Don Bosco: Một Tiểu sử mới – phần II
Chương 35
THẦY TU HAY KHÔNG, TÔI SẼ VẪN Ở LẠI VỚI DON BOSCO
Một ngày mùa hạ năm 1857, Don Bosco gặp gỡ bộ trưởng Rattazzi. Câu chuyện trao đổi về “công cuộc Nguyện Xá” mà vị bộ trưởng rất quí trọng, nhất là kể từ nỗ lực của các bạn trẻ giải cứu những người bị bệnh dịch, và sự kiện dẫn các tù nhân của nhà tù Generala đi chơi ngoài trời. Theo như cha Lemoyne, cuộc trao đổi như sau:
– Tôi chúc cha sống được nhiều năm. Nhưng rồi cha cũng phải chết. Vậy khi đó các trẻ của cha sẽ ra sao?
– Vậy tôi xin hỏi lại ngài, thưa bộ trưởng: Tôi phải làm gì để đảm bảo việc tồn tại công cuộc của tôi?
– Tôi khuyên cha nên chọn những giáo sĩ mà cha tín nhiệm, để lập nên một Hội, thấm nhuần tinh thần của cha, và cha dạy dỗ họ về hệ thống giáo dục của cha. Bây giờ thì họ sẽ là những người trợ lực cho cha, nhưng tương lai họ sẽ là những người kế tục cha.
Don Bosco mỉm cưới:
– Nhưng cách đây hai năm chính ngài đã chấp thuận luật hủy bỏ nhiều dòng tu. Thế mà bây giờ lại chính ngài đề nghị lập một cộng đoàn tu trì mới. Liệu chính phủ có để cho nó được sống chăng?
– Luật hủy bỏ các dòng tu tôi biết rõ chứ. Ông bộ trưởng Rattazzi tới lượt mình lại mỉm cười. Còn cha, cha có thể thiết lập một hội mà không ai có thể làm cho nó chết đi được.
– Bằng cách nào?
– Một Nhà Nước thế tục sẽ không bao giờ nhìn nhận một “Tu Hội” trong tư cách nó thuộc về Giáo Hội, hay thuộc về một thẩm quyền khác với nó. Nhưng nếu đó là một Hội trong đó mỗi thành phần đều duy trì các quyền dân sự, tuân giữ Pháp Luật nhà nước, đóng thuế đàng hoàng, thì nhà Nước sẽ không nói gì cả. Trước mặt nhà nước, Tu Hội này không khác chi một Hiệp Hội của các công dân tự do, những người liên kết lại với nhau và sống cùng nhau vì một mục đích từ thiện, giống như các Hội khác qui tụ lại vì mục đích thương mại để cứu trợ lẫn nhau. Còn như nếu ở trong nội bộ của chúng, những hội viên này cũng vẫn chấp nhận quyền bính của các Đức Giám mục, và của Đức Thánh Cha, thì nhà nước vẫn để mặc kệ. Lý do là tất cả các hội của các người công dân tự do luôn luôn được phép, miễn là họ tôn trọng luật pháp và quyền bính của nhà nước.
Don Bosco cảm ơn ông bộ trưởng, và hứa chắc với ông là mình sẽ suy nghĩ kỹ về điều này. Bộ trưởng Rattazzi chỉ làm một việc là tạo nên một hình thức trong sáng cho các ý tưởng mà Don Bosco đã ấp ủ từ nhiều năm nay. Ngài đang thực sự nghiên cứu thiết lập một Tu Hội mà “về mặt Giáo Hội” nó là Dòng Tu, còn “về mặt Nhà Nước”, nó là một Hội của các công dân tự do. Cái khó khăn chính là liệu Tòa Thánh có chấp nhận quan điểm mới này chăng: một quan điểm chấp nhận trên thực tế việc chia tách giữa Nhà Nước và Giáo Hội (đó là nguyên tắc của phe tự do), và là một cuộc đổi mới đối với các khung cổ điển về đời tu sĩ chăng? Cho tới bây giờ thì các tu sĩ đều luôn là tu sĩ “trước mặt Giáo Hội cũng như trước mặt Nhà Nước”.
Bản Phác thảo viết tay về một Tu Hội mới đang phát sinh
Trong khi suy nghĩ về việc phải dùng công thức viết thế nào, thì Don Bosco lại quan tâm tới các nhân viên sẽ tạo nên Tu Hội này. Các cộng sự viên của cha, người này sang người khác, đã lần lượt bỏ cha. Con đường phải theo đã được Bà lạ trong giấc mơ chín tuổi chỉ cho cha thấy: Con phải làm phát sinh các mục tử từ trong đám chiên con.
Thầy Micae Rua vào tháng Ba năm 1855 được tuyên khấn các lời khấn lần đầu tiên.
Và tháng sau tới lượt cha Alasonatti tuyên khấn.
Trong năm 1856 tới lượt thầy Gioan Baotixita Francesia, người đã sáng tác một bài hát La-tinh để hát vào dịp đó.
Chẳng có ai trong số những người này lại nghĩ mình là thành phần của một dòng tu nào cả. Họ chỉ nghĩ qua lời khấn mình liên kết nhiều hơn với Don Bosco “để dành cho cha một cánh tay”.
Don Bosco tiếp tục cẩn trọng cách ghê gớm: Dòng tu và thầy tu không phải là một của thời đại đó. Ngài cẩn thận tránh mọi thứ “giống với những phong tục của dòng tu: việc nguyện ngắm thường xuyên, với kinh kệ, và việc tuân giữ nhiệm nhặt” (E. Ceria).
Hơn thế nữa, vào cuối năm 1859 Don Bosco không được ai cho phép gì cả để tự phong mình là “người đứng dầu một dòng tu”. Ngài chỉ được quây quần bởi các thầy tư giáo đã lãnh nhận áo chùng thâm giáo sĩ. Tất cả chuyện này được phép bởi vì Đức Tổng Giám Mục nhìn thấy đó là điều cần thiết cho “công cuộc các Nguyện Xá”. Đàng khác những thầy tư giáo này luôn phải chịu thi cử tại Tòa Giám Mục, và theo học các lớp học tại chủng viện, trừ một số ít được miễn chuẩn vì công việc của họ đang rất cần tại Nguyện Xá. Don Bosco cai quản các Nguyện Xá, trường Nội Trú Valdocco, các tư giáo, dưới quyền của Đức Tổng Giám Mục Fransoni của Tổng Giáo Phận Torino.
Vậy là không cần vẻ bề ngoài, nhưng nội dung bên trong thì dần được cô đọng lại. Cần phải phác họa một đường nét cho Tu Hội, tức là “một bản Hiến luật” minh định các điểm cốt yếu của tinh thần và phương pháp hành động.
Don Bosco âm thầm làm công việc này ngay từ năm 1855: kín múc từ nguồn kinh nghiệm của Ngài, từ “các luật của Nguyện Xá” vốn đã vạch ra đường nét cho Nguyện Xá, từ việc bàn thảo, dựa vào các luật của các dòng tu xưa và các Tu hội mới đây, như Tu Hội Bác ái của cha Rosmini và Tu Hội Tận hiến của cha Lanteri.
Cuộc trò chuyện với bộ trưởng Rattazzi (trong đó vị bộ trưởng chỉ nhắc lại điều đã được công khai trình bày tại Hạ viện) là một luồng sáng lóe lên giúp Ngài hiểu là mình có thể đem điều cốt yếu của đời sống tu sĩ vào trong những hoàn cảnh mới do chế độ chính trị mới đề ra. Don Bosco sẽ kiên quyết bảo vệ quyền dân sự cho các tu sĩ của Ngài.
Vào cuối năm 1857, bản văn đầu tiên của Tu luật Salêdiêng đã viết xong. Sau này nó sẽ được phân chia thành Hiến luật và Qui chế. Công tác hoàn tất luật dòng để xin sự chuẩn nhận của giáo quyền bắt đầu.
Được báo cáo về sáng kiến của Don Bosco, Đức Tổng Giám Mục Fransoni từ nơi lưu đày ở Lion nhiệt tình khích lệ Don Bosco. Để nắm chắc phần thành công, Ngài khuyên cha đến thưa chuyện về kế hoạch này với Đức Thánh Cha Piô IX.
Trong những ngày đầu tiên của tháng hai năm 1858, Micae Rua trải qua nhiều giờ thức đêm chép tay cẩn thận và nắn nót bản viết tay của Luật Tu Hội. Don Bosco nhắn nhủ Rua:
– Con hãy chép cho thật đẹp. Chúng ta sẽ cùng nhau mang nó đến với Đức Thánh Cha.
Ngày 18 tháng Hai, hai cha con đi tới Roma. Đây là một cuộc hành trình đầy khó khăn vào thời đó: khi thì đi đường bộ, khi thì đi đường biển, với một hộ chiếu đàng hoàng. Trước khi lên đường, Don Bosco đã nghĩ nên để lại nhà một bản di chúc. Nguyện Xá được trao phó cho cha Alasonatti.
Ngày 9 tháng Ba, Don Bosco có cuộc bệ kiến Đức Thánh Cha Piô IX. Đức Thánh Cha tỏ lòng ưu ái mà dấu ấn còn tiếp tục mãi. Ngài không dấu sự cảm phục trước hoạt động sôi nổi của vị linh mục Torino này. Ngài chấp thuận ý hướng sáng lập Tu Hội thích nghi với thời đại, nhưng cũng thêm những lời dạy bảo: Điều quan trọng nhất con phải liên kết các hội viên lại bằng “các lời khấn tu sĩ đích thực”, chứ không chỉ bằng “các lời hứa” như Rattazzi đã gợi ý. Ngài cũng nói với Don Bosco là chính Đức Thánh Cha cũng cần phải suy nghĩ thêm về công việc này. “Các con hãy lên đường, hãy cầu nguyện, rồi một ít ngày nữa các con hãy trở lại để nói cho cha hay ý kiến của con”.
Hạnh phúc vì sự tiếp nhận ân cần này, Don Bosco tái duyệt lại Tu luật và cho Rua chép lại.
Ngày 21 tháng Ba có một cuộc bệ kiến Đức Piô IX lần thứ hai. Đức Thánh Cha đã suy nghĩ và diễn tả ra ý nghĩ của Ngài như sau:
“Cha tin chắc là kế hoạch này sẽ tạo nhiều lợi ích lớn lao cho giới trẻ. Con phải thực hiện nó. Tu luật phải nhẹ nhàng và dễ tuân giữ. Cách thức về tu phục, các việc thực hành đạo đức không cần phải khác biệt với các giáo dân. Có lẽ để nhằm mục đích này, con sẽ gọi Tu Hội thay vì Dòng Tu. Nói tóm lại, con hãy làm sao để mỗi hội viên của Tu Hội này trước mặt Hội Thánh là một người tu sĩ, còn trong đời sống xã hội họ là người công dân”.
Don Bosco nghĩ ngay rằng Đức Thánh Cha Piô IX cũng nghĩ giống Rattazzi. Nên cha trình lên Đức Thánh Cha bản văn ngắn gọn của Tu luật:
“Trong Tu luật mà con đã sửa lại theo các lời căn dặn của Đức Thánh Cha này, chỉ chứa đựng tất cả kỷ luật và tinh thần mà trong suốt 20 năm qua đã hướng dẫn chúng con”.
Tu luật này không có dáng dấp đan sĩ gì cả. Đây chính là một Hội, hay Tu Hội gồm các giáo sĩ và giáo dân kết hiệp lại với nhau qua các lời khấn và tất cả họ đều ước muốn tận hiến chính mình cho lợi ích của giới trẻ nghèo. Đứng trước Nhà Nước họ là các công dân: “Mỗi người khi vào Tu Hội, không mất đi quyền dân sự và sau khi đã thực hiện các lời khấn, họ vẫn duy trì quyền sở hữu các của cải của mình. Trước mặt Hội Thánh họ là các tu sĩ: “Những hoa quả của cải của họ, trong suốt thời gian họ sẽ ở lại trong Tu Hội, phải được nhượng lại cho Tu Hội”.
“Trong cuộc bệ kiến thứ ba vào ngày 6 tháng Tư – theo lời cha Ceria kể lại trong Biên niên sử Tu Hội Salêdiêng – thì Đức Piô IX đã trả lại bản thảo cho Don Bosco, nói là Don Bosco hãy trao nó vào tay Đức Hồng Y Gaude”.
Vị Hồng y người Piemonte này có mối giao hảo hết sức tốt đẹp với Don Bosco. Ngài đã đọc, sửa lại nó một lần nữa. Sau đó Ngài khuyên Don Bosco hãy đem thực hành thí nghiệm Tu Luật đã được sửa lại này. Sau đó hãy trình bày lại với Đức Thánh Cha.
Vào ngày 14 tháng Tư, Don Bosco rời Roma.
Một tuần lễ để quyết định cuộc sống của Tu Hội
Ngày 9 tháng 12 năm 1859, Don Bosco nghĩ tới lúc công khai hóa về Tu Hội. Ngài nói với các “người Salêdiêng” qui tụ lại trong phòng của Ngài gồm 19 người, những lời như sau:
“Từ lâu cha đã nghĩ đến việc sáng lập Tu Hội. Bây giờ là thời gian đi đến bước cụ thể. Đức Thánh Cha Piô IX đã khích lệ và ca ngợi đề nghị của cha. Thực ra Tu Hội này không phát sinh bây giờ: nó đã hiện hữu qua Luật Nguyện Xá mà các con đã tuân giữ như một truyền thống… Nhưng giờ đây một bước tiến lên phía trước, để chính thức thiết lập Tu Hội và tiếp nhận Tu Luật. Tuy nhiên các con phải biết rằng sẽ chỉ được ghi danh vào Tu Hội này tất cả những ai sau khi đã suy nghĩ chín chắn, muốn thực hành vào thời gian thích hợp các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục… Cha để cho các con một tuần lễ để suy nghĩ về điều này”.
Ra khỏi phòng họp, tất cả đều im lặng một cách bất thường. Thế rồi đột nhiên họ bắt đầu phát biểu rằng Don Bosco đã có lý để tiến hành một cách chậm rãi và thận trọng. Có tiếng lẩm bẩm rằng Don Bosco muốn biến họ thành các thầy tu. Cagliero bước những bước đi trên khu sân phía trong để đắn đo suy nghĩ những tư tưởng đối nghịch cùng nhau.
Thế rồi ước vọng để “ở lại với Don Bosco” lấn chiếm lấy ý nghĩ của đa số. Cagliero buột miệng nói ra một câu mang tính cách lịch sử: “Dù là thầy tu hay không phải thầy tu, tôi quyết ở lại với Don Bosco”.
Trong “Hội Nghị kết ước” diễn ra vào ngày 18 tháng Mười Hai, trừ 2 người trong số 19 người nói trên, tất cả họ đều tham dự vào buổi họp. Sau đây là nội dung cuộc họp được cha Alasonatti đúc kết lại:
“Trong phòng của linh mục Gioan Bosco, vào lúc 09 giờ tối, chúng tôi qui tụ lại gồm các thành viên sau: Don Bosco, linh mục Alasonatti Vittorio, các tư giáo Saviô Angelo phó tế, Micae Rua phụ phó tế, Gioan Cagliero, Gioan Tẩy giả Francesia, Phanxicơ Provera, Carlo Ghivarello, Giuse Lazzero, gioan Bonetti, Gioan Anfossi, Luy Marcellino, Phanxico Cerruti, Celestino Durando, và thanh niên Luy Chianale.
Tất cả đều đồng ý cùng nhau tạo thành Tu Hội hay Dòng tu…
Họ nhất trí xin Don Bosco, là người khởi xướng và cổ xúy, để đảm nhận chức danh Bề Trên Cả, và Ngài chấp thuận với điều kiện là phải có vị Phó bề trên cả gọi là Tổng quản: ý kiến là chức vụ này do người viết biên bản này đảm nhận…
Họ nhất trí chọn Giám linh là phụ phó tế Micae Rua. Phó tế Angelo Saviô được chấp thuận làm quản lý. Ba vị cố vấn được bầu chọn là các tư giáo Gioan Cagliero, Gioan Bonetti và Carlo Ghivarello. Thế là việc thiết lập cơ quan quản trị được thiết lập xong cho Tu Hội chúng ta (mà sau này được gọi Thượng Hội đồng).
“Nếu không làm linh mục, cậu sẽ làm gì tại Nguyện Xá?”
Tu Hội ra đời, Don Bosco rất vui. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng một ngấn buồn vẫn còn in hằn trong sâu thẳm tâm hồn cha: trong số 17 người đã chấp nhận lời mời gọi, không có anh Giuse Buzzetti rất thân thiết của cha.
Khi sử dụng khẩu súng lục (để bảo vệ những đồ vật trưng bày trong cuộc sổ số), cậu ta đã gặp phải tai nạn nghiêm trọng là mất ngón tay trỏ trái. Điều này vào thời đó được coi là một cản trở nghiêm trọng để có thể trở thành linh mục. Tai nạn này “cùng với lòng khiêm cung”, như cha Lemoyne nhận xét, đã thuyết phục Buzzetti không nhận tu phục giáo sĩ.
Nhưng cậu dâng hiến mọi thời giờ trong ngày của cậu cho Don Bosco của mình tại Nguyện Xá. Cha Lemoyne kể ra: Cậu chăm sóc nhà cửa, hộ trực tại phòng ăn, sắp xếp bàn ghế, cung cấp những gì cần thiết cho việc dọn quét dọn nhà cửa, dạy các lớp tại trường giáo lý, chăm lo việc quản lý và việc chuyển các Tập san Công giáo. Cậu cũng điều khiển trường dạy hát cho tới năm 1860, cho tới khi cậu nhường công việc đó cho anh Gioan Cagliero. “Với trí minh mẫn và hoạt động nhanh nhạy, cậu là linh hồn của mọi cuộc sổ số, lo lắng tìm việc làm cho các xưởng, lo mua lương thực và những thứ cần thiết”.
Cậu cảm nhận Nguyện Xá như là xương thịt của bản thân mình. Khi tòa nhà gần xây dựng xong bị sụp đổ, cậu đã giám sát các hóa đơn cách tỉ mỉ và đã tìm ra các mặt hàng mua đã quá hạn, nên đã mắng nhiếc nặng lời với người chủ thầu. Chính Don Bosco đã phải làm cậu lắng dịu lại:
– Chúng ta phải kiên nhẫn. Con sẽ xem Chúa sẽ giúp chúng ta.
– Vâng, vâng, Chúa sẽ giúp chúng ta! Nhưng chính cha đã phải thức khuya, làm việc ngày đêm để kiếm từng đồng một[1], còn đây họ ăn cắp của cha hàng ngàn đồng trong một lúc. Cần phải cho họ một bài học quyết liệt.
– Thôi chúng ta để cho sự việc trôi qua. Nếu họ đáng hình phạt, Chúa sẽ cho họ bài học.
Cha Lemoyne tiếp tục kể rằng Buzzetti giữ vai trò vệ sĩ cho Don Bosco, đi theo ngài khi có nguy hiểm, tới gặp ngài vào ban tối. Gương mặt cứng cỏi của cậu, bộ râu đỏ xồm xoàng của cậu làm biến tan nơi những kẻ ác ôn cái ý định tấn công vị linh mục của khu Valdocco[2] này.
Hai người em thợ xây của cậu mà một người đã trở thành thợ cả, nhiều lần nói với cậu:
– Nếu anh không làm linh mục, thì anh ở lại Nguyện Xá làm gì? Nếu Don Bosco chết đi, mà anh không có nghề nào trong tay, thì anh xoay sở làm sao?
– Don Bosco đã đảm bảo với anh rằng sau khi ngài chết, thì vẫn luôn có miếng bánh dành cho anh. Đối với anh, thế là đủ rồi.
Tuy nhiên chàng trai trẻ 27 tuổi này, người vốn sẵn sàng hiến mạng sống mình cho Don Bosco, lại không cảm thấy phải khấn dòng và trở thành người Salêdiêng.
Người “giáo dân” thứ nhất được nhận vào Tu Hội Salêdiêng chính là Giuse Rossi. “Ban Cố Vấn của Tu Hội Salêdiêng” nhóm họp ngày 2-2-1860 đã quyết định tiếp nhận cậu. Với Rossi, tiếng “sư huynh” bắt đầu xuất hiện trong ngữ vựng của Dòng, để chỉ về người Salêdiêng giáo dân.
Cơn khủng hoảng của Giuse Buzetti
Ngày 14 tháng Năm 1862 đánh dấu bước kiện cường Tu Hội Salêdiêng. Họp nhau lại tại phòng Don Bosco, “các hội viên” đáp lại lời mời gọi của ngài, “hứa với Thiên Chúa sẽ tuân giữ Luật Dòng khi họ khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời trong ba năm”. Con số họ là 22 người, không kể Đấng Sáng lập.
Vào cuối buổi họp, Don Bosco nói: “Trong khi anh em tuyên những lời khấn này trước mặt cha, thì cha cũng tuyên khấn trước Chúa Chịu Đóng Đinh cho suốt cả đời cha, bằng cách hiến dâng cha như của lễ hy sinh cho Chúa”.
Trong nhóm 22 người này có hai giáo dân thuộc thành phần rất khác biệt nhau: một người tên là Giuse Gaia, là đầu bếp trong nhiều năm tại Nguyện Xá, còn người kia là Feredico Oreglires thuộc vùng San Tefano [thánh Stêphanô], một nhà quí tộc thành Torino. Don Bosco đã chinh phục được người này trong một khóa tĩnh tâm, giúp cho chàng ta khép lại “một giai thoại cuộc sống mạo hiểm và ăn chơi”. Trong suốt 9 năm trời chàng đã giúp Nguyện Xá rất nhiều việc, rồi sau đó vào dòng Tên.
Một cám dỗ dễ dàng vào những năm kế tiếp khi thấy các giáo dân tham gia đời sống Tu Hội, thì người ta ưa coi các hội viên bậc giáo dân chỉ là “những người đầy tớ giúp việc” cho nhà, hay ít ra chỉ là “tu sĩ bậc hai”.
