacerdotum” (Viên ngọc của các linh mục), nhưng tập trung vào các khía cạnh thừa tác: rao giảng, giải tội, cử hành Thánh Thể.
Ngược lại rất hiếm các nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về “Don Bosco linh mục”, gắn liền ân sủng linh mục vào khả năng giáo dục và các khía cạnh khác của nhân cách và hoạt động của ngài, như việc sáng lập Tu hội và các hiệp hội khác trong Hội Thánh.
Lý do có lẽ là vì sự chọn lựa và cách thức giáo dục, ngay từ thời Don Bosco, đã là một biểu hiện không bình thường của chức linh mục và trong chức linh mục. Các linh mục tốt thì có nhiều; nhưng ngược lại, có ít linh mục là bạn với thanh thiếu niên nghèo của đường phố, có khả năng chung sống với các thanh thiếu niên nghèo và chuẩn bị các chương trình phục hồi và tăng trưởng thích hợp với hoàn cảnh của chúng. Ngày nay cũng thế, người ta không nói đến các linh mục tốt lành bình thường, nhưng họ bị thu hút bởi các linh mục có một việc tông đồ lạ thường. Sự kiện này cũng có nguyên nhân là do người Salêdiêng và những người ngưỡng mộ Don Bosco đã muốn trình bày ngài với một khuôn mặt thiện cảm và hấp dẫn, không chỉ trong môi trường tín hữu, mà cả cho người đời: sự nhạy cảm này bắt nguồn từ chính Don Bosco, là người mà chúng ta biết đã muốn có một hệ thống dự phòng theo kiểu “ngoài đời”.
Về chức linh mục, cần đưa lên bình diện suy tư hàng đầu sự nhất quán của căn tính linh mục của ngài, hay sự chừng mực, chiều sâu mà Don Bosco đặt vào chức vụ linh mục của ngài để không cảm thấy, không muốn là và không là trong thực tế một cái gì khác hơn là một linh mục; hậu quả là tìm kiếm sự thể hiện mình như một con người và như một môn đệ của Đức Kitô bằng cách phát triển ơn linh mục.
Có một sự kiện mang tính chất quan sát thuần tuý: con người linh mục nơi ngài xuất hiện nơi mọi khía cạnh của nhân cách và đổ đầy các khía cạnh ấy. Điều này được Đức Gioan Phaolô II nhắc đến trong Juvenum Patris khi ngài nói: “Don Bosco trườc hết và trên hết là một linh mục. Điểm nổi bật nơi đời sống và sứ mạng ngài là ý thức vô cùng mãnh liệt về căn tính linh mục của ngài: linh mục công giáo theo cõi lòng của Thiên Chúa.”
Câu nói trên đây của Đức Thánh Cha là bình luận cho các lời của Don Bosco mà người Salêdiêng chúng ta ai cũng biết, nhưng nó đáng được chúng ta ghi nhớ và lặp lại thường xuyên: “Don Bosco là linh mục ở bàn thờ, linh mục ở toà giải tội, linh mục giữa các thiếu niên của ngài; ngài là linh mục ở Torino thế nào, thì cũng là linh mục ở Firenze như thế, linh mục trong nhà của người nghèo, linh mục trong cung điện của nhà vua và các bộ trưởng.”[183] Ngài đã không nghĩ phải làm người ta quên đi hay che giấu hay đặt chức linh mục của ngài xuống hàng thứ yếu khi ngài đụng tới các việc đời hay xuất hiện trong khung cảnh “thế gian”; hơn nữa, linh mục phải lý giải những gì mình làm và làm thế nào và trở thành một dấu chỉ của Tin Mừng và của Hội Thánh.
Sự kiện tiểu sử này được mọi người coi là sự kiện hàng đầu và quan trọng nhất để giải thích Don Bosco. Don Albera tóm tắt điều này trong câu “Linh mục luôn luôn và trong mọi lúc”. Và Don Brocardo khẳng định: “Không thể nghĩ về ngài khác hơn là một linh mục”.[184]
Chúng ta cần ghi nhớ điều này vì hai lý do.
Lý do thứ nhất là tính thời sự Hội Thánh. Thượng Hội Đồng về việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện tại thấy mình đứng trước hai trục thảo luận: một trục nhấn mạnh vào “các điều kiện hiện tại trong đó phải diễn tả chức linh mục” bằng cách chấp nhận không bàn luận về cái gọi là giáo lý về chức thừa tác để tập trung vào những khó khăn và những hoàn cảnh trong đó phải sống chức linh mục; trục thảo luận kia ngược lại dành ưu tiên cho việc đào sâu “căn tính của chức linh mục”, ý tưởng hay hình ảnh về người linh mục đi vào chiều sâu phù hợp với Lời Chúa và truyền thống Hội Thánh. Thượng Hội Đồng và Tông Huấn theo sau Thượng Hội Đồng Pastores dabo vobis đã chọn trục thảo luận thứ hai. Nguy cơ lớn không ở chỗ thiếu các linh mục để đáp ứng các đòi hỏi đặc thù của hôm nay, mà ở chỗ không lãnh hội, đi sâu và đồng hóa mình hoàn toàn với những gì mà truyền thống và Lời Chúa cung cấp cho về người linh mục.
Lý do thứ hai khiến việc suy niệm về khía cạnh này trở nên cấp bách, đó là chúng ta, những nhà giáo dục (hiệu trưởng trường học, linh hoạt viên của các trung tâm sinh hoạt thể dục thể thao và giám đốc các nguyện xá) chúng ta làm việc trong các cơ sở ngoài đời và có thể gặp khó khăn trong việc diễn tả căn tính này trong mọi lúc: là linh mục hơn mọi sự khác, như mục đích và như việc phục vụ. Don Egidio Viganò diễn tả điều này khi ngài nói rằng có thể đã từng có tình trạng trong Tu hội có nhiều linh mục và đồng thời có ít chất linh mục.
Đặc điểm này của Don Bosco: thấy mình và cho thấy mình luôn luôn và trước hết như là một linh mục, có thể được nhìn dưới một góc cạnh khác: góc cạnh chủ quan, nghĩa là sự hài lòng, niềm vui riêng của việc cảm nhận mình là linh mục.
Có được căn tính này trong niềm vui là kết quả của ân sủng, nhưng cũng là kết quả của một hành trình đồng hoá của bản thân: sự đồng hoá nhờ nguyện ngắm, thi hành chức vụ thừa tác, tham gia nhiệt tình vào các mối quan tâm của Hội Thánh. Vì thế chúng ta tự hỏi Don Bosco đã tự đồng hoá mình với hình ảnh linh mục nào.
Về điểm này có một bình luận khác của Hồng y Ballestrero. Don Bosco tự đồng hoá mình với mẫu người linh mục tốt nhất của truyền thống Hội Thánh, không gắn liền một cách máy móc vào với một hình ảnh nào được thấy vào thời ấy: không gắn liền với hình ảnh của một cha xứ, một linh mục chuyên lo linh hướng cho một nhóm người riêng biệt nào hay tuyên uý cho một cơ sở nào; cũng không phải một linh mục đảm nhiệm một vai trò trong giáo phận, là giáo sư chủng viện hay đại học. Càng không gắn liền vào các tước hiệu thuộc lãnh vực chính trị hay văn hoá: linh mục bảo thủ, linh mục tự do, linh mục “cấp tiến”, linh mục “xã hội”.
Tất cả các hình ảnh trên đây đều rất phổ biến và có đại biểu trong các thành phần giáo sĩ. “Thánh Gioan Bosco luôn luôn tự cảm thấy và biết mình chỉ là linh mục”, theo các mẫu gương được làm nổi bật bởi lao động và đức ái mục tử kiểu Don Cafasso, nhưng từ các mẫu gương này ngài qui chiếu trực tiếp về Đức Kitô linh mục và nhất là về tinh thần linh mục của Hội Thánh.
Nhưng còn một nét nổi bật thứ hai, làm trưởng thành thứ tình phụ tử đặc biệt của ngài, mà không chỉ là thiêng liêng, linh mục, những gần như thuộc bình diện sinh học, ăn sâu vào nhân tính; một thứ tình phụ tử biết theo sát để giúp đỡ con người nghèo khổ trong sự phát triển ngay từ những bước đầu.
Đó là ơn gọi, thiên tài, chọn lựa “giáo dục” vốn đã xuất hiện ngay từ tuổi ấu thơ. Nó được bộc lộ qua tấm lòng ưu ái đối với các thiếu niên và niềm ham thích mở lòng họ đón nhận sự sung mãn của đời sống trong các biểu hiện đa dạng của nó: ý thức về phẩm giá mình, niềm vui, lao động, tình bạn: tất cả đều trong hướng đi và ánh sáng của sự cứu rỗi đời đời. Các niềm ham thích và khuynh hướng này ngài đã từng ấp ủ ngay từ trước khi chịu chức linh mục, đến độ có người đã nói: nếu như một số người bẩm sinh là nghệ sĩ, thì Don Bosco bẩm sinh là “nhà giáo dục”.
Trong nghiên cứu chuyên đề về Hệ thống dự phòng, Don Pietro Braido thuật lại một cuộc tranh luận: nơi Don Bosco bộc lộ trước tiên ước muốn qui tụ các thiếu niên để làm chúng trở nên tốt hơn và từ việc này đã chín muồi ý tưởng muốn làm linh mục, hay ước muốn và ơn gọi của ngài trước tiên là chức linh mục, tuy rằng ngài cảm thấy mình gần gũi các thanh thiếu niên?
Sau khi thuật lại các ý kiến khác nhau, ngài cho thấy rằng hai khuynh hướng này luôn luôn đan chằng vào nhau, hầu như không có sự phân biệt, trong cuộc đời của Don Bosco; nhưng trong tiến trình chín muồi và nhất là vào cuối tiến trình này, ơn gọi linh mục trở thành nguồn mạch phát sinh các thái độ và các sáng kiến, trong khi giới trẻ và việc giáo dục trở thành lãnh vực mục vụ trong đó ngài thi hành chức linh mục của ngài.
Chọn lựa việc mục vụ giới trẻ và việc giáo dục không phải là một chọn lựa dễ dàng. Ở Torino có nhiều linh mục. Don Bosco sẽ than phiền về tình trạng thiếu linh mục do việc các chủng viện bị đóng cửa. Nhưng ở Torino vào năm 1838 có một linh mục cho 137 người, nghĩa là 861 linh mục cho 117 ngàn dân.
Có linh mục muốn thi hành chức vụ thừa tác bình thường trong các giáo xứ với ý thức và tinh thần tốt. Don Bosco từng được đề nghị một chức phó xứ, một chức vụ mang lại một khoản thu nhập gấp ba lần một người lao động bình thường, và chúng ta có thể nói là một hoàn cảnh kinh tế thuận lợi. Có người làm linh mục “gia đình”, và Don Bosco từng được đề nghị một chân gia sư, dạy học cho một gia đình giàu có. Có các linh mục làm tuyên uý cho các trường và Don Bosco cũng được đề nghị công việc này. Có những công việc xứng đáng trên quan điểm xã hội và “bảo đảm” về mặt kinh tế.
Trong khi ấy thành phố đang bùng nổ những hiện tượng mới về tình trạng nhập cư, nghèo khó, trẻ em lao động. Chọn không dấn mình vào công việc giáo xứ, gia đình, hay trường học, mà dấn mình trên đường phố, và do đó không có thu nhập cố định cũng không phải một công việc được xã hội nhìn nhận, là một chọn lựa mục vụ mới và dũng cảm. Don Bosco đặt mình thực tế vào trong các trào lưu mục vụ mới đang hình thành trong Giáo Hội ở Torino. Như vậy, hơn là “làm linh mục” trong một vai trò cơ chế nhất định, ngài thích “là linh mục” cho dân chúng và thanh thiếu niên trong sự hiệp thông Hội Thánh; không có một khuôn khổ vai trò cứng nhắc, nhưng chắc chắn hợp với ý giám mục của ngài là muốn chỉ định ngài làm “giám đốc” hay phụ trách công cuộc của các nguyện xá.
Trong việc tiếp xúc này với thanh thiếu niên nghèo, ngài đã có một ít kinh nghiệm đặc thù. Một là kinh nghiệm mãnh liệt về tương quan giữa đức tin hoạt động nhờ đức ái và đời sống của thanh thiếu niên, và còn có sự hiểu biết về chức năng cứu rỗi mà chức linh mục của mình bao hàm, khác với chức năng giới hạn hơn là khai tâm Kitô giáo, dạy giáo lý hay chăm lo mục vụ giáo xứ. Ngài phải chăm lo đến đời sống và hạnh phúc của các thiếu niên, bao gồm việc cứu các em ra khỏi nhà tù, khỏi sự cùng khổ, dốt nát, mê muội về ơn gọi và định mệnh của mình.
Kinh nghiệm khác là sự cấp bách và hiệu quả của việc làm cho đức ái đối với thanh thiếu niên mang sắc thái nhân bản, tình cảm, và thông cảm, để bổ khuyết vào tình cảm gia đình bằng cách phục hồi chiều kích tình cảm và làm cho các em cảm nhận được tình phụ tử của Thiên Chúa một cách cụ thể.
Rõ ràng các năng khiếu tự nhiên nơi Don Bosco từ tuổi thơ ấu, nghĩa là khả năng bẩm sinh của ngài để gần gũi các thanh thiếu niên và sự nhậy cảm nhân bản sâu xa của ngài từng khiến người ta gọi ngài là “thiên tài của cõi lòng”, đã được hấp thu, phát triển và biến đổi bởi chức linh mục của ngài.
- tình phụ tử đặc trưng của Don Bosco
Từ sự hoà nhập của hai nét tính cách này, hay có thể nói, của hai nguồn năng lượng của nhân cách ngài, phát sinh và triển nở một nét tính cách của Don Bosco nhà giáo dục, người sáng lập và bề trên, một nét tính cách được bình luận và ước muốn rất nhiều hôm nay: tình phụ tử.
Chức linh mục là nguồn nuôi dưỡng thường xuyên của nó, từ đó phát sinh một sức bật mãnh liệt và liên tục; việc chọn sống với thanh thiếu niên và gặp gỡ chúng để làm đời sống chúng trở nên sung mãn, là như dấu ấn, dấu vết trong đó tình phụ tử nhận được hình thù riêng của nó, sắc thái và các cách biểu hiện riêng của nó.
Về tình phụ tử, thật đúng như lời khoản HL 20 khi nói về Hệ thống dự phòng: nó đến từ Chúa Thánh Thần thông qua ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ linh mục. “Chúa Thánh Thần đã tạo nên trong ngài một tấm lòng của người cha có khả năng tự hiến trọn vẹn”; nhưng ngài uốn nắn các hành vi và các cách diễn tả đặc trưng trong việc gặp gỡ và đối xử với thanh thiếu niên.
Nói một cách đơn giản cho dễ hiểu, có thể nói: chức linh mục tạo bản chất cho nó; khoa sư phạm tạo phong cách cho nó. Người ta không thể nói gì về tính trọng tâm và chuyên biệt của tình phụ tử của Don Bosco nếu không xét đến hai khía cạnh này. Thiếu hay giảm thiểu khía cạnh thứ nhất, thì không có “Da mihi animas”; thiếu khía cạnh thứ hai, thì Hệ thống dự phòng cũng chẳng còn.
Như thế nơi ngài đã trưởng thành một tình phụ tử mang tính “thiêng liêng”: tình phụ tử của người linh mục sinh ra ân sủng qua phép rửa và đưa người ta trở về với lòng thương xót của Cha qua ơn tha tội. Đó là tình phụ tử được thánh Phaolô nói đến khi ngài nói với người Corintô: “Anh em có thể có hàng vạn thầy dạy trong Đức Kitô, nhưng chắc chắn anh em không có người cha nào khác, bởi vì chính tôi đã sinh ra anh em trong Đức Kitô, nhờ Tin Mừng.”[185] Nhưng cũng có một biểu hiện của một tình phụ tử mang tính chất gần như là “sinh học”, một tình phụ tử đảm nhận trách nhiệm về cả cuộc đời, chạm tới thanh thiếu niên một cách có thể cảm thấy được đến độ khơi dậy nơi chúng một ước muốn và một sự khích lệ tăng trưởng, một ý thức về giá trị của bản thân chúng, một khả năng mới để hiểu về đời sống mà chúng còn phải học để cảm nhận và giải thích.
Tình phụ tử là một đòi hỏi không ngừng lặp đi lặp lại. Nó có vẻ là một trong những khía cạnh lớn gặp nguy hiểm bởi “não trạng kế hoạch” mà đôi khi có thể trở thành não trạng “nhà thầu hay quản lý”, bởi sự ôm đồm quá nhiều công tác và cũng bởi mối quan hệ mới giữa cá nhân với bề trên, giữa cha và con. Cái gặp nguy hiểm là chính nét đặc trưng của tình phụ tử; mà cả việc giải thích và thể hiện nó theo kiểu Salêdiêng cũng gặp nguy hiểm. Nó không phải chỉ là đòi hỏi của một người muốn được sự săn đón và yêu thương; nó là một nét của đặc sủng liên quan đến Gia đình Salêdiêng, vì nó tạo thành nét độc đáo của Gia đình Salêdiêng trong việc thi hành quyền bính phù hợp với mọi đường nét khác của diện mạo của nó.
Chức linh mục thừa tác là sự cô đọng và biểu hiện của một thực tại phổ quát trong Hội Thánh mà mọi người chúng ta được dự phần vào: chức linh mục của Đức Kitô. Trong sự hiệp thông của cộng đoàn Salêdiêng và giáo dục, mỗi diện mạo nhấn mạnh một chiều kích mà không phủ nhận chiều kích khác. Người làm bề trên thì phải đặt nền tảng thừa tác vụ của mình trong hình thức giống như Don Bosco đã làm.
- biểu hiện của tình phụ tử Salêdiêng
Nhìn nhận rằng chúng ta đứng trước một linh mục-nhà giáo dục mà tình phụ tử nơi người ấy có nét đặc trưng riêng biệt, chúng ta có thể tự hỏi đâu là những biểu hiện phát xuất từ tình trạng ấy, với sự hiểu ngầm rằng những biểu hiện này sẽ là tương tự khi tình phụ tử được tỏ ra cho trẻ em hay cho người lớn.
Chung chung, khi chúng ta nói về tình phụ tử của Don Bosco, chúng ta nhấn mạnh và dừng lại ở các cử chỉ tốt lành, làm yên lòng và khích lệ, tình yêu mà ngài làm nảy nở nơi các thiếu niên trong một thái độ con cái đối với ngài: một tình yêu và một lòng tốt được gợi hứng từ tình yêu của Thiên Chúa và lòng hiền từ của Chúa Kitô. Đây là một khía cạnh rất hiện thực, nó diễn tả nét mặt của ngài và hiện diện rất rõ trong ký ức của chúng ta và trong học thuyết thiêng liêng của chúng ta. Đức Gioan Phaolô II đã ghi khắc rõ điều này trong lá thư ngài gửi cho chúng ta vào dịp kỷ niệm một trăm năm: Cha và Thầy của thanh thiếu niên.
Trong cuốn Don Bosco: profondemente uomo, profondemente santo, Don Brocardo đã thu thập một tập hợp các giai thoại chưa từng được xuất bản, chúng dệt thành chủ đề này bằng hồi ức của những bậc cao niên, nơi họ hình ảnh phụ tử của Don Bosco mãi mãi không bao giờ phai nhoà.[186]
Còn có một tuyển tập các câu truyện của các người Salêdiêng gặp khó khăn, thử thách hay thiếu kinh nghiệm, hay của những người khác hiếu động và thiên tài, họ đã để lại hình ảnh của ngài như một con người gánh trách nhiệm một gia đình có khả năng tạo an bình và hạnh phúc cho mọi người và biết giá trị của mỗi thành viên, biết nhắm mắt làm ngơ, đánh giá cao sáng kiến, đề ra các mục tiêu, khơi dậy các lý tưởng và các mong đợi.
Cũng có một sưu tập các bản văn trong đó Don Bosco bộc lộ những tình cảm thương hại, xúc động và dịu dàng khi đứng trước các thiếu niên cùng khổ. Hãy nhớ lại nhữg lời bình luận về các chuyến viếng thăm các nhà tù của ngài: “Cha vô cùng xúc động khi nhìn thấy các thiếu niên ấy, không có việc gì làm, mình đầy ghẻ lở.” Một con người không thể dửng dưng khi đứng trước một tình cảnh bất hạnh như thế. Nhưng ngài cũng bộc lộ cùng một tình cảm ấy đối với các thiếu niên của nguyện xá là những em được sống trong một tình cảnh thuận lợi hơn, khi ngài ở xa các em. Chúng ta đã từng đọc đi đọc lại lá thư ngài viết năm 1884: “Các con yêu dấu, cha thấy tâm hồn trĩu nặng vì phải ở xa các con. . .và không được nhìn thấy các con và không được nghe tiếng các con làm cha đau đớn đến độ các con không thể hình dung nổi.”[187] Ngài cũng nhiều lần bộc lộ cùng những tình cảm ấy đối với các người Salêdiêng trưởng thành, gánh vác các trách nhiệm nặng và ở những miền đất xa xôi: “Các con hãy gọi và hãy coi cha là cha, và cha sẽ lấy làm sung sướng!”[188]
Lòng nhân hậu này không chỉ là tình cảm, mà còn là ước muốn hạnh phúc thực sự của người khác–“Cha muốn các con hạnh phúc”–lòng nhân hậu này thấm nhập vào cả đời sống chứ không chỉ trong những giờ phút đặc biệt, nó áp dụng cho các chương trình chứ không chỉ cho các mối quan hệ, nó sản xuất ra cái mà chúng ta gọi là “Hệ thống dự phòng”, được ban cho mọi thế hệ Salêdiêng tiếp theo như một ơn đặc sủng. Lòng nhân hậu này được bảo vệ và làm nổi bật trong môi trường nhờ việc tổ chức các vai trò trút khỏi nó các can thiệp có thể làm phương hại đến nó và được nhấn mạnh trong một ngày lễ diễn tả lòng biết ơn và tin tưởng: hai thái độ cơ bản của Hệ thống dự phòng. Trong truyền thống chúng ta nhớ lại những người đã biết lặp lại lòng nhân hậu này. Vì không thể kể ra tất cả, tôi chỉ nêu danh một người mà tình phụ tử, đầy nhân hậu và cảm thông, đã được phụng vụ nhìn nhận: Á thánh Filippo Rinaldi.