Có lẽ chính đó là nguyên nhân phát sinh “cơn khủng hoảng” của Buzetti. Cuốn năm trong Bộ Hồi Ký đã kể lại chuyện này, và chúng ta liệt kê lại như sau:
Cậu ta thấy rằng gia đình trong chế độ gia trưởng xưa kia đã bị biến thể bởi Tu luật; cậu thấy là dần dà việc điều hành nhà Nguyện Xá và nhiều công việc xưa kia được trao phó cho cậu được chuyển sang tay các giáo sĩ. Buồn bã và thất vọng, cậu quyết định ra đi. Cậu đã tìm được một chỗ làm tại Torino và đến chào biệt Don Bosco. Với sự thẳng thắn vốn có, cậu nói cho ngài hay rằng đã từ lâu cậu trở thành chiếc bánh xe ở đằng cuối cùng, phải vâng lời những người mà xưa kia cậu đã thấy họ vào Nguyện Xá khi còn là những đứa con nít, mà cậu còn phải dạy chúng hỉ mũi nữa. Cậu biểu lộ nỗi buồn phải lìa xa căn nhà mà xưa kia cậu đã đến khi nó chỉ là một cái mái dại ra.
Don Bosco không nói với cậu rằng “Con để cha lại một mình ư? Cha sẽ làm gì nếu không có con?” Ngài không phàn nàn cho chính bản thân ngài. Ngài nghĩ tới cậu, tới người bạn thân thiết của ngài: “Con đã tìm được một chỗ làm việc rồi ư? Họ sẽ trả cho con lương bổng tốt đẹp chứ? Con có tiền không, và chắc là con đang cần tiền chi trả cho những phí tổn lúc ban đầu”. Ngài mở ngăn kéo bàn ra: “Con biết rõ hơn cha những ngăn kéo này, Con cứ lấy đi tất cả những gì con cần, và nếu không đủ, con cứ nói cho cha, cha sẽ lo liệu, Buzetti yêu mến, cha không muốn con phải chịu thiếu thốn vì cha”. Thế rồi Don Bosco trìu mến nhìn cậu, vẻ nhìn mà chỉ có mình ngài mới có thể có được đối với các trẻ em con cái thân thương của ngài: “Chúng ta đã luôn luôn yêu thương lẫn nhau. Cha tin rằng con sẽ không bao giờ quên cha”.
Thế là Buzetti bật khóc. Cậu khóc rất lâu và nói: “Không, con không muốn rời bỏ Don Bosco. Con sẽ luôn luôn ở với cha”.
Người sư huynh Don Bosco có trong trái tim ngài
Có lẽ biến cố này đã kích thích Don Bosco minh định rõ nét hơn dung mạo Salêdiêng giáo dân, “người sư huynh” trong Tu Hội Salêdiêng.
Ngày 31-3-1876, trong một buổi “huấn từ tối” dành cho các học sinh thợ, ngài đề ra ơn gọi của người Salêdiêng giáo dân là gì: “Các con hãy chú ý là giữa các hội viên của Tu Hội không hề có một sự phân biệt nào cả; tất cả đều được đối xử như nhau, nào là người thợ, tư giáo và linh mục; chúng ta đều coi nhau tất cả như anh em”.
Năm 1877, Giuse Buzetti quyết định làm đơn xin gia nhập Tu Hội Salêdiêng. Don Bosco muốn chính mình trình đơn xin của cậu lên Ban Cố Vấn Tu Hội, được thiết lập hầu như hoàn toàn từ những đứa bé nhỏ xíu ngày xưa Buzetti “đã dạy hỉ mũi”. Cậu được chấp thuận với toàn bộ số phiếu và chúng ta tin rằng đây chính là một trong những ngày tuyệt vời nhất trong cõi lòng Don Bosco.
Kể từ đó rất nhiều các sư huynh tham gia vào Tu Hội Salêdiêng với các chức vụ rất khác biệt nhau: Pelazza và Gambino làm giám xưởng; Marcello Rossi là người gác cổng; Nasi coi phòng bệnh; Giuse Rossi quản thủ viên; Enria tạp vụ; Falco và Ruffato nấu ăn. Nhưng tất cả trong vai trò sư huynh đều “phụ giúp các linh mục” trong trách nhiệm tông đồ: dạy giáo lý, hộ trực và là nhà giáo dục.
“Cám dỗ hạ thấp vai trò sư huynh Salêdiêng” vào những năm cuối đời Don Bosco lại quay trở lại. Trong “Tổng Tu Nghị thứ ba” của Tu Hội vào năm 1883, có người nói: “Cần phải duy trì trình độ thấp cho các sư huynh”, huấn luyện họ như là một loại tu sĩ tách biệt”. Don Bosco đã phản ứng mãnh liệt: “Không, không, không. Các hội viên sư huynh giống như tất cả mọi người chúng ta”. Và khi nói chuyện với các Salêdiêng giáo dân này trong cùng năm đó, ngài quả quyết cách mạnh mẽ: “Anh em không phải là những người trực tiếp làm việc hay phải khó nhọc, trái lại anh em là người điều hành. Anh em phải như những chủ nhân trên các người thợ, chứ không phải là các người đầy tớ…Đấy chính là ý tưởng về người sư huynh Salêdiêng. Cha thật cần có nhiều người đến giúp đỡ cha theo cách thức đó! Do đó cha bằng lòng khi thấy các con thích hợp và tươm tất; anh em cần được ngủ nghỉ trên giường tử tế và trong khu ngủ xứng đáng, vì anh em không phải là bề dưới mà là bề trên”.
Cha Braido là một học giả về vấn đề này đã quả quyết: “Dung mạo sư huynh (Theo Ý Don Bosco) không xuất phát đột xuất giống như một cuộc tạo nên hoàn toàn mới mẻ và độc đáo, trái lại nó được nổi lên cách tiệm tiến, giữa những chao đảo và bấp bênh”.
Chúng ta dám quả quyết rằng “dung mạo sư huynh” mà Don Bosco mang trong lòng mình qua bao nhiêu năm tháng chính là dung mạo của Giuse Buzetti: một con người được tín nhiệm, khiêm nhượng, luôn luôn hiện diện trong những giờ phút khó khăn và tế nhị, vốn cảm nhận Nguyện Xá là gia đình của mình, máu thịt của mình, nếu Nguyện Xá được vẻ vang, thì chính bản thân anh cũng được vẻ vang. Anh không hiểu biết nhiều về chuyện pháp lý nhưng với bất cứ giá nào “Anh muốn ở lại với Don Bosco”.
Chương 36
MICAE MAGONE: MỘT ĐỨA BÉ VÀ BẢY CẢNH SÁT
Trong những năm sau năm 1850, Don Bosco cật lực làm nẩy sinh “Tu Hội Salêdiêng”. Nhưng cũng thực là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng những suy nghĩ, các cuộc hành trình, gặp gỡ để thiết lập Tu Hội lại tách biệt ngài khỏi các trẻ em của ngài. Don Bosco không bao giờ là “một người đứng đầu một xí nghiệp”, mà chính là “người cha gia đình”. Và trong gia đình của ngài, sự hiện diện của trẻ em được ngài coi là yếu tố thiết yếu.
Vừa khi sau các cuộc hành trình, gặp gỡ, các công chuyện mà trở về, Don Bosco liền ngồi tòa giải tội tiếp các học sinh. Cha luôn nghĩ đến đám trẻ từ các căn phòng của cha tại Roma, cũng như trên các toa xe lửa khi nó ngừng lại tại trạm.
Vào một buổi chiều đầy sương mù, đứng dưới mái ga xe lửa Carmagnola vào năm 1857, cha đợi chuyến tầu đi Torino. Bất cứ một khách chờ xe lửa nào khác, trong cái rét ẩm ướt này, thì cũng đều tìm một nơi kín đáo hơn tại phòng đợi. Nhưng Don Bosco khi chợt nghe tiếng trẻ con vui chơi, đã nhìn sâu vào đám sương mù để tìm chúng.
Cha viết rằng: “Giữa những tiếng la hét, cha nghe rõ ràng một giọng nói át hẳn các tiếng khác. Đó là một giọng nói của một thủ lĩnh, được mọi đứa trẻ khác nghe theo như một lệnh. Thế là trong lòng cha nẩy sinh ước muốn xem em nào lại có thể điều hành lũ trẻ giữa những tiếng la hét vui vẻ này”.
Cha đã lại gần. Vừa khi thấy có bóng áo thâm lộ ra trong đám sương mù, đám trẻ ba chân bốn cẳng chạy. “Chỉ có một em đứng lại, tiến lên, tay chống nạnh, vẻ hung hãn, lên tiếng nói với cha như sau: ‘Ông là ai? Ông muốn gì với tụi con?”.
Phải mất xe lửa hay là mất đứa bé
Don Bosco nhìn chằm chặp vào đứa bé từ mái tóc bồng bệnh, cho tới sâu thẳm của con mắt đầy tự hào, và cha thấy nơi em một sức sống dồn dập, nhưng tiếc là đang trôi dạt vô phương hướng. Qua cuộc đối thoại ngắn ngủi, sự nghi ngại tan biến, và cha biết được tên em: “Micae Magone”, hoàn cảnh của em, “13 tuổi, cha chết”, viễn cảnh tương lai, “con đã học nghề vô phương rỗi nghề”.
Tầu hỏa hú còi, có thể cha không kịp theo chuyến tầu hỏa. Nhưng mất em bé này còn là một điều không may mắn lớn lao hơn thế nhiều. Cha liền trao tay em một mẫu ảnh Đức Mẹ và nói cùng em:
– Con hãy đi tới cha Aricácio, cha phó của con. Hãy nói với cha ấy là vị linh mục cho con mẫu ảnh này muốn biết thông tin về con.
Sau ít ngày Don Bosco nhận được lá thư của cha phó xứ Camagnola nói rằng: “Cậu bé Magone là một đứa trẻ nghèo khổ, mồ côi cha; mẹ em lo nghĩ kiếm lương thực cho gia đình, nên không coi sóc em được; tính cuồng vọng và phóng khoáng thả lỏng của em đã khiến em không ít lần bị đuổi khỏi trường học; tuy nhiên em đã học khá tốt hết lớp ba tiểu học.
Về luân lý, con nghĩ là em có lòng tốt, và có phong hóa đơn sơ; nhưng kiềm chế em là một điều rất khó. Trong lớp học cũng như trong lớp giáo lý, em luôn phá phách khắp chốn; khi nào em ngưng khuấy động, thì lập tức có sự bình an; khi nào em ra khỏi nơi đó, thì tất cả cảm thấy hạnh phúc.
Tuổi của em, sự nghèo khổ và tư chất cùng trí thông minh của em khiến em đáng được hưởng lòng bác ái cưu mang giúp đỡ em!”.
Don Bosco trả lời thư rằng nếu em bé và mẹ em chấp nhận, thì ngài sẵn lòng cho em đến ở Nguyện xá.
Cha Aticácio gọi Magone lại, nói với em về vị linh mục hôm đó. Tại Torino, ngài có một nhà rộng lớn có hằng trăm trẻ em chạy nhẩy, vui chơi và học chữ hay học nghề chăm chỉ. Rồi cha kết luận: “Ngài bằng lòng tiếp nhận cả con nữa vào nhà của ngài. Con có muốn đi tới đó không?”. Ngài nghe em trả lời: “Gớm thật! Con đi chứ!”.
Bà mẹ đi theo đứa con vai mang tay nải quần áo, mà lòng xe thắt lại vì cảm động. Thế rồi Magone tới Nguyện Xá tại Valdocco. Sau đây là cuộc đối thoại đã được Don Bosco ghi lại:
– “Em chạy tới gặp cha và thưa: – Thưa cha, con đây, con là Micae Magone mà cha đã gặp ở ga xe lửa Camagnoloa.
– Cha đã biết cả rồi; con vui lòng đến đây chứ?
– Vâng, vâng, thiện chí thì con không thiếu.
– Vậy cha căn dặn con đừng lật đồ lộn xộn tứ tung nhé!
– Ồ, cha cứ yên tâm, con sẽ không làm cha khó chịu. Trong quá khứ con đã không kiềm chế mình tốt; nhưng trong tương lai con không muốn sống như thế nữa. Hai bạn của con đã vào tù rồi, còn con…
– Con cứ yên tâm. Con chỉ nói cho cha hay con muốn học văn hóa hay nghề nghiệp.
– Con sẵn sàng làm theo ý cha muốn. Tuy nhiên nếu con được chọn, con thích học văn hóa.
– Và sau khi học xong, con muốn làm gì?
– Nếu một đứa vô lại như con… nói tới đó em bé cúi đầu cười.
– Con nói tiếp đi, nếu một đứa vô lại…
– Nếu một đứa vô lại như con có thể trở thành đủ tốt để làm linh mục, con sẽ rất vui lòng làm linh mục.
– Vậy chúng ta sẽ xem một đứa vô lại sẽ có thể làm được gì, Cha cho con học văn hóa”.
– Kể từ lúc đó hát xướng, chạy nhảy, la hét trở thành cuộc sống của em. Dĩ nhiên em chưa trở thành một vị thánh nhỏ. “Hội Đức Mẹ Vô Nhiễm” đặt bên em một cậu bé khác để giúp em sửa chữa với tất cả tấm tình tốt lành. Em bé thiên thần đó còn phải làm nhiều việc. Có những lời buột phát từ miệng em, những câu nói thô tục, những lời phạm thượng…Nhưng mỗi lần người bên em sửa bảo em, Micae dù rất náo nhiệt, cũng đã lập tức cám ơn và tái bắt đầu lại tốt hơn.
– Có một điều bé Magone ghét nhất: đó là tiếng chuông kết thúc giờ chơi và gọi em tới việc học hay tới giờ lớp. Cắp sách dưới cánh tay, Magone đi giống như người đi làm việc khổ sai.
Nhưng tiếng chuông tan học thì thật là vui cho Magone. Don Bosco, người đã theo dõi em với sự chăm chú yêu thương, nhận xét”Em xem ra vọt khỏi lớp học như một phát đại bác: em bay nhẩy mọi góc, làm cho tất cả quay cuồng vui nhộn”. Trong trò chơi em là một thủ lĩnh. Kể từ khi em đến, phe của em hầu như luôn chiến thắng.
Thế là một tháng trôi qua.
Một ngày kia, Magone bắt đầu ngấm buồn. Từ một góc đơn côi, em nhìn các bạn vui chơi, em lẩn tránh các bạn đang la hét, và có khi không ai thấy, em nức nở khóc. Xem ra có cả bức màn sầu muộn rơi xuống trên khuôn mặt em. Chúng ta hãy nhường lời cho Don Bosco kể:
“Cha theo dõi Magone khi sự việc trên xẩy ra cho em. Một ngày kia cha cho gọi em tới và nói với em như sau:
– Magone thân mến, cha muốn con làm cho cha một ân huệ nhé; con đừng từ chối đó.
– Cha cứ nói đi – em trả lời cách cương quyết – con sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho cha.
– Cha cần con để cho cha một thời khắc làm chủ lòng con, và con hãy tỏ rõ cho cha tại sao mấy ngày nay con buồn bã thế.
– Vâng, đúng thế… Con thất vọng về con và con không biết làm sao nữa.
Rồi em bé bật khóc. Cha để cho nó khóc xả đi nỗi buồn; rồi cha vui cười nói diễu:
– Con có biết viên tướng Magone, thủ lãnh của đám trẻ ở Camagnola chứ? Thế con thuộc loại tướng tá nào? Mà sao con không nói ra được cái làm con buồn sầu?
– Con muốn lắm, nhưng con không biết diễn tả ra như thế nào.
– Con nói cho cha một lời thôi.
– Con có lương tâm rối rắm.
– Thế là đủ cho cha rồi, con ạ! Cha đã hiểu tất cả. Con có thể ổn định mọi sự cách hết sức dễ dàng. Con hãy nói cho cha giải tội là con có điều gì đó phải tái xem lại ở thời đã qua, thế rồi vị linh mục ấy sẽ nói cho con về đường đời sống của con, con chỉ còn có việc thưa với ngài là có hay không thôi”.
Có mấy vị linh mục tới giải tội tại Nguyện Xá, nhưng hầu như tất cả lũ trẻ đến xưng tội với Don Bosco. Buổi chiều hôm đó, Magone tới gõ cửa văn phòng của cha:
– Don Bosco ơi, chắc là con quấy rối cha… Nhưng Chúa đã đợi chờ con lâu lắm rồi, và con không thể để cho ngài chờ đợi thêm nữa cho tới ngày mai.
Với sự giúp đỡ của Don Bosco, Magone đặt dưới chân Chúa Chịu Đóng đinh những khốn nạn bé nhỏ của em, mà em tưởng nghĩ là chúng lớn ghê ghớm lắm, và kêu xin Chúa tha thứ cho em. Don Bosco nhân chứng của sự phục sinh của em, ghi nhận: “Micae đã mất đi niềm vui vẻ khi em đã bắt đầu hiểu được rằng sự bằng lòng chân thật không phát sinh từ việc chạy nhẩy, mà từ tình bạn hữu cùng Chúa và từ sự an bình của lương tâm. Khi em thấy các bạn em tới rước lễ và trở thành tốt hơn, còn em thì không cảm thấy lương tâm mình an ổn, nên đã rơi vào cảnh lo lắng…Sau khi xưng tội xong, em cảm kích thốt lên: “Con hạnh phúc quá!””.
Ngày hôm sau, tại sân chơi Nguyện Xá, Magone lại trở lại đứng đầu đội chơi, và dẫn dắt đội tới cuộc chiến thắng đáng ghi nhớ. Cậu lại trở lại với vai trò của vị vua của niềm vui vẻ.
Những cú đấm tại Quảng Trường Castello[3]
Don Bosco khi kể lại câu chuyện Micae Magone, đã bộc lộ cho chúng ta thấy diễn tiến qua đó ngài thực hiện hằng trăm và hằng trăm các cuộc gặp gỡ các bạn trẻ “mà sự dữ đã bắt đầu hoạt động trong họ”. Ngài biết đến những cách thức hết sức đơn giản để giao hòa họ lại cùng Thiên Chúa và dẫn dắt họ trên con đường thánh thiện.
“Đây là lúc – theo lời Don Bosco nói – mà tiếng chuông mời gọi vào nhà thờ không còn đáng ghét đối với Magone nữa: trái lại nó gọi em tới gặp gỡ cùng Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành bạn hữu của em”.
Trên mặt trận chinh phục sự tốt lành và niềm vui vẻ, Micae Magone thực hiện cuộc chiến đấu với phong thái đầy sung lực và hết sức tự nhiên của mình, khác hẳn với phong thái dịu dàng của Đaminh Saviô. Giữa nhóm bạn trẻ tụ lại ở mái cổng, có một bạn trẻ kể chuyện thiếu thanh nhã
Với sự trợ giúp của Don Bosco em vạch ra “một kế hoạch xung trận” để duy trì và phát huy tình bạn hữu này: đó là quyết tâm gìn giữ sự trong sạch hoàn toàn của cuộc sống của em; quyết tâm tới cùng để phổ biến lòng tốt và niềm vui giữa các bạn hữu”.
Trên cuốn sổ tay, Magone viết bẩy quyết định mà cậu gọi là bẩy khẩu súng các-bin” để bảo vệ tình bạn hữu cùng Chúa. Chúng như sau:
- Thường xuyên gặp gỡ cùng Chúa Giêsu trong việc rước lễ và trong tòa cáo giải.
- Yêu mến Mẹ Maria rất thánh với tất cả tình thương yêu dịu dàng.
- Cầu nguyện rất nhiều.
- Năng kêu cầu Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
- Không dễ dãi đối với thân xác của mình.
- Luôn luôn làm một việc gì đó.
- Tránh xa các bạn xấu.
(Thật dễ dàng để nhận ra rằng trong 7 điểm này chính là hành trình mà Don Bosco đề nghị với các bạn trẻ để đảm bảo cho mình được nên những con người tốt lành).
Trên chiến tuyến của lòng tốt và niềm vui, Magone đã chiến đấu với sự hăng nồng và vô vị lợi, hoàn toàn khác với cách thức dịu dàng của Đaminh Saviô. Trong nhóm tách riêng ra dưới vòm hành lang, có một bạn trẻ kể những chuyện xấu, có kẻ cười hô hố, kẻ khác thì muốn bỏ đi, nhưng không dám. Magone hiểu hết, em lại gần phía sau bạn trẻ xấu đó, rồi đưa bốn ngón tay lên miệng theo kiểu những người chăn cứu, rồi thổi thành tiếng hét long óc anh bạn đang kể chuyện. Bạn kia nhẩy lên vì khiếp hãi rồi giận dữ la lên:
– Mày điên hả?
– Tao điên hay mày điên khi kể những chuyện dơ bẩn này?
Một hôm Don Bosco đem Magone đi với ngài để làm một vài nhiệm vụ. Họ đi vào Quảng Trường Castello. Hai đứa trẻ đang đánh bạc, và một đứa thốt ra những lời phạm thượng thánh danh Chúa. Magone liền tiến thẳng tới nó và tát cho nó hai tát. Đứa bé nguyền rủa Chúa đó sững người ra rồi lập tức tấn công lại Magone. Cả hai người bắt đầu đấm đá nhau giữa đám đông đứng vòng quanh theo dõi. Don Bosco buộc phải đến giữa hai đứa trẻ để tách cả hai người ra. Magone thét lên:
– Mày hãy cảm ơn vị linh mục này đi, nếu không tao đã lột da mày đề ăn mừng lễ rồi.
Don Bosco phải khuyên nhủ Magone không cần thiết phải đánh đập người ta mỗi khi nghe họ thốt lên lời phạm thượng đến Thiên Chúa.
Nhưng em không chỉ có khả năng đánh nhau mà thôi. Em ngày càng trở nên biết phục vụ và dễ thương, quảng đại. Em giúp các bạn nhỏ hơn em để xếp lại giường nghỉ cho ngăn nắp, lau sạch các tấm thảm, ôn lại bài học cho các em kém thông minh.
Don Bosco đặt tay trên đầu Magone
Don Bosco rất bằng lòng với hạnh kiểm của Magone, nên vào mùa thu, cha dẫn em cùng với các bạn trẻ tốt hơn cả qua một vài ngày nghỉ hè tại Becchi.
Đến tháng mười năm 1858, Magone bắt đầu năm học thứ hai tại Valdocco.
Ngày 31 tháng 12 năm đó, khi cho huấn từ tối, Don Bosco nhắn nhủ tất cả phải bắt đầu và tiếp tục năm học cách tốt lành, trong ơn sủng của Thiên Chúa, bởi vì có lẽ “đối với một em nào đó trong chúng con – như lời cha nói – sẽ là năm cuối đời”. Bàn tay của Don Bosco đặt nhẹ trên đầu Magone khi ngài nói những lời này. Cậu bé suy nghĩ: “Hay là cha nói tới tôi lời cảnh báo ấy?”. Em không hãi sợ. Em chỉ nói trong lòng mình rằng: “Tôi phải chuẩn bị mình đây”.
Ba ngày sau, cậu thấy đau ở bụng: đây là cơn đau cậu đã cảm thấy trong các năm trước, đôi khi cơn đau lại trở lại. Có lẽ đó là một cơn đau ruột thừa kinh niên. Cậu đi đến nhà bệnh, và chuyện này xem ra không đáng lo ngại. Don Bosco nhìn em từ của sổ và hỏi thăm xem em có chuyện gì. Ngài chỉ nghe em trả lời: “Không có gì đâu cha. Những cơn đau bình thường ấy mà!”.
Nhưng chiều tối ngày 19 tháng giêng cơn đau thình lình nổi lên ghê gớm. Mẹ em được gọi lên khẩn cấp. Bác sĩ chạy tới, nghe thấy em thở ngột ngạt, mệt nhọc, tay giang ra trong sự bất lực của thuốc men thời đó. Ông ta chỉ nói được rằng: “Chuyện này xấu rồi”. (các cuộc giải phẫu ruột thừa chỉ được thử nghiệm vào cuối thế kỷ đó).
Ngày 21 tháng giêng, Magone đang ở vào những giây phút cuối cuộc đời. Mẹ em phải trở về quê chăm lo cho các đứa con nhỏ hơn của bà, nhưng Don Bosco thì vẫn ở đó, bên giường bệnh của em. Em đột xuất thốt lên:
– Đã đến lúc rồi. Don Bosco xin giúp con với… Cha hãy nói cho mẹ của con xin mẹ tha cho con vì đã làm phiền lòng mẹ. Xin cha nói với mẹ rằng con thương mẹ nhiều, rằng mẹ hãy can đảm lên nhé…Con đợi mẹ trên Thiên đàng…
Đã tới nửa đêm. Magone thiếp đi một lúc. Rồi em như bừng tỉnh từ giấc ngủ sâu, với vẻ mặt thanh thản, em nói cùng Don Bosco:
– Cha hãy nói với các bạn con là con đợi chúng trên thiên đàng… Giêsu, Giuse, Maria…
Gương mặt em lặng im, trong vẻ thanh thản của sự chết.
Nền “chính trị vĩ đại” tức là Việc Thống Nhất Nước Ý
Năm 1859 Nguyện Xá bắt đầu bước vào một thảm cảnh nhỏ nhưng vô cùng đau đớn là cái chết của Magone, và hoàn tất với việc chính thức thiết lập Tu Hội Salêdiêng.
Tại nước Ý xẩy ra những biến cố và những thay đổi lớn.
Diễn tiến nước Ý và Âu Châu trong những năm sau năm 1848 đã liên tục có các bước lúc đầu âm thầm, nhưng ngày càng ồn ào và to lớn lên.
Vào tháng Mười hai năm 1852, Luy Napoleon, cháu của Napoleon Buonaparte bằng một cuộc đảo chính đã tuyên bố mình là hoàng đế Nước Pháp, với tên là Napoleon III. Ông tự giới thiệu với Âu Châu như người tiếp nối vinh quang của Đại đế Napoleon xưa: sẵn sáng ủng hộ những quốc gia đòi quyền độc lập khỏi đế quốc Áo.
Vào tháng mười năm 1852, tại Paris, ông Gioberti qua đời. Năm 1853, tại Torino ông Silvio Pellico và Cesare Balbo qua đời. Cùng với họ kết thúc thời kỳ Phục Hưng lãng mạn và thời kỳ ủng hộ Đức Giáo Hoàng và phản đối việc Đức – Áo cai quản Ý. Giai đoạn mới của thời kỳ Phục Hưng được thống trị bởi ông Cavour, vừa quỉ quyệt vừa bất cần đạo lý. Năm 1855, ông ta đã phái một đạo quân Piemonte tham gia cuộc chiến tại đảo Crimea bên cạnh cánh quân Pháp và Anh đang thực hiện cuộc chiến tranh với quân Nga. Chống lại “kế hoạch quân sự điên” này, tại nghị viện Piemonte nổ ra cuộc tranh cãi xôi nổi giữa cánh tả và cánh hữu. Tại Luân Đôn Mazzini nguyền rủa. Sao lại đem quân đội mình vào chỗ chết trong một cuộc chiến xa xôi đó trong khi xứ Piemonte đang sống trong cảnh bần cùng (bánh ăn giá 80 xu [tức gần một đồng lire] một kí lô trong khi lương công nhật của một người thợ chỉ là ba hay bốn đồng lire), trong khi những khát vọng của người ý còn nằm trong tương lai?
Nhưng Cavour nhìn xa hơn. Vào mùa xuân năm 1856 trong Hội Nghị Hòa Bình ở Paris, ông ta đã có thể ngồi bàn Hội nghị với các lãnh tụ của các “cường quốc Châu Âu”. Những chiến sĩ chết tại đảo Crimea là tấm vé tham dự hội nghị cho ông ta, và cho phép ông ta “mở ra cuộc thảo luận về vấn đế Nước Ý”.
Ngày 14 tháng giêng 1858, Orsini thuộc phe Mazzini cho nổ bom tại Paris vào lúc Napoleon III đi tới nhà Hát Lớn. Một trăm người bị thương, Napoleon an toàn. Orsini bị hành hình vào ngày 13 tháng Ba, nhưng trước đó trong nhà tù ông ta đã viết hai lá thư cho vị Hoàng đế : ông ta lên án “sự sai lầm tai hại của tâm trí ông ta” và mời gọi Hoàng đế hãy giải phóng cho Nước Ý.
Cavour lợi dụng các thời điểm này. Ông lôi kéo chú ý của Hoàng đế Pháp tới nỗi hoang mang rất nguy hiểm liên quan đến bán đảo Ý. Hoặc là phải giải quyết hoặc là để nổ ra cuộc cách mạng của những phần tử quá khích (những người như Orsini quả thật rất nhiều).
Vào tháng Bảy 1858 có một cuộc họp bí mật tại Plombìere. Cả Napoleon III và Cavour đều đồng ý một cuộc chiến tranh chống lại nước Áo và một trật tự tương lai cho Nước Ý phía Bắc là Vương Quốc Piemonte – Lombardia – Venetia, dưới quyền hoàng gia Savoia; ở Trung ý là vương quốc dành cho một hoàng tử Pháp; phía Nam là vương quốc thứ ba cho một người cháu của đại tướng Gioakim Murat. Nước Đức Giáo Hoàng sẽ thu hẹp lại tại vùng Latium, và Đức giáo Hoàng tồn tại như chủ tịch của liên bang ba vương quốc. Nước Pháp sẽ nhận được phần thưởng là vùng Nice và vùng Savoia.
“Nếu cần thì hãy dựng các hàng rào cản tại Torino”
Ngày 10 tháng Giêng 1859, vua Vitor Emmanuel II ngỏ với Hạ Viện bài diễn văn về “tiếng kêu đau đớn”. “…Chúng ta không thể vô cảm với tiếng kêu đau đớn đang âm vang lên tại khắp các miền Nước Ý.” Napoleon III đồng ý với câu nói này; đây là lời tuyên bố chiến tranh với Nước Áo.
Ngày 23 tháng Tư, đáp lại cuộc tập hợp của các tình nguyện quân tại Piemonte, Nước Áo gửi tối hậu thư. Nó bị từ chối vào ngày 26. Chiến tranh khởi sự. Quân đội Piemonte gồm 60.000 quân tràn sang biên giới. Từ nước Pháp, ngày 30 tháng Tư sư đoàn Bataille [Chiến Trận], đội quân tiên phong của đạo quân 120.000 do chính vị hoàng đế đích thân chỉ huy.
Khi quân Pháp tới, Torino như say sưa. Constanza d’ Azeglio đã viết: “Tôi đã thấy họ diễu hành trên Quảng Trường Castello giữa tiếng reo hò của quần chúng. Tôi nhìn từ ban-công của bộ cùng với ông Farina và Ricasoli. Bá tước Cavour được đám đông nhận ra, đã được chào đón nồng nhiệt. Tôi không còn nhận ra thành phố rất yên lặng và buồn chán của Torino xưa nữa: nào là ánh sáng thắp sáng từ các của sổ, nào là những tiếng hát hò, kêu la, hoan hô nhiệt liệt.”
Quân Áo gồm 160.000 người cố gắng chiến đấu chống quân Piemonte trước khi đoàn quân của Napoleon đến. Với bước hành quân ồ ạt, họ tiến tới Novara, Vercelli, Trino, đe dọa Ivrea. Và đoàn quân tiên phong của họ tiến tới Chivasso (25 cây số cách Torino). Lũ lụt ở cánh đồng hạ lưu đã làm chậm bước tiến của họ, nhưng không chận họ lại được. Thành phố Torino hốt hoảng. Tướng Sonnaz buộc phải tập họp mặt trận tự vệ tại Doire Batee. Bá tước Cavour báo điện tín cho đức Vua: nếu cần chúng ta sẽ chiến đấu tại Stura, và chúng ta sẽ dựng hàng rào cản tại các đường phố Torino.
Nhưng Napoleon đã tới. Ông ta chuyển quân rất nhanh bằng đường hỏa xa. Cuộc chiến lớn đầu tiên giữa quân Pháp và quân Áo xẩy ra tại Magenta (vào ngày mùng 4 tháng Sáu). Sau một ngày bất bấp bênh, quân Pháp đã nắm phần chiến thắng.
Bốn ngày sau một tin vĩ đại báo tới Torino: Ngày 8 tháng Sáu, Hoàng đế Pháp và Đức vua Piemonte hội kiến tại Milano.
Sau đó một tin mới: Hoàng đế Áo là Francois Joseph đã rời Vienna nước Áo để đích thân nắm quyền chỉ huy đạo quân của mình. Một trận chiến kinh khủng đang được chuẩn bị.
Phêrô Enria lúc đó 18 tuổi đã nhắc nhớ lại rằng: “Vào năm 1858, giống như đã xẩy ra trong những năm 1848 – 1849, một nhiệt tình chiến tranh đốt nóng lên giữa các trẻ con của dân chúng Torino. Hàng trăm trong số chúng trải rộng ra nơi những khu đất trống vắng bao quanh thành phố, chia ra thành hai mặt trận và chơi trò chiến tranh. Các cuộc chiến chỉ là trận giả, nhưng tinh thần rốt cuộc cháy bùng lên và cả những trận mưa đá diễn ra. Điều đó xẩy ra trong suốt những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ.
Tôi nhớ lại là vào một Chúa Nhật kia, Don Bosco đi vào nhà nguyện để nói chuyện với các trẻ em Nguyện Xá. Nhưng ngài ngạc nhiên vì chỉ thấy có các em nội trú. “Những đứa khác đi đâu cả rồi?” Ngài hỏi. Không ai biết cả. Ngài đi ra ngoài và tiến về phía các cánh đồng cỏ: ngài tìm thấy lũ trẻ Nguyện Xá chiến đấu cùng nhau xối xả. Có tất cả ba trăm đứa với những cục đá lớn bay trong không khí. Don Bosco tiến vào đám hỗn chiến này. Từ xa tôi đứng nhìn ngài. Tôi sợ là ngài sẽ phải ăn các cục đá ném ra. Nhưng ngài bước 50 bước tới giữa đám trẻ. Khi chúng thấy ngài, chúng ngừng tay. Ngài nói trong khi mỉm cười: “Bây giơ chúng con đã chiến đấu rồi, đã tới giờ vào học giáo lý.” Không đứa nào chạy trốn cả. Chúng theo ngài vào trong nhà thờ.
Thảm cảnh Hỏa ngục trong suốt 12 giờ
Cuộc chiến kinh hoàng giữa quân Áo vá quân Pháp- Piemonte diễn ra trong ngày 24 tháng Sáu, ở phía nam hồ Garda. Vào rạng sáng, sư đoàn thứ nhất của Piemonte do tướng Durando chỉ huy, đã tấn công quân Áo tại “Madona thuộc vùng Scoperta”, rồi đến sư đoàn ba và năm, dưới lệnh của tướng Durando và Cucáchiari, đã tung các đợt tấn công khủng khiếp lên cao nguyên San Martino đang đầy các lưỡi lê của quân Áo. Napoleon III, đứng ở dưới các ngọn đồi Solferino, tiếp tục gửi các sư đoàn tiến về phía trung tâm điểm của đạo binh Áo, quyết chọc thủng nó bằng mọi giá.
Vào khoảng 10 giờ, cuộc chiến hỏa ngục diễn ra: tiếng canôn rền rĩ, tiếng súng nổ ran, hàng chục ngàn chiến sĩ thét gào. Đống hỗn độn thật kinh khủng: nào là tiếng la hét của các thương binh hòa với những tiếng la hét xung trận của các trung đoàn, tiếng ngựa phi của các đoàn kỵ binh mang những lưỡi gươm lấp loáng, những tiếng nổ điếc tai, những ánh lửa phát ra từ các trái lựu đạn nổ trên các tuyến chiến trường. Các cuộc phản công khủng khiếp của đạo quân áo trắng của người Áo diễn ra khốc liệt. Cả một rừng lưỡi lê tiến lên với sức mạnh của sự tuyệt vọng. Từng đợt sóng người của các tay súng Pháp bị đẩy lùi rồi lại buộc phải dồn lên tấn công trong đám hỗn độn của các tay gươm của kỵ binh. Những binh lính tái tấn công tới lần thứ mười, lần thứ mười lăm. Rất nhiều người tay siết cây súng, vừa khóc vừa chạy. Những người khác thì hét lên để lấy can đảm.
Lập tức sau trưa, cuộc tấn công của quân Pháp biến thành một chuỗi các cuộc đánh sát lá cà dữ tợn để dành cuộc chiếm nghĩa trang, ngọn đồi Bạch dương và tháp Solferino. Đội quân Zouave Anêrie của Napoleon III tiến công như điên: họ tung mình vào đoàn quân Áo và thực hiện các cuộc tàn sát.
Vào 3 giờ trưa, lá cờ Pháp bay phất phới trên đồi Solferino. Nhưng tại cánh trái, quân Piemonte không thể tiến thêm một bước. Cuộc tiến công toàn bộ được quyết định vào lúc 5 giờ chiều. Trong khi cuộc tấn công diễn ra, bầu trời đầy mây đen. Những ánh chớp đầu tiên lóe sáng khắp trời. Trong khi các lữ đoàn Piemonte tấn công cách tuyệt vọng các hàng ngũ quân đội của thống chế chỉ huy trận Benedek của Áo, thì cơn mưa đậm hòa với mưa đá tràn ngập chiến trường. Sau cơn bão, xuyên qua lớp mây mù gió thổi tạt đi, người ta đã thấy lấp ló ánh các vì sao đầu tiên, và quanh đỉnh núi San Martino, người ta lại tái bắt đầu cuộc tấn công. Vào lúc 9 giờ tối, Vittore Emmanuel tung đội kỵ binh tuần tiễu của xứ Montferrato. Cú sốc cuối cùng thật là kinh khủng. Những người Áo bại trận sau 14 giờ chiến đấu.
Kết trận chiến, trên các cánh đồng Solferino, 30.000 người nằm la liệt. Những tiếng kêu của các thương binh và những người hấp hối vang lên đồng một lúc, như một đám hát hãi hùng. Henri Dunant, một chàng trai Thụy Sĩ, người sáng lập viện tương lai của Hội Chữ Thập Đỏ đi vòng quanh với cây đèn lồng để thăm chiến trường. “Đó thật là một cuộc quan sát thảm cảnh hỏa ngục, chàng ta thốt lên, vâng thật đúng là ở trong chốn thâm cung của hỏa ngục: Những tử thi méo mó, tan nát, biến dạng, cụt tay, chân đang khóc lóc, cầu nguyện, nguyền rủa; những người bị thương lết mình đây đó tìm những sự trợ giúp bao có thể.” Vào lúc mặt trời mọc của tháng Sáu, bầu không khí trở thành ghê sợ: Mùi thối của tử thi, các đám mây của ruồi nhặng, các vết thương hôi thối, các tiếng kêu man dại.
Vâng, đây chính là cảnh chiến tranh, chiến tranh thực sự, chứ không phải cảnh chiến tranh mà báo chí Torino hôm đó tôn vinh như là một buổi đại lễ. Trong một tờ báo xuất bản vào cuối năm 1859, Don Bosco lên tiếng chống lại tất cả những lời hồ hởi của lúc đó. Ngài viết: “Sau trận chiến tại Solferino, tôi luôn luôn nói chiến tranh là điều khủng khiếp, và tôi tin rằng nó thật là điều nghịch lại đức bác ái.”
Sự thành công của “chính trị thực dụng”
Napoleon nhận ra ngay mọi khía cạnh của cuộc tàn sát này. Và những tin tức khác đến làm ông bối rối: vùng Toscana, Parma, Modena và các lãnh thổ thuộc Tòa Thánh đều nổi dậy và biểu lộ sự gắn bó của họ với xứ Piemonte. Điều này loại bỏ kế hoạch đã được lấy tại Hội nghị Plombìeres về “một vương quốc ở miền Trung ý” sẽ được trao phó cho một vị hoàng từ Pháp. Hơn nữa cuộc đại bại của quân Áo tạo nên phản ứng của họ là đem quân Áo-Phổ tập trung tại bờ sông Rhin.
Không báo trước cho các đồng minh Piemonte, Napoleon ký hiệp ước đình chiến tại Villafranca ngày 11 tháng Bảy. Vittor Emmanuel chỉ thâu nhận được vùng Lombardia[4] mà thôi.
Tin này tới Torino như một gáo nước lạnh. Trong lúc phiền muộn, Cavour đã định tự tử. Napoleon III trở về Pháp đi ngang qua Torino. Tại đó người ta tiếp đón ông cách lạnh nhạt. Vua Emmanuel tháp tùng hoàng đế Napoleon cho tới Susa, cám ơn ông vì tất cả những gì ông đã làm cho nước Ý. Nhưng vừa khi ông lấy xe lửa trở về Torino, ông nói nhỏ: “Rốt cuộc, hắn đã đi khỏi rồi!”
Trong những tháng dấy động tiếp theo, xứ Toscana (thủ phủ là thành phố Firenza), rồi xứ Emilires-Romagna (thủ phủ là Bologna) kết hợp lại với Piemonte, Liguria, Sardegna và với xứ Lombardia. Năm sau, Garibaldi xuất chính với đạo quân của Đạo Binh Một Ngàn Người Lính đã chinh phục Sicilires và Nam Ý. Vào tháng Hai năm 1961 Hạ viện mới sẽ tuyên bố Vittore Emmanuel là “vua nước Ý”.
Nền chính trị thực dụng của Cavour đã chiến thắng. Grazia Mancini, người đã sống trong những tháng đầu tiên của năm 1861, khi ông đi dạo tại San Carlo, đã viết: “Khuôn mặt tốt lành, có sức diễn đạt, mãn nguyện của ông ta đã nói lên thật rõ ràng: Mọi sự đã diễn tiến tốt đẹp. Đôi mắt nhỏ bé rực sáng qua mắt kính; ông bước đi khoan thai, cân bằng cơ thể to béo của ông trên đôi chân mỏng manh, xoa xoa đôi bàn tày nhỏ nhắn quí phái không đeo găng của ông.”
Ngày 7 tháng Sáu năm ấy (1861), một tin bất ngờ không ai tưởng tượng nổi lan ra khắp Torino: Bá tước Cavour đã chết. Đây là một cú đau điếng cho vương quốc Ý non trẻ.
Giấc mơ lên chín tuổi: Gioan Bosco được trao sứ mệnh biến thú dữ thành chiên hiền, tức là biến các trẻ nghèo, bị bỏ rơi , thiếu giáo dục thành những Kitô hữu tốt và những công dân lương thiện.
Chương 37
VÀ CUỘC SỐNG TẠI NGUYỆN XÁ
Mỗi năm vào Lễ Mân Côi, Don Bosco đem những học sinh tốt nhất của ngài tới Becchi. Những năm đầu con số chúng khoảng 20 người. Thế rồi con số đó tăng lên. Năm 1858, nó đạt đến trăm em.
Cha Lemoyne viết: “Trong những ngày đầu tiên của tháng Mười, từ Nguyện Xá, các nhóm ca viên, nhạc viên và những em khác lên đường. Mỗi người mang một túi đựng quần áo để thay đổi trong kỳ hè, ít bánh, phó mát và trái cây”.
Tại Becchi người anh của Don Bosco là Giuse Bosco luôn luôn niềm nở tiếp đón họ, mắt nhắm lại mỗi khi thấy đám trẻ chạy vào vườn nho của ông, dĩ nhiên là chúng làm giảm bớt sự thu hoạch của mùa hái nho.
Chúa nhật đầu tháng Mười họ mừng lễ mẹ Mân Côi, sau đó là các cuộc hành trình dã ngoại kéo dài suốt mười hoặc hai mươi ngày, hay hơn nữa.
Cho tới năm 1858, tổng hành dinh luôn luôn là Becchi: họ khởi hành sáng sớm tới một xứ sở không quá xa, rồi tối họ trở về nhà. Bắt đầu từ năm 1859, các cuộc dã ngoại thực sự chuyển mình thành các cuộc “hành trình đường dài” xuyên qua núi đồi của vùng Monteferrato.
Don Bosco chuẩn bị trước cho cuộc hành trình. Các cha xứ và các vị ân nhân đã sẵn sàng đón nhận các nhóm đã ngoại mệt nhọc và đói bụng. Cuộc hành trình đi xuyên qua các con đường miền quê, các ngọn dồi và các vườn nho. Họ đi thành từng nhóm, hát xướng và đánh trống, trong khi thúc đẩy các chú lừa tiến bước, mang trên lưng chúng các dụng cụ trang trí và những gì cần thiết cho buổi diễn kịch. Luôn luôn Don Bosco đi sau cùng, bao quanh bởi một đám trẻ luôn để tai lắng nghe các mẩu chuyện cha kể về các xứ sở mà họ đi qua.