Tuy nhiên lòng nhân hậu, tình âu yếm, sự dịu dàng, sự ân cần niềm nở, tự nó không diễn tả hết được tình phụ tử giáo dục của Don Bosco. Nó xuất hiện hoàn toàn rõ ràng trong hai yếu tố khác. Tình phụ tử của Don Bosco, như mọi điều khác, là một sự kết hợp đúng mực giữa tình yêu và trách nhiệm: nó là sự dịu dàng và cảm thông, nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm về “đời sống” của các con cái ngài, có khả năng làm sáng tỏ, đề nghị và đòi hỏi điều gì đó phải được lâu bền. Vì vậy nó không chỉ là “dầu” xoa dịu trong chốt lát, mà là năng lượng hướng tới các khía cạnh cam go hơn của đời sống thực. Một khuôn mặt người cha vừa yêu thương vừa nghiêm túc. Don Caviglia nói, “Từ cha có tất cả: tình yêu dịu hiền và mạnh mẽ đối với các nghĩa tử của ngài, sự chịu đựng mệt mỏi và đau đớn, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người cha gia đình và sự hiến mình không giới hạn mà chỉ có tình mẫu tử mới sánh ví được.” Don Bosco là một nhà giáo dục không chỉ tiếp nhận nhưng còn cống hiến; không chỉ tha thứ nhưng còn hướng dẫn cố gắng. Ngài không phải một “người tốt bụng”; ngài có một ý tưởng phong phú và thực tế về đời sống. Chỉ cần nghĩ đến tất cả đề tài lao động, học tập và bổn phận. Các hệ quả mở rộng tới nhãn quan giáo dục, cộng đoàn và các cá nhân.
Đây là chỗ gắn kết tính chất linh mục của tình phụ tử của ngài. Ngài muốn mở lòng các thanh thiếu niên đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa; cho họ tiếp xúc với Người; tỏ lộ cho họ kế hoạch cứu rỗi kỳ diệu mà Thiên Chúa dành cho họ và nhờ đó giúp họ sống hạnh phúc ở đời này và đời sau.
Cách quan niệm và tìm kiếm hạnh phúc này của thanh thiếu niên là sự diễn tả chức linh mục của ngài. Nếu Don Bosco là con người rất thân thiện, nhưng chỉ chăm lo thông truyền cho thanh thiếu niên các giá trị cao quí của đời sống tự nhiên, hẳn ngài đã không là gì hơn một nhà sư phạm tốt. Lòng thương mến mang tính “sư phạm” của ngài, phong cách nhân hậu của ngài được gắn liền với “ý muốn”, “niềm khao khát”—theo lời thánh Phaolô—sinh ra các thanh thiếu niên trong đời sống ân sủng bắt nguồn từ chức linh mục của Đức Kitô, đấng có sứ mạng mặc khải Chúa Cha. Khoa sư phạm của ngài, về nội dung và phương pháp, là khoa sư phạm các linh hồn. Don Bosco quan tâm đến linh hồn, đến ân sủng, đến đời sống trong Thiên Chúa của các thanh thiếu niên và các hội viên.
Việc sắp đặt tất cả tổ chức giáo dục và của mọi lúc và mọi nhân tố của nó đều mang tính cứu độ. Mục đích của tất cả (các quan hệ, hoạt động, bầu khí) nhắm khơi dậy và vun trồng đức tin.
Đây là kết luận của Don Braido: “Vì thế chúng ta không ngạc nhiên nếu hệ thống giáo dục của ngài, dù ngập tràn niềm vui, sự phấn khởi, nhân tính, nhưng tâm điểm và nguồn gợi hứng cơ bản của nó là ‘lòng đạo’”. Ai đó có thể sẽ bị ảo tưởng, vì sự ngưỡng mộ của họ đối với Don Bosco dựa trên một viễn tượng khác. Họ nghĩ về ngài như một linh mục thánh thiện, đúng thế, nhưng là một sự thánh thiện mới, nhân bản, ‘hiện đại’, trong khi mọi cái nơi ngài cắm rễ chặt trong lòng đạo, trong đức tin.
Vì vậy, ý thức tôn giáo không chỉ chiếm một lãnh vực trong các hoạt động của ngài (ví dụ, dạy giáo lý hay các chức năng thuộc nhà thờ), nhưng thấm nhuần mọi lúc và mọi sự can thiệp giáo dục: “Nền giáo dục tốt” có nền móng tôn giáo, bổn phận được gợi hứng bởi đức tin, việc vâng lời bề trên và tình bạn với anh em có động lực từ Tin Mừng. “Người công dân tốt” là người tín hữu tốt.
Công thức mà Don Viganò rất thích: “công dân tốt, vì là tín hữu tốt”, không phải là công thức thường gặp nhất nơi Don Bosco, nhưng chắc chắn là công thức diễn tả tốt nhất lối suy nghĩ của ngài: từ nền tảng là đức tin phát sinh các biểu hiện tốt hơn của sự trưởng thành nhân bản.
Các bình luận này chắc chắn khơi dậy một sự suy xét lại giữa chúng ta, các linh mục-nhà giáo dục, trong một thời kỳ mà tính chuyên nghiệp giáo dục hình như không dễ chấp nhận một “hình dạng” tín ngưỡng và linh mục.
Đây là khía cạnh đầu tiên và quan trọng nhất của chức linh mục và của tình phụ tử linh mục. Một người cha làm gì? Sinh ra sự sống và theo dõi cho sự sống tăng trưởng.Sự sống mà người linh mục có liên quan đến là sự sống phát xuất từ Đức Kitô: “Chớ gì họ nhận biết Cha và người Cha đã sai đến”.
Khía cạnh thứ hai thuộc về tình phụ tử linh mục của ngài là sự tin tưởng tuyệt đối (nhấn mạnh tuyệt đối) vào sức mạnh biến đổi của “tôn giáo”—Don Bosco nói thế và tôi lấy lại từ ngữ của ngài—mà linh mục là thừa tác viên và người phân phát. Này nay chúng ta nói rằng tôn giáo là một điều, còn đức tin lại là một điều khác, phân biệt như thế là đúng. Trong ngôn ngữ của ngài tôn giáo bao gồm sự hiện diện của Thiên Chúa, lúc đầu mới chỉ cảm thấy, rồi được nhận biết và chấp nhận, sự soi sáng trí khôn nhờ lời, sự đào luyện lương tâm và sự thanh tẩy cõi lòng nhờ các bí tích, sự đón nhận ân sủng, sức mạnh mầu nhiệm bên trong, đời sống trong Hội Thánh. Tóm lại là tất cả thế giới của cái mầu nhiệm, được cảm thấy và đón nhận lúc đầu, rồi được thưởng thức, và do đó được ước muốn mỗi ngày một nhiều hơn.
Hệ quả của tất cả điều này là việc thực hành liên tục và tin tưởng các thừa tác vụ linh mục trong tiến trình giáo dục và trong việc hướng dẫn cộng đoàn tu trì và giáo dục. Tương tự như thế với các cộng tác viên của ngài, tình phụ tử linh mục giáo dục được diễn tả trong khả năng làm phát sinh nơi họ ơn gọi đặc sủng, giúp họ tăng trưởng ý thức thánh hiến, làm họ trở nên ngày càng mở rộng lòng trước ân sủng cho tới sự thánh thiện.
Thừa tác linh mục của lời nói
Thừa tác linh mục của “lời nói” phụ tử và giáo dục là khả năng nói với cõi lòng người ta và đi thẳng vào những điểm mà trẻ em hay hội viên quan tâm, soi sáng họ thế nào để họ nhận được từ Đức Kitô nguồn kích thích cho đời sống và sự cổ võ để tăng trưởng, đúng như điều một người cha làm, đó là những điều mình nói ra không phải lấy từ sách vở thần học hay sư phạm, mà từ kinh nghiệm sống và từ mối quan hệ yêu thương. Đây có lẽ là sự khác biệt với các hình thức nghi tiết khác của thừa tác vụ này. Don Bosco, linh mục và con người của lời nói, có tài nói về những điều mà đứa trẻ cảm thấy là quan trọng và làm vang dội trong lòng nó những lời của Tin Mừng, được dịch thành ngôn ngữ dễ hiểu. Đó là một thừa tác vụ mà người linh mục-nhà giáo dục thi hành trong mọi lúc, chứ không cần họ phải đứng trên bục giảng. Nội dung thừa tác vụ của lời nói không phải là việc tổ chức nghi thức, mà là sự kiện mang ánh sáng Đức Kitô đến và làm cho ân sủng của ngài hiện diện.
Thừa tác vụ lời nói là việc trò chuyện trong một cuộc gặp gỡ cá nhân; là lời khuyên được ban cho dù rất vắn tắt. Nơi Don Bosco, đó là “lời nói bên tai”, thông điệp riêng, trực tiếp và thân mật.
Cách diễn tả tiêu biểu của thừa tác vụ lời nói là “huấn từ tối”. Đây là kiểu mẫu “Salêdiêng” để nói với thanh thiếu niên: được đặt trong khung cảnh cộng đoàn “vui vẻ” trên quan điểm gia đình, trong một thời điểm có ý nghĩa vào cuối ngày, dựa trên mối quan hệ cha – con và ước muốn truyền thông. Dàn bài của nó luôn rất đầy đủ: lấy một tình huống trong đời sống, đã biết hay đã chịu, tìm cách soi sáng nó nhờ phán đoán và đức tin, tiêm truyền niềm vui và khích lệ bằng giọng điệu thoải mái và cả khôi hài.
Đó là những đặc điểm của cách nói linh mục, phụ tử và giáo dục. “Huấn từ tối” là cách nói Salêdiêng tương tự như bài giảng là cách giảng thuyết: nó là nguyên mẫu, mang những nét đặc trưng cơ bản của thừa tác vụ lời nói.
Thừa tác linh mục của việc thánh hoá
Don Bosco diễn ta tình phụ tử linh mục giáo dục của ngài trong và bằng thừa tác vụ thánh hoá. Ngài nhắm mục đích đưa các thanh thiếu niên và hội viên tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa qua chính lương tâm họ và sự trung gian của ân sủng. Một khi thực hiện được điều này, thì chức năng của nhà giáo dục là hàng thứ yếu và bổ sung. An sủng có những bước đi riêng. Nhưng quan hệ và sự cởi mở cõi lòng cần canh tân nó và làm nó tăng trưởng.
Thời điểm điển hình và riêng tư hơn là bí tích hoà giải. Nó làm bộc lộ ước muốn thay đổi và quyết tâm tăng trưởng của người Kitô hữu. Vì vậy nó không tách rời khỏi các hành vi tôn giáo khác cũng không tách rời khỏi đời sống. Có thể nói Don Bosco là một bậc thầy dẫn dắt bí nhiệm: ngài khai tâm và dẫn đưa người ta vào việc cử hành và bảo đảm những điều kiện hiệu quả cho việc này thông qua giáo dục. Tuy nhiên không có sự cách biệt rõ nét về đề tài hay cách thức giữa việc trò chuyện ngoài sân chơi và lúc thiếu niên quì gối để tiếp tục việc trò chuyện về đời sống họ một cách sâu xa hơn và nhận ơn tha thứ.
Các bí tích và các lời khuyên nhủ cho việc thánh hoá con người và công việc tác động đến các thái độ và hạnh kiểm, đến sự soi sáng lương tâm và hoán cải dần dần. Đối với các hội viên cũng vậy. Don Bosco chú ý và khích lệ sự trung thành của họ và thúc đẩy họ tiến tới sự thánh thiện.
Thừa tác linh mục của việc hướng dẫn
Thừa tác linh mục thứ ba, thừa tác cai quản, là sức mạnh, ân sủng tập hợp cộng đoàn Kitô giáo và hướng dẫn cộng đoàn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người và như thế trở thành dấu chỉ và dụng cụ cứu rỗi.
Tính phụ tử linh mục giáo dục của Don Bosco được biểu lộ trong cố gắng làm cho toàn bộ công việc giáo dục trở nên một gia đình, trong đó hình ảnh người cha (giám đốc) và các anh chị lớn (các hộ trực viên) khiến mọi người cảm thấy thoải mái như “ở nhà mình”, dưới bóng mát sự hiện diện của Thiên Chúa Cha; vì vậy nhà nguyện lúc nào các thanh thiếu niên cũng chỉ cần bước một bước là vào được, các em cầu nguyện lúc bắt đầu mọi công việc, các em kết thúc một ngày bằng kinh nguyện, cử hành Thánh Thể chung với nhau và các vấn đề về tổ chức và công việc được giải quyết theo viễn tượng củaThiên Chúa và các linh hồn.
Trong tất cả môi trường giáo dục có một đặc điểm lan toả khắp nơi, đó là tình gia đình. Tình gia đình không chỉ là một thái độ của riêng từng nhà giáo dục, mà là một đặc điểm của tổ chức, của các qui luật, việc cai quản, các mối quan hệ và cách nói năng. Người ta có cảm giác đây là cơ cấu của một gia đình hơn là một cơ chế tổ chức.
Cũng có một bầu khí vui tươi và tin tưởng, đã được chúng ta nhấn mạnh nhiều lần. Môi trường giáo dục được tạo ra như thế không chỉ để có một bầu khí, mà còn để có một sự đan dệt gắn bó của các mối quan hệ.
Có lẽ sẽ thú vị nếu chúng ta đọc qua tuyển tập các chứng từ của người Salêdiêng để thấy lại được thực tại của tổng thể giáo dục này, trong tất cả các chi tiết và sắc thái của nó. Ở đây tôi chỉ muốn ghi nhận rằng cha Braido, khi nghiên cứu đề tài này dưới quan điểm giáo dục, đã dành cho nó hai chương, chương 4 và 5 của phần hai cuốn sách của cha về Hệ thống Dự phòng.
Tất cả cố gắng nhằm tạo một bầu khí gia đình không chỉ bắt nguồn từ một trực giác sư phạm của Don Bosco: giới trẻ khi sống trong môi trường tràn ngập tình thương sẽ dễ dạy hơn, hấp thu dễ dàng hơn các thái độ và các đề nghị; nhưng nó gắn liền với ơn linh mục của ngài, nghĩa là gắn liền với kế hoạch giúp hấp thu và cảm thấy “vẻ đẹp” của đời Kitô hữu và của chính sự thánh thiện, là sự an bình của tâm hồn, niềm vui của cuộc sống chung, sự hăng say thể hiện các sáng kiến, niềm hi vọng vào tương lai.
Trong các cách biểu hiện đa dạng của no, truyền thống Salêdiêng đã giữ lại hai nét này về tính cách của người bề trên: chăm lo cho đời sống thiêng liêng và lòng nhân hậu. Cả hai đặc điểm này đều được biểu lộ một cách sắc nét mà chúng ta có thể lấy đó làm mẫu mực. Tôi muốn nói đến Á thánh Filippo Rinaldi, mẫu gương đã được mô tả như sau: “Ngài thường xuyên trình bày Thiên Chúa như là người cha, thế nên tự thâm tâm ngài thấy có nhu cầu cảm nhận và làm người ta cảm nhận tình phụ tử vô biên của Người, đấng yêu thương trong thinh lặng, tiếp nhận và tha thứ.” (Don Ricaldone).
Những biểu hiện tình phụ tử của Don Bosco đã diễn ra trong một bối cảnh đậm nét “gia trưởng”, nghĩa là theo khuôn mẫu của gia đình theo chế độ phụ hệ, từng được coi như tế bào và nguyên mẫu của mọi hình thức xã hội khác.
Nguyên tắc nói rằng giáo dục phải theo hình thức gia trưởng đã từng là một nguyên tắc không bị tranh cãi.[189] Nó có những giá trị mà ngày ngay chúng ta cần duy trì, và những thái độ mới cần hấp thu. Nguồn mạch, phong cách thì không thay đổi: tình yêu có trách nhiệm mở ra cho sự sống và sự chăm sóc. Nhưng các cách biểu hiện nó trong cộng đoàn của những người trưởng thành và cần nhấn mạnh tính đồng trách nhiệm, thì có thể thay đổi.
12
người phục vụ tốt của đức kitô
(1 Tm 4,6)
- thống nhất con người và việc phục vụ
Không ít lần chúng ta gặp những người nói họ không cảm thấy thoải mái trong chức vụ hay công việc được giao phó cho họ. Cho nên họ coi và làm chức vụ hay công việc ấy như chỉ là tạm bợ. Không những thế, họ còn tìm dịp “nghỉ ngơi”, một lúc thư giãn hợp pháp và thoải mái hơn trong một vài hoạt động nào khác.
Có khi chính bề trên nhận thấy sự căng thẳng của họ cũng chỉ cho họ “lối thoát” an toàn bằng một thú tiêu khiển nào đó.
Sự chia cắt giữa công việc và sự thể hiện bản thân là một hiện tượng của văn hoá và bối cảnh hiện nay. Nhiều người bó buộc phải đảm nhận một công việc không thích hợp với họ: thế là họ tìm kiếm sự bù đắp cho nỗi thất vọng của mình vào các lúc khác. Người ta làm việc trong một phần, nhưng “người ta sống”, sống đúng nghĩa, trong một phần khác. Làm việc là vì phải kiếm tiền hay chu toàn các bổn phận của xã hội và của tổ chức (trường hợp của chúng ta!); còn sự thoả mãn và các ước muốn cá nhân thì nằm trong một lãnh vực khác.
Có người nghĩ rằng sự chia cắt này là tự nhiên. Và đúng là thế. Nhưng lại quá tự nhiên nhất là khi công việc là “sứ mạng” và khi trong đó có dấu chỉ của thánh ý Chúa. Nó cũng có những hậu quả, ít là một cách giới hạn, cả đối với sự tăng trưởng cá nhân lẫn trong sự thể hiện việc phục vụ. Về sự tăng trưởng cá nhân, giới hạn hệ tại không thể tích luỹ vốn từ kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm thiêng liêng, mà hoàn cảnh cống hiến. Về việc phục vụ, lời khẳng định sau đây là đúng: “Không ai đạt được sự hoàn thiện từ một công việc mà họ không cảm thấy mãn nguyện về nó.” Sự bó buộc thuần tuý không dẫn đến nghệ thuật. Hậu quả nghiêm trọng hơn không chỉ là một sự giới hạn về thời giờ dành cho việc phục vụ. Điều này xảy ra rất nhiều, nhưng nghiêm trọng hơn cả là sự dè sẻn về nhân lực: không hoạt động với tất cả sức mạnh động lực của mình; không hiến mình hoàn toàn.
Tình trạng này có thể xảy ra, và thực sự xảy ra, giữa những người được kêu gọi lãnh trách nhiệm sinh động hoá và cai quản.
Sự chia cắt, hay chỉ là tách rời, luôn luôn tạo đau khổ và kém hiệu quả. Bí quyết để có sự vui tươi thanh thản và cũng có kết quả tốt là xây dựng sự thống nhất giữa con người và việc phục vụ. Khi nói con người chúng ta nói đến tấm lòng, trí khôn, ước muốn, sở thích, công việc, tình bạn. Khi nói việc phục vụ chúng ta nói đến sự phối hợp và đào luyện, các hội viên dễ chịu và khó tính, các sáng kiến đáng khích lệ và các vất vả nhàm chán, việc sinh động hoá cộng đoàn và giúp đỡ những người được giao phó cho chúng ta, đời sống huynh đệ và các quan hệ xã hội và cả những công việc bàn giấy, các kế hoạch và việc tái cơ cấu, kích thích và các sửa chữa thích hợp.
Việc thi hành quyền bính có các khía cạnh khó khăn mà Kinh Thánh mô tả thật sắc nét trong ngụ ngôn mà ông Giôtham nói với các thân hào của Sikhem:[190] cây nho, cây vả và cây ô-liu được mời cai trị các cây cối, nhưng cây nào cũng trả lời là không tìm ra được lý do để từ bỏ bản tính tốt đẹp của mình (sự ngọt ngào, khà năng tạo niềm vui, sự êm dịu và hoà bình) và đứng lên chống lại những cây phải cai trị chúng. Do đó thấy rõ rằng gánh trách nhiệm cai quản nhiều khi đòi hỏi từ bỏ việc vun trồng và ban phát điều mà mình coi là hợp với bản tính tự nhiên của mình. Nhưng khi đến lượt bụi gai được mời, nó không những chấp nhận mà còn hứa sẽ làm cho mình phải được tôn trọng.
Việc thi hành quyền bính bao gồm việc quyết định và gánh lấy những phần mà nhiều người gọi là “đáng ghét”: chúng ta chỉ gọi chúng là “vất vả”. Và khi thi hành quyền lực người ta có thể đi trệch sang các hình thức của chủ nghĩa ích kỷ và thậm chí bạo lực. Mặt khác ý nghĩa đầy đủ của quyền bính được cho bởi các lời Chúa Giêsu mời chúng ta phục vụ, và ngài tỏ lộ ý nghĩa ấy trong cử chỉ rửa chân cho các tông đồ.
Sự thống nhất đòi hỏi cắt đứt sự dính bén của cây nho, cây vả và cây ô-liu vào với các sở thích và kế hoạch cá nhân hợp pháp của mình; dung hoà đúng mức sự mau mắn của bụi gai trong việc sử dụng quyền lực và đặt tất cả dưới dấu hiệu của đức ái huynh đệ được biểu lộ trong việc rửa chân.
Có một ít suy tư có thể giúp chúng ta xây dựng sự thống nhất này.
- “tiếng gọi” lãnh trách nhiệm
Suy tư đầu tiên là nhận thức rằng lời mời hay lệnh truyền đảm nhận một trách nhiệm là một “tiếng gọi của Chúa” để tham dự sâu xa hơn bên trong và với trách nhiệm nhiều hơn trong việc xây dựng Nước Chúa vào một thời và một nơi nhất định. Nếu không là như thế, việc chỉ định chức vụ của chúng ta sẽ chỉ là một chuyện “tình cờ”, là kết quả của tình thân thiết, hay trong giả thiết khá nhất, chỉ là kết quả của một sự tìm kiếm kỹ thuật để phát hiện những tài năng tốt nhất của cộng đoàn.
Trái lại, nó là sáng kiến của Thiên Chúa dựa vào tất cả tiền sử của chúng ta cho thấy nguồn xuất phát và sự trưởng thành của ơn gọi của chúng ta.
Tại đại hội các tu sĩ trẻ, tổ chức tại Roma tháng 9 năm 1997, người đọc bài tham luận với đề tài “ơn gọi” đã cho thấy rằng các ơn gọi hay lời mời của Thiên Chúa nối tiếp nhau, được hoàn tất và sáng tỏ theo dòng đời của một con người.
Chúng ta không thể nào biết chúng ta đã phải là thế nào, chúng ta đã được kêu gọi để trở thành cái gì, bao lâu chúng ta không trở thành điều đó qua các lời đáp nối tiếp nhau của chúng ta một cách quảng đại và tin tưởng với bấy nhiêu tiếng gọi của Thiên Chúa. Bài tham luận nêu lên các chặng đường trong cuộc đời, như ơn gọi sự sống, ơn gọi đức tin hay Kitô hữu, ơn gọi đời sống thánh hiến, ơn gọi sống trong một Giáo Hội nhất định và trong một thế giới xác định là thế giới của chúng ta. Tham luận cũng cho thấy rằng các tiếng gọi không chỉ nối tiếp nhau mà còn làm sáng tỏ và phong phú lẫn nhau. Ơn gọi đức tin không tiếp theo sau ơn gọi sự sống, nhưng mở ra cho ơn gọi này những chiều kích mới và chân trời mới. Lời mời gọi sống đời thánh hiến không thay thế cho hai ơn gọi trước, nhưng hấp thu chúng, mang đến một ý nghĩa lớn hơn và rút ra từ đó những tiềm năng mới. Cũng nói được như thế về ơn gọi làm người, làm Kitô hữu và làm tu sĩ, trong Hội Thánh mà chúng ta phải là những phần tử sống động, và trong thế giới ngày nay với các thách đố, các lợi điểm và các khó khăn.