Và đội quân nhỏ dàn thành hàng, với ban nhạc đi trước, khi họ đến gần xứ sở định đến. Họ muốn long trọng tiến vào đó.
Cha Anfossi viết: “Tôi luôn luôn nhớ lại các cuộc du hành mạo hiểm này. Chúng luôn đem lại cho tôi muôn điều kỳ diệu và thỏa mãn.Tôi đã đi theo Don Bosco qua các ngọn đồi Monteferrato từ năm 1854 đến 1860. Chúng tôi gồm hằng trăm đứa trẻ và chúng tôi thấy được danh tiếng thánh thiện mà Don Bosco được hưởng. Các hoạt động tại các làng mạc này chính là một khải hoàn. Các cha xứ ở vùng phụ cận đón tiếp ngài khi ngài đi qua và nói chung cả chính quyền dân sự nữa. Dân chúng ngó qua cửa sổ hay đi ra khỏi nhà, những nông dân ngưng công việc của họ để xem vị thánh đi qua, các bà mẹ tiến lại gần ngài, giới thiệu các con mình cho ngài và quì gối xin phép lành của ngài. Theo thói quen chúng tôi thường đi thẳng tới nhà thờ tại mỗi địa phương để thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể. Thế là nhà thờ chật ních người đến. Don Bosco liền lên tòa giảng, ngỏ lời cùng giáo dân. Sau đó chúng tôi hát bài “Đây Nhiệm Tích Vô cùng Cao Quí” với âm nhạc đi kèm. Sau cùng Don Bosco ban phép lành Thánh Thể.
Nhóm trẻ ăn đồ khô, nhưng thật là dư giả, theo lối nhà quê. Dân chúng vui vẻ mang tới cho các chú bé của Don Bosco những giỏ hoa trái, bánh nông thôn, pho mát và những bình rượu nho.
Họ ngụ tại hiên những nhà có mái dài hay những căn phòng, trên những bao đan bằng lá hay cói.
Một em bé lên năm tuổi có tên là Philip Rinaldi
Trong những năm 1859-1860 họ đến các xứ Villa San Secondo, Montiglio, Pica, Marcucáco, Albugnano, Montafia, Primeglio, Cortazzone, Pino d’ Asti…
Năm 1861, Nhóm hành trình vui vẻ này đi tới Casale Monteferrato, Mirabello, Lu, San Salvatore và Valenza. Họ tiếp tục lên xe lửa đi tới Alexandria và từ Alexandria tới Torino.
Năm 1862, họ hành trình đi Calliresno, Grana, Montemagno, Vignale, Casorzo, Camagna và Mirabello. Các con đường sắt của Nhà Nước năm đó còn dành cho Don Bosco cả hai toa xe lửa để trở về Torino xuất phát từ nhà ga Alexandria.
Năm 1863 và 1864, một chuỗi nhưng khó khăn làm ngưng lại các cuộc dã ngoại này. Các trẻ em chỉ còn thực hiện các cuộc dã ngoại tới Becchi, Mondonio là quê hương của Đaminh Saviô thôi.
Những cuộc dã ngoại này ghi ấn không thể nào quên nơi các trẻ em của con Don Bosco, và chính là “thư giới thiệu” Don Bosco với các xứ sở vùng Menteferrato. Từ đây Ngài đưa được vào Nguyện Xá biết bao nhiêu ơn gọi rực rỡ.
Khi ngài đến Lu vào năm 1861, trước căn nhà của gia đình Rinaldi, ngài thấy chín bạn trẻ đứng xếp hàng như chín ống kèn dương cầm. Đứa thứ tám là một đứa bé năm tuổi tên là Philip Rinaldi. Cậu bé cảm phục ngước nhìn vị linh mục bằng một dấu vẫy tay đã làm dậy lên cả một dàn nhạc kèn đồng, và khi tiếng kèn ngưng, cậu ta vỗ tay thật to. Don Bosco gặp lại cậu bé này nửa tiếng sau, tại sân phía trong khu nhà Rinaldi, nơi cha của cậu là ông Cristoforo Rinaldi cho cha mượn một chiếc xe ngựa đưa cha đi tới San Salvatore. Trước khi đi, ngài vuốt ve các đứa trẻ nhút nhát đang ngạc nhiên ngó ngài, rồi nhìn một lúc lâu vào đôi mắt của đứa bé Philip Rinaldi. Chú bé sau này sẽ trở thành Đấng Kế Vị thứ ba của Don Bosco, để đứng đầu Tu Hội Salêdiêng.
Một cậu bé có mái tóc hung và trời mưa
Vào năm 1862, ban nhạc tới Montemagno. Một em bé chơi tại thung lũng; em nghe thấy tiếng kèn trổi của ban nhạc, bỏ các bạn và giầy lại và chạy tới Quảng Trường của xứ sở đó. Em dùng khuỷu tay đưa đẩy để len lỏi tới hàng đầu. Don Bosco xem đứa bé lạ lùng có mái tóc hung đó, và trước khi để cho em bé đi, ngài đã hỏi em:
– Con là ai?
– Con là Lu-y Lasagna.
– Con có muốn đến Torino với cha không?
– Để làm gì cơ?
– Để học như những em nhỏ khác.
– Có.
– Vậy con hãy nói với mẹ con mai đến nói chuyện với cha tại Vignale, tại nhà cha xứ nhé.?
Lu-y Lasagna lên 12 tuổi. Em vào Nguyện Xá vào cuối tháng Mười. Em lanh lẹ như tia sét, nhưng vô cùng nhạy cảm. Em nhớ nhà quá, và ít ngày sau em trốn về nhà. Một trong những bề trên có ý không đón em trở lại nữa, nhưng Don Bosco đảm bảo với ngài rằng: “Đứa bé này là một tấm vải tốt, cha sẽ thấy đấy.”
Lu-y trở lại, gắn bó với Don Bosco. Cậu trở thành vị giám mục Salêdiêng thứ hai và một vị truyền giáo rất vĩ đại.
Trời không mưa đã ba tháng. Các vườn nho trên các sườn đồi khô hạn. Don Bosco đến giảng tuần tĩnh tâm trong ba ngày để chuẩn bị cho lễ Đức Mẹ Lên Trời và ngài thình lình loan báo ở giữa bài giảng rằng:
“Nếu trong vòng ba ngày anh chị em giải hòa cùng Thiên Chúa bằng một lần xưng tội và đi chịu lễ vào chính ngày lễ, thì tôi xin hứa cùng anh chị em, nhân danh Đức Mẹ rằng trời sẽ mưa thật to.”
Khi ngài xuống khỏi tòa giảng, cha xứ liền đến vẻ mặt cau có nói với ngài rằng:
– Này cha, cha can đảm lắm đấy chứ?
– Về chuyện gì thưa cha?
– Cha đã dám hứa công khai rằng sẽ có mưa vào chính ngày lễ.
– Con, con nói chuyện đó ư?
– Tất cả mọi người đều đã nghe rõ. Và đấy là những chuyện con không thích thú lắm!
Dân chúng thì tin vào lời Don Bosco. Nhiều năm sau đó, Cha Rua và cha Cagliero là những vị đi theo Don Bosco còn nhắc nhở tới nỗi nhọc nhằn của những giờ dài giải tội cho dân chúng.
Lời tiên tri đã lan rộng sang các xứ bên cạnh. Nhiều người tò mò chờ đợi, những người khác thì hoài nghi.
Ngày lễ Mẹ Lên Trời đến, nhằm vào ngày thứ Năm. Bầu trời thật quang đãng. Vào ban trưa chẳng một chút mây bay trên bầu trời.
Cha Lu-y Porta làm chứng rằng: “Trong khi chúng tôi tới nhà thờ để đọc kinh chiều với bá tước Fassati, chúng tôi nói về cơn mưa Don Bosco đã hứa đó. Dù cho từ lâu đài của bá tước tới nhà thờ chúng tôi chỉ mất mười phút đi bộ, mà mồ hôi vẫn chảy nhễ nhãi trên trán. Tới phòng áo, vị bá tước nói với Don Bosco:
“Don Bosco thân mến, lần này cha đã phải cam chịu một thất bại rồi. Cha đã hứa một trận mưa rào và bây giờ thì một cái gì khác hẳn một trận mưa đang xẩy ra.”
Cuối giờ kinh chiều, Don Bosco mặc áo lễ ngắn mầu trắng và quàng dây các phép, rồi bước lên tòa giảng. Và trong khi ngài đọc kinh Kính Mừng trước khi giảng, thì ánh sáng mặt trời bắt đầu tối nhạt lại. Cha nói được vài phút thì sấm chớp bắt đầu. Don Bosco ngưng nói một chút, trong niềm cảm kích sâu xa. Một trận mưa rào to và dài đập vào các cửa kính nhà thờ.
Cha Porta tiếp tục kể lại chuyện trên: “Các bạn hãy nghĩ hôm đó từ lòng Don Bosco tuôn ra những lời hùng hồn như thế nào vào đúng lúc mưa nhu trút đổ xuống. Đó chính là bài thánh ca tạ ơn Đức Nữ Trinh Maria.
Sau Chầu Thánh Thể, dân chúng ở lại trong nhà thờ và dưới vòm phía cuối nhà thờ chờ đợi vì mưa còn tiếp tục đổ xuống.
Những trận bão mùa hè tại Monteferatto thường đi kèm theo mưa đá. Quả là cũng có chút mưa đá rơi xuống vào hôm đó. Những người nhiệt tình đã đi tìm hiểu ngay lập tức và cắt nghĩa rằng “trước đó mưa đá đã đổ xuống trên các vườn nho của xứ Grana”, một làng bên cạnh xứ Montemagno hôm đó đang mừng lễ Bổn mạng của mình, khi có một cuộc khiêu vũ diễn ra tại Gana, là điều luôn làm các cha xứ hết sức bực mình.
Cô gái xứ Mornese có tên là Maria Mazzarello
Trong cuộc dã ngoại mùa thu năm 1864 đó, Don Bosco cùng đám trẻ tới Mornese. Trời đã tối. Dân chúng đến gặp họ dẫn đầu là cha xứ Valle và cha Pestarino. Ban kèn đồng trổi nhạc, nhiều người quì xuống khi Don Bosco đi qua để xin cha chúc lành. Các bạn trẻ và dân chúng đi vào nhà thờ dự chầu Thánh Thể, rồi ăn tối.
Sau đó được khích lệ bởi các tràng vỗ tay nhiệt liệt, các trẻ của Don Bosco đã có một buổi hòa nhạc ngắn bằng các khúc quân hành và nhạc nhẹ. Ở hàng đầu có cô gái 27 tuổi Maria Mazzarello. Cuối buổi hòa nhạc, Don Bosco nói đôi lời: “Bọn cha đã thấm mệt và các trẻ của cha ước ao một giấc ngủ ngon lành… Ngày mai, chúng ta sẽ nói chuyện dài với nhau”.
Hôm sau, vào ban sáng, cha Pestarino giới thiệu “Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm” với Don Bosco. Don Bosco rất ấn tượng bởi lòng tốt và quảng đại của các cô gái trẻ này. Ngài nói đôi lời với họ, khích lệ họ hãy bền đỗ trong cuộc sống họ đã chọn và trong thực hành việc thiện.
Maria Mazzarello sẽ trở thành Mẹ Bề Trên đầu tiên của Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ (tức các sơ Salêdiêng).
Một người kế vị thứ ba của Don Bosco: cha Philip Rinaldi; một giám mục: Đức Cha Lu-y Lasagna; một Đồng Sáng Lập Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ; tất cả điều đó là thành quả tuyệt diệu của các cuộc dã ngoại vào các tháng Mười: thật là tuyệt vời.
Khi nói về các cuộc dã ngoại tại vùng Monteferrato, chúng tôi đã phải nói quá sớm về một vài diễn tiến của lịch sử. Chúng tôi thành thật cáo lỗi và xin tuần tự tái lấy lại diễn trình tường thuật của chúng tôi.
Ngày 28 tháng Bẩy năm 1860 Don Rua được thụ phong linh mục.
Don Bosco đã sai ngài chuẩn bị mình chịu chức trong cuộc tĩnh tâm tại Hội các Linh mục Thừa sai. Vào cuối cuộc tĩnh tâm, Micae Rua viết cho Don Bosco một lá thư bằng tiếng Pháp (vào thời đó ngôn ngữ được dùng của các cha thừa sai là tiếng Pháp), xin Don Bosco ban cho mình một kỷ niệm vào ngày quan trọng nhất của cuộc đời của mình.
Don Bosco khi ấy đang ở Nhà Thờ Thánh Inhaxio gần Torino, và chính ngài cũng đang dự tuần tĩnh tâm. Ngài đã trả lời Don Rua bằng tiếng La-tinh:
“Con đã viết cho cha bằng tiếng Pháp và con đã làm điều tốt đẹp. Vậy con hãy là người Pháp trong ngôn ngữ và lời nói; còn tâm hồn con, trái tim con, và hành động của con thì phải luôn là người Roma can trường và kiên quyết”.
Cha Gioan Baotixita Francesia viết lại rằng:
“Ngày 29 tháng Bảy đó, Don Bosco trở về nhà từ Tu viện thánh Inhaxiô. Tôi cùng đi với ngài. Bởi lý do Don Bosco không chịu nổi việc đi lại trên xe đò công cộng, nên tôi đi xe ngựa với ngài, và ngồi gần đánh xe ngựa. Chúng tôi thật ngạc nhiên khi thấy từ xa bóng ba người mặc áo chùng đen mà dần dần chúng tôi nhận ra đó là thầy Rua, thầy Durando và thầy Anfossi. Don Bosco xin người đánh xe ngựa dừng xe lại và hỏi:
– Các ngài đi đâu thế?
Cha Rua trả lời:
– Chúng con tới Casale nơi có Đức Cha Balma có nhiệm vụ phong chức linh mục cho con.
– Ồ! Cha hy vọng Chúa sẽ nhận lời con. Xin con thay mặt cha, chào Đức Cha Balma nhé.
Chúng tôi vui vẻ nhìn ba người bạn này đang đi bộ, như những người nghèo, đi đến Đức Cha để lãnh nhận chức thánh.
Thánh lễ mở tay của Don Rua được tổ chức lớn tại Nguyện Xá vào Chúa nhật tới. Bàn thờ được trang trí với những cụm hoa trắng toát do các bạn nhỏ quét ống khói lò sưởi của Nguyện Xá Thánh Lu-y mang tới.
Khi trở về căn phòng nhỏ của mình, sau ngày vui lớn, Don Rua tìm thấy trên bàn viết nhỏ nhắn của mình lá thư của Don Bosco. Ngài đọc: “Con sẽ thấy rõ hơn cha về công cuộc Salêdiêng vượt qua biên giới nước Ý và được thiết lập trên nhiều phần trên thế giới. Con sẽ phải làm việc nhiều và phải chịu đau khổ nhiều; nhưng con biết đó, chỉ có bằng việc vượt qua Biển Đỏ và sa mạc, thì mới tới được Đất hứa. Hãy chịu đau khổ với lòng can đảm; và ngay cả dưới thế này, con sẽ không thiếu những an ủi và sự trợ giúp của Chúa”.
Sau lễ mở tay của Don Rua, Don Bosco có được sự thanh thản rõ rệt hơn, một cảm thức vững vàng gây ấn tượng mạnh. Nguyện Xá giờ đây đã là một nhà lớn rộng. Các thanh thiếu niên nội trú lên đến 500 em. Trong bốn xưởng thợ đang hoạt động rất hữu hiệu, có tới ba trăm học sinh thợ học nghề. Don Bosco thường xuyên phải vắng mặt: cho tất cả được ăn no không phải là một chuyện dễ. Nhưng Don Bosco bình thản thực hiện những chuyến đi vòng quanh để xin lòng từ thiện: Don Rua kể từ nay đã là một Don Bosco thứ hai tại Nguyện Xá.
Ngày 23 tháng 6 năm 1860, một tin đau đớn đến với Don Bosco: cha Cafasso qua đời. Ngài biết được quá trễ về tình hình nguy kịch của người bạn vĩ đại của ngài. Ngài vội cùng thầy Phanxico Cerruti trẻ trung lên đường, nhưng khi tới thì cha Cafasso vừa qua đời. Ngài quì xuống bên giường và cầu nguyện lâu giờ. Người Ngài mắc nợ ít ai bằng chính là cha Cafasso. Cha đã tin nơi ngài, tin vào sứ mệnh của ngài, ngay cả khi ngài nghi ngờ về nó. Cha đã luôn giúp đỡ ngài, luôn khích lệ ngài. Ngài chính là vị cha tinh thần của ngài theo nghĩa chính xác của từ ngữ.
400 chiếc bánh mì trong một thúng bánh
Ngày 22 tháng 10 năm 1860. Phanxicô Dalmazzo 15 tuổi gia nhập Nguyện Xá. Cậu sinh tại Cavour, đã theo học những năm đầu tiên của mình tại Pinerolo, nhưng ở đó “cậu đã được đọc những tập san “Báo đọc Công giáo”, nên cậu đã hỏi xem Don Bosco là ai. Sau khi biết được rằng tại Torino có nhà nội trú cho các bạn trẻ, nên cậu quyết đến đó tham gia đời sống các con cái Don Bosco”. Cậu được tiếp nhận để theo học năm cuối cùng của trung học cấp II.
Tuy nhiên sau 20 ngày theo học, Dalmazzo thất vọng. “Tôi đã quen sống sung sướng tại nhà tôi, tới đấy, tôi không thể nào làm quen với những bữa cơm thanh đạm được, rồi lại còn phải thích nghi với những thói quen của nhà Nguyện Xá. Thế là tôi viết thư cho mẹ lên đón tôi về nhà, bởi vì tôi đã quyết chí trở về nhà rồi”.
Ngày 11 tháng Mười một, mẹ cậu đã lên đón cậu. “Trước khi ra đi, tôi muốn xưng tội lần chót với Don Bosco. Tôi đợi tới phiên mình trong giờ thánh lễ. Sau đó, khi ra khỏi thánh lễ, mỗi đứa trẻ đều nhận được một cái bánh mì để ăn điểm tâm sáng.
Trong khi tôi chờ đợi tới phiên mình xưng tội, thì hai bạn trẻ đi tới vì họ phải phân phối các ổ bánh mì. Chúng nói với Don Bosco:
– Thưa cha, không còn bánh để ăn sáng nữa.
– Cha phải làm gì bây giờ? – Don Bosco trả lời – Các con hãy đi tới nhà ông Magra, người làm bánh mì, và nói ông đưa bánh thêm cho.
– Ông Magra đã nói là ông không trao bánh cho chúng con nữa, vì chưa trả ông tiền bánh.
– Vậy thì để đấy, chúng ta sẽ tính. Các con hãy để cha giải tội xong đã.
Tôi nghe rõ những câu thì thầm trao đổi đó. Thế rồi tới lượt tôi xưng tội, và tôi bắt đầu xưng tội. Thánh Lễ đã tới lúc truyền phép Mình Máu Thánh, và hai đứa trẻ lại trở lại:
– Don Bosco ơi, chẳng còn gì cho bữa ăn sáng cả.
– Nhưng chúng con hãy để cha giải tội đã, rồi chúng ta sẽ xem. Các con hãy vào nhà kho hay nhà cơm xem, liệu có cái gì giúp ta giải quyết chăng?
Trong khi chúng đi, thì tôi tiếp tục xưng tội. Tôi vừa xưng tội xong, thì một trong hai đứa trở lại lần thứ ba:
Chúng con đã thu gom mọi sự, nhưng có rất ít bánh.
Các con hãy đem đặt chúng trong thúng bánh. Chính cha sẽ phân phát bánh. Các con hãy để cha yên để giải tội đã. Don Bosco tiếp tục giải tội cho những đứa trẻ còn lại. Trong khi đó, gần cửa mở ở phía sau bàn thờ Đức Mẹ, có đặt sẵn thúng bánh. Tôi thì nghĩ lại các câu chuyện phép lạ người ta đã kể về Don Bosco, nên tôi tò mò, đi đến một chỗ thuận lợi để xem chuyện gì xẩy ra.
Bên cửa đó, có mẹ tôi đứng chờ tôi:
– Phanxicô con, hãy đến với mẹ đi. Nhưng tôi ra dấu cho mẹ hãy đợi tôi một chút. Khi Don Bosco đến, lấy từ thúng ra một chiếc bánh, thì tôi nhìn vào thúng bánh, và thấy thúng ấy chỉ chứa độ 15 hay hai mươi cái bánh. Do đó tôi cố đứng ở bậc cầu thang phía sau Don Bosco, không cho ngài thấy tôi, với đôi mắt mở thật to. Don Bosco bắt đầu phát bánh. Các trẻ con xếp thành hàng tiến lên phía ngài, vui vẻ nhận lấy bánh từ ngài và hôn tay ngài, trong khi ngài nói với mỗi đứa một lời hay mỉm cười với chúng.
– Tất cả các học sinh, với con số khoảng 400 em, đều đã nhận được bánh. Kết thúc việc phân phát bánh, tôi lại muốn xem lại thúng bánh, và tôi vô cùng kinh ngạc vì thấy thúng bánh vẫn còn y nguyên số bánh lúc ban đầu. Tôi ngỡ ngàng qúa, liền vụt chạy lại cùng mẹ tôi và nói với mẹ:
– Con không đi về nhà nữa, con không muốn rời khỏi đây, con ở lại đây. Mẹ tha thứ cho con vì con đã làm cho mẹ phải đến tận Torino. Vậy đấy, tôi xin kể lại cho các bạn tất cả những điều chính mắt tôi đã thấy và tôi xin nói cho các bạn: Đừng rời bỏ một vị thánh như Don Bosco.
– Đó là lý do duy nhất khiến tôi ở lại Nguyện Xá và sau này ghi tên tôi vào số các con cái của Don Bosco”.
– Phanxicô Dalmazzo đã trở thành Salêdiêng, và 8 năm làm Giám đốc trường Trung Học Valsalice, và 7 năm là Tổng đại diện Tu Hội Salêdiêng tại Tòa Thánh.