Tôi muốn áp dụng cùng triền suy tư này vào ơn gọi gánh trách nhiệm phục vụ các hội viên và cộng đoàn. Là những con người thánh hiến, các hội viên là sở hữu của Thiên Chúa. Ngài chăm sóc họ và đề nghị cho họ một số người tuỳ theo sự quan phòng của ngài. Đối với người được mời gọi, điều này bao gồm một sáng kiến của Thiên Chúa phù hợp với tiếng gọi đầu tiên và cơ bản của ơn gọi, đưa nó tới chỗ hoàn thành trong các đặc tính chân thực và cơ bản nhất của nó: sống Phúc Am triệt để và hợp tác với Thiên Chúa trong việc cứu rỗi. Việc mơ tưởng thoát khỏi trách nhiệm cộng đoàn là điều không có lợi cho sự trưởng thành Kitô giáo.
Đây là điều xảy đến cho những người theo Chúa Giêsu. Trước tiên họ có niềm vui gặp Chúa và biết Chúa và đặc ân sống gần ngài một cách thường xuyên, rồi sau đó đến lúc họ được tham dự một phần vào sứ mạng phục vụ của ngài, không chỉ gồm việc đi lại và gặp gỡ các hạng người, nhưng còn gồm cả việc chia sẻ sự đau khổ và sự chết của ngài. Trong điều này các môn đệ đã tỏ ra có những giới hạn và sự ngộ nhận mà Chúa đã vạch ra và sửa sai. Rồi, với việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ nhận lãnh sứ mạng rao giảng Tin Mừng và chăm sóc các cộng đoàn đã được thiết lập nhân danh Chúa Giêsu. Không chỉ là sứ mạng loan báo vui mừng, mà còn là đời sống và chứng tá cộng đoàn: không chỉ là lời nói, mà còn là những con người và tổ chức. Như thế, giống như Chúa Giêsu, họ học chết cho chính mình và sống cho người khác. “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra để người khác thắt lưng cho và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.”[191] Chúa Giêsu đặt những lời nói này với Phêrô, để làm lời giải thích, ở giữa hai câu khác: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” và “Hãy theo Thầy” trong một đoạn tường thuật Tin Mừng hoàn toàn tập trung vào việc chăm sóc mục vụ cộng đoàn.
Để hiểu biết các sáng kiến và ý muốn của Thiên Chúa, việc đọc với nhãn quan “thiêng liêng” các bước đã dẫn chúng ta đến hoàn cảnh chúng ta đang sống là điều hữu ích. Giám tỉnh phải nghĩ rằng việc tham khảo cộng đoàn mà mình được chỉ định trong sự tham khảo ấy, là kết quả của một sự phân định được Thánh Thần hướng dẫn. Quyết định của Bề Trên Cả cùng với Ban Cố Vấn là một trong các trung gian mà chúng ta chấp nhận và gần như nhất trí với Chúa trong việc tuyên khấn của chúng ta. Tôi rất thích lời bình luận của một tác giả: “Lời khấn vâng phục không phải việc tuyên khấn của sự đau khổ hay chịu đựng, mà là của niềm vui vì sự chắc chắn về ý Thiên Chúa cho chúng ta biết phải đặt vào chỗ nào người mà ngài ban không cho chúng ta.”
Về sự thống nhất các tình cảm, ước muốn và nhiệm vụ, sẽ ích lợi để coi việc phục vụ của quyền bính là một cơ hội cho bản thân chúng ta, một cơ hội hoàn toàn độc đáo, để tăng trưởng về mọi phương diện. Các giám tỉnh trong các thơ của họ thường lặp lại với tôi điều này. Các cuộc kinh lý cộng thể và gặp gỡ cá nhân các hội viên mở ra cho họ những toàn cảnh chưa từng biết đến về sự đa dạng và phong phú của con người. Việc phải đánh giá các hoàn cảnh và soi sáng các cộng thể giúp họ đào sâu mọi chiều kích của ơn gọi và của linh đạo Salêdiêng. Việc phải tham gia vào trách nhiệm của Hội Thánh địa phương hay của Tu Hội ở các cấp rộng lớn hơn đưa họ vào các chân trời rộng mở hơn của việc đánh giá và thể hiện. Việc phải giải quyết các trường hợp đau buồn mở lòng họ ra cho sự cảm thông, thương xót, kính trọng con người, và đối thoại.
Thường khi tìm một người để giao một sứ mạng tế nhị, người ta tự hỏi người ấy đã từng nắm giữ các vai trò sinh động hoá và cai quản hay không. Đây được coi là lò thử luyện một số đức tính: khả năng đánh giá đúng các biến cố và con người, khả năng thiết lập các mối quan hệ thích đáng với một nhiều “típ” người khác nhau, bản lĩnh khi đứng trước khó khăn, khả năng duy trì các mục tiêu rõ ràng về việc rao giảng Tin Mừng và giáo dục, và có những sáng kiến mới liên quan đến các lãnh vực ấy.
Vì vậy Chúa “kêu gọi anh em” gánh trách nhiệm, ngài không đòi hỏi anh em một “hi sinh” cho bằng ngài ban cho anh em một ân sủng.
Ở điểm này có người có thể nêu ra một khó khăn: tôi không có khả năng, ý thức mình yếu kém làm tôi lo lắng. Đây là một tình cảm có cơ sở. Loại công việc này khiến không ai có thể cho là mình hoàn toàn kham nổi. Chúng ta cảm thấy an tâm về khả năng mình khi làm đồ sắt, khi đếm tiền hay đổi tiền, hay làm việc trên máy vi tính. Nhưng khi đụng đến các con người, các chọn lựa của họ hay khuynh hướng của họ về Thiên Chúa, thì tất cả đều mất hút trong cái không thể đoán trước và các phản ứng tự do.
Đàng khác, sự nhìn nhận những yếu kém của mình có mặt trong mọi truyện kể về “tiếng gọi” trách nhiệm đến từ Thiên Chúa. Tất cả đều nói điều đó: Môsê, Ghêđêôn, Gêrêmia, Đức Mẹ và thánh Phaolô. . . ấy là chỉ kể một ít người. Người được kêu gọi để làm ngôn sứ thì cảm thấy mình gặp khó khăn và yếu đuối; người được kêu gọi để rao giảng thì thấy mình ăn nói cà lăm và ngọng nghịu; người được kêu gọi để làm việc cho con người và cho Thiên Chúa thì cho rằng mình thấp hèn và không có tài.
Nhưng luôn luôn có một lời đáp của Chúa. Ngài bảo đảm ban cho một sự trợ giúp không phải chung chung, nhưng đặc biệt, tương xứng với điều mà ngài đòi hỏi chúng ta, với bản chất chúng ta và hoàn cảnh của những người chúng ta phục vụ. Trong thuật ngữ thần học truyền thống, và cho trường hợp của chúng ta, điều này được gọi là ơn chức phận (hay ơn đấng bậc). Ơn này hoạt động trong chúng ta bằng cách đánh thức các năng lực và tiềm lực mà trước đó còn giấu ẩn nơi chúng ta. Là bề trên, biết bao lần chúng ta dám làm, và buộc phải dám làm, những điều vượt quá khả năng chúng ta; chúng ta phải hành động với một hội viên hay cho một sáng kiến mà không có những chỉ dẫn bảo đảm sẽ thành công. Và chúng ta thấy Thiên Chúa đến giúp đỡ chúng ta.
Ơn chức phận cũng hoạt động nơi các hội viên và các người hưởng nhận việc phục vụ của chúng ta. Nhiều người trong họ nuôi những mong đợi nơi việc phục vụ của chúng ta, đánh giá việc phục vụ này với tinh thần đức tin vượt quá giá trị của những gì chúng ta thể hiện, họ tiếp nhận chúng ta như những “đại diện” của Chúa. Bằng cách ấy Chúa xây dựng cộng đoàn thông qua đức tin của họ và thông qua sự trung gian yếu kém của chúng ta. Đó là cảm giác và kết luận của tôi sau nhiều cuộc gặp gỡ với các hội viên và các cộng đoàn.
Ơn chức phận hoạt động trong cộng đoàn xét như một tập thể và cũng tác động vào cơ chế không phải như một toàn thể các công cụ cai quản lạnh lùng, mà như một tổ chức và một mạng lưới các vai trò, mục tiêu và dụng cụ mà các cộng thể tự tạo cho mình nhằm thể hiện đoàn sủng chân chính và liên tục. Chúng cho người lãnh đạo một quyền cơ bản, giống như một chi phiếu trống, về sự tin tưởng và uy quyền không phải để phí phạm mà để sinh lời, biểu thị một sự bảo đảm hoàn toàn đáng tin cậy. Khi tôi được bổ nhiệm làm giám đốc 33 năm trước, một hội viên lớn tuổi nói với tôi: “Có nhiều người có kiến thức hơn anh, và nhiều người nhân đức hơn anh. Nhưng anh hãy an tâm vì điều này có lợi cho quyền bính của anh và sẽ giúp anh dễ làm việc hơn. Họ sẽ chấp nhận anh chính bởi vì họ khôn ngoan và nhân đức và họ nhìn thấy nơi anh các dấu chỉ của ý Thiên Chúa. Tuổi trẻ của anh còn làm anh dễ được chấp nhận hơn vì họ thấy nơi anh kết quả các lao nhọc của họ và sự thể hiện các niềm hi vọng của họ.”
Một lời bình cuối cùng: ân sủng và sự tăng trưởng do trách nhiệm cai quản khơi dậy sẽ để lại dấu ấn và tồn tại suốt đời. Không cần phải ở lâu trong chức vụ “giám tỉnh” thì mới gọi là phục vụ với tư cách giám tỉnh, nghĩa là như người đã học biết sống cho người khác, phân định và đánh giá tình hình. Một câu tục ngữ nói: một lần làm vua thực sự thì đời đời vẫn là vua. Việc phục vụ, chúng ta cũng nói một vai trò được sống một cách trọn vẹn, thì hình thành con người chúng ta. Vì vậy sẽ khắc phục được cảm giác sống cho qua lần cái mà chúng ta muốn thoát khỏi càng nhanh càng tốt, bởi vì đời sống chúng ta, sở thích và các khả năng diễn tả của chúng ta sẽ nằm ở một nơi khác.
- ý thức mình là một “dụng cụ”
Đúng là các mục tiêu và nhiệm vụ của việc sinh động hoá và cai quản vượt quá sức lực chúng ta. Có biết bao việc phải suy nghĩ đến. Thế nhưng khó khăn không chỉ vì có quá nhiều việc. Điều vượt quá sức chúng ta còn là tính chất mà mỗi một nhiệm vụ như thế đòi hỏi: phải theo sát để giúp đỡ những con người thánh hiến trong một ơn gọi mà hoàn toàn được thể hiện bởi các quyết định cá nhân, đối thoại và tự do. Đó là sự thử thách khả năng của chúng ta trong việc thuyết phục, tác động và cùng tác động, hướng tới sự thánh thiện.
Don Bosco nói “Chỉ một mình Thiên Chúa làm chủ các cõi lòng”. Ở điểm này chúng ta phải tự nói lớn tiếng cho mình rằng không ai đã mời chúng ta hay kêu chúng ta làm công việc này một mình và cũng không ai là tác nhân chính, là nhân vật chính. Một người có thể giữ nhiều trách nhiệm, nhưng không thể nghĩ hay nói rằng mình là tác nhân thứ nhất hay nhân vật thứ nhất.
Nơi mỗi người, Chúa Thánh Thần đã hoạt động ngay từ lúc chịu phép rửa tội. Ngải khởi sự một cuộc đối thoại riêng tư trong lương tâm, trong các khát vọng và các ý hướng của mỗi người. Nhiều điều các hội viên không đến để hỏi chúng ta; họ đến để nói hay kể cho chúng ta nghe và chúng ta giống như những khán giả, chứng nhân, bạn của Tân Lang. Chúng ta được kêu gọi để lắng nghe, để nhìn, để học, để “thu thập”.
Chúa Thánh Thần cũng cư ngụ trong cộng đoàn như vậy. Khi theo sát các tỉnh dòng, tôi có niềm xác tín rằng không ít giải pháp và sự điều chỉnh đạt được không phải ở cấp cai quản, nhưng ở sự hoán cải tâm hồn phát xuất từ một sự tìm kiếm từ phía các hội viên, để vượt qua một tình huống: một sự thay đổi được chín muồi trong các đối thoại của họ hay trong quyết tâm cầu nguyện của họ.
Cũng chính Chúa Thánh Thần hoạt động trong các môi trường rộng lớn hơn, là nơi chúng ta phải thể hiện sứ mạng: cộng đồng giáo dục hay khu phố chúng ta ở, khu vực rộng lớn hơn mà tỉnh dòng hoạt động trong đó và rộng hơn nữa là thế giới, nơi chúng ta tham gia một việc phục vụ không biên giới. Các dấu chỉ về sư hiện diện của Chúa Thánh Thần được thấy rất rõ trong Hội Thánh. Từ Hội Thánh chúng ta cũng sẽ học để nhận ra sự hiện diện của ngài ở bên ngoài Hội Thánh.
Chúng ta sẽ phải suy niệm. Với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ phải thiết lập gần như một cuộc đối thoại. Các sự đánh giá của chúng ta, các công cuộc, quan hệ của chúng ta với các con người và thực tại sẽ phải được quan niệm trong Chúa Thánh Thần, bằng cách nhận ra tiếng của ngài và đi theo những hướng dẫn của ngài.
Chúng ta nói về Chúa Thánh Thần trong kinh Tin Kính: là Chúa và là đấng ban sự sống. Đó là thành ngữ mà Đức Gioan Phaolô II đã muốn lấy làm tựa đề cho tông thư của ngài. Ngài hoạt động với sự đại lượng, sức mạnh và phù hợp với đời sống, hạnh phúc, ý nghĩa, phẩm giá con người. Ngài không phải một con quỉ tội nghiệp. . . chịu thất bại với chúng ta; hay một cảm hứng mơ hồ thuộc loại “Thời đại mới” làm người ta quay cuồng xung quanh nó để bị tiêu tan trong sự xáo động thuần tuý của tình cảm. Ngài không phải sự kiện để giải khuây con người hay để tiêu thụ.
Ngược lại, ngài đưa chúng ta vào một kế hoạch lớn, lớn hơn bản thân chúng ta, và chúng ta được kêu gọi để cộng tác vào kế hoạch ấy. Nếu nói về phạm vi Salêdiêng, kế hoạch này là đòan sủng và Gia đình Salêdiêng, một cách thức trở nên giống Đức Kitô và một sự mặc khải tình yêu của Chúa Cha đối với thanh thiếu niên thông qua toàn thể những con người và những sáng kiến mà chúng ta gọi là “Sứ mạng Salêdiêng”, và thái độ và việc thực hành mà chúng ta đặt tên là “Hệ thống dự phòng”.
Nếu nói về Hội Thánh, kế hoạch lớn trong đó Chúa Thánh Thần đặt chúng ta vào là sự hiện diện Kitô hữu trong thế giới được biến thành hiện thực bởi Hội Thánh hoàn vũ, và ở xa hơn nữa, bởi kinh nghiệm tôn giáo. Ngày nay người ta kể sự hiện diện này vào trong phong trào của việc rao giảng Tin Mừng mới. Anh chị em không chỉ hoạt động trong một khu vực nhỏ bé: qua mầu nhiệm cây nho và các cành nho, anh chị em cộng tác để tạo ra mạng lưới qua đó Hội Thánh thực sự trở thành dụng cụ cứu rỗi phổ quát.
Nếu nói về lịch sử, kế hoạch lớn này là Nước Chúa. Hội Thánh là dấu chỉ của Nước, không phải là toàn thể Nước. Nước là sự thiết lập đời sống cá nhân và xã hội lấy cảm hứng từ tư cách con cái Thiên Chúa của chúng ta, được gọi sống kết hợp với ngài.
Kế hoạch to lớn hơn chính bản thân chúng ta. Cả khi chúng ta có khả năng lèo lái tốt con thuyền nhỏ của chúng ta là nhà hay tỉnh, chúng ta cũng không thể hiện hết được những đòi hỏi và tiềm năng của kế hoạch mà chúng ta tham dự. Luôn có những tiềm năng mới được rút ra từ đó và những môi trường mới để hoạt động. Chúng ta phải có ý thức về nó, phải biến nó thành tiêu chuẩn để đánh giá và quyết định. Tinh thần Salêdiêng kêu gọi chúng ta điều này: có tầm nhìn và các tình cảm to lớn.
Vì kế hoạch to lớn như thế, chúng ta không được kêu gọi để làm việc một cách đơn thương độc mã. Chúng ta thực hiện kế hoạch trong một sự hiệp thông rộng lớn hữu hình và vô hình mà không có biên giới. Không chỉ có các hội viên sống gần gũi giúp đỡ chúng ta. Chúng ta được sự trợ giúp của tất cả những người có cùng chí hướng và chúng ta liên kết cả với các thánh trên trời, các vị thánh đã được tuyên phong cũng như vô danh, đã từng dâng hiến đời mình hoặc là cho đoàn sủng, cho Nước Trời, hay cho Sự Thiện. Vì vậy chúng ta đông lắm và cộng tác ăn ý với nhau.
Nhãn quan này được diễn tả trong sự chắc chắn rằng chúng ta đã nhận được từ Chúa điều có thể mang lại lợi ích cho cộng đoàn và cho Tu Hội trong một giai đoạn cụ thể của đời sống cộng đoàn và Tu Hội. Trong cộng đoàn, nhiều người đã làm việc trước chúng ta và nhiều người khác sau chúng ta cũng sẽ thể hiện các bước có lẽ còn quan trọng hơn những gì chúng ta đã được kêu gọi thực hiện; chúng ta khám phá lại một giai đoạn đã qua và sẽ được hoàn tất bởi những người khác. Kết quả là nó phải được diễn tả trong sự dâng hiến vui tươi các khả năng riêng của mình và trong sự thanh thản trước các giới hạn về tính khí hay khả năng. Chúng ta không có tất cả các kiến thức, nguồn lực và khả năng mà một cộng đoàn đòi hỏi cho sự sống của cộng đoàn trong Chúa và cho sứ mạng, nhưng chúng ta có điều đủ cho giai đoạn này nếu nó được kết hợp chung với điều mà các hội viên khác đang sống với chúng ta có thể làm.
Từ cùng các niềm xác tín: lãnh đạo, kế hoạch, mạng lưới kỹ thuật, và người làm việc, sẽ phát sinh thái độ biết ơn đối với các hội viên và việc tìm kiếm sự cộng tác. Đây là việc đánh giá các tài năng của cộng đoàn, nhỏ và lớn: của cộng đoàn cùng làm việc sát cạnh chúng ta cũng như của Tu Hội, vì Tu Hội có thể cống hiến cho chúng ta kinh nghiệm, sự kích thích, và ý thức về đoàn sủng.
Những khuyết điểm tôi đã thấy thường là về trường hợp thứ hai này hơn là về trường hợp thứ nhất. Cộng đoàn lớn thường được nghĩ như là cái gì vô danh và mơ hồ, một tổ chức mà người ta thuộc về hơn là một sư hiệp thông to lớn về các lợi ích mà một nhóm nhỏ không thể đạt tới được và vì thế là một kho dự trữ năng lượng, kinh nghiệm và hướng dẫn. Chúng ta phải khắc phục mọi thành kiến và mọi nguyên nhân hạn chế sự hiệp lực với cộng thể thế giới nếu chúng ta muốn đi vào một mạng lưới hiệp thông rộng lớn và hưởng nhận các lợi ích của nó.
- ý thức mình được gọi vào một “nghề cao quí”
Có các nghề nặng nhọc, bạc bẽo, và khó khăn. Trong thế giới băng nhóm tội phạm có tổ chức, người ta nói đến các “việc làm bẩn thỉu”: những tay trùm có bộ mặt và bàn tay sạch sẽ, nhưng ra lệnh cho thuộc hạ thủ tiêu người khác và thực hiện các hoạt động phá hoại. Cũng trong đời sống dân sự, có những nghề cao quí và những nghề mà chỉ những dân nhập cư làm.
Nghề làm bề trên thuộc loại nghề nào?
Nó là một công việc cao quí. Chúng ta thấy như thế qua những người hưởng nhận việc phục vụ của nó. Họ không chỉ là những con người đơn thuần, nhưng là những con người mà Chúa Thánh Thần đã làm nơi họ toàn thể công việc thánh hoá từ lời đáp ơn gọi đầu tiên, và tiếp tục làm việc ấy. Chúng ta nói đào luyện là công việc thường xuyên và tác nhân thứ nhất là Chúa Thánh Thần. Vì vậy chúng ta có trong tay một chất liệu vô giá. Điều này càng được thấy rõ hơn khi chúng ta xét đến các khả năng nhân loại và thiêng liêng được mở ra cho các anh em hội viên chúng ta. Chúng ta đã nhận thấy các khả năng này khi tận mắt nhìn thấy chúng lớn lên, nhất là nếu chúng ta đã ở trong các cộng đoàn đào luyện.
Tôi chợt nhớ đến một cảnh luôn luôn gặp trong hầu hết các phim về các thánh: các cha bề trên hay mẹ bề trên có các vị thánh này trong cộng đoàn mình mà không biết. Tất cả các hội viên nam nữ đều đã được “thánh hoá” một cách tương đối rồi, và đang trên đường trở nên thánh thiện ngày một hơn qua sự thánh hiến, Thánh Thể, qua sự hiện diện của Thánh Thần, và nhiệm vụ bề trên của chúng ta là chăm lo cho những con người ấy.
Nghề này cao quí không chỉ vì những người thừa hưởng việc phục vụ của nó, nhưng còn vì công việc chúng ta được kêu gọi để làm và vì những kết quả nó nhắm tới. Mấy năm trước tôi có dự một khoá đào luyện thường xuyên cho các giám đốc. Nhà chúng tôi ở ngay trước mặt một trại lính. Từ sáng sớm, khi chúng tôi dâng thánh lễ, đã nghe tiếng kèn đánh thức lính dậy và một lát sau đã có tiếng lệnh của các sĩ quan: Nghỉ! Nghiêm! Bước đều, bước! Chúng tôi thậm chí còn trông thấy toán lính trên sân đang cố gắng để thi hành các lệnh như thế.