Thi hành đức ái vì các người nghèo mà thôi
Trước lúc khởi đầu năm học 1860-1861, Don Bosco nhận thấy con số học sinh ghi danh vào Nguyện Xá quá đông. Ngài sợ rằng mình sẽ “trao ban những hoa trái của đức bác ái” cho những kẻ thực sự không là đối tượng chính đáng của đức bác ái. Nhằm đạt được mục đích đó, ngài cho tái in vào chương trình của nhà nội trú một câu ngắn mới này: Các học sinh trong hai tháng đầu phải đóng tiền học và tiền ăn chính xác. Chỉ sau khi các em đã chứng tỏ hạnh kiểm tốt, xứng đáng được hưởng sự trợ giúp của lòng bác ái, thì món tiền phải đóng đó sẽ được giảm xuống hay miễn hẳn. Cha Lemoyne kể lại thông tin này, có ghi nhận: “Tuy nhiên Don Bosco với lòng bác ái của ngài đã làm không ít luật trừ”.
Và đây là các điều kiện ngài đã in ấn và phân phát cho niên khóa 1860 – 1861:
Cho các học sinh thợ:
– Phải mồ côi cả cha lẫn mẹ.
– Đủ trọn 12 tuổi và không quá 18 tuổi.
– Nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Cho các học sinh học văn hóa:
– Phải hoàn tất các lớp tiểu học và muốn học lên các lớp cấp II.
– Đáng được nhận vì trí thông minh và đời sống luân lý tốt.
– Đã qua hai tháng thử với tiền đóng là 24 lire mỗi tháng, sau đó những điều kiện đối xử được thể hiện tùy theo sự xứng đáng em tỏ ra.
– Trong số các “qui định tổng quát” được kể ra kế tiếp đó, thì đáng kể là qui định sau đây: “Tất cả quần áo thì các em phải tự lo liệu, trừ phi các em có thể chứng tỏ được rằng chuyện đó các em không thể làm được vì hoàn cảnh nghèo túng”.
“ Một ban được qui tụ bí mật” vào năm 1861
Trong năm 1861 có một chuyện xẩy ra rất lạ lùng, hầu như độc nhất, và hết sức quan trọng. Cha Alasonatti, cha Rua, thầy Cagliero, thầy Francesia và 10 Salêdiêng khác tập hợp lại thành “một ban bí mật”. Tất cả đều xác tín rằng những gì xẩy ra xung quanh Don Bosco thường có một tính cách ngoại thường và thậm chí còn thật sự là siêu nhiên. Không ghi nhớ lại được các biến cố đó sẽ là bỏ qua đi một kho tàng. Vì thế mỗi người phải “duy trì lấy những ý niệm này” cách trung thành. Vậy mỗi người hãy ghi chú lại. Trong các cuộc họp đều đặn của phân ban này, các ghi chú được đọc cho mọi người nghe và được sửa lại để cho chứng từ của mỗi người thật sự chính xác với sự việc xẩy ra.
Cha Lemoyne kể lại sự kiện này trong cuốn thứ mười của Bộ Hồi Sử, ghi nhận rằng: “Chúng ta có thể yên tâm về sự thật mà những nhân chứng này truyền lại. Trong nhiều năm trôi qua, có những người mới đến thế chỗ cho những người cũ với cùng một công việc được thực hiện như ban bí mật này đã đề ra, vì tấm lòng yêu mến Don Bosco và vì sự thật của các sự việc được ghi lại”.
Chúng ta rất biết ơn các người Salêdiêng đầu tiên này. Họ đã đầy ắp các công việc, mà còn cố gắng giành giật thời gian từ giấc ngủ để thực hiện công trình đáng ghi nhớ, vô cùng quí giá đó. Nếu không có nó, rất nhiều ghi nhận về Don Bosco sẽ bị đánh mất hay sẽ bị chìm vào trong lớp sương mù của các huyền thoại.
Điều ấy không ngăn cản chúng ta có thể và phải làm một số những nhận định về các dữ liệu đã được ghi lại này và về những người đã viết chuyện đời sống Don Bosco dựa trên các chứng từ của họ. Không phải để trách cứ các thành viên trong ban “lịch sử” này (đó chắc chắn là một chuyện điên rồ), nhưng là để giúp chúng ta hiểu rõ hơn câu chuyện thực về Don Bosco.
Thứ nhất: Thường Don Bosco nói nhiều và thoải mái trong tình thân mật với các con cái của mình, và ngài hoàn toàn có quyền làm như thế. Người đích thân nói chuyện với các học trò thì ở trong tư thế khác với người “đọc để cho người ta ghi lại chính xác lịch sử”. Vậy ta phải coi những lời Don Bosco nói như là những lời thân tình, dễ dãi, chứ không phải những tài liệu lịch sử đúng luật. Điều đó giống những chuyện anh hùng Napoleon kể lại tại hòn đảo Saint Helena, nơi ông bị cầm tù, hay giống như những chuyện Lutero nêu lên trong bàn ăn, hay nhiều chuyện khác nữa. Những tường thuật Napoleon kể lại tất nhiên đầy ắp mối cảm kích, những tia lóe sáng của vinh quang, những kỷ niệm anh hùng, nhưng thật là một lầm lẫn lớn nếu có ai đó coi đấy như là những lời chứng được tuyên thệ là đúng thật một cách chi li với lịch sử. Chúng ta cần phải luôn luôn đem đối chiếu chúng với các tài liệu ta thu thập được, những bản đồ chiến trận, những thư từ đã được viết và những khế ước. Có thể đã xẩy ra là những chuyện Don Bosco kể lại tuy không có tầm mức lớn lao lại đã được nhận định như là tuyệt đối chính xác và nghiêm chỉnh cho đến các chi tiết nhỏ của chúng.
Thứ hai: Những người thu lượm lại các sự kiện và những lời nói của Don Bosco do công việc nặng nhọc họ đã phải làm tại Nguyện Xá và do sự thiếu hiểu biết về các công việc Don Bosco đã làm ở ngoài thành phố, nên họ đã ghi nhận lại tất cả những điều Don Bosco đã làm, nhưng đồng thời họ hầu như không ghi lại gì cả một chút gì về điều cùng lúc đó đang xẩy ra tại thành phố Torino và các vùng xung quanh. Vì lý do đó, tuy tất cả những điều Don Bosco nói đều tuyệt đối chính xác, nhưng toát ra từ các tường thuật của họ một cảm nghĩ là chỉ có mình Don Bosco mới làm nổi những chuyện này trong khi tại Torino chỉ có Thiên Chúa mới biết còn có biết bao nhiều người đang nỗ lực làm thử các kinh nghiệm tông đồ khác nhau và quyết theo đuổi các quyền xã hội mà dân chúng cần có được. Ai được nhìn như có một mình, thì luôn được coi như là đứng hàng nhất; Don Bosco cũng thế, dựa theo các lời ghi chú của các con cái của mình, thì xem ra như là người duy nhất có những trực giác lớn về giáo dục này, và chỉ duy mình ngài mới dám có những sáng kiến trên. Nhưng nếu chúng ta xét duyệt các sự kiện trong tổng thể của chúng, ta sẽ thấy được rằng Don Bosco quả thật vĩ đại, nhưng bên cạnh ngài, trước và sau ngài, còn có rất nhiều người đã nỗ lực làm việc trong cùng một đường nét trên.
Chẳng hạn trong công cuộc xây cất Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hô Các Giáo Hữu (mà chúng ta sẽ nói đến trong chương sau), ta thấy như có vẻ đây là một công trình có tính cách độc nhất: nào là chi phí thật quá lớn lao, những quà dâng thật vĩ đại, sự hoàn thành quá mau chóng trong việc xây dựng, con số dân chúng vô cùng đông đảo vào ngày khánh thành. Nhưng khi ta xét kỹ lại lịch sử của Torino, thì ta cũng thấy cùng một lúc có biết bao nhiêu nhà thờ đã được xây dựng, mà các chi phí cũng xít sao ngang nhau:
Nhà thờ | Năm | Phí tổn |
Giáo xứ Thánh Giulires | 1863 | 650,000 lires |
Giáo xứ Thánh Phêrô và Phaolô | 1865 | 540,000 lires |
Giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm | 1867 | 220,000 lires |
Đền Đức Mẹ Phù Hộ | 1868 | 890,000 lires |
Giáo xứ Thánh Barbara | 1869 | 336,000 lires |
Giáo xứ Thánh Maxime | 1853 | 1,500,000 lires |
Với so sánh ở trên, Đền thờ Đức Maria phù Hội không mất đi chút nào tầm quan trọng của nó. Nó vẫn tồn tại như một phép lạ của lòng can đảm, của đức tin, và đức ái. Nhưng được đặt trong bối cảnh của bốn nhà thờ khác, ta nhận ra được bình diện chính xác của Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ này. Cho nên nhìn một mình, nó giống như một cây thông mọc ngoài sa mạc, nhưng nhìn trong bối cảnh chung, nó là một cây thông giữa một khu rừng. Luôn luôn vẫn là một cây thông, nhưng trong trường hợp thứ hai, thì cây thông này chẳng phải là độc tôn, chỉ mình nó mới đáng được ngưỡng mộ.
Chúng ta cũng có thể nói như thế về các lớp học tối, các xưởng thợ, việc gửi các nhà truyền giáo lên đường, tất cả đều là những chuyện đáng kinh ngạc của cả một tổng thể những việc phi thường trong Hội Thánh Công giáo. Như thế, Don Bosco hiện lên không phải như “một hiện tượng”, mà như là một vị thánh trong một bối cảnh Công giáo đầy dấn thân, đã biết dùng đức tin của mình mà khơi dậy những phép lạ chân chính. Ngài bên cạnh các linh mục can trường khác (dù không phải là một vị thánh như ngài đi nữa) đã cùng nhau làm việc với cùng một lòng tin và lòng can đảm như nhau.
Thứ ba: Thiên Chúa đã ban ân huệ huyền nhiệm cho Don Bosco. Ngài mơ được những giấc mơ bộc lộ tương lai cho ngài, loan báo các biến cố sẽ được thực hiện đúng như vậy tới từng chi tiết. Nhưng ngài cũng vẫn là một con người, một linh mục khốn khổ, mà thường khi vẫn phải tìm kiếm một cách khiêm cung như mỗi người trong chúng ta, chỉ thấy được một chút xa hơn cái đầu mũi của ngài. Cũng xẩy ra là ngài cho các ý kiến, nuôi những hy vọng, thực hiện những tiên đoán lúc thì xẩy ra đúng vậy, lúc thì không (chẳng hạn như trong trường hợp cha Guanella mà Don Bosco cố giữ lại ở Nguyện xá trong khi sứ mạng của cha lại ở nơi khác). Việc ghi nhận các dự kiến của Don Bosco, các niềm hy vọng của ngài, để rồi chắc chắn rằng chúng buộc phải xẩy ra đúng như vậy làm ta không đánh giá đúng mức về Don Bosco. Đó là cất đi khỏi ngài quyền được là con người phải qui phục như bất cứ những con người nào khác cho các bước thăng trầm của cuộc sống. Đó là một thứ sai lầm của “tâm trí” qua đó người ta đã lượm lặt những dữ kiện, những lời nói của Don Bosco và trao cho chúng cái gía trị tuyệt đối. Cách riêng ngày hôm nay, chúng ta phải biết ơn các nhân chứng đã thuật lại cho chúng ta những thành công phi thường và cả những sự e dè, ái ngại, những phân vân và những sai lầm của mẫu người “thật mênh mông” mà cũng thật “người thường” của Don Bosco, cha của chúng ta.
Nhưng tất cả những nhận định ở trên không thể được coi là những lời quở trách. Các Salêdiêng đầu tiên mà các công việc ghi chép của họ dù cho bất toàn, nhưng quả có một giá trị đáng kể giúp chúng ta biết về Don Bosco.
Chương 38
ĐƯỢC NHÌN THẤY TRONG GIẤC MƠ
Vào tháng Mười 1844, Don Bosco có hai giấc mơ. Chúng ta đã nói đến chúng trong chương 18, nhưng bây giờ chúng ta phải tái trở lại với chúng, và trích dẫn chúng dài hơn. Giấc mơ thứ nhất, chúng ta trích nó từ cuốn sách Hồi Ký Nguyện Xá do chính Don Bosco viết, còn giấc mơ thứ hai chúng ta trích từ cuốn sách do cha Barberis và cha Lemoyne viết.
“Người nữ mục tử mời cha nhìn về phía Nam. Đưa mắt nhìn, cha thấy một cánh đồng, tại đó người ta đã gieo trồng hạt bắp, các củ khoai tây, cải bắp, xà lách và nhiều loại rau cỏ khác.. Bà còn nói với cha: “Con hãy nhìn thêm nữa”, và cha nhìn trở lại. Khi ấy cha thấy một nhà thờ cao và tuyệt đẹp. Một ban nhạc, dàn nhạc hòa tấu và hát xướng đang mời gọi cha hát lễ. Quanh nhà thờ có một băng chữ màu trắng với hàng chữ: Hic domus mea, inde gloria mea “Ở đây là nhà của ta, từ đấy tỏa sáng vinh quang của Ta” (Hồi Ký Nguyện Xá, bản tiếng ý của do cha Ceria ấn hành, tr. 136).
“Cha như thấy mình trên một cánh đồng bằng chứa đầy một đám rất đông các thanh thiếu niên. Có những trẻ đánh nhau, và những kẻ khác thì nguyền rủa và nói phạm thương. Một đám mây gồm những viên đá bay trong không khí, do đám trẻ đang đánh nhau. Cha định rời xa nơi này thì thình lình cha thấy một Bà bên cạnh cha và nói với cha:
– Con hãy tiến lên phía trước giữa các trẻ này và làm việc.
Cha tiến lên, nhưng để làm gì? Chẳng có chỗ nào cả để tiếp nhận bất cứ trẻ nào. Thế là cha quay đầu về phía Bà đó, bà nói với cha:
– Đây là nơi chốn! – Bà chỉ cho cha thấy một cánh đồng cỏ.
– Nhưng đây đâu phải là cánh đồng cỏ – Cha nói. Bà trả lời:
– Con ta và các Tông đồ đã không có lấy một mãnh đất nhỏ để tựa đầu.
Cha bắt đầu làm việc trên cánh đồng cỏ đó, khích lệ, rao giảng, giải tội. Nhưng tất cả những cố gắng đó sẽ vô ích thôi nếu cha không tìm thấy một khu có một tòa nhà nào đó để qui tụ các trẻ.
Khi ấy Bà nói cho cha:
– Con hãy nhìn kìa.
Cha nhìn thấy một nhà thờ thấp và nhỏ, ở cuối một cái sân và có rất đông trẻ. Cha tái làm việc trở lại. Nhưng nhà thờ trở nên quá chật, nên cha chạy lại với Bà, và Bà chỉ cho cha thấy một nhà thờ khác lớn hơn nhà thờ trước nhiều, với một căn nhà bên cạnh. Sau đó cha đi ra xa khỏi đó một chút, trong một khoảng đất đang canh tác, gần như ở trước mặt nhà thờ thứ hai. Bà nói thêm:
“Ở nơi này, nơi các vị tử đạo quang vinh của Torino là Aventore và Ottavio đã chịu chết vì đạo tại đây, trên các chỏm đất cao đã từng thấm máu và được thánh hóa bởi máu của các ngài, Ta muốn Thiên Chúa được tôn vinh một cách phi thường”.
Trong khi nói vậy, Bà bước thêm một bước, đặt chân ngay tại chỗ xẩy ra cuộc tử đạo, rồi Bà chỉ cho cha một cách chính xác nơi đó[5].
Trong thời gian đó cha thấy mình được bao bọc bởi một số rất đông các trẻ, với con số càng lúc cáng gia tăng; nhưng trong khi nhìn Bà Nữ Chăn Chiên, thì các phương tiện và các nơi chốn dành cho cha sử dụng cũng tăng lên; thế rồi cha thấy một nhà thờ thật rộng lớn ở chính nơi mà Bà đã chỉ cho cha như là nơi xẩy ra cuộc tử đạo của các vị thánh trong đạo binh Tebea, với rất nhiều tòa nhà xung quanh và một đài kỷ niệm tuyệt đẹp ở giữa” (M. B. cuốn II, tr. 289).
Don Bosco đã luôn luôn để mắt đến “cánh đồng gieo trồng hạt bắp, các củ khoai tây, cải bắp, xà lách và nhiều loại rau cỏ khác”, mà ngài đã nhận ra nó chính xác ở phía bên ngoài bức tường xây quanh Nguyện Xá. Ngài đã đặt cho nó một tên mới là “cánh đồng của các giấc mơ”. Vừa khi có đủ tiền, ngài liền mua lại mảnh đất vào ngày 20 tháng Sáu 1850. Nhưng năm 1854 (năm xẩy ra nạn dịch hạch, trong đó ngài buộc phải thâu nhận cùng một lúc 20 em mồ côi), ngài lại phải bán mảnh đất đó đi để trả các món nợ gấp gáp. Sau đó mảnh đất lại trở thành sở hữu của ngài vào ngày 11 tháng Hai 1863. Nhưng vào những tháng cuối cùng của năm 1863, đã xẩy ra những chuyện mới.
“Đây sẽ là Nhà Thờ Mẹ cuả Tu Hội chúng ta”
Một buổi chiều tháng Mười Hai năm 1862, Phaolô Albera (một cậu trai 17 tuổi năm đó được nhận vào Tu Hội Salêdiêng) nghe lời tâm sự của Don Bosco. Vào một thứ Bẩy, Don Bosco giải tội cho tới 23 giờ, và chỉ vào giờ muộn như thế, ngài mới xuống nhà cơm với cậu bé Phaolô Albera để ăn chút gì đó. Ngài rất lo lắng và thình lình ngài bắt đầu kể: “Cha đã giải tội cho nhiều bạn trẻ, và cha chả còn biết rõ những gì cha đã làm và đã nói, tới mức cha bị thu hút bởi một ý tưởng. Nó khiến cho cha chia trí và cứ ám ảnh lấy cha. Cha đã nghĩ: nhà thờ của chúng ta quá nhỏ, không chứa nổi tất cả các bạn trẻ của chúng ta. Vì thế chúng ta phải xây dựng một nhà thờ khác, đẹp hơn, lớn hơn, huy hoàng hơn. Chúng ta sẽ gọi nó là nhà thờ Đức Maria Phù Hộ. Cha không có lấy một xu, cha cũng chẳng biết cha sẽ lấy tiền từ đâu, nhưng điều đó không quan trọng. Nếu Thiên Chúa muốn, chúng ta sẽ làm”.
Ít lâu sau đó, ngài lại nói về kế hoạch này với Gioan Cagliero. Và đây là chứng từ của Cagliero: “Vào năm 1862, Don Bosco nói với tôi là ngài nghĩ đến xây dựng một nhà thờ to lớn và xứng đáng với Đức Nữ Trinh rất thánh.
Ngài nói: “Cho tới bây giờ, chúng ta đã cử hành đại lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm. Nhưng Đức Mẹ muốn là chúng ta tôn kính Mẹ dưới tước hiệu Đức Maria Phù Hộ: thời đại của chúng ta thật khốn quẫn khiến chúng ta thực sự cần đến Đức Trinh Nữ rất thánh phù hộ chúng ta để gìn giữ và bảo vệ đức tin Kitô giáo. Và con còn biết tại sao không?
– Tôi mới trả lời: Con tin đó sẽ là Nhà Thờ Mẹ của Tu Hội tương lai của chúng ta và là trung tâm từ đó phát xuất tất cả các công cuộc khác của chúng ta phục vụ cho giới trẻ.
– Con đã đoán đúng – ngài nói với tôi. Đức Maria phù Hộ chính là Người Sáng Lập và là sự nâng đỡ các công cuộc của chúng ta” (M. B.,Cuốn VII, tr. 334).
Một nhà thờ lớn hơn có khả năng chứa các thanh thiếu niên, “nhà thờ mẹ” của Tu Hội; đó là hai lý do khiến Don Bosco lên kế hoạch xây dựng Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ. Nhưng ngài còn nêu lên lý do thứ ba: Thời đại chúng ta thật khốn quẫn… Chúng ta tin rằng cần phải cắt nghĩa các từ ngữ này để người ta không liệt chúng vào loại “các lời phàn nàn đại để” mà vào mỗi thời lại rộ lên nơi miệng các chuyên viên than phiền.
Những biến cố tại Spoleto và Đức Maria Phù Hộ
Sử gia Giacono Martina viết rằng lịch sử Hội Thánh vào giữa những năm 1800 “ghi đậm dấu của một cú sốc dữ tợn giữa cái cũ và cái mới, giữa những cơ cấu của một xã hội chính thức là Kitô giáo và sự khẳng định ngày càng rõ nét của một nền thế tục hóa đời sống xã hội. Do đó hiện lên một hình ảnh của một thời kỳ then chốt trong lịch sử Hội Thánh được diễn tả bằng những hạn từ mới như là cuộc đối đầu giữa Kitô giáo và các nền văn hóa của các thời kỳ lịch sử khác nhau mà Kitô giáo gặp phải.
Một trong những thời điểm dữ dằn nhất của “cú sốc ghê gớm đó” là thời điểm xẩy ra vấn đế về Roma và về Quốc gia của Đức Giáo Hoàng. Sau cuộc chiến tranh thứ hai vì nền độc lập của Nước Ý, theo như tác giả Pietro Stella, thì Nước Đức Giáo hoàng (hay các bang thuộc Đức giáo Hoàng) mà các người Công giáo coi là cần thiết cho sự độc lập của Đức Thánh Cha, xem ra đã bị “Vương Quốc Ý chinh phục”. Các Đức giám mục của miền Trung Ý tức là miền Umbria[6] vào ngày 2 tháng Hai 1860 đã mời gọi các tín hữu cầu nguyện Thiên Chúa “qua sự chuyển cầu của Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Phù Hộ Các Giáo hữu”.
Tại Spoleto, một thành phố nhỏ miền Umbria, có tin đồn một phép lạ cả thể trong dân chúng. Trong tháng Ba năm 1862, qua một bức ảnh cổ xưa, được lưu giữ tại một nhà thờ hoang tàn, Đức Mẹ có nói chuyện với một em bé lên năm tuổi và chữa lành một nông dân trẻ. Các khách hành hương tuôn về nhà thờ này.
Đức Tổng Giám Mục Spoleto, đức Cha Arnaldi, gửi tới tờ báo Công giáo mang tên Sự hài Hòa, một bài viết hồ hởi về những biến cố này. Ngài nói đến những cuộc hành hương quan trọng đến từ miền Todi, Perugia, Foligno, Nocera, Narni, Norcia.