Giữ trật tự một đội quân cũng là một việc làm có ích cho xã hội. Nhưng chúng tôi bình luận giữa các giám đốc: “Khác biết bao về nội dung và mục đích với điều chúng ta làm! Trong việc sinh động hoá chúng ta tác động trên linh hồn và quả tim, trên tình cảm và các xác tín”.
Tất cả điều này phải giúp chúng ta hành động với lòng tin tưởng cả trong các điều kiện không lý tưởng, ban đầu, bấp bênh. Đây là công việc gieo hạt. Làm phần việc đồng áng mà chúng ta có thể làm. Có khi là công việc vỡ đất khai hoang. Có những người quá bận tâm tới thành công của mình bằng các việc thể hiện có thể kiểm soát và dễ thấy: họ luôn luôn thiếu nhân sự, thiếu thời giờ và phương tiện, nhưng ai quá nhắm đến thành công rốt cuộc sẽ dẫn đến chỗ hi sinh con người. Nhưng các việc thể hiện đáng ao ước nhất của chúng ta phải là sự hiến dâng cho Thiên Chúa các con người, các hội viên của chúng ta, làm “lễ vật thanh sạch và tinh tuyền”.
Để làm như thế cần có khả năng tìm ra các dấu hiệu cứu rỗi, các khả năng phong phú của con người, các cơ hội đến với chúng ta một cách bất ngờ, hay như khoản HL 85 của chúng ta nói, “khám phá ra hoa quả của Thần Khí trong đời sống con người”.
Chúng ta luôn thấy ấn tượng khi đọc trang Phúc Âm tả cảnh Chúa Giêsu, trong khi biết bao người khác có thể làm ngài chú ý vì sự dâng cúng hào phóng của họ, ngài phát hiện ra bà goá bỏ một đồng xu vào hòm tiền dâng cúng.[192] Đôi khi chúng ta quá mải mê tìm kiếm những tài năng lớn hay những cơ hội lớn mà quên phát hiện ra giá trị của cái đã có trong tầm tay của chúng ta.
Có một tu đức chúng ta cần thực hành: tu đức của sự lạc quan, đó là chúng ta hãy để cho hạt giống sự thiện sinh sôi nảy nở và tạo thành nhiều nguồn lực mới, hãy để cho Nước Trời, như một hạt nhỏ bé không những vào thời Chúa Giêsu mà cả hôm nay, trở thành một cây lớn, và như một dúm men làm dậy lên cả nắm bột.
Chúng ta được kêu gọi tổ chức các môi trường mang niềm hi vọng: ở đó niềm hi vọng được cảm thấy không phải nhờ lời nói, mà bởi vì có những thực tại cuốn hút, thuyết phục và làm người ta ước mơ.
Chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”[193]
Từ “phục vụ” là một trong những từ giàu ý nghĩa, mạnh và có ý hướng của Tin Mừng bởi vì nó được Chúa Giêsu ám chỉ về đời sống và cái chết của ngài gần như là định nghĩa chính của nó. Tuy nhiên nó có thể có nguy cơ trở thành nhàm chán và mơ hồ bởi vì chỗ nào cũng nghe thấy nói đến phục vụ: các chính khách thì nói phục vụ đất nước; các người bán hàng thì nói phục vụ khách hàng; rồi còn phục vụ bàn thờ. . .
Quyền bính được nói là “một việc phục vụ” theo đúng nghĩa Tin Mừng mạnh nhất, trở nên giống đời sống và sự chết của Chúa Giêsu.
“Việc phục vụ” này dạy chúng ta trong đời sống rằng:
- Phục vụ là một chiều kích của toàn thể hiện hữu (“Tôi đến để. . .”), không phải một mảng của thời gian và hành động của chúng ta. Nó không chỉ chạm tới các bổn phận, mà cả lối suy nghĩ và lý luận. Phục vụ là một cách hiện hữu. Chúng ta phải luôn tự vấn về chiều sâu này;
- Cung cách phục vụ đối nghịch hẳn với lô gích của việc được người ta phục vụ (“Nhưng. . .”). Muốn dung hoà hai lô gích này quả là chuyện vô ích. Không thể sống với một số cố gắng nhằm phục vụ và một số cố gắng khác nhằm tìm kiếm bản thân. Đối với Tin Mừng, người ích kỷ thì ở đâu cũng ích kỷ, trong đời tư cũng như đời công: là người qui mọi sự về mình;
- Phục vụ có nghĩa là cảm thấy có trách nhiệm về người khác. “Giá chuộc” (“ricupero”) ám chỉ sự liên đới giữa các anh em họ hàng gần. Khi một người anh em gặp khốn quẫn, không thể tỏ ra dửng dưng: điều này liên quan đến chúng ta và chúng ta được kêu gọi để sống như thế;
- Việc phục vụ không chỉ đáp ứng các nhu cầu, nhưng là tiếp nhận con người. “Muôn người” mà Chúa Giêsu hiến mình cho không phải là các “vấn đề”, cũng không phải các “chức năng”; đó là các con người, các khuôn mặt. (Sự “kiên nhẫn của người nhà nông”).
13
hình ảnh Đức MariA của Tin Mừng
trong linh đạo Salêdiêng
- Truyền tin : tiếng gọi và lời đáp
Đoạn tường thuật việc truyền tin cho Đức Maria[194] là một trong những đoạn tuyệt vời nhất của Tin Mừng Luca. Nó thuật lại một sự kiện có thật và đồng thời diễn tả ý nghĩa của sự kiện ấy cho chúng ta và cho lịch sử nhân loại. Nó không chỉ liên quan đến quá khứ, mà còn là chìa khoá để chúng ta hiểu hiện tại. Tin Mừng thực ra không chỉ là lịch sử, mà luôn luôn còn là một lời loan báo.
Tường thuật được xây dựng với những lời Kinh Thánh khêu gợi lại các niềm hi vọng xa xưa, diễn tả các niềm mong đợi hiện tại và thể hiện trước các giấc mơ về sự cứu rỗi của con người. Đức Maria, đại diện cho nhân loại, cảm nghiệm nơi mình mọi điều ấy và được kêu gọi đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa để thể hiện điều ấy.
“Mừng vui lên”: là một lời chào được các ngôn sứ dùng khi nói với Thiếu nữ Sion. Đây không phải là một lời chào thông dụng như khi chúng ta chào hỏi nhau hằng ngày. Nhưng nó nói lên một sự chú ý đặc biệt, cái nhìn yêu thương, ý muốn nhân hậu của Thiên Chúa đối với một người và nó mang một bằng chứng có thể kiểm chứng sau đó về điều ấy. Nó loan báo một sự lựa chọn tạo nên một hạnh phúc vô bờ. “Mừng vui lên! Người thật có phước vô cùng”.
“Đức Chúa ở cùng người”,[195] thường gặp khi Thiên Chúa kêu gọi ai thi hành một sứ mạng; nó được lặp lại trong trường thuật về các ơn gọi sẽ đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng cho ơn cứu độ. Nó cho thấy rằng sự chú ý và cái nhìn của Thiên Chúa được diễn tả bằng sự hiện diện, trợ giúp, đồng hành, và giao ước.
“Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”,[196] là thành ngữ được nói cho bà Sara, vợ ông Abraham, khi bà tuyệt vọng vì không thể sinh nở, ở khởi điểm của việc sinh ra các tín hữu. Nó diễn tả quyết định can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử con người vì lợi ích của họ, vượt qua mọi giới hạn của tự nhiên hay của tự do con người. Và việc thực hiện sự can thiệp này qua một ít người mà ngài đã chọn. Thiên Chúa có thể cứu rỗi, Bonhoffer nói, bằng Kinh Thánh hay bằng một con chó chết. Các dụng cụ là thứ yếu.
Chúng ta đứng trước lời loan báo một biến cố có tầm quan trọng đặc biệt cho nhân loại. Chúng ta đứng trước một “ơn gọi”, một “tiếng gọi”, và đứng trước lời đáp của một người nữ đã phải trở thành dụng cụ và sự trung gian nhân loại của biến cố ấy.
Người nữ này vì thế được mời gọi, trước hết, để tin rằng biến cố này có thể xảy ra và cũng tin vào chính mình (và đây là điều còn khó hơn!); rồi được mời gọi để dấn thân và sau đó nữa để trung thành hợp tạc suốt đời mình. Tuy nhiên tất cả điều này là một sự phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Trong sự kiện Truyền tin, có một hình ảnh của Thiên Chúa. Một bộ phim tranh luận đã tìm cách khai thác hình ảnh này. Đây là một Thiên Chúa “cá vị” theo dõi lịch sử của con người và cứu độ con người bằng tình yêu của ngài thông qua các can thiệp có thể nhận biết được. Sẽ thú vị để xem liệu cả chúng ta cũng có một hình ảnh nào đó về Thiên Chúa, được hình thành qua cuộc đối thoại ơn gọi và xem liệu nó có giống với hình ảnh của biến cố truyền tin hay không. Hay chúng ta chẳng có một hình ảnh nào hết!
Thiên Chúa sai một thiên sứ: nghĩa là ngài liên lạc với chúng ta và cho chúng ta biết các ý định của ngài, không chỉ hay có lẽ không chủ yếu trong những thời điểm trang trọng hay một cách phi thường, nhưng trong đời sống bình thường: việc truyền tin xảy ra ở Nadarét, trong một căn nhà riêng, cho một thiếu nữ đã đính hôn, có kinh nghiệm nhân loại về tình yêu, gia đình, và trách nhiệm.
Chúng ta cũng cảm nghiệm Thiên Chúa nơi bản thân chúng ta trong cuộc sống thường ngày và trong việc chu toàn các bổn phận. Khi nhìn thấy các thiếu niên thiếu nữ xung quanh chúng ta, chúng ta phải nghĩ rằng một sự truyền thông với Thiên Chúa đang diễn ra trong tâm hồn các em. Thiên Chúa không chỉ tự truyền thông, ngài còn đợi chúng ta nghe ngài và đáp lại lời ngài.
Thiên Chúa có quyền năng mầu nhiệm làm cho trở thành phong nhiêu cái mà dưới con mắt nhân loại là cằn cỗi, giới hạn hay hư mất. Và đó là một sự phong nhiêu không phải tầm thường, nhưng quí giá, từ đó phát sinh các con cái Thiên Chúa.
Đây là một lời mời gọi xét lại niềm tin của chúng ta vào tác động và sức mạnh của Thánh Thần. Chính vì một trinh nữ mà có thể thụ thai một người con, thì cũng vậy, thế giới của chúng ta tuy có vẻ cằn cỗi, cũng được Thánh Thần làm cho trở thành phong nhiêu, có những khả năng mà chúng ta không dám mơ tưởng tới.
Các nghệ sĩ, nhất là các hoạ sĩ, tỏ ra rất thích cảnh truyền tin này. Họ luôn luôn đưa nó vào khi họ trình bày về lịch sử cứu độ. Nhiều hoạ sĩ còn vẽ cảnh này thành khung lớn và riêng biệt. Đứng trước kiệt tác của họ, cũng như đứng trước trang Tin Mừng này, chúng ta thấy ngây ngất và suy tư.
Có lẽ chúng ta cũng thích tìm hiểu tâm hồn của Đức Maria qua các nét vẽ của dung mạo và phong thái của Mẹ, được các nghệ sĩ trau chuốt một cách kỹ lưỡng qua các tác phẩm của họ, để thấy được điều gì đó ngoài những lời nói và khung cảnh bên ngoài: chung ta hiểu rằng điều quan trọng nhất và mầu nhiệm nhất đã xảy ra trong tâm hồn của Maria, một thiếu nữ khoảng 13 đến 15 tuổi.
Cuộc nói chuyện giữa Đức Mẹ và Thiên sứ là một sự mặc khải, một thị kiến, một sự nghe thấu hay chỉ là một cảm hứng nội tâm, đã diễn ra một cách riêng tư và thầm kín. Chắc chắn nó là sự chú ý đến chính đời sống của ngài, việc chăm chú lắng nghe để phân định ý Chúa; nó là sự đối thoại tin tưởng với Thiên Chúa về số phận của mình; nó là sự sẵn sàng vâng theo đề nghị của Thiên Chúa; là sự phó thác mình cho Thiên Chúa để thể hiện điều Người yêu cầu vào lúc này, để thể hiện các giai đoạn trung gian và kết quả cuối cùng.
Mỗi cuộc đời chúng ta đều có một cuộc truyền tin, có khi là nhiều và liên kết với nhau: nó đề nghị một điều mới mẻ, cho một ánh sáng để hiểu và nó mời gọi chúng ta mở ra cho một niềm hi vọng.
Truyền tin chính là ơn gọi của chúng ta. Truyền tin chính là nguồn gợi hứng cho việc tuyên khấn của chúng ta. Truyền tin chính là tiếng gọi lãnh các trách nhiệm trong đó chúng ta cần phải phó thác cho Thiên Chúa và tin tưởng chờ đợi tương lai. Nguyên tắc, điều kiện, và tiêu chuẩn của mỗi hành trình thiêng liêng là: đón nhận, phó thác, khởi hành.
Truyền tin nhắc nhở chúng ta rằng lời đáp của chúng ta cho Thiên Chúa, một cách ngoan ngoãn, tin tưởng và liên tục, là một lời đáp cá nhân. Không có gì người nam hay người nữ tạo ra mà không được suy nghĩ và chín muồi nơi nội tâm. Các tư tưởng, tình cảm, ước muốn, kế hoạch, biến cố được triển khai trong tâm hồn chúng ta. Ở đây có thánh điện của Thiên Chúa. Từ thánh điện này Đức Maria tuyên bố dự định sống trinh khiết, sẵn sàng phục vụ, và tin tưởng phó thác.
Chính trong tâm hồn của Mẹ, ân sủng và Thánh Thần hoạt động để làm cho Đức Maria trở thành Mẹ của Ngôi Lời. Ngôi Lời được thụ tai trong tâm hồn trước trước khi được thụ thai trong dạ Mẹ. Thật đẹp bức tranh mô tả cảnh truyền tin với Đức Maria như đang chăm chú đọc quyển Kinh Thánh đặt trên đầu gối. Trong thái độ trầm ngâm thanh thản, Mẹ đang đắm chìm trong Lời Chúa. Từ khuôn mặt Mẹ chúng ta thấy được Mẹ đang đón nhận và say mê Lời.
Đời hoạt động của chúng ta, dù là thánh hiến hay giáo dân, đều mang một sự căng thẳng: mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa, nói lên một sự chăm chú, đối thoại, đón nhận một cách âu yếm và hài lòng Chúa; và mặt khác, là sự lo lắng về các kết quả hoạt động của chúng ta. Khía cạnh thứ hai này thách thức chúng ta và thường cám dỗ chúng ta. Chúng ta luôn luôn muốn làm nhiều hơn; và từng chút một, thái độ này dần dần khiến chúng ta đặt sự tin tưởng của mình vào các phương tiện và các hoạt động, khiến cho cuối cùng nó làm chúng ta trở nên trống rỗng, không còn nối kết chúng liên tục với điểm xuất phát mà từ đó chúng phải rút ra nguồn sức lực và ý nghĩa: lời Thiên Chúa mời gọi cộng tác với ngài.
Đức Maria thụ thai nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Người không chỉ ban cho Chúa Giêsu thân xác, mà cả bản tính con người. Nếu sự nhập thể phải là hiện thực, thì một cách tất yếu Đức Giêsu phải được truyền sang từ Mẹ ngài các đặc điểm thể lý, điệu bộ, có thể cả giọng nói và cung điệu trầm bổng của tiếng nói; nhưng ngài cũng được di truyền cả lối suy nghĩ và phản ứng trước các con người, các vấn đề và các sự vật. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu, các bà mẹ trẻ, bạn của Đức Maria, chắc đã phải thốt lên, “thằng bé giống mẹ nó như đúc”.
Và chúng ta biết Chúa Giêsu lớn lên về tuổi tác, khôn ngoan và ân sủng. Khi công bố sứ mạng của ngài, ngài khẳng định ngài tự do về cách diễn tả và hành động của ngài, cả đối với các qui tắc, tập tục và gia đình.
Bởi vì hẳn Đức Mẹ có thể truyền sang cho ngài một nhân tính có khả năng đón nhận và diễn tả ngôi vị Thiên Chúa, nên Chúa Thánh Thần đã phải hoạt động trong tư tưởng của ngài, trong ý chí, tình cảm, dự định, các quan hệ của ngài, và làm cho tất cả những điều ấy hoàn toàn mở rộng ra cho Thiên Chúa và tràn đầy Thiên Chúa.
Không những thế: Chúa Thánh Thần đã làm cho các đặc điểm và thái độ của Đức Maria trở thành cao quí, nghĩa là có khả năng biểu lộ cách tốt nhất bản tính con người về lòng chính trực, nhân hậu, nghị lực, công bằng, các lời nói và cử chỉ đẹp, và sự chân thật. Trong thực tế, các môn đệ và dân chúng đã nhìn nhận và tuyên xưng thiên tính của Đức Kitô qua nhân tính của ngài.
Như thế Đức Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu theo nghĩa từng được hiểu hôm qua và vẫn còn được hiểu hôm nay về người mẹ: không phải một cái lồng kính hay một sự thụ thai mướn, mà là Mẹ đích thực, người mẹ thụ thai và sinh con bằng cách truyền sang cho con bản tính của chính mình.
Chúa Thánh Thần không tác động một cách cưỡng bức hay máy móc; nhưng bằng sự gợi ý, đối thoại bên trong, và sự soi sáng: ngài dành tất cả thời gian cần thiết và nhịp độ của loài người để làm ra một tác phẩm hoàn hảo và phối hợp tuyệt vời.
Đây cũng là chặng đường và lịch sử của chúng ta: cảm thấy trong tâm hồn mình tiếng gọi của Thiên Chúa, để mình trước tiên thụ thai trong tâm hồn bởi Chúa Thánh Thần, và rồi hình thành trong cuộc đời và sinh sản ra các hoa trái tông đồ.
- thăm viếng: một việc phục vụ quảng đại
Việc Đức Mẹ đi thăm bà chị Elidabét[197] có vẻ là một sự kiện của đời sống thường ngày: một nghĩa cử của tình liên đới và sự tế nhị của phái nữ thuộc mọi thời đại. Đức Maria lên đường để cống hiến việc phục vụ mà một phụ nữ trẻ có thể làm cho một người chị họ đã lớn tuổi đang đợi ngày sinh con.
Việc ra đi mau mắn, cuộc hành trình dài, sự giúp đỡ ân cần và thân tình, là những cử chỉ mà Hội Thánh đã giữ lại trong ký ức và cống hiến làm mẫu mực. Thánh Phanxicô Salê đã lấy việc Thăm viếng làm biểu tượng cho Dòng ngài sáng lập: một lòng bác ái ra đi để gặp gỡ, vào trong nhà và giúp đỡ với sự chăm sóc ân cần.
Trong các cuộc gặp gỡ như thế này, các bà mẹ tương lai thường nói về các niềm mong đợi của mình, các nỗi lo sợ và các ước mơ thầm kín của mình. Đức Maria và bà Elidabét hẳn phải có biết bao chuyện để kể cho nhau! Một người qua kinh nghiệm độc đáo trong việc mình được mang thai, người kia qua sự chờ đợi lâu năm để có một đứa con.
Một bức tranh ý vị về tình người đậm đà mà các văn sĩ và hoạ sĩ từng cho chúng ta thưởng thức, bằng cách thêm thắt vào các chi tiết thơ mộng của khung cảnh gia đình để làm chúng ta thêm thích thú.
Tất cả điều này không phải là chuyện tầm thường trong kinh nghiệm của Đức Maria và trong linh đạo của chúng ta. Các tính chất gia đình và dân gian này giúp gột sạch khỏi hình ảnh của Mẹ Chúa Giêsu các tình tiết phi phàm và thần tiên phát sinh bởi sự thêu dệt của trí tưởng tượng, rất xa với tường thuật của Tin Mừng.
Đây cũng là một chỉ dẫn cho chúng ta: ơn gọi đưa chúng ta đi vào đời sống của dân chúng theo các nhu cầu và đòi hỏi của họ, cả những đòi hỏi sơ đẳng và tự nhiên, được nhìn dưới một ánh sáng mới: tình yêu, việc phục vụ, sự cảm thông.
Nhưng nếu dừng lại ở những điều này, chúng ta sẽ không đạt tới được ý nghĩa trọng tâm của biến cố này. Cuộc thăm viếng được thuật lại như một mặc khải, một sự can thiệp của Thiên Chúa thông báo cho chúng ta tin vui về sự hiện diện của ngài giữa loài người và hoàn thành lời hứa giao ước của ngài thông qua việc thụ thai Đấng Cứu Thế trong lòng dạ của Đức Maria.
Điều vốn là một bí mật của Đức Maria, thì được nhận ra bởi những người từng chờ đợi điều bí mật ấy, mà đại diện là bà Elidabét, tư tế Dacaria, và thánh Gioan Tiền Hô. Tin tức lan ra khắp vùng và sẽ được công bố trên toàn thế giới qua sứ điệp của các thiên thần và sự mặc khải cho ba nhà đạo sĩ. Mọi sự bắt đầu và diễn ra với và qua sự hiện diện của Đức Maria, luôn luôn và trong mọi chặng đường là hình ảnh của Hội Thánh.
Đức ái và phục vụ luôn luôn đem đến cho con người một tin vui, cho dù nó có kèm theo một lời diễn giải “tu trì” hay không.
Các sự kiện và nhân vật của Cựu Ước xuất hiện trong biến cố này giúp chúng ta đọc ra ý nghĩa của nó. Đức Maria được mô tả như Hòm Bia Giao Ước, khi vua Đavít đưa Hòm Bia ra khỏi đất Philitinh để long trọng rước về Giêrusalem. Lời bà Elidabét nói với Đức Maria mô phỏng lại câu nói của vua Đavít: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?”[198] Niềm hân hoan trong gia đình ông Dacaria nhắc nhớ lại sự hớn hở đã khiến vua như thể điên cuồng nhảy cỡn lên trước Hòm Bia và lễ hội của dân chúng khi Đức Chúa ngự đến.