Cũng Đức Giám mục trên vào tháng Chín 1862 đã đề xuất ý tưởng xây một đền thờ lớn tại những nơi xẩy ra các phép lạ, và trao cho bức ảnh Đức Mẹ (cho tới khi đó còn gọi là “Đức Mẹ Sao Sáng”) này cái tên “Phù Hộ Các Giáo Hữu” (Auxilium christianorum).
Don Bosco “rất hài lòng” khi đọc bài viết của Đức Cha Arnaldi. Cũng đồng thời Ngài có giấc mơ quan trọng về Hai cái neo “tựa vào hai cột trụ”. Sự kiện diễn tiến như Pietro Braido tổng kết lại trong chương XIV của cuốn “Don Bosco Vi Linh Mục Của Các Bạn Trẻ Trong Thế Kỷ Của Tự Do” của ngài như sau:
Lá thư viết cho Đức Piô IX ngày 13-2-1863 kết thúc với việc hình dung ra một trong các khía cạnh đặc trưng của lòng sùng kính Đức Maria dưới tước hiệu Phù Hộ là sự gắn kết không thể tách lìa của nó với việc thờ phượng phép Thánh Thể. Don Bosco gợi ý rằng “Đức Thánh Cha làm sáng tỏ tư tưởng cao vời cho rằng Thiên Chúa gợi hứng trong lòng con người trong khi ngài công bố khắp nơi lòng tôn sùng Bí tích rất thánh và lòng sùng kính Đức Nữ Trinh là hai chiếc neo đem đến ơn cứu độ cho nhân loại lầm than”[7]. Để báo trước các biến cố đau thương, Don Bosco cũng gợi ý trong thư viết ngày 10-3-1863 rằng: “Mẹ Hội Thánh lại một lần nữa phải đương đầu và gánh chịu những sự khuấy động của các con cái bội bạc của mình. Ở đây chúng con tăng cường cầu nguyện và đặt tất cả niềm cậy trông của chúng con nơi Chúa Giêsu Thánh Thể và nơi Đức Maria Vô nhiễm rất thánh. Con hy vọng là Chúa Quan Phòng sẽ kéo dài đời sống của Đức Thánh Cha, và sau những cơn bão táp, Đức Thánh Cha có thể thấy được những ngày quang đãng và bình an cho Hội Thánh”[8]. Các cuộc giao chiến, các nơi ẩn náu và các cuộc chiến thắng dưới hai dấu hiệu cao cả trên đã được chính Don Bosco trình bày một cách thật huy hoàng trong bài giảng ngắn vào buổi chiều 30 – 5 – 1862 cho 500 em Nguyện Xá. Ngài đã áp dụng vài hình phạt, vừa thích đáng vừa đúng thời đúng lúc và đúng dịp cho một vài em vào ngày trước lễ Chúa Lên Trời, những em này “đã trốn khỏi Nguyện Xá mà không có phép của bề trên”, “bằng cách leo tường”. Ngài đã huấn từ cho các em như sau:
Cha sẽ kể cho chúng con một chuyện dụ ngôn, vậy các con hãy chăm chú nghe xem các con sẽ hiểu nó ra sao nhé (…). Các con hãy tưởng tượng thấy mình bên bờ biển và không cảm thấy rõ đâu là khoảng đất xung quanh mình ngoại trừ ngay chỗ chân mình đứng. Trên toàn thể mặt biển có vô số những thuyền bè có mang chiếc mỏ sắt nhọn hoắc để đi tới đâu, chúng đục thủng các thuyền bè khác tới đó. Trong số những chiếc tầu này, có những chiếc mang vũ khí, ca-nông, súng, những chiếc khác thì mang những sách vở, những đồ dễ cháy, thế rồi tất cả chúng quay mũi tầu tới tấn công một chiếc tầu khá lớn, nhằm húc đổ nó, đốt cháy nó và gây tại hại cho nó bao có thể. Giữa biển các con hãy tưởng tượng mình thấy hai cột cao lớn: trên một cây cột có tượng Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm rất thánh, ở dưới có ghi chữ: Auxilium Christionorum (Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu). Trên chiếc cột kia, một cây cột còn to hơn và cao hơn, có Mình Thánh ngự trên đó, to tương ứng với cây cột, có ghi các lời: Salus Credentium (Ơn Cứu Độ cho các tín hữu). Ở chân cột còn có biết bao nhiêu sợi dây xích khác được cột vào các neo, chờ đón các tàu chạy tới cột vào. Chiếc tàu lớn hơn do Đức Thánh Cha hướng dẫn, và ngài làm hết sức để đưa tàu tới giữa hai cây cột trụ này. Nhưng những chiếc thuyền khác đã tìm mọi cách tấn công và phá hoại chiếc tàu này, với khí giới, với những chiếc mỏ sắt nhằm xuyên thủng, với những đám cháy đốt lên bằng các sách báo, nhưng tất cả đều thất bại và luống công; tất cả các khí giới và vật dụng đều bị xé nát và chìm lỉm. Có khi những viên đạn ca-nông xuyên thủng chỗ này chỗ khác của cạnh tàu, nhưng chỉ một cơn gió thổi từ hai cột trụ ào tới là các lỗ thủng lành lại ngay, và con tàu tiếp tục chạy. Trên hành trình, Đức Thánh Cha một lần ngã xuống, thì lại đứng dậy, một lần nữa ngã gục rồi chết. Ngài vừa chết một vị khác đã lên thay ngay lập tức, và vị này dẫn con tàu đến giữa hai cột trụ, và ngài cột dây sắt với neo vào chiếc cột Bánh Thánh Thể và vào cột Đức Maria Thụ Thai Vô Nhiễm. -Thế rồi một cơn chấn động lớn lao trên toàn mặt biển. Tất cả những chiếc tàu đã tấn cống tàu của Đức Thánh Cha đã bị phân tán và trốn chạy, va chạm vào nhau, tàu nào chìm thì tìm cách làm chìm luôn các tàu khác. Những tàu đậu ở xa thì cẩn thận đi lùi lại, và sau khi những con tàu khác đã bị chìm vào trong vòng nước xoáy, thì những chiếc tàu còn lại vội vàng chèo về phía chiếc tàu lớn: và khi chúng tới đó, chúng cũng vội cột mình vào những chiếc neo treo ở hai chiếc cột và tại đó chúng tìm được sự yên hàn tuyệt đối”. Kể tới đây, Don Bosco giúp tìm lời giải thích khi hỏi cha Rua, và cha Rua đã trả lời một cách đơn giản là “Con thấy chiếc tàu lớn của Đức Thánh Cha chính là Hội Thánh (…) Còn những người bảo vệ Hội Thánh chính là những người tốt, yêu mến Toà Thánh, còn những người khác là những kẻ thù”. Don Bosco đồng ý và thêm: “những chiếc tàu của kẻ thù chính là những cuộc bách hại đang được chuẩn bị chống lại Hội Thánh. Điều đã xẩy ra cho tới bây giờ chưa là gì cả”[9].
Lời kỷ niệm Don Bosco gửi cho các học sinh Mirabello ngày 30-12-1863 chính là “Lòng sùng kính Đức Maria rất thánh”. Ngài đã bình luận: “Các con rất thân mến, các con hãy tin rằng cha không nghĩ là mình nói quá khi quả quyết rằng việc chịu lễ thường xuyên là một cột trụ lớn trên đó một cực trái đất được cột vào, và lòng sùng kinh Đức Mẹ là một cột trụ khác nữa mà cực bên kia của trái đất được cột vào”[10].
Với những niềm xác tín về Đức Mẹ Phù Hộ như thế, năm 1863 Don Bosco đã tậu thêm đất để xây tường vòng quanh Đền thờ tương lai. Năm 1864, ngài cho thực hiện công việc đào bới, tậu vật liệu, và tiến hành công việc xây dựng Thánh Đường Đức Mẹ Phù Hộ.
Một Tên gọi của Thánh Đường khiến người ta phải nhăn mặt
Don Bosco trao cho kỹ sư Antôn Spezia lo việc lập họa đồ Đền thờ dưới hình thập giá La-tinh trên một diện tích 1,200 mét vuông. Chiều dài nhất của thánh đường là 48 mét. Với cuộn họa đồ trong tay, Don Bosco đem tới tòa thị chính để xin sự chấp thuận. Về bảng vẽ chính quyền không có ý kiến gì; ngược lại họ còn hứa (dù chỉ thuần túy bằng miệng) tài trợ cho thánh đường một món trợ cấp ngoại thường là 30,000 lires mà tòa thị chánh ban cho một nhà thờ giáo xứ mới.
Điều làm cho người ta nhăn mặt chính là tước hiệu của nó là thánh đường kính Đức Mẹ Maria Phù Hộ. Các sự kiện tại Spoleto, lá thư của các Đức Giám mục vùng Umbria, các cuộc tranh luận với tờ báo Sự hài Hòa đều khiến cho chính quyền thị chánh e ngại. Tước hiệu này xem ra có tính cách phản bác.
“Vậy liệu chúng ta có thể đổi cái tước hiệu lạ kỳ này chăng? Ví dụ gọi nó là Nhà Thờ Đức Mẹ Mân Côi, hay Đức Mẹ Hòa bình, hay Đức Mẹ Núi Các-men?… Đức Mẹ quả có lắm tước hiệu cơ mà”.
Don Bosco mỉm cười.
“Các vị cứ chấp thuận dự án của tôi đi. Còn về tước hiệu, thì chúng ta luôn luôn có thể thỏa thuận với nhau”.
Nhưng người ta đã chẳng bao giờ đi tới thỏa thuận về điều đó cả: Don Bosco vẫn giữ nguyên tước hiệu trên.
Sau khi nhận được phép xây cất, Don Bosco trao nhiệm vụ xây cất cho nhà thầu Carlo Buzzetti (anh của Giuse Buzzetti. Người có tên Carlo này Don Bosco đã gặp tại nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, đã trở thành người dẫn dắt công trình xây dựng đáng tin cậy. Thế rồi Don Bosco gọi cha quản lý Saviô và lệnh cho cha khởi sự công việc chuẩn bị đất đai.
“Nhưng thưa Don Bosco, chúng ta sẽ làm sao đây? Đây đâu có phải là một nhà nguyện, mà là một nhà thờ rất lớn và tốn phí rất nhiều tiền. Sáng hôm nay tại nhà chúng ta thậm chí còn chưa có tiền để trả tiền tem cho các lá thứ gửi đi.
– Con hãy bắt đầu chuẩn bị đất đai, Don Bosco trả lời. Có bao giờ chúng ta đã bắt đầu một công việc mà có sẵn những món tiền cần thiết đâu? Con hãy để cho Chúa quan Phòng còn có việc phải làm chứ”.
Các công việc đã khởi sự vào mùa thu năm 1863, rồi tái bắt đầu lại vào tháng Ba 1864.
Vào cuối tháng Tư, do lời mời của người thầy, Don Bosco cùng với các linh mục của ngài và nhiều học sinh khác, đi xuống hầm đào để đặt viên đá đầu tiên. Sau lễ nghi này, Don Bosco quay về phía Carlo Buzzetti và nói với anh ta:
“Cha muốn ngay lập tức trao tiền cho các công việc to lớn này”.
Ngài lấy cái ví của ngài ra và mở nó, và đổ hết tất cả những gì có trong đó vào tay chủ thầu là 8 xu, tức là chưa tới được nửa lire Thấy Buzzetti há hốc mồn ra, ngài lập tức nói thêm:
“Con cứ an tâm. Đức Mẹ sẽ nghĩ đến chuyện đem tiền bạc cần thiết tới”.
Dĩ nhiên là Đức Mẹ sẽ nghĩ cách, nhưng để có tiền bạc đến, thì cũng luôn cần mồ hôi cùng sự mệt nhọc của Don Bosco.
Ai đã nghiên cứu dung mạo của hai vị thánh đồng thời tại Torino: là Cottolengo và Don Bosco, tất thấy mình bị đánh động bởi sự khác biệt của các ngài: Cả vị này lẫn vị kia đều nhận được sự trợ giúp của Chúa Quan Phòng. Nhưng trong khi cha Cottolengo nói: “Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị sẵn số tiền mà chúng ta đang cần. Chúng ta hãy đợi tiền sẽ đến”; thì Don Bosco lại nói: “Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị tiền sẵn mà chúng ta đang cần. Chúng ta hãy đi tìm tiền đó đi”.
Cha Phaolô Albera, người kế vị thứ hai của Don Bosco, vốn sống gần ngài trong thời gian đó, đã nói rằng: “Chỉ những ai chứng kiến mới có một ý niệm chính xác về công việc và những hy sinh cha chúng ta đã đảm nhận lấy cho mình trong suốt những năm hoàn thành ngôi thánh đường Đức Mẹ Maria Phù Hộ Các Giáo Hữu, được nhiều người coi là một công cuộc táo bạo, vượt lên trên sức lực của một linh mục khiêm nhượng đã phải chịu trách nhiệm hoàn thành nó”.
Don Bosco ráng ép trí tưởng tượng của mình để ép buộc lòng quảng đại của dân chúng. Ngài gửi khắp cả Torino và sứ Piemonte bằng vô số những thư từ và thư luân lưu; ngài tung những lời kêu gọi quyên góp; ngài kêu mời những người nặng ký của trần gian ở Torino, Firenza, Roma đóng góp. Vào tháng Năm 1866 Don Bosco viết cho kỵ sĩ Oreglires: “Số người thợ xây phải tiếp tục làm việc tại nhà thờ đã bị giảm xuống thành tám người, vì thiếu các phương tiện. Đây là lúc nguy kịch cần đến bàn tay Ngài cứu vớt chúng tôi”.
Đức Mẹ đi quyên góp cho Don Bosco
Nếu “Don Bosco khổ sở” vượt thắng được những khó khăn, đó chính là nhờ sự trợ giúp của đức Maria Phù Hộ vì Người đứng ra thực hiện “những việc quyến góp kết quả nhất”. Tin đồn về “những ân huệ” lớn nhỏ mà Đức Mẹ ban cho những ai giúp đỡ xây dựng thánh đường lan tỏa mau chóng tại Torino và tại nhiều miền Nước Ý.
Ơn có tiếng vang lớn nhất có lẽ là ơn mà thượng nghị sĩ Giuse Cotta nhận được. Ông vốn là ân nhân của Don Bosco và rất được biết đến trong những môi trường chính trị và tài chánh tại Torino.
Cha Lemoyne kể rằng trong khi vị thượng nghị sĩ 90 tuổi ốm liệt giường mà các bác sĩ không hé lộ một tia hy vọng, thì Don Bosco đến tìm ông. Ông chỉ còn thều thào nói với Don Bosco:
– Chỉ còn ít phút nữa là con phải đi vào cõi vĩnh cửu.
– Không, thưa thượng nghị sĩ! Don Bosco vui vẻ trả lời. Đức Mẹ hãy còn cần thượng nghị sĩ trên trần gian này. Ngài còn phải giúp tôi xây dựng nhà thờ.
– Không còn hy vọng nữa, thưa cha, vị thượng nghị sĩ nói nhỏ.
Đức tin của Don Bosco đưa ngài tới chỗ vững tâm lạ thường. Ngài nói như diễu:
– Thượng nghị sĩ sẽ làm gì nếu Đức Mẹ cho nghị sĩ ơn lành bệnh?
Ông cười, cố lấy sức bình sinh, giơ hai ngón tay ra phía Don Bosco:
– Hai ngàn lires nhé. Nếu con khỏi bệnh, con chuyển hai ngàn lires trong sáu tháng cho công trình xây dựng nhà thờ Valdocco.
Ba ngày sau vị thượng nghị sĩ xuất hiện trước Don Bosco lành lặn:
– Con đây, ông nói cùng Don Bosco. Đức Mẹ đã chữa con và con đến cùng cha để trả phần nợ thứ nhất của con.
Chúng ta sẽ chỉ đan cử ra ở đây hai ơn lạ nữa, khi mà Don Bosco vào ngày 11 tháng Hai 1868 viết cho kỵ sĩ Oreglires rằng: “Mỗi ngày Đức Maria Phù Hộ đều làm những chuyện ngày càng nổi bật để giúp nhà thờ. Điều đó lấp đầy hằng cuốn sách…” Vào dịp điều tra để tôn phong chân phước cho Don Bosco, Đức Cha Bertagna làm chứng qua tuyên thệ rằng: “Trong cuộc tĩnh tâm tại Tu viện thánh Inhaxiô, Don Bosco xin tôi lời khuyên để biết ngài có nên tiếp tục ban các phép lành cho những người bệnh với các ảnh của Đức Maria Phù Hộ và của Chúa Cứu thế chăng, bởi vì ngài nói người ta đồn rất dữ về rất nhiều các trường hợp chữa lành tiếp nối nhau và chúng giống như những việc diệu kỳ. Liệu điều này xấu hay tốt? Tôi đã nghĩ là nên khuyên Don Bosco tiếp tục ban các phép lành của Đức Mẹ Phù Hộ”.
Người mẹ, đứa trẻ thơ và những đồ trang sức của người nghèo
Một hôm Don Bosco đi phố. Khi trở về Nguyện Xá, ngài thấy ở gần cửa ra vào có một người đàn bà nghèo ẵm một đứa bé khoảng một tuổi trong vòng tay mình. Đức bé gầy gò, đầy mụn nhọt, bất động và câm như chết rồi. Don Bosco ngừng lại rồi hỏi người mẹ:
– Em bé ốm bao lâu rồi?
– Nó luôn như vậy từ lúc mới sinh.
– Bà có đem em tới bác sĩ khám bệnh chăng?
– Có, nhưng bác sĩ nói là không thể làm gì cho nó được.
– Và bà có bằng lòng thấy nó khỏe mạnh lại chăng?
– Có, nhưng con không đáng hưởng một ơn huệ như vậy. Nếu con bé khỏi, con sẽ dâng tất cả những gì quí giá nhất con có.
– Vậy bà chuẩn bị nhé, khi bà có thể, bà hãy đi xưng tội và chịu lễ. Trong vòng 9 ngày bà hãy đọc một kinh Lạy Cha và một Kinh Kính Mừng, và xin chồng bà cùng đọc với bà. Đức Mẹ sẽ nhận lời bà.
Rồi ngài chúc lành đứa bé bằng phép lành Đức Mẹ Phù Hộ.
Mười lăm ngày sau, vào một Chúa Nhật, tại phòng áo của nhà thờ, giữa những người tìm gặp để nói chuyện với Don Bosco, có một người đàn bà mang theo một đứa bé có đôi mắt sáng và rất sinh động. Khi bà ta tới với Don Bosco, bà ta đã thốt lên tươi tỉnh:
– Này cha, đây là đứa con của con.
– Bà muốn gì, thưa bà?
Don Bosco không nhớ được về phép lành cha đã ban cho bà. Người đàn bà nhắc lại và kể cho ngài là vào ngày thứ ba hay thứ tư của tuần chín ngày, đứa bé trai của bà đã được lành bệnh. Rồi bà ta nói thêm:
– Bây giờ con đến để thi hành lời con đã hứa.
Trong khi nói vậy, bà ta lấy ra một cái hộp trong đó có những đồ trang sức của người nghèo: một cái vòng đeo cổ, một chiếc nhẫn và một đôi hoa tai. Don Bosco bối rối, chắc hẳn ngài đã nghĩ đến những đồ trang sức của mẹ ngài. Nhưng người đàn bà nói tiếp:
– Con đã hứa với Đức Mẹ là con sẽ dâng hiến những cái gì quí hóa nhất đối với con. Và con xin cha vui lòng nhận lấy.
Don Bosco lắc đầu:
– Bà thân mến, thế bà lấy gì để đương đầu với cuộc sống chứ?
– Không, chúng con sống ngày này qua ngày khác với tiền lương của chồng con, người đang làm việc tại lò đúc.
– Vậy hai ông bà có thể giữ lại được gì chăng?
– Làm sao cha nghĩ chúng con có thể giữ lại được gì với có 3 lires một ngày công thôi?
– Còn chồng bà có vui lòng để bà dâng những vật này chăng?
– Vâng, ông ấy biết và ông ấy bằng lòng.
– Nhưng như thế ông bà sẽ chẳng còn lại gì cả. Ông bà sẽ làm gì khi ốm đau hay gặp tai nạn?
– Chúa biết chúng con nghèo và Ngài sẽ lo liệu. Còn con, con phải làm điều con đã hứa.
Don Bosco hết sức cảm động:
– Này bà nhé, chúng ta sẽ làm như sau: Đức Mẹ không đòi ở bà một hy sinh quá lớn như vậy. Nếu bà thật sự muốn dâng cho Đức Mẹ một dấu của lòng biết ơn của bà, thì bà chỉ cần cho tôi chiếc nhẫn thôi, còn chiếc vòng đeo cổ và đôi hoa tai thì bà giữ lại.
– Ồ không! Con đã hứa là dâng tất cả và con phải cho đi tất cả.
– Bà hãy cứ làm như tôi nói với bà. Đức Mẹ bằng lòng với chuyện đó mà.
– Có thật không cha? Con không muốn nuốt lời của mình.
– Bà không nuốt lời của mình đâu. Tôi quả quyết với bà như vậy nhân danh Đức Mẹ.
Người đàn bà xem ra còn có chút ít hoài nghi, sau cùng bà ta kết luận:
– Vậy, con làm như vậy. Nhưng nếu cha có muốn cầm hết số vàng của con, thì cha cứ lấy nhé.
Don Bosco nhắc lại với bà ta là đừng ái ngại và đưa tay vuốt nhẹ đứa bé (M.B., Cuốn X, các trang 94-95).
Một người từ xứ Alba đến với Don Bosco sau cả một ngày một đêm cuốc bộ. Ông ta xưng tội, rước lễ, rồi trình diện với Don Bosco để thi hành một lời hứa. Ông ta kể lại rằng ông ta đã ốm, bác sĩ đã nói thế là xong đời rồi; thế là ông ta hứa với Đức Mẹ là ông ta sẽ đem đến cho Đức Mẹ tất cả những gì ông ta có nếu ông ta được khỏi bệnh. Rồi bỗng nhiên ông ta khỏi bệnh. Don Bosco thấy người này ăn vận khốn khổ quá; ông ta rút ra một mảnh giấy từ trong túi, cẩn thận gỡ nó ra. Giữa tờ giấy có một đồng bạc: một lire. Ông ta đưa nó cho Don Bosco rồi trịnh trọng lên tiếng:
– Đây là tất cả những gì con có, tất cả của cải của con.