Bây giờ sự hiện diện của Thiên Chúa không còn được tỏ lộ bằng các dấu hiệu nữa, mà là đích thân ngài đến. Ngài đã làm người. Con người chứa đựng ngài và mang ngài không còn là một nhà tạm, một lều trại hay một đền thờ vật chất: người ấy là nhân tính, đặc biệt là nhân tính của kẻ tin, Hội Thánh, hiện thân nơi Đức Maria. Từ nay nhà ở của Thiên Chúa trên trái đất không còn xây bằng vàng, gỗ hay đá nữa, mà bằng đức tin, đức cậy, và đức mến. Thiên chức làm mẹ được ca tụng không phải là thiên chức làm mẹ thể lý, mà là thiên chức làm mẹ phát xuất từ đức tin: “Em thật có phúc vì đã tin!”[199]
Tất cả các yếu tố khác của bức tranh đều được xây dựng xung quanh tâm điểm chú ý này, là việc Thiên Chúa cứu độ đến giữa loài người. Nhân loại nhảy mừng nơi Gioan Tẩy Giả, người sẽ là nhân chứng gần nhất cho việc Đức Kitô tỏ mình ra. Khi một thai nhi nhảy trong lòng mẹ, các bà đỡ thời xưa nói, đó là nó là một mộng báo, tiên báo, điềm báo. Niềm vui này của Gioan trong lòng mẹ được tỏ lộ trước khi đứa bé tỏ lộ trí khôn của mình. Vì vậy đó là tiếng nói của tinh thần trong lòng dạ của nhân loại để diễn tả nỗi khát vọng sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bà già Elidabét là biểu tượng cho sự kết thúc của một thời kỳ sống trong sự tàn tạ: thế nhưng nó không kết thúc bằng cái chết. Chúa đã cho bà được nhìn thấy bình minh của một thời đại mới.
Tin Mừng còn đưa chúng ta đến với một viễn tượng thứ ba: sự kiện này sẽ thay đổi đời sống loài người như thế nào. “Magnificat” là bài thánh ca được Đức Maria thu thập từ kinh nghiệm sống của chính mình và tung ra cho mọi thế hệ. Nó hoàn toàn không phải một bài thơ cấu trúc để kết một tường thuật. Ngược lại, nó là một “kinh tin kính”, một lời tuyên tín cá nhân của Đức Maria, hiện thân của toàn thể dân tộc thiên sai; và Đức Maria trở thành tiếng nói và quả tim của dân tộc này. Đây là bài thánh thi của nhân loại có lòng tin thuộc mọi thời đại.
Đức Maria không cắt nghĩa bằng lý trí về Thiên Chúa, nhưng chiêm ngắm các công trình cứu độ của ngài trong lịch sử loài người, bắt đầu bằng việc thụ thai đồng trinh của mình và bằng việc truyền tin cuộc Giáng sinh của Đấng Cứu Thế: “Ngài đã làm cho tôi những điều vĩ đại”.
Ngày nay Thiên Chúa can thiệp dưới hình thức hiệu quả bất ngờ và làm phát sinh một thế giới mới, trong đó các kế hoạch quen thuộc của lịch sử trần gian bị đảo lộn: những con người có giá trị đối với Thiên Chúa, những con người thúc đẩy cho kế hoạch của công lý tiến tới, không phải là những kẻ kiêu ngạo hay quyền thế, mà là những người khiêm tốn, những người đói khát, những người cảm thấy cần đến Thiên Chúa và cần đến người khác.
Đây chính là mầu nhiệm niềm vui của cuộc Thăm Viếng.
Hội Thánh sống lại mầu nhiệm này như một sự kiện được biến thành hiện thực hôm nay trong cộng đồng Hội Thánh và trong tất cả những ai mong đợi, tìm kiếm hay đã đón nhận Đức Kitô.
Đức Maria lên đường mà không hề biết về biến cố sẽ có thể nổ ra trong nhà của bà Elidabét. Cuộc lên đường này bề ngoài tưởng như là một sự kiện tình cờ, thực ra là sự linh hứng của Thiên Chúa để chuẩn bị cuộc tỏ hiện của ngài. Đức ái dọn đường cho sự tỏ hiện của Thiên Chúa, diễn tả và soi sáng về sự tỏ hiện ấy: nó là sự chuẩn bị, là con đường, dấu hiệu và hiệu quả của việc truyền tin. Nó được Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta và làm chúng ta sẵn sàng để phục vụ người khác theo các nhu cầu cấp bách của con người: bằng việc từ thiện, giúp đỡ, giáo dục, và dẫn đưa người khác đến với Thiên Chúa.
- chúa giêsu giáng sinh
Chúng ta đã quen nghe tường thuật việc Chúa Giêsu sinh ra[200] trong bầu khí Giáng Sinh. Thánh Luca đã viết bài tường thuật này từ hồi còn chưa có các máng cỏ. Và có thể ngài đã không hình dung trước được rằng các con cừu, bò, lừa, các túp lều cỏ, các ánh đèn, và các ngôi sao sẽ có thể làm người ta giảm sự chú ý đến ba nhân vật chính—Chúa Giêsu, Đức Mẹ, và các mục đồng—mà xung quanh những nhân vật này ngài đã xây dựng bài suy niệm của ngài.
Đức Maria trong Tin Mừng không chỉ được gọi là Mẹ Chúa Giêsu, ngài còn luôn luôn tượng trưng cho Con Gái Sion, nghĩa là Dân Tuyển Chọn sinh ra đấng Mêsia trong lịch sử nhân loại. Mẹ cũng là hình ảnh của Hội Thánh mang Chúa Giêsu trong lòng mình, sinh ra Chúa Giêsu trong dân, giúp ngài lớn lên cho tới khi trở thành hữu hình qua đời sống và chứng tá của các cộng đoàn. Đức Mẹ là mẫu người Kitô hữu được đề nghị cho các môn đệ Chúa Giêsu noi theo.
Bản văn giới thiệu lúc nhập thể. Thánh Luca muốn diễn tả ý tưởng đây là một sự sinh ra đích thực của một con người thực sự: vì vậy ngài ghi lại ngày tháng, thời đại lịch sử, nơi và hoàn cảnh sinh ra Chúa Giêsu, và sự chăm sóc của Bà Mẹ.
Đây là một sự kiện bề ngoài có vẻ tầm thường, xảy ra tại một đất nước nhỏ bé, không phải ở trong trung tâm nhưng ở vùng phụ cận của một thành phố không có tiếng tăm gì, xa các khung cảnh thường xảy ra các biến cố quan trọng và các quyết định ảnh hưởng đến dân chúng. Bêlem là phản diện của Rôma, Giêrusalem hay Babylon. Hang đá là phản đề của một hoàng cung, một đền thờ hay một cung điện.
Và như thế sự kiện này lẽ ra sẽ mãi mãi bị che giấu và vô nghĩa. Thế nhưng lời loan báo của các sứ thần đã biến nó trở thành “tin vui” cho các mục đồng là những người không chỉ nghe thuật về sự việc xảy ra, mà còn được nghe lời giải thích cứu độ của sự kiện: thơ nhi vừa sinh ra không phải một con người bất kỳ nào; ngài là niềm mong đợi, là Đấng Cứu Thế.
Các mục đồng, biểu tượng của tất cả những ai mong đợi và được Thiên Chúa thúc đẩy trong tâm hồn, vội chạy đến hang và tại đây họ nhận được sự xác nhận về lời loan báo của các thiên sứ. Sau đó tin vui lan truyền đi khắp nơi.
Luca đã mô tả lại bản chất của việc loan báo Tin Mừng như thế. Nó không phải một lý thuyết về Thiên Chúa và thế giới, nó cũng không chỉ dạy các chân lý tôn giáo và đạo đức, nhưng nó nói về các biến cố thực sự đã xảy ra, bằng cách làm sáng tỏ ý nghĩa của các biến cố này đối với con người và sứ điệp mà chúng chứa đựng. Anh sáng toả ra từ lời loan báo là ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng được chứa đựng và mặc khải trong các sự kiện của lịch sử nhân loại.
Chính ở đây Luca nhấn mạnh sự khác biệt về hiểu biết mà các nhân vật khác nhau hiểu về biến cố nhập thể và về ý nghĩa của nó, và đây chính là chìa khoá để sống đức tin trước mọi biến cố khác của đời sống cá nhân và xã hội.
Các mục đồng hẳn đã phải ở tại nơi xảy ra việc nhập thể và là nơi họ có thể làm chứng một cách trực tiếp. Họ dừng lại một chút và nghe Đức Maria nói. Rồi họ trở về và kể lại tất cả những gì họ đã được nghe nói về hài nhi. Họ không đích thân kinh nghiệm các sự kiện xảy ra trước đó, như việc truyền tin và việc sinh con đồng trinh, và họ cũng không được chứng kiến sự hiển linh của Chúa Giêsu.
Dân chúng thì kinh ngạc trước tất cả các điều mà các mục đồng thuật lại. Họ chưa biểu lộ đức tin, nhưng chỉ mới sẵn sàng để có những sự quan tâm bước đầu, sự tò mò về điều lạ lùng có thể dẫn đến đức tin.
”Riêng Đức Maria thì ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy gẫm trong lòng.”[201] Đức Maria không cần đi đến nơi xảy ra việc nhập thể, giống như các mục đồng, vì Mẹ đã đang ở đó rồi, đang tham dự vào biến cố. Ngài không cần nghe người khác kể lại các sự việc diễn ra làm sao và chúng có ý nghĩa gì. Ngài đã ghi nhớ tất cả các lời hứa cho nhân loại, như được chứng minh trong bài Magnificat, và ngài biết rõ rằng con người lớn lên trong lòng ngài là bởi Chúa Thánh Thần.
Khi đã nhìn thấy hài nhi, Đức Maria không đi khỏi nơi xảy ra biến cố như các mục đồng. Ngài ở lại. Ngài không thể rời xa chỗ ấy. Ở đâu Đức Giêsu nhập thể, thì ở đó phải có Mẹ. Mẹ chưa hiểu được hết các ý nghĩa của biến cố, cũng không thể kể ra tất cả nguồn sức mạnh phát sinh từ việc nhập thể.
Các ý nghĩa và sức mạnh của biến cố được tỏ lộ dần dần trong cuộc đời Chúa Kitô và trải qua các thế kỷ. Nhưng Đức Mẹ ghi nhớ biến cố trong lòng, trìu mến nó, suy gẫm về nó, chăm chú để ý và thỉnh thoảng suy nghĩ lại về nó để rút ra những hệ quả mới của nó.
Đức Maria là hình ảnh của Hội Thánh và của mối tương quan của Hội Thánh với việc sinh ra và lớn lên của Chúa Kitô trong thế giới và nơi mỗi một dân tộc. Cả Hội Thánh cũng tham dự vào biến cố nhập thể và ở lại bất cứ đâu mà Đức Kitô được rao giảng và trở thành tin vui. Cả Hội Thánh cũng chưa biết hết mọi điều mà thời gian sẽ tỏ lộ về Đức Kitô. Nhưng Hội Thánh có trong lòng mình và trong ký ức mình một biến cố soi sáng cho Hội Thánh: Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thành người. Về Chúa Giêsu, Hội Thánh thấy được một ít điều còn một số điều khác thì mới chỉ thoáng thấy, hiểu được một ít điều còn một số điều khác thì còn lờ mờ, bởi vì còn phải được mặc khải. Điều này có ích để Hội Thánh luôn vui mừng trong tâm hồn, để luôn luôn thanh thản, luôn luôn lao động, và đi đúng hướng. Đồng thời Hội Thánh không rời xa Đức Kitô, nhưng luôn qui chiếu về ngài, làm chứng về ngài, và loan báo về ngài.
Đó là bài suy niệm của thánh Luca. Nó cũng có thể gợi ý cho chúng ta một ít điểm suy niệm về linh đạo mục vụ của chúng ta.
Chúng ta không thể chỉ là những khách đến chơi, những du khách của Lời Chúa và của mầu nhiệm Đức Kitô. Thánh Augustinô khi so sánh ba thái độ chúng ta vừa kể trên, đã hỏi người Kitô hữu: Bạn giống ai? Giống những người được nghe lời loan báo và chỉ cảm thấy kinh ngạc? Giống những mục đồng đi đến hang, lấy một ít thông tin rồi ra đi loan báo, hay giống Đức Maria đón nhận tất cả chân lý về Đức Kitô, ghi tạc và suy đi gẫm lại trong lòng? Sự kinh ngạc của hạng người thứ nhất sẽ mau tan biến; thông tin của các mục đồng, tuy giúp dẫn đến đức tin, song còn là bất toàn và mới chỉ là mầm mống. Chỉ người nào suy gẫm và đưa mầu nhiệm Đức Kitô vào trong nội tâm mới có thể lấy được từ đó ánh sáng và ý nghĩa cho các thời đại và các dân tộc.
Lịch sử Hội Thánh ghi lại nhiều khuôn mặt rao giảng Tin Mừng lỗi lạc. Tất cả họ đều là những “nhà suy niệm” Lời Chúa kiên trì. Điều họ đã đào sâu trong kinh nguyện và học hỏi thì họ đem diễn tả qua việc giảng dạy, viết sách, dẫn dắt các cộng đoàn Kitô hữu, và hướng dẫn các linh hồn.
Thông truyền biến cố Đức Kitô là nghề chuyên môn và mục đích của ơn gọi chúng ta. Chúng ta phải là những chuyên gia của công việc này không chỉ bằng việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật, nhưng là vì chúng ta tiếp cận nó với sự bình thản và thư thái, tìm ra từ đó ánh sáng cho đời sống cá nhân chúng ta, cùng với cộng thể đối chiếu nó với điều chúng ta quan sát trong môi trường sống của mình: đây gọi là chiều kích nội tâm.
Sự nhập thể, nghĩa là sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong đời sống con người thông qua Đức Giêsu, không chỉ là đối tượng suy niệm của chúng ta, mà còn phải là tiêu chuẩn mục vụ của chúng ta.
Cần có ba điều này:
— sự sẵn sàng của chúng ta để hấp thu nhanh nhạy thực tại mà chúng ta phải rao giảng Tin Mừng, bằng cách hoà nhập vào với dân chúng mà chúng ta được sai đến và hiểu biết văn hoá của họ qua lăng kính đức tin;
— sự xác tín rằng trong tất cả những gì phát triển xét theo quan điểm nhân loại thì đều có một sự hiện diện và hoạt động nhiệm mầu của Thiên Chúa và mọi mặc khải của Thiên Chúa đều tạo ra một sự phát triển nơi nhân loại;
— sự cố gắng để khám phá ra những mong đợi và những đòi hỏi của các cá nhân và các dân tộc, đối với chúng ta đặc biệt là các đòi hỏi của giới trẻ, những con người luôn khát vọng về Đấng Cứu Thế.
- tiệc cưới ở cana: Đức Kitô, chìa khóa đời sống
“Đức Giêsu đã tỏ lộ vinh quang của ngài, và các môn đệ đã tin vào ngài.”[202] Thánh Gioan đã kết thúc câu truyện về tiệc cưới ở Cana như thế. Cả thánh Gioan lẫn Phụng vụ đều đặt tiệc cưới này vào trong khung cảnh của các lần tỏ lộ chính yếu của Chúa Giêsu: lần thứ nhất cho Ba Vua, rồi lúc Chúa chịu Phép Rửa, và bây giờ ở tiệc cưới Cana.
Tuy nhiên sự tỏ lộ lần này có một tính chất đặc thù so với hai lần trước. Nó không diễn ra trong một khung cảnh lạ lùng hay một dịp lễ tôn giáo, như vào lúc giáng sinh hay chịu phép rửa. Không có các chứng nhân từ trời: không có các thiên sứ, các ngôi sao, các bản thánh ca huyền bí hay tiếng nói từ trời phán ra. Cũng không có các nhà rao giảng hay các vị ngôn sứ.
Nó xảy ra trong một bữa tiệc gia đình, một bối cảnh lễ lạc dân gian, giữa lòng một sự kiện vui mừng trong cuộc đời: tình yêu giữa đôi trai gái, với niềm khao khát hạnh phúc, với lời hứa chung thuỷ, ý muốn hay bản năng nối dòng qua việc sinh con cái, với đông đủ bà con và làng xóm tham dự vui vẻ: một bữa tiệc mà người ta cố gắng hết sức để làm vừa lòng các khách dự tiệc.
Nguyên điều này cũng đã gợi ra cho chúng ta một tư tưởng: Đức Giêsu, là Thiên Chúa, chắc chắn tự tỏ lộ cho chúng ta vào những lúc thờ phượng và cầu nguyện, nhưng không chỉ những lúc ấy: ngài còn hiện diện trong mọi kinh nghiệm đích thực của đời sống chúng ta, vui cũng như buồn. Cùng với tiệc cưới Cana, chúng ta còn có thể kể đến kinh nghiệm về tình bạn, lao động, hay cố gắng thể hiện một điều gì.
Sở dĩ như thế là vì Ngôi Lời đã làm người: ngài đã đi vào giữa lòng các kinh nghiệm của chúng ta, bằng cách hấp thụ các kinh nghiệm ấy và tự mình trở nên người dự phần và liên đới với các kinh nghiệm ấy. Chúa Giêsu hiện diện trong các dịp vui của chúng ta cũng như trong các hoàn cảnh đau buồn của cuộc sống chúng ta. Tình yêu được giới thiệu trong tiệc cưới Cana là kin nghiệm nhân loại chính yếu và trở thành nguyên mẫu của mọi kinh nghiệm khác.
Chúng ta có một hướng dẫn cho Hội Thánh và cho từng Kitô hữu: tỏ tình liên đới và chia sẻ những niềm vui và hi vọng của đồng loại; không tránh né nhưng gánh lấy những mối quan tâm và lo lắng; và không phải như những “người tò mò” hay tìm tòi, nhưng “cảm thông” và “chung vui với” họ, chia sẻ với họ.
Trong đám cưới xảy ra một sự kiện: thiếu rượu. Niềm vui sắp tàn; khách khứa sắp giải tán. Các thứ mà chủ tiệc đã chuẩn bị với tất cả sự tính toán kỹ lưỡng và phòng xa cho bữa tiệc, bây giờ hỏng cả.
Trong kinh nghiệm đời sống của chúng ta cũng thường xảy ra chuyện này. Mỗi niềm vui hay công việc của con người, nếu chỉ dựa vào những tính toán tự nhiên và sức lực của con người, thường dễ bị thất bại. Tới một lúc nào đó người ta trở nên cạn kiệt và không còn có gì để cho: điều này xảy ra với tình yêu. Anh chị em hãy nghĩ đến các đôi tình nhân say đắm lúc ban đầu nhưng rồi trở nên trống rỗng, và các cặp vợ chồng tuy đã bắt đầu mối quan hệ với đầy chân tình và thiện chí, nhưng cuối cùng không còn tìm thấy cả động lực lẫn niềm ham thích nào để chung sống với nhau.
Điều này cũng xảy ra đối với những ý hướng quảng đại và tình liên đới. Chúng ta thường cảnh giác các thanh thiếu niên về nguy cơ này khi thấy chúng tự nhiên rất quảng đại nhưng không ý thức được đâu là nguồn mạch trường cửu của lòng quảng đại.
Trong tường thuật về tiệc cưới, có một chi tiết thú vị: Chúa Giêsu cũng đến dự cùng các môn đệ ngài, nhưng “trà trộn” giữa đám đông và gần như bị “chìm”, “không ai biết”, “vô danh”.
Ngài không lộ diện: ngài không được giới thiệu như một khách quí, và hoàn toàn không có vẻ gì là một linh hoạt viên của đám tiệc hay tâm điểm của các mối quan hệ.
Vì vậy ngài là một người giữa bao người khác: không ai nghĩ ngài như một nhân vật chủ chốt, cũng không ai yêu cầu ngài giúp gỡ rối cho nhà đám. Cần có một ai đó đã từng biết ngài, kéo ngài ra khỏi tình trạng vô danh, xác định ngài như là người có thể gỡ rối một đám tiệc đang có nguy cơ thất bại.
Đúng lúc ấy xuất hiện khuôn mặt vô cùng khả ái dịu dàng của Đức Maria, hình ảnh của Hội Thánh và của tất cả chúng ta. Điều này được ghi lại bằng một chi tiết, không phải chỉ có tính chất tường thuật, mà còn mang nghĩa biểu tượng và ẩn dụ, đó là sự kiện Đức Giêsu ở đó “cùng với các môn đệ ngài”.
Mẹ là người đầu tiên nhận ra tình thế, trước cả Chúa Giêsu. Mẹ hầu như do bản năng cảm nhận được ngay những hoàn cảnh của con người. Mẹ đã không cần giả thiết các hoàn cảnh ấy: chính mẹ đã sinh ra và đã sống trong thân phận con người như chúng ta. Mẹ không phải một thần linh nhập thể; Mẹ là một tạo vật nhân loại, sinh ra và sống trong các điều kiện chung của loài người.
Đức Maria không phê phán những những người đã tính toán sai; Mẹ không đưa ra những lời bình luận của “chuyên gia” về ẩm thực và các bữa tiệc gia đình, và Mẹ cũng không đưa ra các giải pháp kỹ thuật như phải làm thế nào và có thể tìm ra giải pháp ở đâu.
Mẹ thấy vấn đề và tìm đến với Chúa Giêsu. Trước lời đáp của Chúa Giêsu rằng ngài không muốn lệ thuộc các sợi dây ràng buộc máu mủ, Mẹ chơi một ván bài khác: đức tin của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.[203]
Cả trong trường hợp này cũng có một chỉ dẫn về điều mà Hội Thánh và người Kitô hữu chúng ta có một cách chuyên biệt và quyết định trong niềm vui của cuộc sống, cách riêng đối với chúng ta là những con người thánh hiến: đó là ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa, kinh nghiệm về Đức Kitô, lòng tin cậy vào trái tim và quyền năng của ngài.
Đây cũng là một hướng dẫn cho cách hành động của chúng ta, không phải bằng sự than trách thân phận đáng buồn của con người, không phải như là những “chuyên gia” luôn sẵn sàng đưa ra cả một danh sách các giải pháp, nhưng như là những con người giàu tình liên đới, sẵn sàng chia sẻ điều chúng ta có về đức tin và sự hiểu biết Đức Kitô.
Chắc chắn tường thuật này không tránh khỏi là một sự đan dệt các biểu tượng: có đám cưới, mà truyền thống lâu đời và liên tục của Kinh Thánh nhìn như là hình ảnh của tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và của giao ước lịch sử với dân tuyển chọn của ngài; có các chum nước dùng vào việc thanh tẩy theo phong tục Do Thái, biểu tượng của việc Do Thái giáo đã bị vượt qua: chúng làm bằng đá giống như các tấm bia lề luật và nặng nề, bất động; chúng cũng trống rỗng, không chứa gì cả; có rượu dư dật quá sức tưởng tượng: 500 lít và không phải loại rượu thường, mà là rượu quí, mà người sành rượu cũng không thể chê vào đâu được. Để nhấn mạnh lượng rượu quá dư dật, thánh Gioan viết rằng các gia nhân đã đổ các chum “đầy tới miệng”. Như thế có một khung cảnh của ngày lễ, của niềm vui, sự dồi dào không giới hạn; có các lời của Chúa Giêsu: “Giờ của tôi”.
Thánh Gioan đã muốn chứng minh sự cạn kiệt của kinh nghiệm tôn giáo của Do Thái giáo và của mọi kinh nghiệm khác tương tự, về những gì liên quan đến ý nghĩa đời sống con người và mối quan hệ của Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Ngược lại trong Đức Kitô, xuất hiện một khả năng vô cùng phong phú về sự thông truyền và ân sủng, hơn cả những gì con người có thể mong đợi.
Trong Đức Kitô, tiệc cưới của Thiên Chúa với nhân loại được bắt đầu, và tiệc cưới này được mở trong Hội Thánh như là Cana của loài người, nơi họ được mời tới dự tiệc: cộng đồng tụ họp xung quanh Chúa Giêsu, ở đó có Đức Mẹ và các tông đồ. Giống như đức Maria, Hội Thánh tỏ lộ mầu nhiệm sự hiện diện của Đức Kitô bởi vì Hội Thánh có kinh nghiệm trực tiếp về sự hiện diện ấy: các môn đệ tin, nghĩa là các ngài hiểu được ý nghĩa của “dấu lạ” vì các ngài đã gặp được Đức Kitô và làm thành một gia đình với ngài; những người khác, tuy không biết về phép lạ, cũng được hưởng những lợi ích của nó: họ được uống rượu và tiếp tục cử hành tình yêu và tình liên đới.
Ở điểm xuất phát và trong mọi lúc của hành trình cuộc đời chúng ta, Chúa Giêsu luôn luôn là trung tâm sự chú ý của chúng ta. Chúng ta biết ngài, năng lui tới với ngài, lấy ngài làm chìa khoá của niềm vui, chỉ cho các thanh thiếu niên thấy ngài là sự cứu độ, loan báo ngài như là người có thể đem đến những giải pháp cho các đòi hỏi của con người và vượt lên trên các đòi hỏi ấy.
- dưới chân thập giá: sự sống phong phú trong thánh thần
Đức Maria đứng dưới chân Thập giá[204] là một biểu tượng vượt qua. Biểu tượng “lacrimosa”, “Đức Mẹ khóc lóc”, chỉ thông dụng trong những thế kỷ trước. Ngược lại, trong Tin Mừng không hề nhắc đến nước mắt hay sự buồn sầu của Đức Mẹ. Tin Mừng chỉ viết đơn giản “đứng dưới chân Thập giá”[205], Mẹ ý thức dự phần vào biến cố tột đỉnh này của loài người.
Thập giá, theo thánh Gioan, đồng nhất với sự tôn vinh Đức Giêsu; đó là giờ phút tột đỉnh của sự mặc khải của ngài, việc ngài đi đến với Cha. “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.”[206] Và đây cũng là giờ phút của ơn Thánh Thần.
Từ Thập giá phát sinh cộng đoàn các tín hữu, được đại diện bởi một nhóm nhỏ tín hữu tập họp quanh Thập giá và được biểu tượng bằng nước Rửa tội và máu Thánh Thể từ Chúa Kitô đổ ra. Thập giá và nhóm tín hữu này là nền móng của nhân loại mới được thống nhất mà Đức Kitô phải thể hiện theo lời hứa thiên sai.
Trong khung cảnh của Hội Thánh mới được khai sinh này, chúng ta nghe vang lên những lời nói với Đức Maria, những lời nói gợi ra một biểu tượng mà chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa, một mầu nhiệm phải tìm hiểu, hơn là lời thuật về một cử chỉ con thảo đối với mẹ hiền.
Cử chỉ này là tâm điểm của các hành vi cuối cùng và tột đỉnh mà ký ức Kitô giáo về cái chết của Chúa Giêsu muốn lưu truyền lại cho chúng ta. Trước khi nói về cử chỉ này, có lời thuật về tấm áo choàng “không đường khâu, được dệt nguyên một tấm”[207] mà quân lính không chia thành từng phần, là biểu tượng của nhân loại được tái hợp, của dân Chúa được đoàn tụ vĩnh viễn nhờ ân sủng Đức Kitô. Và sau đó là lời Chúa Giêsu tuyên bố hoàn tất kế hoạch của Cha. “Người nói: ‘Mọi sự đã hoàn tất’. Rồi Người gục đầu xuống và tắt thở”.
Trong ánh sáng này, Gioan thuật lại đối thoại giữa Chúa Giêsu, Đức Maria và người môn đệ.
Chúa Giêsu quay sáng Đức Maria trước tiên. Chúng ta có cảm tưởng, và đúng là thế, rằng không phải Đức Maria được phó thác cho Gioan, nhưng là Gioan được ban cho Đức Mẹ để làm con.
Đức Maria không được gọi bằng tên riêng, nhưng luôn luôn được gọi với danh hiệu “Mẹ Người”. Điều này gợi nhớ tiệc cưới Cana, trong đó chính Gioan nói rằng “Đức Giêsu đã tỏ lộ vinh quang Người và các môn đệ đã tin vào Người.” Cana là sự mặc khải mở đầu về vinh quang của đấng Mêsia, sự tỏ lộ này đạt tới tột đỉnh vào giờ chết của ngài.
Nó cũng làm ta nghĩ đến danh xưng “bà” được ghi lại trong tiệc cưới Cana, biểu tượng tiệc cưới mới của Thiên Chúa với nhân loại. Và, xa hơn trong lịch sử, nó làm ta nghĩ đến người đàn bà của cuộc tạo dựng, của cám dỗ và bản án của Thiên Chúa: Evà. Chúng ta bước sang một khởi đầu mới của loài người.
Còn về người môn đệ, bài tường thuật không bao giờ nhắc đến tên. Người môn đệ là đại diện cho mọi người theo Chúa Kitô, toàn thể các môn đệ, cộng đoàn tín hữu của ngài, với đặc điểm là những bạn hữu của Đức Kitô, được ngài yêu thương, và trung thành với ngài.
Vì vậy ở đây không phải là một cuộc giàn xếp gia đình, mà là thời điểm của một sự phó thác long trọng và thánh thiêng, một di chúc, một điểm khởi hành.
Chúa Giêsu kêu gọi Đức Maria chấp nhận một tình mẫu tử mới phát sinh từ thập giá và nhờ thập giá mà trở nên phong phú. Đó là một khả năng mới để sinh ra các người con bởi Thánh Thần. Đức Maria sẽ là Mẹ Đức Kitô, không chỉ vì đã đón nhận Người trong lòng mình, nhưng bởi vì, bằng cách tự đồng hoá mình ở mọi nơi và hoàn toàn với cộng đoàn phát sinh từ Thập giá, Mẹ sẽ không ngừng cưu mang Đức Kitô trong lich sử của hàng triệu triệu người trải qua mọi thời đại. Đây là một lễ truyền tin mới; đối với chúng ta là một biểu hiện của Đấng Phù Hộ.
Đức Maria là hiện thân của Hội Thánh hoàn vũ và của mỗi hội thánh địa phương. Tất cả được khai sinh từ Thập giá, được kêu gọi để thừa hưởng nguồn phong phú ý nghĩa của nước và máu và để trở nên nhân chứng với đầy lòng nhiệt huyết và trung thành.
Vì vậy, cộng đoàn môn đệ rước Đức Mẹ về với mình. Từ lúc ấy Mẹ hiện diện ở bất cứ nơi nào có cộng đoàn tín hữu: một cách hữu hình bằng sự sùng kính và các dấu hiệu sùng mộ của các tín hữu; một cách sâu xa hơn nhờ sự chuyển cầu của ngài có thể nhận ra qua các dấu lạ luôn luôn mới mẻ và bất ngờ. Cả chúng ta cũng cảm nhận được sự hiện diện của Mẹ trong các cộng đoàn và công cuộc của chúng ta.
Thập giá nhắc nhớ chúng ta về giá trị của việc hiến mình cho Thiên Chúa trong đức ái mục tử. Các thái độ và cử chỉ của Chúa Kitô, mà chúng ta thường nhớ đến như là các mẫu gương (thái độ tiếp nhận, lắng nghe, nâng đỡ, soi sáng, thương xót), tìm được thăng hoa, sự cắt nghĩa, và giá trị của chúng nơi thập giá.
Người Mục Tử, mà Gioan trình bày ở chương 10, là người thí mạng sống mình. Nếu bỏ quên điều này, đức ái mục tử sẽ chỉ còn là một phương pháp làm việc, các mối quan hệ công cộng, hình thức của việc từ thiện, hơn là của ơn cứu độ.
Được sát nhập thâm sâu vào sự dâng hiến này qua các lời của Chúa Giêsu, Đức Maria dạy chúng ta ý nghĩa về sự phong phú huyền nhiệm của tình yêu. Cả đối với Đức Mẹ, mọi sự được hoàn tất và mọi sự được tỏ lộ vào giờ phút ấy. Sự lo lắng của Mẹ để nuôi dưỡng Con Thiên Chúa giờ đây mang một chiều kích khác với chiều kích đã có ở Nadarét và trong đời sống tại thế của Con Mẹ: chuyển từ Chúa Giêsu sang Hội Thánh, Hội Thánh của lịch sử và cụ thể, được làm thành bởi những con người và những đời sống: chuyển từ sự phong phú nhân bản sang sự phong phú ân sủng. Chấp nhận điều này là một thử thách đối với đức tin của Mẹ, gần như một bướt nhảy vọt về phẩm. Đối với chúng ta cũng thế.
Đứng dưới chân thập giá, Đức Maria nhắc chúng ta nhớ đến sự cứu rỗi mà chúng ta muốn là dấu chỉ và là người mang đến cho người khác: sự cứu rỗi bắt nguồn từ Đức Kitô Cứu Thế, nó mở rộng lòng con người ra cho Thiên Chúa để đón nhận nơi người sự thành tựu cuộc đời mình. Chúng ta thực hiện nhiều sáng kiến để phục vụ thanh thiếu niên và người lớn. Tất cả những sáng kiến này đều hướng tới một điều duy nhất và chính yếu, tất cả đều được khơi dậy bởi một điều trong châm ngôn “Da mihi animas” của chúng ta: ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, là tâm điểm công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Cùng với Đức Maria dưới chân thập giá, chúng ta khám phá ra đâu là nguồn sức mạnh biến đổi mà Thiên Chúa muốn tác động trong chúng ta và các cộng đoàn của chúng ta: nước và máu; bí tích Hoà giải và Thánh Thể. Phụng vụ chúng ta sống hoàn toàn thấm nhuần khoa sư phạm bí tích. Các trang sách Tin Mừng và niên lịch phụng vụ đề nghị cho chúng ta bằng muôn vàn cách thức khác nhau để sống khoa sư phạm này.
Đứng dưới chân thập giá, Đức Maria tỏ lộ cho chúng ta giá trị của cộng đoàn, một cộng đoàn trong đó chúng ta thể hiện việc phục vụ của mình, một cộng đoàn đã có mặt ở hi tế của Chúa Kitô dưới một hình thức đặc biệt và khác với các khách bàng quan khác. Nó lưu giữ lại ký ức nơi mình và chỉ mình nó hiểu được ý nghĩa của hi tế này. Nó còn hơn là một “nhóm người”. Nó là nơi Thiên Chúa mặc khải ơn cứu độ.
Chúng ta nghĩ đến giá trị của các cộng đồng giáo dục mà chúng ta khơi động, giá trị của Gia đình Salêdiêng, của Phong trào Salêdiêng, của các Giáo Hội địa phương. Trong các cộng đồng này chúng ta chăm lo việc rao giảng về Đức Kitô, sự hiệp nhất trong tình yêu và hành động.
Cùng với các cộng đoàn này chúng ta cầu khẩn và chờ đợi Thánh Thần, chúng ta chú tâm tới các dấu chỉ của ngài và chúng ta “ra đi” tiến về phía trước.
- tại nhà tiệc ly: cộng đoàn với sức mạnh của Thánh Thần
Nhóm người ít ỏi đại diện cho Hội Thánh đứng gần Thập giá đã được mô tả trong sách Công vụ Tông đồ, chương 1, ở Giêrusalem, khi họ từ trên núi Chúa Thăng Thiên trở về.[208]
Giêrusalem là nơi diễn ra các biến cố cứu độ, nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng của ngài ở trần gian,[209] là điểm xuất phát của sứ mạng hoàn vũ của các Tông đồ.[210]
Cộng đoàn của Chúa Phục Sinh tập họp đầy đủ tại nhà Tiệc ly, nơi đã công bố và đóng dấu giao ước mới, nơi mà Tiệc Vượt Qua cũ được đổ đầy ý nghĩa mới và vĩnh viễn, nơi Chúa thiết lập Thánh Thể, nơi ngài hiện ra nhiều lần cho nhóm mười hai. Đó hoàn toàn là hình ảnh của Hội Thánh!
Bản văn kể lại một mạch liên tiếp các biến cố chính của cuộc đời Chúa Giêsu: cuộc khổ nạn, các lần hiện ra, các bài diễn từ về Nước Trời, lời hứa ban Thánh Thần, ngày Thăng Thiên, việc loan báo ngày ngài sẽ trở lại: các môn đệ nhớ lại tất cả các biến cố này, nhưng họ còn chưa hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa lịch sử của chúng.
Trong bối cảnh này, Luca ghi nhận về cộng đoàn tập họp đầy đủ, với một di sản chân lý và một sứ mạng được giao phó: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với các anh em của Người.”[211]
Đây là lần duy nhất Đức Maria được nhắc đến tên trong “thời kỳ hậu phục sinh”. Và cũng là lần cuối cùng của toàn Tân Ước. Ngài được nhắc đến một cách vắn gọn và thoáng qua.
Có vẻ như Đức Maria không phải là nhân vật chính của cảnh này! Bản văn nhắc đến “mấy người phụ nữ” trước khi kể tên Đức Maria. Họ là cùng mấy người phụ nữ Luca đã kể tên trong tường thuật về cuộc đóng đinh, táng xác, lúc phát hiện mồ trống, các cuộc hiện ra.
Thế nhưng Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu không bao giờ được bao gồm hay được kể tên trong số các phụ nữ này. Điều gây ấn tượng đối với chúng ta là, trong khi giới thiệu theo thứ tự và một cách đầy đủ cộng đoàn Chúa Phục Sinh, Luca đã đưa vào danh sách chỉ một mình tên và tước hiệu Mẹ Chúa Giêsu.
Chúng ta có ở đây một trong những đoạn văn thích hợp để giúp tóm lược nhanh về đời sống của công đoàn. Giống như ở các đoạn văn tương tự, ở đây có nói đến sự đồng tâm nhất trí, sự qui tụ, cầu nguyện. Vì vậy đây không chỉ là một chi tiết lịch sử theo thể thuật truyện, mà là một suy tư thần học.
Các phụ nữ cùng với các Tông đồ ở Nhà Tiệc Ly là dấu hiệu của một cái mới mẻ chưa từng có trong bối cảnh Do Thái giáo và biểu hiện sự đảo lộn mà cuộc vượt qua của Chúa Giêsu đã thực hiện rồi: một cộng đoàn không có sự phân biệt hay chia rẽ về giới tính, địa vị hay chủng tộc. Cái chủ yếu đáng kể và hợp nhất là những con người được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt và là những chứng nhân tuyên xưng đời sống của ngài.
Việc nhắc đến các phụ nữ làm nổi bật sự kiện và tầm quan trọng của sự có mặt trong cộng đoàn các chứng nhân trực tiếp và đây nhiệt huyết về Chúa Giêsu chịu chết, táng xác và sống lại, mà các phụ nữ lại chính là những người loan tin đầu tiên.
Đức Maria
Giờ đây chúng ta tập trung vào Đức Maria, được kể tên sau các phụ nữ, như thuộc một phạm trù khác, hoàn toàn độc đáo. Bản văn diễn tả trước hết một niềm xác tín của đức tin: ở đâu có Hội Thánh, cộng đoàn của Chúa Kitô, ở đó luôn luôn có Đức Maria, và ngược lại, như vào lúc thụ thai và sinh đấng Mêsia, như trong các lần tỏ hiện đầu tiên (cho các mục đồng và các đạo sĩ, cho Dacaria và Simêon, trong Đền thờ và ở Cana), như trong hi tế cuối cùng.
Đây là một chỉ dẫn cho đời sống cá nhân chúng ta, nó có ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động mục vụ của chúng ta. Trong các Giáo Hội và cộng đoàn mà chúng ta thành lập và khơi động, phải có Mẹ, và phải dành cho Mẹ một vị trí nổi bật, để làm bạn, làm lời nhắc nhở, gương mẫu và cảm hứng cho chúng ta.
Rồi việc nhắc đến Đức Mẹ được đặt trong hướng chứng tá trực tiếp. Mẹ biết rõ, tham dự tích cực trong các sự kiện kín ẩn và mầu nhiệm nhất, ít được biết đến nhất, nhưng đó là những sự kiện ở nguồn gốc lịch sử của những điều dễ thấy và lạ lùng hơn mà nhóm đã được chứng kiến: việc nhập thể, giáng sinh, lớn lên ở Nadarét, khởi đầu cuộc đời công khai. Mẹ đã ở với Chúa Giêsu “trong suốt thời gian Người đã sống giữa chúng ta”,[212] là điều kiện Matthia phải có để được chọn thay thế cho Giuđa.
Hình ảnh Đức Maria mà Luca triển khai ở đây cũng là một với hình ảnh ngài đã mô tả trong Tin Mừng của ngài. Đức Mẹ không dự phần vào nhóm môn đệ được đào luyện xung quanh đấng Mêsia, cũng không thuộc số các phụ nữ đi theo Người. Nhưng Mẹ là người nữ môn đệ tinh thần hoàn hảo, độc nhất vô nhị, nơi Mẹ xuất hiện lòng sẵn sàng hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, và đầy lòng tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa để thể hiện điều Người đã hứa.
Theo nghĩa ấy, Đức Maria giống như một đá tảng, một mỏ neo hi vọng trong thời đại mong chờ. Các môn đệ cảm thấy mình bơ vơ khi không còn sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu. Họ được sai đi thực hiện một sứ mạng trong thế giới mà họ chỉ có một ý tưởng mơ hồ: họ không biết sứ mạng ấy hệ tại điều gì, đâu là những con đường thích hợp nhất; họ không có kinh nghiệm về sức mạnh giấu ẩn của sứ mạng ấy.
Đây không chỉ là tình trạng của cộng đoàn Kitô giáo ban đầu. Mọi cộng đoàn, cho tới các cộng đoàn của chúng ta và ngay cả Hội Thánh hoàn vũ cũng có những cảm tưởng và những sự do dự này. Sự hiện diện của Đức Maria tạo ý nghĩa cho niềm mong đợi, đổ đầy lòng tin tưởng, biến nó thành một kinh nghiệm thiêng liêng vui tươi thanh thản vốn đã là kinh nghiệm của chính Mẹ: chờ đợi thời điểm trưởng thành mà không vấp ngã hay đầu hàng.
Nhưng đồng thời, trong niềm mong đợi, cộng đoàn các môn đệ được hướng dẫn bởi uy quyền mà Chúa Giêsu đã uỷ thác cho họ, trở nên hoàn hảo và sẵn sàng cho sứ mạng, bằng cách chọn thành viên còn thiếu, trong ánh sáng ý muốn của Thiên Chúa. Các ngài suy xét và phân định, gột sạch các tư lợi và tinh thần bè phái. Các ngài chân thành mở lòng trước các dấu chỉ.
Hơn nữa, cộng đoàn các môn đệ kiên trì cầu nguyện chung với nhau. Hai lời này rất quan trọng: cầu nguyện, chung với nhau. Lời thứ hai này diễn tả ý hướng duy trì sự hiệp nhất thiêng liêng và hữu hình của cộng đoàn trong những giờ phút trông chờ, nghi ngờ, không chắc chắn. Nếu thời đại trông đợi của chúng ta cũng giống như các thời đại này, hẳn chúng sẽ luôn luôn phong phú. Và chúng ta luôn luôn sống trong thời đại trông đợi!
Cuối cùng, cộng đoàn cùng với Đức Maria sẵn sàng để đón nhận Thánh Thần và trong thực tế đã đón nhận ngài. Như thế cộng đoàn ấy trở nên phong phú và có khả năng sinh ra Chúa Giêsu nơi các dân tộc. Đức Maria đã kinh nghiệm được Thánh Thần và sự phong phú của Người bởi vì Mẹ đã là người đầu tiên được đổ đầy Thánh Thần và sinh ra Con Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Mẹ là sự bảo đảm và bảo vệ cho việc nhận ra và giải thích trung thực hoạt động của Thánh Thần nơi loài người. Với sức mạnh của Thánh Thần, Hội Thánh được gọi để tiếp nối việc nhập thể của Đức Kitô, cụ thể hóa tình yêu của Người đối với loài người dưới muôn vàn hình thức, và luôn canh tân khả năng phục vụ của Hội Thánh.
Nét đặc trưng nữ tính và tình mẫu tử của Đức Maria không chấp nhận để cho các chân lý đức tin trở thành các công thức trừu tượng, nhưng diễn đạt nó thành các hành động cụ thể của ơn cứu độ, của sự biến đổi thân phận con người, của tình yêu Thiên Chúa, và của việc đổi mới các phong tục.
Cũng thế, mặc dù Mẹ không có một chức vụ đặc biệt, Mẹ nhắc nhở các tông đồ rằng “đặc quyền” nhận lãnh Thánh Thần không phải để đưa mình “lên trên” những người khác hay “ở ngoài” điều kiện chung của mọi người, nhưng để hoà minh với mọi người, chia sẻ, làm dậy men, và phục vụ.
Don Bosco đã dạy chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện này. Trước tiên chính bản thân ngài đã vun trồng sự hiện diện này và đã cổ võ nó trong đời sống và công cuộc của ngài. Nhưng ngài cũng dặn dò các nhà truyền giáo của ngài làm như thế: “Hãy làm cho người ta biết đến Đức Mẹ, và các con sẽ thấy các phép lạ.”[213] Đó cũng là lời dặn dò cho chúng ta, trong hành trình thiêng liêng của cá nhân, trong sự dấn thân mục vụ, và trong bổn phận sinh động hoá các cộng đoàn của chúng ta.
14
hai tước hiệu : một tổng hợp
Trong kinh Tận hiến, chúng ta cầu khẩn Đức Mẹ bằng hai tước hiệu: Vô Nhiễm, Phù Hộ. Cũng chính hai tước hiệu này xuất hiện trong Hiến Luật với một lời bình luận vắn tắt cho mỗi tước hiệu: với tước hiệu Vô Nhiễm, Đức Mẹ là gương mẫu cho chúng ta trong việc thánh hiến trọn vẹn cho Chúa và trong ước muốn nên thánh của chúng ta; với tước hiệu Phù Hộ, Đức Mẹ là dấu chỉ và nguồn cảm hứng cho chúng ta trong việc phục vụ dân Chúa, đặc biệt các thanh thiếu niên.[214]
Việc lựa chọn và đặt hai tước hiệu này bên cạnh nhau không phải là chuyện tình cờ, cũng không chỉ phát xuất từ tình cảm hay lòng sùng mộ. Ngược lại, hai tước hiệu phản ánh lịch sử Salêdiêng và tổng hợp các nét đặc trưng linh đạo của các Tu Hội chúng ta. Trong tiểu sử hai đấng sáng lập cũng có các tên gọi khác của Đức Mẹ: Đức Mẹ Sầu Bi, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ An Ủi, Đức Mẹ Ban Ơn. Do đó đúng là, vượt lên trên các danh hiệu khác nhau của Đức Mẹ, các đấng sáng lập luôn luôn nhìn vào chính con người Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Hội Thánh, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nhưng cũng hoàn toàn đúng là hai hình ảnh gặp thấy thường xuyên hơn và tạo nên diện mạo Đức Mẹ của chúng ta mà không một hình ảnh nào khác sánh bằng, đó là Vô Nhiễm và Phù Hộ. Trong thực tế, kinh nghiệm thiêng liêng và tông đồ của Don Bosco và của Mẹ Mazzarello có như là ba giai đoạn.