– Ông làm nghề gì?
– Làm công tại vườn. Con làm việc mỗi ngày.
– Ông sẽ trở về nhà thế nào?
– Con sẽ trở về nhà y như con đến đây: tức là đi bộ.
– Ông không mệt ư?
– Cũng khá mệt, vì cuộc hành trình khá dài.
– Ông chưa ăn gì cả chứ?
– Dĩ nhiên rồi, vì con muốn chịu lễ. Trước nửa đêm con có ăn một mẩu bánh mì con mang trong túi.
– Và bây giờ ông còn gì để ăn chăng?
– Không còn gì cả, thưa cha.
– Vậy chúng ta sẽ làm như vầy nhé: hôm nay ông ở lại đây với cha. Cha cho ông ăn bữa trưa và bữa tối. Ngày mai, nếu tiện, ông sẽ trở về nhà.
– Thật là tuyệt vời! Con đem đến đây một đồng lire, và cha cho con ăn tốn tới hai hay ba lires!
– Này nhé: ông đã dâng cho Đức Mẹ một món quà. Còn bây giờ, Don Bosco thực hiện món quà dâng của mình: đó là một ít cháo và một ly rượu thôi, chứ có gì?
– Con xin thưa rõ với cha là con không nhận. Con biết Don Bosco và Đức Mẹ có duy một túi tiền chung thôi. Vậy nên bây giờ con xin cuốc bộ về nhà của con. Nếu con đói, con sẽ ăn xin. Nếu con mệt, con sẽ ngồi nghỉ dưới bóng cây. Nếu con muốn ngủ, người ta sẽ vui lòng cho con nằm trên rạ mà ngủ. Còn lời hứa của con với Đức Mẹ, thì con phải hoàn tất nó một cách đúng mức. Con xin chào cha và xin cha cầu nguyện cho con”.
Và rồi không thêm một lời nào nữa, ông ta lên đường (M.B., Cuốn X, các trang 97-98).[11]
Chương 39
THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC MẸ PHÙ HỘ
Tại Mirabello, thuộc giáo phận Casale Monferrato, cha xứ có một trường trung học trong khuôn viên giáo xứ. Ngài mời Don Bosco tới nhận nhà trường. Sau khi chắc chắn được rằng mình sẽ là “chủ nhân ông tại trường của mình” và được quyết định rằng trường sẽ nhận ưu tiên các ứng sinh trẻ tới chức linh mục, Don Bosco tiếp nhận trường học đó.
Khi đó ngài bận tới tận cổ trong công cuộc xây dựng thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ, nhưng ngài cũng quyết tìm mọi biện pháp để sáng kiến thành lập trường Mirabello đi tới thành công. Đức Cha Calabiana, Giám mục Casale, lúc ấy đang có rất ít ơn gọi tới chức linh mục, đã hoàn toàn chấp thuận dự án. Do đó trường này được gọi là “ tiểu chủng viện”.
Vào mùa thu năm 1863, Don Bosco gọi Don Rua đến và bảo:
– Cha xin con một hy sinh lớn. Người ta đã đề nghị chúng ta mở một “tiểu chủng viện” tại Mirabello, trong vùng Monteferato. Cha tính sai con tới đó để điều hành trường. Đây là nhà Salêdiêng đầu tiên được mở ngoài vùng Torino. Hằng ngàn con mắt bám sát chúng ta xem “chúng ta tiến hành ra sao”. Cha hoàn toàn tín nhiệm vào con. Cha sẽ cho con các hội viên cần thiết để cho nhà này bắt đầu tốt đẹp”.
Cha Rua lúc đó 26 tuổi. Don Bosco cùng ngài nghiên cứu danh sách các Salêdiêng sẽ đi theo cha Rua. Các tư giáo Provera, Bonetti, Cerruti,Albera, Dalmazzo và Cuffia đã được chọn.
Họ cũng nghiên cứu một công thức sẽ sớm đem lại cho họ những kết quả tốt: Đó là sẽ có một số những em tốt hơn cả được chọn ra từ Nguyện Xá để đem tới trường trung học Mirabello để là; “men tốt” giữa con số 90 em học sinh nam được nhận trong năm đầu tiên tại đó.
Bốn trang giấy mang giá trị của một di chúc
Cha Rua tới Mirabello sau lễ Đức Mẹ Mân Côi vào đầu tháng mười. Ngài đem theo bốn trang giấy gồm các lời khuyên quí báu mà Don Bosco đã viết cho ngài.
Cha Pietro Stella nói là “Bốn trang giấy này có giá trị của một bản di chúc. Don Bosco phản ánh tại đây toàn bộ cung cách của các mối quan tâm chính yếu của một người cha, một nhà giáo dục, một linh mục đang mưu cầu ơn cứu độ của các linh hồn”.
Chính Don Bosco cũng rất ý thức là mình đã thành công trong việc vạch ra trong những dòng chữ này một trong các bản tóm lược tốt nhất của hệ thống giáo dục của ngài, đến độ sau đó ngài đã viết lại những trang này (có thêm bớt và thay đổi đôi chút) cho các Giám đốc Salêdiêng, dưới đề tài: Các lời tâm niệm ký thác lại cho các Giám đốc.
Chúng ta thử ghi nhận lại một bản tổng hợp sau đây:
“Cha nói với con tiếng nói của một người cha dịu dàng muốn mở lòng mình cho một trong các con cái thân thương nhất của cha.
Với chính mình con
– Đừng sợ gì cả.
– Hãy tránh các việc hãm mình trong của ăn của uống.
Mỗi đêm con nghỉ ít là sáu tiếng.
– Con hãy cử hành Thánh Lễ và Đọc Kinh Thần vụ với lòng đạo đức, sùng tín và chăm chú.
– Mỗi buổi sáng hãy nguyện gẫm một chút, và trong ngày hãy đi viếng Thánh Thể một lần.
– Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến trước khi làm cho các trẻ nể sợ mình; khi con ra lệnh hay sửa trị, hãy lo làm cho mọi người hiểu được rằng đó là vì lợi ích chứ không phải do sự nổi nóng và ý riêng của con. Hãy chịu đựng mọi sự khi phải đứng ra ngăn ngừa tội lỗi.
– Hãy suy nghĩ kỹ càng trước khi lấy các quyết định quan trọng.
– Khi con phải làm một báo cáo về một người nào, con hãy cố gắng làm sáng tỏ vấn đề trước khi đưa ra một phán quyết.
Với các thầy giáo
– Hãy cố gắng thường xuyên nói chuyện với họ. Nếu con hay được rằng họ cần bất cứ một điều gì, thì hãy làm hết sức để lo liệu cho họ chuyện đó.
– Hãy lo sao để họ tránh các tình yêu riêng tư và thiên vị đối với các học trò.
Với các giám thị
– Hãy cố gắng liên hệ với họ để biết quan điểm của họ về hạnh kiểm của các trẻ em. Hãy lo sao cho họ mau mắn trong nhiệm vụ của họ. Họ cần phải tham gia trò chơi của các trẻ em.
Với các học sinh
– Không nhận dưới bất cứ lý do nào một học sinh từng bị đuổi khỏi các trường khác hay qua những cách thức khác, học sinh này đã được báo cho con là có những thói quen xấu.
– Con hãy tìm mọi cách để có thể dự các giờ chơi giữa các trẻ. Hãy lợi dụng dịp để nói đôi lời rỉ tai thân ái, mà con biết nói ra khi có cơ hội trong lúc này hay lúc khác và khi con cảm thấy điều đó nên làm. Đây chính là một bí mật để con làm chủ trái tim của các trẻ.
– Con hãy lo liệu khai sinh Hội Bạn Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Với các học sinh ngoại trú
– Đức ái và sự lịch thiệp là những đặc tính của một giám đốc, đối với các học sinh nội trú lẫn ngoại trú.
– Liên quan đến những vấn đề vật chất, con hãy hết sức nhường nhịn bao có thể, dù mình có phải chịu thiệt thòi, miễn là duy trì được tình bác ái.
– Trong những chuyện thiêng liêng, hay luân lý mà thôi, thì mọi sự phải được giải quyết vì vinh danh cao cả của Thiên Chúa và ích lợi của các linh hồn. Những công việc, sự cứng cỏi, tinh thần trả thù, tự ái, lý lẽ, yêu sách, và thậm chí cả danh dự nữa, ta đều phải hy sinh tất cả trong trường hợp này.
Và sau đây là những điều được thêm vào mà Don Bosco đã thực hiện khi ngài chép lại những điều trên để làm thành Những lời tâm huyết dành cho các giám đốc:
– Con hãy lo sao để không ra lệnh làm những việc vượt quá sức hay nguy hại cho sức khỏe.
– Trước bất cứ một quyết định nào, con hãy nâng lòng lên cùng Thiên Chúa trong ít phút giây.
– Hãy hết sức lo liệu để các học sinh biết đến con và con biết đến chúng bằng việc trải qua những thời gian con có được để ở bên chúng.
– Con hãy để lại cho người khác các biện pháp trấn áp và kỷ luật.
– Hãy hết sức lo liệu để nương theo các khuynh hướng của mỗi người, trong khi ưu tiên trao phó các nhiệm vụ cho những người mà con biết là họ ưa thích các nhiệm vụ đó nhất.
– Mình phải cố gắng cần kiệm trong mọi sự, nhưng hãy lo liệu sao để những người đau ốm không thiếu thốn gì cả.
– Sự suy xét, thời gian, kinh nghiệm cho cha chạm tới được bằng tay là thói tham ăn, ham muốn, sự khoe khoang đã tạo nên sự đổ vỡ của các Tu Hội rất phồn vinh và các dòng tu quan trọng. Những năm tháng trôi qua sẽ làm cho con được biết các chân lý mà có lẽ giờ đây con coi là không thể tin nổi”.
Những lời nói rỉ vào tai của Don Bosco
Don Bosco gợi ý với Don Rua: “Hãy tìm cách nói nhỏ vào tai những lời thân ái mà con có thể nói ra…”. Những lời nói nhỏ của Don Bosco chính là một trong những bí quyết của công việc giáo dục, theo như chứng từ của các học trò của ngài. Cha Lemoyne đã cố gắng thu thập “các lời nói nhỏ” này qua việc hỏi han các học trò của Don Bosco. Dây là một số các ví dụ:
– Con có khỏe không? Và linh hồn con thì sao?
– Con giúp cha một chuyện lớn nhé, Con có biết chuyện gì chăng? Đó là chuyện giúp con nên tốt đó mà!
– Khi nào con sẽ trở nên niềm an ủi lớn cho cha?
– Con có muốn đập tan các cái sừng của con quỉ bằng một cuộc xưng tội tốt chăng?
– Con có muốn chúng ta trở nên những người bạn tốt của nhau trong các công chuyện của linh hồn con không?
– Con có sợ Chúa sẽ tức giận với con không? Nếu sợ, con cứ chạy tới Đức Mẹ.
– Thiên đàng đâu phải cho những kẻ lười biếng.
– Hãy cầu nguyện, cầu nguyện tốt đẹp và con chắc chắn sẽ cứu rỗi được mình.
– Con có cảm thấy mình ở trong cơn bão táp chăng? Hãy kêu cầu Đức Mẹ là Ngôi sao Biển.
– Con hãy nghĩ đến sự phán xét của Thiên Chúa.
– Đừng tin tưởng quá vào sức mạnh của mình.
– Con hãy nghĩ đến Chúa và con sẽ làm cho mình trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn.
– Con hãy giúp cha nhé. Cha muốn làm cho con trở nên hạnh phúc bây giờ và trong đời sau.
– Nếu con giúp cha, cha sẽ làm cho con trở nên một thánh Lu-y mới.
– Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu rỗi.
– Các con hãy làm việc, hãy làm việc thật nhiều, và chúng ta sẽ nghỉ ở trên thiên đàng.
– Can đảm lên! Một góc thiên đàng sẽ làm mọi chuyện khó khăn được ổn định trở lại.
Một bà mẹ, và biết bao nhiêu chuyện phải làm
Don Bosco ước ao mẹ của Don Rua đi theo ngài tới Mirabello. Đây là một sự để ý đầy tế nhị đến cha Rua. Bà chăm sóc đến việc giặt dũ quần áo cho các trẻ, nhưng nhất là bà chính là yếu tố tạo sự quân bình trong những thời điểm xuống tinh thần không tránh khỏi được của người con còn trẻ của bà.
Có một số vấn đề vào lúc khởi đầu liên quan đến các văn bằng, nhưng Các Salêdiêng tại Mirabello đã sớm nhận được các kết quả mỹ mãn, nhất là trong việc đánh thức các ơn gọi linh mục. Một lịch sử biên niên đã kể lại với tất cả lời khen ngợi rằng “Don Rua tại Mirabello hành xử y như là một Don Bosco tại Torino”.
Vào đầu năm 1865,Tu Hội Salêdiêng đạt đến con số 80 hội viên, trong đó có 11 linh mục. Các thầy giáo sĩ được sai đến Mirabello với cha Rua – là Bonetti và Provera – đã trở thành các linh mục. Tại Torino, bên cạnh Don Bosco và Don Alasonatti cũng có các cha Cagliero, Saviô, Francesia, Ruffino, Ghivarello, durando cũng đã được thụ phong linh mục.
Tuy nhiên cũng trong năm đó Tu Hội Salêdiêng phải trải qua một thử thánh cam go. Trong vòng vài tháng, năm thành viên Salêdiêng đầu tiên đã bị loại ra khỏi vòng chiến, các trẻ nội trú đạt tới con số 500 em, đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ đã nuốt trửng những số tiền khổng lồ và khiến cho Don Rua tới mức kiệt sức.
Trong những tháng đầu tiên của năm 1865, Don Bosco bận tâm nghĩ đến bức họa Đức Maria Phù Hộ thật vĩ đại phải được đặt trên vòm đền thờ mới. Ngài trao cho họa sĩ Lorenzone thực hiện và cố gắng diễn tả cho vị họa sĩ những điều ngài muốn được thấy trong bức họa này:
– “Trên cao có Đức Thánh Trinh Nữ ngự giữa các thiên thần, được bao quanh bởi các Thánh Tông đồ, các Ngôn sứ, các Trinh nữ, các Thánh Hiển tu. Ở phía dưới sẽ là dân Thiên Chúa thuộc các miền khác nhau trên trái đất đang đưa cao tay lên Mẹ để kêu cầu Mẹ trợ giúp”.
Họa sĩ Lorensô để cho ngài nói xong, mới hỏi:
– Thế bức họa này cha sẽ đặt ở đâu?
– Trong nhà thờ mới.
– Thế cha nghĩ như thế là ổn à? Chúng ta tìm ra khu phòng nào để mà vẽ nó đây? Chúng ta cần cả một Quảng Trường Pháo Đài (Castello)!
Don Bosco phải nhìn nhận là vị họa sĩ có lý. Nên cuối cùng phải quyết định là quanh Đức Mẹ chỉ vẽ có các Tông đồ và các Vị tác giả các Tin Mừng. Ở dưới bức họa, chỉ vẽ có Nguyện Xá mà thôi.
Họa sĩ Lorenzone chọn nơi vẽ là căn phòng lớn của dinh thự Madama (Dinh Bà) và ông bắt đầu công trình kéo dài trong suốt ba năm.
Ông thành công tạo nên khuôn mặt từ mẫu của Đức Mẹ Maria Phù Hộ với cả một sự dịu dàng lớn lao. Một linh mục của Nguyện Xá kể lại:
“Một hôm tôi vào xưởng vẽ để nhìn bức họa. Họa sĩ Lorenzone trèo trên một cái thang, vẽ những nét vẽ cuối cùng trên dung mạo Đức Mẹ. Ông ta không quay lại khi tiếng chân tôi lao xao bước vào phòng vẽ, mà tiếp tục làm việc. Ít lâu sau đó, ông ta xuống khỏi thang và bắt đầu chiêm ngắm. Thình lình, ông ta nhận ra tôi có mặt, ông liền cầm lấy cánh tay tôi và dẫn tôi đến một chỗ nào đó có đủ ánh áng.
– Em hãy nhìn Mẹ đẹp biết bao! Ông ta nói với tôi. Đây không phải là công trình của tôi. Không phải là tôi vẽ. Có một bàn tay khác hướng dẫn tay tôi. Cháu hãy nói với Don Bosco là bức họa sẽ thật là tuyệt vời!
Ông vô cùng phấn khởi. Thế rồi ông lại tiếp tục công việc vẽ vời.
Khi bức họa được đưa vào thánh đường và dựng ở nơi đã được định trước, thì họa sĩ Lorenzone đã quì gối xuống và bắt đầu khóc to lên như một đứa trẻ.
Chào biệt Don Alasonnati sang thế giới bên kia và chào đón Don Rua trở lại Nguyện Xá
Vào buổi sáng ngày 8 tháng Mười năm 1865, thầy tư giáo Cibrario từ Lanzo đến Valdocco, báo tin cho Don Bosco hay Don Alasonatti dưỡng bệnh tại đó đã qua đời vào ban đêm, và có đem đến cho Don Bosco một trong số các lá thư của ngài. Ngài đã trải qua 11 năm cuối đời trong một công việc đầy những hy sinh âm thầm. Cả đống những hồ sơ, biên nhận, các sổ sách bề bộn khiến cho ngài đã phải thức trắng nhiều đêm. Thiên đàng là nơi ngài đã xin Chúa trước khi đến Nguyện Xá, và ngài đã quyết đảm bảo cho mình chỗ ấy một cách nghiêm chỉnh. Vào tháng Chín, một mụn lớn ở cổ đã làm cho ngài phải chịu đau đớn kinh khủng.
Don Bosco nhắc nhớ đến kỷ niệm về ngài cho các bạn trẻ với tất cả sự cảm động của một người anh thương nhớ người em của mình. Đối với Nguyện Xá, đây là một sự mất mát quá nghiêm trọng.
Tại Mirabello, Don Rua đã chuẩn bị chương trình của ngài cho một năm học mới. Nhưng cha Rovera đã từ Torinmo đến đó báo tin:
– Don Bosco muốn cha trở lại Nguyện Xá. Cha Bonetti sẽ đảm nhận công việc điều hành trường học. Xin cha sớm lên đường bao có thể.
Cha Rovera kể lại rằng:
– Khi đó Don Rua đang viết lách tại bàn giấy. Nhưng ngài không một chút do dự: không nêu một câu hỏi nào hay xin một lời cắt nghĩa. Ngài đứng dậy liền, lấy sách nguyện của mình và nói: “Nào chúng ta đi!” Ngài để mẹ ngài ở lại Mirabello, cho tới khi tìm được một người khác lo việc giặt giũ cho các học sinh.
– Tại Torino, Don Bosco nói cho ngài một cách thật đơn giản: Những gì cha đã làm tại Mirabello, bây giờ hãy tiếp tục tại Valdocco.
Don Bosco trao phó cho ngài mọi sự: các xưởng với 350 em học sinh học nghề, công trình xây dựng Vương Cung Thánh Đường, việc xuất bản Báo Đọc Công giáo (12,000 ấn bản) cùng với nhiệm vụ đọc và trả lời phần lớn các thư từ người ta viết cho Don Bosco.
Ban sáng Don Bosco phải gặp gỡ liên tục khách viếng thăm
Cha Lemoyne kể lại rằng: “Các cuộc gặp gỡ này bắt đầu có từ năm 1846, và tăng dần, tăng dần. Trong năm 1858, Don Bosco còn có thể ra khỏi nhà vào lúc 10g30 hay 11 giờ sáng. Nhưng vào năm 1860, số người đến đông đến độ ngài phải ở lại trong phòng suốt ban sáng, từ 9 giờ sáng tới 1 giờ sau trưa, và điều này cứ tiếp tục như thế cho tới cơn bệnh cuồi cùng của ngài. Khi Don Cafasso qua đời, Don Bosco được coi như người kế tục tinh thần của Don Cafasso. Tất cả những gì có ở Torino, gồm những người tốt lành, nổi nang, trổi vượt trong mọi giai tầng xã hội Torino đều chạy đến với Don Bosco”.
Don Cagliero còn thêm: “Tôi luôn luôn trông thấy rất nhiều người tới đó để gặp ngài. Họ xin ngài cầu nguyện cho họ, đón nhận chúc lành của ngài, xin ngài lời khuyên bảo về các việc lành phải thực hiện, mang tới cho ngài những quà dâng vì lợi ích của các con cái của ngài, hoặc chỉ vì một mục đích duy nhất là được thấy ngài và nói chuyện với ngài. Đó là những người thuộc mọi tầng lớp dân chúng, nhưng cũng có cả các khách chính quyền và các vị bộ trưởng, các bề trên của các chủng viện và các đức Giám mục”.
Một trạng sư năng được Don Bosco tiếp đón đã kể lại rằng: “Ngài có nhiều việc khẩn trương phải làm. Bất chấp điều đó, ngài không bao giờ nôn nóng để cắt ngắn các cuộc nói chuyện. Ngài vừa đáng kính trọng, vừa đơn giản vừa thân ái. Tôi được nghe rất nhiều lần rằng: Ồ, Don Bosco đón tiếp tôi tốt đẹp biết mấy!”
Don Gioakim Berto, thư ký của ngài, thường nghe ngài khích lệ các bệnh nhân rằng Thiên Chúa luôn nâng đỡ những người tới nhà của Người. Don Bosco luôn nhắc lại rằng: “Chúa là một người Cha tốt lành không bao giờ cho phép chúng ta phải chịu đau khổ vượt quá sức lực của ta”. Nếu các bệnh nhận gợi lại những việc lành họ đã làm, thì Don Bosco thốt lên: “Thiên Chúa không quên một điều gì cả. Ngài trả cho họ dồi dào trên thiên đàng. Thiên Chúa là Đấng trả công khôn sánh”.
Cha Dalmanzo kể lại rằng:
– Một hôm, có một người buôn bán giàu có, nhưng vô tín ngưỡng, đến gặp Don Bosco. Ông ta chỉ đến đó vì tò mò. Thế rồi tôi thấy ông ta ra khỏi phòng Don Bosco mà rất hồi hộp, đã thốt lên hết thảy ba hay bốn lần rằng: “Ôi, thật là một con người, một con người tuyệt vời!”. Lúc đó tôi mới hỏi ông ta xem ông ta đã nhận được từ Don Bosco những lời lẽ nào. Ông ta trả lời: “Tôi đã học ở Don Bosco những chuyện tôi không được nghe thấy từ miệng các linh mục khác. Trong khi ngài đưa tôi ra cửa, ngài nói với tôi: “Chúng ta hãy làm sao để một ngày kia, ông với tiền bạc của ông, và tôi với sự khó nghèo của mình, chúng ta đều có thể gặp gỡ nhau trên thiên đàng”.