- kinh nghiệm nguyện xá
Giai đoạn đầu tiên là kinh nghiệm nguyện xá. Don Bosco trải qua kinh nghiệm này với các thiếu niên của Torino. Mẹ Mazzarello với các thiếu nữ của làng quê mẹ. Quan tâm chủ yếu là giáo dục giới trẻ thuộc môi trường của mỗi vị. Tất cả cố gắng xoay quanh việc đem lại cho các em phẩm giá con người và mở lòng các em đón nhận đức tin. Có ít cơ cấu và phương tiện, nhưng bù lại, có nhiều sự dâng hiến và sáng tạo. Các thiếu niên thiếu nữ ý thức về bản thân mình và về đời sống ân sủng. Nhà giáo dục chăm sóc các em bằng tình cha, tình mẹ. Đây là thời điểm phát sinh và hình thành hệ thống dự phòng.
Trong bối cảnh này có một sự kiện hiển nhiên: Đức Maria được các nhà giáo dục và các học sinh cảm nhận như một sự hiện diện sống động, từ mẫu, quyền năng. Các tước hiệu được dùng để nói về Đức Mẹ không phải là điều quan trọng nhất. Nhưng đúng là trong thời kỳ nguyện xá, hình ảnh Đức Mẹ Vô Nhiễm được thấy nổi bật trên hết.
Việc Don Bosco ưa thích hình ảnh này bắt nguồn từ tuổi trẻ của ngài. Ở Chieri, người ta sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm: nhà nguyện của chủng viện, nơi ngài theo học, có trên bàn thờ chính một ảnh Đức Mẹ Vô Nhiễm và Don Bosco hằng ngày đến quì cầu nguyện trước ảnh này. Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được truyền từ Pháp sang Piêmont. Lòng tôn sùng này gia tăng với việc công bố tín điều Đức Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm năm 1854 và với các lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức năm 1858.
Sau đó một vài sự kiện được Chúa an bài đã khiến Don Bosco đặc biệt tin tưởng ở lời cầu bầu của Đức Mẹ Vô Nhiễm vào lúc khởi đầu các công cuộc của ngài: “Mọi sáng kiến lớn của chúng ta đều đã bắt đầu vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm.” (MB XVII, pag. 510). Mẫu chính yếu là nguyện xá, ngày 8 tháng 12, 1841.
Ngoài ra, ảnh Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng trình bày Đức Mẹ như người chiến thắng sự dữ, chân đạp đầu con rắn. Điều này nhắc nhở ngài đến chiến thắng của ân sủng trên các đam mê của con người và chiến thắng của đức tin trên sự vô đạo và lạc đạo trong lịch sử thế giới.
Mẹ Mazzarello cũng có một chặng đường tương tự như thế với Hội Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, và ngài đã sống lòng tôn sùng này hơn là diễn tả nó bằng các công thức bề ngoài.
Sự hiện diện của Đức Mẹ được cảm nhận như thế đã để lại dấu ấn trong khoa sư phạm của Nguyện xá. Việc cử hành trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, cùng với một cuộc chuẩn bị thiêng liêng tương xứng, đã trở thành một việc trung tâm.[215] Và thói quen này vẫn còn tiếp tục vào thời chúng ta, bất cứ ở đâu có các nguyện xá-trung tâm trẻ.
Sau đó ở nguyện xá Hội Vô Nhiễm được khai sinh, tương đương với nhóm cộng tác viên trẻ ngày nay. Đây là hạt giống và trắc nghiệm của Tu Hội Salêdiêng tương lai. Trong số mười sáu hội viên của Tu Hội Salêdiêng cùng tụ họp với Don Bosco và Don Alasonatti (tổng cộng 18) vào ngày 18 tháng 12, 1869, có chín người là hội viên của Hội Vô Nhiễm.[216]
Trong bầu khí Đức Mẹ này đã chín muồi các chủ đề quan trọng nhất của việc giáo dục giới trẻ: ân sủng, lòng trong sạch, sự gần gũi thế giới siêu nhiên, tình yêu đối với Chúa Giêsu. Đối với các tu sĩ Salêdiêng nam và nữ, hệ thống dự phòng đã được hình thành như là sự chăm sóc từ mẫu và con đường nên thánh, cùng với một đòi hỏi về sự hiến dâng quảng đại cho Thiên Chúa và giới trẻ. Đaminh Savio là hoa quả trổ sinh từ bầu khí này.
Cũng trong bầu khí này đã phát triển một tập hợp các trực giác về giá trị sư phạm của lòng sùng kính Đức Mẹ. Chúng ta phải kể đến sự hiện diện từ mẫu và vô hình của Đức Mẹ trong công việc của chúng ta. Ngài yêu từng người chúng ta, nhưng đặc biệt các thanh thiếu niên bởi vì ngài giúp các em lớn lên giống như ngài đã làm cho Chúa Giêsu. Đây là một chân lý đức tin Kitô giáo, nhưng được chúng ta sống một cách khác thường và được chuyển sang kinh nghiệm giáo dục.
Sự hiện diện từ mẫu của Đức Maria, vì được cảm nhận trong tâm khảm của thanh thiếu niên, đổ tràn vào lòng các em sự an tâm và hi vọng để các em tự xây dựng nhân cách mình trong những thời điểm khó khăn và tế nhị của cuộc đời các em, do tính hay thay đổi, do sự phát triển thể lý, và do những thắc mắc về đức tin. Đức Maria Vô Nhiễm là lý tưởng của lòng trong sạch, tạo một sự lôi cuốn đối với các thanh thiếu niên và cho các em lòng ham thích và ý muốn dấn thân vào các dự tính cao thượng. Khoa sư phạm của Don Bosco cũng có một thành phần thẩm mỹ nhất định. Ngay từ ban đầu ngài đã nói đến vẻ đẹp của nhân đức và của tôn giáo, và sự xấu xa của tội lỗi.
Ngoài ra, lòng tôn sùng Đức Maria giúp các thanh thiếu niên sống thân mật với các thực tại siêu nhiên và cảm thấy Thiên Chúa gần gũi hơn và nhập thể hơn. Nó là mối quan hệ với một người phụ nữ được diễn tả luôn luôn như là Mẹ và sự Phù trợ của chúng ta. Nó là một kích thích thiêng liêng.
Vì vậy, việc huấn giáo trong Nguyện xá nhắm tới mục tiêu là giúp đón nhận và nội tâm hoá hình ảnh này cho tới khi nó thấm nhuần vào đời sống của thanh thiếu niên như một bảo đảm cho sự kiên trì trong tương lai. Để đạt mục tiêu này, trong Nguyện xá có các tuần tam nhật, cửu nhật, hoa thiêng, trang trí, các cuộc hành hương, tham quan các địa danh Đức Mẹ. Giai đoạn “nguyện xá” đối với Don Bosco kéo dài cho tới thời kỳ tổ chức Valdocco; đối với Mẹ Mazzarello giai đoạn này bao gồm tất cả thời kỳ của Hội Con Đức Mẹ Vô Nhiễm cho tới khi thành lập Tu Hội thánh hiến.
- thánh điện Đức Mẹ Phù hộ
Tới năm 1862 Don Bosco cảm thấy nhu cầu có một thánh đường lớn hơn. Nhà thờ ngài đang có thì quá nhỏ cho số thanh thiếu niên và người Salêdiêng đang gia tăng rất nhanh ở Valdocco. “Một tối thứ bảy tháng mười hai—Don Albera thuật lại—có lẽ ngày mùng 6, Don Bosco sau khi giải tội xong cho các học sinh vào khoảng 11 giờ khuya, ngài xuống ăn tối tại phòng ăn cạnh nhà bếp. Don Bosco có vẻ trầm ngâm. Lúc ấy chỉ có một mình thày Albera ở với Don Bosco. Ngài bất ngờ nói với thày: ‘Cha đã giải tội cho quá đông học sinh và thú thật cha hầu như không biết mình đã nói gì hay làm gì, vì có một ý tưởng cứ luẩn quẩn trong đầu khiến cha không còn biết mình đang làm gì. Cha nghĩ: nhà thờ của chúng ta quá nhỏ: nó không chứa hết được các học sinh dù các em phải đứng sát vào nhau. Rồi chúng ta sẽ xây một nhà thờ đẹp hơn, lớn hơn, nó sẽ phải rất nguy nga. Chúng ta sẽ đặt tên: Thánh Đường Đức Mẹ Phù Hộ.’”[217]
Ngoài ra ngài cũng thấy thuận tiện để cung cấp một nơi thờ phượng cho dân chúng của vùng phụ cận vì Valdocco, từ một ngoại ô gần như đồng quê, đã trở thành một khu phố đô thị. Cũng vào năm ấy Don Bosco gặp Maria Mazzarello, cuộc gặp gỡ này đã là khởi điểm xa của Tu hội Con Đức Mẹ Phù Hộ.
Đồng thời Don Bosco có một trực giác, tuy còn mơ hồ, rằng một điều gì đó còn sẽ tiến xa hơn nữa. Đó là thời kỳ củng cố công cuộc tại Valdocco. Tu hội được thành lập từ bốn năm trước nay đã có một hạt nhân đầu tiên và Don Bosco bắt đầu nhìn thấy nó như một thực tại đang phát triển mạnh. Vì vậy ngài nghĩ đến một “trung tâm” thực sự và biểu tượng của Tu Hội mới này. “‘Con có biết một lý do khác nữa để xây một nhà thờ mới không?’ Ngài hỏi một thày khác, Don Cagliero. Thày trả lời, ‘Con nghĩ nó sẽ là thánh đường mẹ của tu hội tương lai của chúng ta, và nó sẽ là trung tâm từ đó phát toả mọi công cuộc của chúng ta cho giới trẻ.’ ‘Con đoán đúng đấy,’ ngài nói với tôi. ‘Đức Maria là đấng sáng lập và sẽ là đấng phù trợ các công cuộc của chúng ta’.”[218]
Thời ấy ở Ý người ta bàn tán nhiều về việc Đức Mẹ hiện ra ở Spoleto (một thị trấn thuộc vùng Umbria), vào một thời điểm đặc biệt tế nhị đối với Hội Thánh và Đức Thánh Cha. Người ta quảng bá ý tưởng xây cất một thánh điện tại nơi Đức Mẹ hiện ra và người ta đi quyên góp khắp nơi, cả ở Torino.
Với ba ấn tượng này: sự hiện diện rõ ràng của Đức Maria giữa dân Kitô giáo, các mối nguy hiểm Hội Thánh đang gặp, và thời buổi khó khăn, Don Bosco đã chọn tước hiệu cho ngôi thánh đường của ngài và ngài giải thích lý do: “Cho tới nay chúng ta đã cử hành trọng thể và rầm rộ ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và trong ngày hôm nay chúng ta đã bắt đầu các công cuộc của nguyện xá ngày lễ. Nhưng Đức Mẹ muốn rằng chúng ta tôn kính ngài dưới tước hiệu Mẹ Phù Hộ. Thời buổi đang diễn ra quá đau buồn khiến chúng ta rất cần Đức Trinh Nữ Rất Thánh giúp chúng ta bảo vệ đức tin Kitô giáo. . .”[219]
Thế là Don Bosco quyết tâm trở thành tông đồ loan truyền lòng sùng kính Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.[220]
Việc xây cất thánh đường này không chỉ là một công việc kỹ thuật, không chỉ là mối lo lắng về thiết kế, vật tư và tài chính. Đối với Don Bosco, nó là một kinh nghiệm thiêng liêng và một sự chín muồi trong suy nghĩ mục vụ của ngài. Don Bosco lúc ấy khoảng 45-50 tuổi, độ tuổi trưởng thành trong chức linh mục và trong dự phóng xã hội vững chắc của ngài, với một số công cuộc đã được tổ chức xong và một số khác vừa mới bắt đầu. Vào lúc công việc xây dựng hoàn tất, một điều gì đó đã biến đổi trong ngài. Vì lý do gì?
Trước hết là vì sự thể hiện vượt quá dự tính ban đầu: từ ý tưởng về một ngôi thánh đường cho các học sinh, cho khu phố và tu hội của mình, đã phát sinh ý tưởng về một thánh điện, một nơi hành hương, trung tâm thờ phượng và điểm đối chiếu cho một gia đình thiêng liêng. Thực tế đã phát triển vượt ra ngoài tầm tay của ngài.
Nhưng rồi các vấn đề kinh tế đã được giải quyết nhờ ơn Chúa và các phép lạ đã kích thích lòng quảng đại vô vị lợi của dân chúng. Tất cả điều này đã làm vững chắc nơi Don Bosco niềm xác tín rằng “Đức Maria đã tự xây nhà của ngài”, “rằng mỗi viên đá là một ân sủng”.[221] Công việc xây cất chỉ mất ba năm và các chi phí đã được dành dụm để nuôi không biết bao nhiêu là thiếu niên.
Không giống như các địa danh Đức Mẹ khác, nguồn gốc thánh điện ở Valdocco không có cuộc xuất hiện hay phép lạ nào của Đức Mẹ. Nhưng chính đền thờ rốt cuộc đã trở thành một địa danh và một phức hợp kiến trúc “thần kỳ”.[222] Một vị linh mục thời đó, nhà thần học Margotti đã khẳng định: “Người ta nói Don Bosco làm được phép lạ. Tôi không tin. Nhưng ở đây đã diễn ra một phép lạ mà tôi không thể chối cãi: đó là đền thờ nguy nga này trị giá bạc triệu thế mà đã hoàn tất chỉ trong ba năm bằng của quyên góp của giáo dân.”[223]
Trong thời gian thực hiện công trình xây cất, Don Bosco bắt đầu nổi tiếng là một người làm phép lạ và tên tuổi của ngài lan xa vượt ra ngoài vùng Piêmont: từ một linh mục chỉ được người địa phương biết đến, ngài trở thành một nhân vật biểu tượng cho sự đổi mới mục vụ trong Hội Thánh. Ngài cảm thấy mình có trách nhiệm về danh tiếng “người làm phép lạ” này và ngài đến hỏi ý kiến một nhà thần học, Đức Cha Bertagna, để xem có nên tiếp tục ban phép lành Đức Mẹ Phù hộ hay không. Câu trả lời là cứ tiếp tục!
Công trình xây dựng diễn ra đồng thời và được tiếp nối bởi việc sáng lập Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ. Đây là sự mở rộng đoàn sủng cho giới nữ, đồng thời làm cho đoàn sủng thêm phong phú; cũng thế, việc sáng lập Tổng Huynh Hội Đức Mẹ Phù Hộ, cùng với hội Hiệp Tác Viên Salêdiêng, là sự mở rộng sang thế giới giáo dân. Bấy giờ ngài bắt đầu công cuộc bành trướng Tu Hội. Công cuộc này sẽ được biểu hiện rõ ràng qua việc gửi các đoàn truyền giáo đi các nơi, mà cho tới ít năm gần đây, tất cả các đoàn truyền giáo này đều xuất phát từ thánh điện Đức Mẹ Phù Hộ.
Kết quả là sự mở rộng tông đồ: từ một cơ sở giáo dục sang một hoạt động mục vụ cho dân chúng với các yếu tố tiêu biểu: rao giảng, các bí tích, thực hành bác ái qua việc dâng cúng vật chất và tham gia các hoạt động bác ái. Tiếp theo còn có cố gắng hệ thống để phát triển các ơn gọi muộn gọi là “công cuộc Đức Mẹ Phù Hộ”.
Có thể quả quyết mà không cường điệu rằng Don Bosco đã bắt đầu công trình xây dựng trong tư cách giám đốc một công cuộc và kết thúc công trình trong tư cách một thủ lỉnh đoàn sủng của một phong trào lớn còn ở tình trạng phôi thai, nhưng đã xác định rõ mục tiêu và những nét đặc trưng cơ bản; ngài đã bắt đầu công cuộc này trong tư cách một linh mục địa phương Torino và kết thúc trong tư cách một tông đồ của Hội Thánh; từ thành phố ngài đã đi ra thế giới.
Nếu kinh nghiệm nguyện xá đã cho kết quả tích cực là việc thực hành sư phạm, thì công cuộc xây cất thánh điện đã làm phát sinh trong hoạt động Salêdiêng một cái nhìn về Hội Thánh như là Dân Thiên Chúa tản mác khắp mặt đất, trong cuộc chiến chống sự dữ: một nhãn giới được diễn tả dưới một hình thức khác trong giấc mơ hai cột trụ (1862), ngày nay được vẽ trên tường nền của thánh điện. Ngài đã xây dựng một phong cách mục vụ táo bạo và tin tưởng: ngài biết bắt đầu với những gì ít ỏi mình có, dám làm bạo khi đụng đến điều thiện, tiến thẳng về phía trước với lòng tin tưởng vào Chúa. Ngài đã ghi tạc một niềm xác tín vào lòng của Tu Hội: “Hãy quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ Phù Hộ và các con sẽ thấy phép lạ là gì”. . .[224] trong mọi lãnh vực, kinh tế, xã hội, mục vụ, giáo dục.
- việc sáng lập các tu hội
Đồng thời với các biến cố trên là sự khai sinh, tăng trưởng và hình thành của hai Tu Hội. Đây là sự lao nhọc to lớn nhất của Don Bosco. Còn Mẹ Mazzarello thì gặp phải các khó khăn nội bộ. Ngoài ra Don Bosco còn phải đương đầu với các thủ tục hành chính, xin phép các giám mục và Toà Thánh. “Nếu biết trước tất cả những rắc rối này, có lẽ cha đã không dám bắt đầu.”[225]
Hội Con Đức Mẹ Vô Nhiễm trở thành Tu hội Con Đức Mẹ Phù Hộ, tuy cũng gặp những chống đối và mất mát nho nhỏ, như được thuật lại trong Sử Biên Niên.[226] Chỉ nguyên việc thay đổi hình ảnh cũng chứng tỏ điều này. Trên bàn thờ chính Nhà Thờ của nhà Mornese có để ảnh Đức Mẹ Sầu Bi. Tượng Đức Mẹ Phù Hộ đầu tiên đã được đặt một ít năm sau khi Tu Hội được sáng lập, nhưng trên một bệ đá ở ngoài lan can (1875). Năm sau có một tượng được đặt trong vườn và các chị em đã cử hành lễ Đức Mẹ Phù Hộ. Tuy nhiên đoàn truyền giáo đầu tiên chỉ mang theo một ảnh Đức Mẹ Phù Hộ do Don Cagliero mua về.
Việc thay đổi này không phải vì sự phấn khởi của lúc ấy. Ngược lại, nó nói lên lập trường dứt khoát về một phong cách linh đạo và tông đồ của Tu Hội. Là Con Đức Mẹ Sầu Bi không giống như là Con Đức Mẹ Phù Hộ. Don Bosco, và các người kế vị và các bề trên khác sau ngài thường nói về “một đền thờ thiêng liêng sống động”, một “tượng đài tạ ơn” Đức Mẹ Phù Hộ. Chúng ta cần tìm hiểu ý của các ngài. “Đó là tên gọi của một tu hội giáo dục, huấn giáo và truyền giáo”, Mẹ Angela Vespa từng nói thế[227]. Đó là tên gọi của một Tu Hội “có mục đích đào luyện lòng đạo đức và nhân đức cho giới trẻ và quảng bá lòng sùng kính Đức Maria trên khắp thế giới”,[228] “tên gọi của một Tu Hội trong đó Đức Maria phải trở nên sống động trong các Con gái ngài để họ làm cho ngài hiện diện trên khắp thế giới”[229] và để mỗi người trong họ là một bản sao sống động của Đức Maria.[230]
Do đó, cả bên nhánh nữ, tên của Đức Maria Phù Hộ cũng làm nổi bật nét đặc trưng tông đồ, diễn tả việc đi ra khỏi làng xóm để phục vụ Hội Thánh và thế giới.
Việc sáng lập hai Tu Hội để lại nơi Don Bosco cảm giác mình là dụng cụ của một kế hoạch được soi sáng và thể hiện qua một sự trung gian đặc biệt của Đức Maria: “Đức Mẹ muốn chúng ta bắt đầu một hội. . . chúng ta sẽ được gọi là Salêdiêng”, ngài nói ngày 26 tháng 1, 1854. Ngài sẽ còn thường xuyên lặp đi lặp lại lời này. Trên đường từ Tây Ban Nha trở về, ngài đã bình luận lúc đang ngồi trên xe lửa: “Tất cả là việc của Đức Mẹ. Tất cả đã khởi đầu trong kinh Ave Maria mà cha đã đọc chung với một thiếu niên với đức tin và đức cậy.” Còn nữa, khi đang dâng thánh lễ tại nhà thờ Thánh Tâm ở Roma, ngài đã phải ngưng thánh lễ đến 15 lần vì khóc khi hồi tưởng lại cuộc đời mình và ngài đã nhớ lại câu nói của giấc mơ đầu tiên: “Khi đến lúc con sẽ hiểu tất cả.”[231]
Gắn liền với điều này là niềm xác tín về một sự chăm sóc và quan hệ đặc biệt giữa Đức Maria và Gia đình Salêdiêng bất kể thuộc thành phần nào: “Cha nói thật với các con trước mặt Chúa. Chỉ cần một thiếu niên đi vào một nhà Salêdiêng đã đủ để Đức Mẹ đặt em dưới sự bảo vệ của ngài.”[232]
Mặt khác, chúng ta cũng được nghe Mẹ Mazzarello lặp đi lặp lại rằng Tu Hội không là gì khác hơn là gia đình của Đức Mẹ, là “tổ ấm” do Đức Mẹ lập ra. Ngài nói rằng Đức Mẹ là Mẹ bề trên và Người có một phụ tá hằng đêm đem chìa khóa nhà đặt dưới chân Người.
- biểu tượng và trắc nghiệm của linh đạo chúng ta
Khi đọc lại trong đức tin lịch sử của hai Tu Hội và Gia Đình Salêdiêng chúng ta, chúng ta thấy Đức Maria là đấng gợi hứng cho công cuộc và cũng là Mẹ của ơn gọi chung của chúng ta và là Bà giáo của linh đạo chúng ta.[233]
Ơn gọi cá nhân của chúng ta và việc đào luyện của chúng ta lấy Mẹ làm gương mẫu, người hướng dẫn và nhà giáo dục. “Nơi Mẹ chúng ta tìm được sự hiện diện sống động và sự trợ giúp để dứt khoát qui hướng cuộc đời chúng ta về Đức Kitô và làm cho quan hệ của chúng ta với Người ngày càng trở nên chân thực hơn”.[234]
Vì thế chúng ta dành cho Mẹ một chỗ rất đặc biệt trong kinh nguyện của chúng ta: “Chúng ta chạy đến Mẹ với lòng đơn sơ và tin tưởng bằng việc cử hành các lễ phụng vụ của Mẹ và tôn kính Mẹ bằng các hình thức kinh nguyện thích hợp của Hội Thánh và truyền thống Salêdiêng”.
Tất cả điều này thúc đẩy chúng ta làm cho mọi người cảm thấy Mẹ hiện diện trong việc giáo dục giới trẻ và trong việc mục vụ giữa dân chúng.
Dung mạo thiêng liêng của Đức Maria đã được vẽ trên bức tranh đặt tại bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường.
Chúng ta đã biết lịch sử bức tranh này. Don Bosco đã muốn có một bức hoạ nghệ thuật diễn tả đầy đủ tư tưởng của ngài về Hội Thánh, về Đức Maria Mẹ Hội Thánh, về Tu Hội trong việc phục vụ Hội Thánh. Ngài mô tả ý tưởng của mình cho hoạ sĩ Tommaso Lorenzone. Ngài muốn vẽ Đức Mẹ lên trời với vương miện nữ hoàng. Xung quanh là các thiên thần. . . nhưng xung quanh cũng phải vẽ các vòng tròn khác và các nhóm khác gồm các nhân vật vĩ đại và các thời điểm quan trọng của lịch sử Hội Thánh: các thánh tông đồ, tử đạo, ngôn sứ, trinh nữ, hiển tu. Lại còn phải ghi lại các biến cố có sự can thiệp hiển nhiên của Đức Mẹ . . . và cả dân chúng đang cầu khẩn Mẹ.
Nhà danh hoạ trả lời: để vẽ một tác phẩm như thế, cần phải có một mặt bằng rộng cỡ Quảng trường Castello. Cuối cùng bức hoạ được vẽ trên một khung vải cao bảy mét rộng bốn mét. Trong khoảng không gian này nhà danh hoạ tìm cách đưa vào những điều cốt yếu của ý tưởng của Don Bosco. Khi vẽ xong, “ông đã quì gối khóc và nói rằng kết quả đã vượt quá khả năng ông”.[235]
Tác phẩm gồm ba mặt phẳng. Hình Đức Mẹ trên trời bế Chúa Giêsu Hài Nhi chiếm trục thẳng đứng và ở nửa phía trên của mặt phẳng nằm ngang. Hình được vẽ với ý nghĩa là Mẹ Chúa Giêsu (nhập thể) và Mẹ Hội Thánh. Vương trượng và vương miện, không chỉ là dấu hiệu của quyền lực, mà đúng hơn là biểu tượng của sự chuyển cầu hiệu quả và của chiến thắng trên sự dữ, nơi Mẹ trước tiên và rồi nơi lịch sử loài người.
Ở mặt phẳng bên trên chúng ta thấy Chúa Cha được tượng trưng bằng con mắt và Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu: Từ Chúa Cha, qua Chúa Thánh Thần, đổ xuống trên Đức Mẹ một luồng ánh sáng: chính sự chọn lựa của Chúa Cha và tác động của Chúa Thánh Thần làm Đức Mẹ trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Hội Thánh. Ca đoàn thiên thần nhắc nhở về trời: sự kiện Mẹ Lên Trời, cuộc vượt qua của Mẹ, khởi đầu vai trò Phù hộ của Mẹ. Tất cả cũng chỉ về nguồn gốc của Hội Thánh và tương quan của Hội Thánh với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: từ Chúa Cha, nhờ Chúa Con nhập thể, trong Chúa Thánh Thần.
Mặt phẳng giữa trình bày Hội Thánh trong lịch sử: mưới hai tông đồ, cộng thêm hai tác giả Tin Mừng không phải tông đồ, và thánh Phaolô. Đó là nền tảng của Hội Thánh (các tông đồ), năng động lực của Hội Thánh trong việc rao giảng Tin Mừng (thánh Phaolô), vai trò lãnh đạo Hội Thánh (thánh Phêrô với chìa khoá) và thiên chức làm mẹ của Đức Maria. Tất cả các vị thánh này đều mang biểu tượng cuộc tử đạo của các ngài, là dấu chỉ của sự dâng hiến hoàn toàn. Đây là mảnh đất phát sinh đặc sủng Salêdiêng: Hội Thánh, sứ mạng tông đồ, nhiệt huyết thiêng liêng.
Mặt phẳng thứ ba được triển khai phía dưới và phía sau. Nó làm nổi bật thế giới hôm nay, vương cung thánh đường, và quang cảnh xung quanh thánh đường nói lên ý nghĩa nó là trung tâm của một phong trào rao giảng Tin Mừng và phục vụ Hội Thánh, lấy cảm hứng từ tình mẫu tử của Đức Mẹ và phó thác vào sự chuyển cầu quyền thế của Mẹ.
Về linh đạo chúng ta, bức hoạ truyền đạt tốt sự thống nhất giữa ý thức về sáng kiến của Thiên Chúa và hoạt động mục vụ của chúng ta. Ơn gọi chúng ta đến từ Chúa Cha và vì Người chúng ta hiến mình cho công việc giáo dục. Bức hoạ cũng truyền đạt tốt tinh thần Hội Thánh, tinh thần phục vụ: chúng ta dự phần vào sứ mạng Hội Thánh và chúng ta làm việc trong Hội Thánh, chú ý tới các nhu cầu và các hướng dẫn của Hội Thánh. Bức hoạ còn diễn tả tốt cố gắng truyền giáo của việc rao giảng Tin Mừng. Và cả cách thức hiện diện giáo dục của chúng ta: từ mẫu, bảo vệ, dự phòng.
mục lục
Nhập đề | ||
I. | SỰ SỐNG TRONG THÁNH THẦN | |
1. | Một nếp sống hay một dấu chỉ? | |
2. | Chúa Thánh Thần làm gì? | |
3. | Chúa Giêsu, biến cố của Chúa Thánh Thần | |
4. | Linh đạo: sống theo Thần Khí | |
5. | Các gợi ý suy tư | |
II. | DON BOSCO: MÔ HÌNH VÀ gương MẪU CỦA LINH ĐẠO CHÚNG TA | |
1. | Một lưu ý cần thiết | |
2. | Quan hệ của chúng ta với Don Bosco | |
3. | Diện mạo thiêng liêng của Don Bosco | |
4. | Kế hoạch đời sống | |
5. | Kết luận | |
III. | CHÚA HIẾN THÁNH CHÚNG TA BẰNG ƠN THẦN KHÍ CỦA NGƯỜI | |
1. | Nền tảng linh đạo chúng ta : sự thánh hiến | |
2. | Sự thánh hiến của chúng ta | |
3. | Sự thánh hiến, ơn Thiên Chúa và kinh nghiệm bản thân | |
4. | Một chọn lựa và một kế hoạch đời sống | |
5. | Một vài hệ quả quan trọng | |
IV. | ĐỨC ÁI MỤC TỬ Đức ái | |
1. | Đức ái mục tử | |
2. | Các hướng dẫn suy tư | |
V. | CỘNG ĐOÀN: NƠI, DẤU CHỈ VÀ TRƯỜNG HỌC của LINH ĐẠO SALÊDIÊNG | |
1. | Sự cấp bách của đời sống “huynh đệ” | |
2. | Cộng đoàn huynh đệ hôm nay | |
3. | Các mối quan hệ và sự truyền thông để tăng trưởng | |
VI. | LINH ĐẠO SALÊDIÊNG TRONG nếp SỐNG HẰNG NGÀY | |
1. | Chiêm niệm trong hoạt động | |
2. | Lao động | |
3. | Tiết độ | |
VII. | LINH ĐẠO SALÊDIÊNG TRONG THỰC HÀNH MỤC VỤ: HỆ THỐNG DỰ PHÒNG | |
I. | đức ái mục tử và đức ái sư phạm | |
1. | Một hình thức độc đáo của đức ái mục tử | |
2. | Các thái độ của đức ái sư phạm | |
II. | đức ái mục tử trong hoạt động giáo dục | |
1. | Gặp gỡ thanh thiếu niên | |
2. | Thái độ tiếp nhận | |
3. | Tạo dựng một môi trường | |
4. | Tương quan giáo dục cá nhân | |
5. | Kết luận | |
VIII. | CÁC NHÀ GIÁO DỤC | |
1. | Người Salêdiêng là nhà giáo dục | |
2. | Giáo dục và kinh nghiệm về Thiên Chúa | |
3. | Giáo dục và linh đạo | |
IX. | CÁC NHÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG | |
1. | Đức ái mục tử thúc đẩy rao giảng Tin Mừng | |
2. | Rao giảng Tin Mừng khuôn đúc linh đạo chúng ta | |
3. | Các thái độ và thực hành của việc rao giảng Tin Mừng | |
X. | BÍ TÍCH HOÀ GIẢI | |
1. | Các nhà giáo dục với ý thức về thực tại | |
2. | Được hoà giải sâu xa | |
3. | Các hối nhân | |
4. | Nhà giáo dục và thừa tác viên của sự sám hối | |
XI. | BIỂU HIỆN TRƯỞNG THÀNH CỦA ĐỨC ÁI MỤC TỬ: TÌNH PHỤ TỬ | |
1. | Linh mục – nhà giáo dục | |
2. | Tình phụ tử đặc trưng của Don Bosco | |
3. | Biểu hiện của tình phụ tử Salêdiêng | |
XII. | NGƯỜI PHỤC VỤ TỐT CỦA ĐỨC KITÔ | |
1. | Thống nhất con người và việc phục vụ | |
2. | “Tiếng gọi” lãnh trách nhiệm | |
3. | Ý thức mình là “dụng cụ” | |
4. | Ý thức mình đuợc gọi vào “một nghề cao quí” | |
XIII. | HÌNH ẢNH ĐỨC MẸ CỦA TIN MỪNG TRONG LINH ĐẠO SALÊDIÊNG | |
1. | Truyền tin: tiếng gọi và lời đáp | |
2. | Thăm viếng: một việc phục vụ quảng đại | |
3. | Chúa Giêsu giáng sinh | |
4. | Tiệc cưới Cana: Đức Kitô, chìa khoá cuộc đời | |
5. | Dưới chân Thập giá: phong phú trong Thánh Thần | |
6. | Tại Nhà Tiệc Ly: cộng đoàn với sức mạnh Thánh Thần | |
XIV. | HAI TƯỚC HIỆU: MỘT TỔNG HỢP | |
1. | Kinh nghiệm nguyện xá | |
2. | Thánh điện Đức Mẹ Phù Hộ | |
3. | Sự sáng lập các Tu Hội | |
4. | Biểu tượng và trắc nghiệm của linh đạo chúng ta |
[1] VC 14
[2] Xem Rm 8,22; Gl 6,15.
[3] Xem Ga 4,14.
[4] Rm 8,14.
[5] RM 28.
[6] Ga 6,63.
[7] Lc 1,35.
[8] Lc 3,21.
[9] Lc 4,18.
[10] Xem Lc 11,20.
[11] Lc 10,21.
[12] Cv 10,47.
[13] Cv 11,17.
[14] LG 4.
[15] Rm 8,8.
[16] Lc 23,46.
[17] Xem Gl 3,28.
[18] Xem EN 75.
[19] Xem Rm 8,19-22.
[20] 1C 3,1-2.
[21] DCG 38.
[22] Gl 2,20.
[23] Xem 1C 2,1tt.
[24] Rm 8,38-39.
[25] Xem Gl 5, 22-23.
[26] Xem HL FMA 67.
[27] Xem Kh 7,13.
[28] Xem Rm 12,6.
[29] Xem HL SDB 21.
[30] Thư viết năm 1884, MB XVII, pag. 175.
[31] Xem MB XI, pag. 387.
[32] MB XIX, pag. 81.
[33] Xem MB I, pag. 118.
[34] P. BROCARDO, Don Bosco profondamente uomo – profondamente santo, LAS, Roma 1985, pag. 35.
[35] GIOVANNI BOSCO, Memorie dell’Oratorio, a cura di A. Da Silva Ferreira, LAS, Roma 1992, pag. 66.
[36] MB X, pag. 1038.
[37] GIOVANNI BOSCO, Vita di San Domenico Savio, Cap. XVIII.
[38] Xem N. CERRATO, Don Bosco e le virtù della sua gente, LAS, Roma 1985.
[39] Dt 11,27.
[40] Xem HL SDB 3.
[41] GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp “Dominum et Vivificantem” số 59.
[42] P. STELLA, Don Bosco nella storia della religiosità cattolica, Vol. II, PAS-Verlag, Zurigo 1969, pag. 32.
[43] VC số 19.
[44] VC số 17.
[45] VC số 18.
[46] VC số 22.
[47] HL SDB 3.
[48] HL FMA 5.
[49] Lc 4,18.
[50] Hiện có một nhóm đang suy tư về phần đóng góp chuyên biệt của người tu sĩ trong hoạt động giáo dục.
[51] Xem Am 1,1.
[52] Pl 3,12.
[53] Gr 20, 7-9.
[54] Is 41,8 (?).
[55] Gr 31,3.
[56] Ep 1,19 (?).
[57] Cv 17,28.
[58] Tv 62,2.
[59] Tv 16,15.
[60] Xem Ga 15,14.
[61] Xem VC số 101-102.
[62] Radio Vaticana, 20-2-84; “Avvenire”, 22-2-84.
[63] HL SDB 21.
[64] HL SDB 21.
[65] HL SDB 10; HL FMA 80.
[66] Xem SAN FRANCESCO DI SALES, Trattato dell’amore di Dio, Vol.II, libro X, c. 1.
[67] Xem 2C 12,13-14.
[68] 1Ga 4.
[69] Rm 5,5.
[70] 1Ga 4, 7-8
[71] 1C 13,12.
[72] 1C 13, 1-3.
[73] 1C 13, 8-10.
[74] 1C 12,31.
[75] 1C 13, 4-6.
[76] MB XV, pag. 183 (tất cả “Giấc mơ” nổi tiếng này).
[77] HL SDB 196.
[78] LG 41.
[79] Xem Ga 10.
[80] G. BOSCO, Vita di San Domenico Savio, SEI, Torino 1963, capo VIII, pag. 34.
[81] MB VII, pag. 622.
[82] MB V, pag. 9.
[83] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS Roma 1985, pag. 84.
[84] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS Roma 1985, pag. 85.
[85] P. STELLA, Don Bosco nella storia della religiosità cattolica, Vol. II, Pas Verlag, Zurigo 1969, pag. 13.
[86] VC 45.
[87] Xem Cv 2, 44-47; 4, 32-35.
[88] HL SDB 49.
[89] Xem HL SDB 44; HL FMA 51.
[90] Ga 13, 34-35.
[91] THÁNH BỘ CÁC TU HỘI THÁNH HIẾN VÀ CÁC TU HỘI TÔNG ĐỒ, Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 3.
[92] Mt 18, 20.
[93] Xem Sắc lệnh Công đồng Optatam Totius, số 11.
[94] Xem HL SDB 51 và 110.
[95] Xem TTN24, các số 91-93.
[96] Xem VC 38.
[97] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS, Roma 1985, pag. 97.
[98] Xem C. CARRETTO, Lettere dal deserto, La Scuola Editrice, Brescia 1964, pag. 47.
[99] Lc 23,33.
[100] Lc 23,46.
[101] Lc 3,21-22.
[102] Xem Lc 4.
[103] Lc 6,12-13.
[104] Lc 22,32.
[105] Xem Ga 17.
[106] Mt 11,25-26.
[107] Ga 11,41-42.
[108] Mt 11,25.
[109] Xem Mt 7,21.
[110] Xem Lc 21,36.
[111] Mt 6,7.
[112] Xem Mt 6,7.
[113] Mt 6,9.
[114] Ga 4,23.
[115] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS, Roma 1985, pag. 99.
[116] Như trên, trang 99.
[117] Như trên, trang 105.
[118] HL SDB 95.
[119] HL SDB 95.
[120] Rm 12,1.
[121] Cl 3,17.
[122] Xem HL SDB 95; HL FMA 48.
[123] P. BROCARDO, “Don Bosco profeta di santità per la nuova cultura”, trong M. MIDALI (chủ biên), Spiritualità dell’azione, LAS, Roma 1977, pag. 197.
[124] TTN23; HL SDB 95.
[125] HL SDB 1858.
[126] R. GUARDINI, Lettere su autoformazione, pag. 91.
[127] Rm 8,26-27.
[128] Annali, c. CXVII, pag. 722.
[129] HL SDB 10 và 19.
[130] VC 38.
[131] Xem VC 38.
[132] 1C 9,25-27.
[133] HL SDB 90.
[134] Mt 6,16-17.
[135] Juvenum Patris 5.
[136] HL SDB 20; HL FMA 7; 66.
[137] TTN23 95.
[138] MB V, pag. 367.
[139] MB I, pag. 395.
[140] MB V, pag. 124.
[141] Xem MB V, pag. 917-918.
[142] HL 39.
[143] MB II, pag. 63.
[144] MB VII, pag. 366.
[145] Dnl 32,10-12.
[146] Hs 11,1-4.
[147] Dnl 8,5.
[148] Xem Mc 9,38-39; Lc 9,52-56.
[149] Xem Ga 9,1-4; 11,17tt; Lc 13,1-5.
[150] Xem Mt 12, 1-11; 15,10-19; 13,13-20; Lc 13,10-16; Ga 5,9-18.
[151] Pl 4,8.
[152] HL FMA 67.
[153] HL SDB 62.
[154] PC, số 8.
[155] Xem HL SDB 20; HL FMA 7, 66.
[156] Xem C.M. MARTINI, L’Evangelizzatore in San Luca, Ed. Ancora, Milano 1986, pag. 18-19.
[157] Xem EN số 15.
[158] 1 C 9,16.
[159] EN số 80.
[160] Xem HL SDB 34; HL FMA 70.
[161] Xem HL SDB 6; HL FMA 70.
[162] Gl 6,6.
[163] EN, các số 75-80.
[164] Việc “đọc Kinh Thánh” cũng được nhắc nhở trong Tông huấn Vita Consecrata số 94 như là nguồn mạch đời sống thiêng liêng và như phương thế thông truyền giữa các tu sĩ với nhau.
[165] Xem Kh 10,9; Gr 5,14.
[166] Xem Ga 3,16.
[167] Lc 4,31.
[168] Hội thảo về Rao giảng Tin Mừng, Tây Ban Nha 1985; xem Ecclesia số 2237 (21-09-1985).
[169] Mc 4,27-28.
[170] Xem TTN23 các số 182-191.
[171] 2 Cr 5,17-19.
[172] RM 18.
[173] Rm 5,1.10-11.
[174] Tv 106 (105).
[175] Tv 103 (102).
[176] Mt 4,17.
[177] Mt 10,38.
[178] HL SDB 18.
[179] Xem HL SDB 90.
[180] MB VII, pag. 664.
[181] Mt 6,16-17.
[182] GIOAN BOSCO, Vita del giovane Domenico Savio.
[183] MB VIII, pag. 534.
[184] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS, Roma 1985, pag. 81-82.
[185] 1C 4,15.
[186] P. BROCARDO, Don Bosco profondemente uomo – profondemente santo, LAS, Roma 1985, pag. 33-38.
[187] MB XVII, p. 107.
[188] MB XVII, p. 175.
[189] Xem P. STELLA, Don Bosco nella storia della religiosità cattolica, Vol. II, Pas Verlag, Zurigo 1969, pag. 46.
[190] Xem Tl 9,7-15.
[191] Ga 21,18-19.
[192] Xem Lc 21,2.
[193] Mc 10,45.
[194] Lc 1,26-38.
[195] Lc 1,28.
[196] Lc 1, 37.
[197] Lc 1,39-56.
[198] 2S 6,9.
[199] Lc 1,45.
[200] Lc 2,1-20.
[201] Lc 2,51.
[202] Ga 2,11.
[203] Ga 2,5.
[204] Ga 19,25-27.
[205] Ga 19,25.
[206] Ga 12,32.
[207] Ga 19,23.
[208] Cv 1,14.
[209] Xem Lc 24,33.
[210] Xem Cv 1,8-12.
[211] Cv 1,14.
[212] Cv 1,21.
[213] Xem MB XI, pag. 395.
[214] Xem HL SDB 92; HL FMA 44.
[215] Xem MB VII, pag. 334.
[216] Xem MB VI, pagg. 632 e 887.
[217] Xem MB VII, pag. 334.
[218] Xem MB VII, pag. 334.
[219] GIOVANNI BOSCO, Meraviglie della Madre di Dio invocata sotto il titolo di Maria Ausiliatrice, Torino 1868, pagg. 5-7.
[220] Xem P. STELLA, Don Bosco nella storia della religiosità cattolica, Pas Verlag, Zurigo 1969, Vol. II, pag. 169.
[221] Xem MB IX, pag. 247; XVIII, pag. 338.
[222] Xem P. STELLA, Don Bosco nella storia della religiosità cattolica, Pas Verlag, Zurigo 1969, Vol. II, pag. 174.
[223] Processo ordinario, I, pag. 511ss.; La Madonna dei tempi difficili, pag. 118.
[224] Xem MB IX, pag. 359.
[225] Xem MB X, pagg. 416. 622; XVII, pag. 143.
[226] Xem C. COLLI, Patto della nostra alleanza con Dio, Istituto FMA, Roma 1984, pag. 446.
[227] Luân thư ngày 24-10-1965; xem C. COLLI, Patto della nostra alleanza con Dio, Istituto FMA, Roma 1984, pagg. 455-456.
[228] Xem C. COLLI, Patto della nostra alleanza con Dio, Istituto FMA, Roma 1984, pag. 453.
[229] Xem C. COLLI, Patto della nostra alleanza con Dio, Istituto FMA, Roma 1984, pagg. 454-455; xem E. CERIA, Vita del servo di Dio sac. Filippo Rinaldi, SEI, Torino 1946, pagg. 294-295.
[230] MADRE LUISA VASCHETTI, Luân thư ngày 24-4-1942; xem C. COLLI, Patto della nostra alleanza con Dio, Istituto FMA, Roma 1984, pagg. 445.
[231] MB XVII, pag. 340.
[232] Thư viết năm 1884; cũng xem MB XVII, pag. 144.
[233] Xem HL FMA 4; HL SDB 1.
[234] Xem HL FMA 79; xem HL SDB 98.
[235] MB VII, pag. 4.
Leave a Reply