Ông De Amicis nhìn thấy tượng Đức Mẹ Phù Hộ vĩ đại trên vòm của Đền Thờ
Vào năm 1866, các công việc xây dựng Đền Thánh tiến tới việc hoàn thành vòm chính của nhà thờ, rồi ngừng lại. Don Bosco chẳng còn tiền nữa. Ngài liền ra lệnh thay thế vòm chính của thánh đường bằng một mái vòng cong đơn giản và hoàn thành công trình theo cách đó. Nhà thầu Buzetti, cha quản lý Saviô, hoàn toàn kinh ngạc trong nỗi đau đớn: Một thánh đường được xây dựng như thế sẽ mất đi một phần lớn vẻ đẹp của nó. Họ quyết định dời lại lại công việc dựng mái vòm này khoảng một tháng, để tiến sang các công trình phụ khác, chờ xem may ra Don Bosco đổi ý kiến. Chính lúc đó thượng nghị sĩ Cotta tới:
– Vậy cha quyết định bỏ vòm chính hả?
– Nào có ai muốn bỏ đi một cái gì đâu; Chúng tôi thiếu các phương tiện, và bây giờ thì phải lo việc đóng lại mái che trước khi mùa đông tới.
– Vậy thì các cha hãy cứ thi hành bản vẽ của nhà thờ y như nó đã là. Các phương tiện sẽ không thiếu đâu.
Rồi ông thượng nghị sĩ nói thêm với Don Bosco:
– Tôi có các dữ kiện để khẳng định rằng Chúa giờ đây đã ban cho tôi gấp trăm lần những gì tôi đã dâng cúng vì tình yêu mến Ngài.
Mái vòm chính được nâng cao lên. Ngày 25 tháng Chín 1866, Don Bosco với một học sinh nhỏ, leo lên trên giàn giáo. Họ cùng nhau đặt viên đá đóng lại ổ chốt cuối cùng của toàn bộ các tảng đá của mái vòm.
Vào năm 1867, một bức tượng vĩ đại của Đức Mẹ được đặt trên đỉnh của vòm chính nhà thờ. Don Bosco viết rằng: “Tượng này cao khoảng 4 mét và tượng Mẹ ở phía đầu được bao quanh bởi 12 ngôi sao bằng đồng mạ vàng. Khi được dọi sáng lên, Tượng Mẹ trở nên rực rỡ cho những ai ngắm nhìn từ xa vào lúc tượng Mẹ được soi sáng bởi những luồng ánh sáng của mặt trời. Người ta phải thốt lên rằng chính tượng Mẹ đã nói lên rằng: Mẹ ở lại đây để đón nhận các lời cầu nguyện của các con cái mẹ, để đổ đầy ân sủng và các chúc lành cho những người yêu mến Mẹ”.
– Vùng Valdocco và vùng Borgo Dora tiếp tục là một vùng ngoại ô nghèo nàn, đôi khi có dáng dấp buồn thảm: nào là những cánh đồng để hoang, các mái nhà và các lều trú của các dân nghèo, rồi đến một mái nhà lớn chứa sự đau đớn, tức là những đứa bé và những bệnh nhân khốn khổ, gọi là “nhà Cottolengo”, nhà chứa các người cùng khổ, kế đến là các công cuộc của bà bá tước Barolo và của Don Bosco.
– Khi lái các chiếc xe ngựa để đi về các miền quê, các gia đình quí tộc và giàu có của thành phố thường đi xuống khu phố nghèo khổ này.
– Edmondo De Amicis, một văn sĩ nổi tiếng và theo đúng mốt, cùng xuống khu phố lạ lùng này. Trong cuốn sách tả lại Thành Phố Torino, ông ta viết: “Tiếp nối với khu phố lạ lùng và buồn thảm này, là một vùng quê bao quanh nó, bằng phẳng và im lặng, nhất là vào mùa đông, vào giờ phút hoàng hôn, khi ở phía trên các mái nhà và các cánh đồng phủ đầy tuyết – đang chìm vào trong bóng mờ nhạt của buổi chiều – ta vẫn còn thấy nhấp nháy nhờ các tia sáng cuối cùng của mặt trời, bức tượng mạ vàng của Đức Mẹ Maria Phù Hộ, đứng thẳng trên mái vòm chính của nhà thờ đơn độc đó, với hai tay của tượng dang ra ôm lấy dẫy núi Alpe.
Đây chính là lúc những lời tiên tri “điên” đã trở thành hiện thực
Ngày 9 tháng Sáu 1868, tượng Mẹ Phù Hộ được thánh hiến.
Vào 10 giờ 30, Đức Cha Ricácardi, Tổng giám mục Torino bước lên bàn thờ chính để dâng thánh lễ Đầu tiên. Ngày sau đó, Don Bosco cử hành thánh lễ, có Don Francesia và Don Lemoyne giúp lễ. Tại nhà thờ, 1200 bạn trẻ tham dự.
Đây là lúc vô cùng cảm kích. “Những lời tiên tri điên rồ” của Don Bosco đã trở thành thực tại trước tất cả mọi con mắt. “Thánh đường kỳ diệu và cao trổi” vươn cao lên cách lạ lùng trong “một cánh đồng gieo cây bắp và khoai tây”. Quanh vòm chính nhà thờ, trên một tấm biển bằng vải trắng, người ta đọc thấy dòng chữ: HIC DOMUS MEA, INDE GLORIA MEA (ĐÂY LÀ NHÀ CỦA MẸ, TỪ ĐẤY GIÃI TỎA VINH QUANG CỦA MẸ). Bàn thờ thì được bao quanh bởi một con số mênh mông các trẻ em”.
Có người cao giọng nhắc đến Don Bosco vào ngày hôm ấy, như để tưởng thưởng ngài vì những cay đắng ngài đã từng phải uống cạn trong suốt những năm cuối cùng. Ngài đã đáp lời cách khiêm cung: “Cha không phải là tác giả của những công trình lớn lao này. Chính Chúa, chính Đức Maria Phù Hộ đã đoái thương sử dụng đến một linh mục thấp hèn là Don Bosco để thực hiện chúng. Mỗi một viên đá của ngôi nhà thờ này là một ân huệ của Đức Mẹ Maria”.
Hai ngày hôm sau báo Unità Catolica (Công giáo thống nhất) trong bài tường thuật về lễ cung hiến, đã viết một câu làm Don Bosco vô cùng hài lòng: “Ngôi thánh đường này được chính những người nghèo dựng nên, và phục vụ những người nghèo”.
Ngày lễ lớn lao đó chắc chắn đã không làm cho Don Bosco “mất khôn”. Nếu ngài có bị cám dỗ rơi vào cảnh đó, thì những khó khăn bức bách lại bắt đầu giữ cho ngài khỏi sa vào cảnh đó. Ngài viết trong vòng những ngày đó rằng: “Cái giá của gian khổ khiến chúng ta kinh ngạc. Giữa Torino, Mirabello và Lanzo (một trường trung học thứ ba mà ngài đã mở trong thời kỳ này) mỗi tháng khiến chúng ta phải trả 12 ngàn lires duy nhất cho bánh ăn”.
Người đã phải hy sinh bản thân nhiều nhất trong thời gian đó (và luôn luôn trong sự thinh lặng) chính là Don Rua. Trong vòng hơn một tháng, ngài chỉ ngủ không hơn ba hay bốn giờ hằng đêm. Công việc quá mức đã kết thúc bằng việc nắm phần thắng trên cơ thể ngài.
Ngày 29-7-1868, ngài ngã qụy. Ngài ngã xuống theo đúng nghĩa chữ trên vòng tay của một người bạn khi đi vào Nguyện Xá. Được đưa vào phòng, một bác sĩ đã xét nghiệm ngài và báo động: Đây là chứng viêm màng bụng cao độ.
Don Bosco khi ấy vắng mặt; người ta cho tìm ngài ngay lập tức. Và buổi chiều Don Bosco trở về, nhưng khi vừa thấy ngài các trẻ em liền ào tới xưng tội với ngài. Don Bosco vẫn giữ vẻ rạng rỡ ngoại thường.
Don Saviô nói với ngài:
– Xin cha đến gặp Don Rua ngay lập tức; cha ấy có thể ra đi bất cứ lúc nào.
– Không thể, không thể được. Don Rua sẽ không bao giờ ra đi mà không xin phép cha. Cha còn phải giải tội cho các trẻ em đã.
Ngài giải tội cho tới nửa đêm. Rồi thay vì tới bệnh xá, ngài đi dùng bữa tối. Quanh ngài mọi người giữ sự thinh lặng nặng nề. Người ta không thể hiểu được tại sao ngài thông thường vẫn tỏ ra rất lo lắng cho các bệnh nhân, mà lúc này lại tỏ ra rất không tế nhị với người cộng tác viên chính của mình đang đang tha thiết xin gặp ngài.
Sau khi đã ăn xong, Don Bosco lên phòng của mình để cất túi đồ của mình, và rồi sau đó ngài mới quyết định tới gặp Don Rua. Người bệnh đang đổ mồ hôi lạnh trên trán. Cha đang cảm thấy thật sự khó chịu. Thấy Don Bosco, cha liền thì thầm:
– Nếu đây là giờ của con, xin cha nói cho con. Con không sợ chết đâu.
– Chết sao? Don Bosco thốt lên. Rua thân mến, cha không muốn thế; con có hiểu chăng? Cha sẽ cảm thấy lạnh nếu không có con! Chúng ta còn phải làm việc và làm việc, không có vấn đề chết gì cả!
Ngài nhìn thấy trên bàn có bình dầu để cử hành bí tích xức dầu bệnh nhân, liền hỏi:
– Ai là người tốt lành muốn cử hành bí tích xức dầu kẻ liệt cho Don Rua?
– Chính con đó, Don Saviô trả lời.
– Con thật là những người ít đức tin. Hãy can đảm lên Don Rua ạ! Nghe này: ngay cả khi cha có vất con qua cửa sổ, con cũng sẽ không chết. Bây giờ, các con hãy đem đặt dầu bệnh nhân vào chỗ của nó và để nó ở yên chỗ ấy.
Ba tuần sau, Don Rua khỏi bệnh. Sau một tháng rưỡi dưỡng bệnh, ngài trở lại sân lớn chơi như một trong số các trẻ em. Ngài chưa hoàn toàn trong tình trạng chạy nhẩy được, nhưng ngài chơi cùng với các em nhỏ nhất. Cùi xuống sát đất, ngài nhắm những trái banh nhỏ bằng đất nung với ngón tay cái còn thiếu bình tĩnh.
Tháng 8-1876, sau bữa ăn tối, một Salêdiêng đột xuất hỏi Don Bosco:
– Phải chăng những người Salêdiêng chết vì làm việc quá nhiều?
– Điều này đúng, Don Bosco trả lời, Tu Hội chúng ta không vì thế mà phải chịu bất cứ một tai hại nào, trái lại là đàng khác. Nhưng không phải hoàn toàn đúng thế. Chỉ có một người xưng đáng danh hiệu là nạn nhân của công việc, đó chính là Don Rua. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa! Chúa vẫn gìn giữ ngài vững mạnh và khỏe khoắn.
Chương 40
CHO CÁC NGƯỜI SALÊDIÊNG
Kể từ khi Don Bosco lo việc xây dựng đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ, người ta có cảm tưởng rằng ngài như bị nén lại, hầu như bị tù hãm bởi công cuộc của ngài. Lịch sử diễn ra bên cạnh ngài không có vẻ là lịch sử của riêng ngài nữa.
Có vẻ như “Lịch sử Salêdiêng” bắt đầu như thể đang tiến hành song song, nhưng trong tính cách độc lập với một lịch sử “khác”, (tức là lịch sử của nước Ý), với những giai đoạn những thành công, những cuộc chiến cá biệt của nó: việc thiết lập dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, cuộc xuất phát truyền giáo, việc khởi đầu Hội Cộng Tác Viên, cuộc chiến xứng đáng trong danh dự nhưng cam go, trắc trở với hàng giáo phẩm Torino cho sự độc lập của Tu Hội, những bước hành động vắt cạn sức lực tại Roma để đạt được sự phê chuẩn Hiến Luật Salêdiêng.
Lịch sử diễn ra ở bên ngoài cổng lớn của Nguyện Xá
Ấn tượng kể trên là không đúng. Lịch sử của nước Ý với những bước nặng nhọc tiến tới việc thống nhất, những cú đụng độ đầy giận dữ của các quyền bính chính trị chống lại Giáo Hội, lịch sử “không chính thức” của các cuộc chiến thợ thuyền, cuộc di cư khổng lồ, sức căn thẳng của khối đống quần chúng nhằm đạt tới một sự chuyển biến tốt đẹp hơn của ngành giáo dục và của văn hóa hòa trộn vào hoạt động của Don Bosco như là một hệ thống các đường mạch máu, định hướng cho ngài, gợi ý cho ngài các cách thức mới để cảm nhận các sự việc.
Vì lý do này, mà xem ra thật nguy hiểm (và hời hợt) nếu mình bỏ hẳn qua một bên các biến cố lớn đang diễn ra ở ngoài cánh cổng của Nguyện Xá.
Sau cái chết của ông Cavour (6-6-1861), một nhóm các nhân vật được gọi là “cánh hữu lịch sử” kế tục ông trên đỉnh cao quyền lực trong vòng 15 năm. Họ đã trưởng thành bên cạnh ông Cavour, nhưng dù cho họ đã hấp thụ được nghiệp chính trị của Cavour, họ lại không có được sự chói sáng của thiên tài Cavour. Đó là những ông Sella, Lanza và Rattazzi của vùng Piemonte (Torino); Jacini và Visoconti Venosta của vùng Lombardia (Milano); Minghetti và Farini của vùng Emilires (Bologna); Ricasoli và Peruzzi của vùng Toscana (Firenza); Spaventa và Massari của vùng nam Ý. Họ có khuynh hướng và những quan tâm của giới trưởng giả giàu có và của giới quí tộc chủ sở hữu đất đai nông nghiệp.
Đối diện với Giáo Hội, họ kiên định theo đường lối của Cavour tách Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước, và không e ngại giáng đòn mạnh trên giới giáo sĩ và các Đức Giám Mục bị nghi ngờ là đứng ra bảo vệ các quyền giáo hoàng.
Đối mặt với “cánh hữu lịch sử này”, cánh tả năm Hạ viện. Họ khác hẳn với cái chúng ta gọi ngày hôm nay là cánh tả. Những thành phần của cánh tả xưa này cũng xuất thân từ giới quí tộc và giàu có (trên con số 22 triệu người Ý, chỉ có 400,000 người có quyền bầu cử, và chỉ có 200,000 người thi hành quyền bầu cử này mà thôi).
Crispi, Depretis, Bertani, và những người lãnh đạo chính của cánh tả coi những việc cải tạo dân chủ ôn hòa là chương trình hành động của họ (tức là việc mở rộng quyền bầu cử) và một hành động chống giáo sĩ quyết liệt hơn.
Nước Ý, trước khi chiếm đóng vùng Latium (tức là những bang thuộc Giáo Hoàng) và ba vùng Vennezie có 22 triệu dân. 80% trong số họ không biết đọc biết viết, và con số các học sinh đại học chỉ là 6500 người. 70% người Ý sống tại miền quê và canh tác đất đai. Chỉ có 18% dân số làm việc trong ngành kỹ nghệ. Các tập đoàn kỹ nghệ lớn nhất là Ansaldo, tại vùng Ligurie (vùng ven biển của xứ Genes) sử dụng đến 1000 công nhân. Các đường xe lửa đạt tới 2,000 cây số. Thương thuyền Ý đứng thứ ba trên thế giới, sau nước Anh và Nước Pháp.
Cuộc chiến chống lại bọn cướp và cuộc di dân vĩ đại
Trong năm 1861, tại miền nam nước ý khởi sự cuộc chiến chống lại các băng đảng cướp. Có lẽ đây là trang sử bi thảm nhất và đau đớn nhất của lịch sử Nước Ý.
Các “tên cướp” là những băng nhóm có võ trang là một số người trung thành với dòng tộc vua chúa tại Napoli và Hai vùng Cicilie gọi là Borboni; nhưng phần đa các băng nhóm nói chung là những băng nhóm lang thang, sống ngầm trong xã hội, cướp bóc và nhận tiền chuộc các con tin. Francesco Traniello viết rằng “Sự nở rộ của các băng đảng đưa ra ánh sáng những giới hạn của nền chính trị mà cánh hữu tự do theo đuổi. Cuộc thống nhất quốc gia đã bị coi như là một việc lạm dụng quyền lực, một cuộc đô hộ thực sự các xứ sở ở miền Nam nước Ý”.
Các nhà chính trị Cánh Hữu biểu lộ một sự khinh bỉ đối với miền nam nước Ý: Ông bộ trưởng Farini viết: “Đó không phải là Nước Ý, mà là châu Phi. Những người Beduin so với những người thô lỗ (Nam Ý) này, phải được kể như tinh hoa của các nhân đức chân chính”. Cho nên cánh hữu chống lại các băng đảng mà không động tới cái nguyên nhân đích thực của nạn bằng đảng: đó là việc vô chữ nghĩa chạm tới 90% dân chúng, cảnh khốn cùng xã hội, cuộc nổi dậy trong tuyệt vọng của cư dân thành phố chống lại một Nhà nước yêu sách thuế má nặng nề và đưa thanh niên đi xa qua các cuộc động viên bó buộc.
Cuộc chiến đấu chống lại các băng đảng cướp quả là một cuộc chiến tranh thực sự, được thực hiện với một đội quân 120,000 người, với các trận chiến, tình hình bao vây, các tòa án quân sự, các cuộc hành hình bằng vũ khí.
Hơn 5,000 tên cướp bị giết trong 5 năm từ 1860 đến 1865. Cuộc chiến tranh đi đến thắng trận, nhưng những vấn đề miền Nam Ý vẫn còn y nguyên. Những cư dân miền nam bị đè bẹp và hạ nhục, đã bám víu một phong trào trốn tránh dưới cái tên “cuộc di dân”. “Trong những năm liền sau 1861, tác giả Micae Marotta viết, cuộc di dân của người Ý mang lấy đặc tính của cả một khối đông, với mức trung bình hằng năm là 500,000 người”.
Trong khi sai các nhà thừa sai đầu tiên của mình đi Achentina, Don Bosco nói với họ: “Các con hãy ra đi tìm những người anh em của chúng ta tại đó mà sự cùng khốn và mạo hiểm đã dẫn họ tới những miền đất xa lạ”.
Chiến tranh du kích tại Torino
Năm 1862 cuộc chiến giữa Nước Ý và Tòa Thánh nhằm chiến được Roma tái bắt đầu. Garibaldi với sự thỏa thuận của thủ tướng Rattazzi, rời Caprera, xuống tàu Palerme và chuẩn bị một cuộc xuất quân để chinh phục vùng Latium (là tỉnh Tòa Thánh) và thành phố Roma. Một mình đối diện với những phản ứng mãnh liệt của Napoleon III và các người Công giáo Ý, chính phủ quyết định cho quân đội ngoại quốc đem lực lượng võ trang thường trực ra chặn đường tiến quân của Garibaldi, người đã xuống tàu tại Calabra.
Ngày 29 tháng 8 xảy ra cuộc đụng độ tại chân núi Aspromonte (một ngọn núi cao 1,956 mét trên đỉnh dãy núi Calabre). Những lính kỵ binh của quân đội Ý do đại tá Pallavicini chỉ huy tấn công và bắt giam Garibaldi.
Ngày 15-9-1864, Nước Ý ký hiệp ước với Napoleon III. Hoàng đế chấp nhận rút quân Pháp đang đóng tại Roma để bảo vệ Đức Thánh Cha và chính phủ Ý hứa tôn trọng chủ quyền của Đức Giáo Hoàng trên thành Roma. Để chứng tỏ thiện chí, chính phủ thực hiện việc chuyển thủ đô từ Torino lên Firenza.
Vừa khi quyết định này được thông báo đến Torino, thì thành phố này bừng bừng lửa giận dữ. Ngày 20 tháng 9, sáu ngàn người tập họp tại Quảng Trường Castello và la hét: Đả đảo nhà vua, hoan hô Nước Cộng Hòa!”
Ngày hôm sau, một đám đông đằng đằng sát khí tập hợp tai San Carlo để la hét phản đối tờ bào Gazetta del Popolo (Báo tin của quần chúng). Thình lình, trên những đường phố bên cạnh, đám dân đụng phải lính an ninh công cộng đi tuần tiễu với lưỡi lê mờ sẵn. Bị thương và chết. Đám đông buộc phải phân tán, nhưng sau đó lại tập hợp lại được một vài giờ sau đó, và bắt đầu tấn công tổng hành dinh của cảnh sát. Trong thời gian đó tại Quảng Trường Castello, đang diễn ra một cuộc biểu tình hòa bình. Nhưng thần kinh lúc ấy hết sức căn thẳng. Một đội lính cảnh sát nhận được lệnh bắn vào đám đông: mười người chết nằm trên những vỉa hè. Khi ấy cơn giận của quần chúng nổi dậy: Các văn phòng tòa báo Gazzetta bị phá hủy dưới lằn mưa đá gạch, các cửa tiệm buôn bàn ghế bị tấn công. Dân chúng cầm lấy khi giới. Ông bộ trưởng nội vụ sợ xảy ra một cuộc nội chiến, nên ra lệnh cho 28,000 binh lính và một trăm khẩu ca nông tràn vào. Các đại bác được đặt trên Đồi Các thầy Capuxin, miệng các khẩu đại bác quay về phía trung tâm thành phố.
Buổi chiều ngày 21 tháng chín, Don Bosco tập hợp tất cả các thanh thiếu niên lại dưới các lớp hành lang của nhà Valdocco để cầu nguyện cho Torino và cho dân chúng của nó.
Ngày 22, cuộc loạn đả lại bắt đầu từ 9g30 sáng. Một hàng những người lính cảnh sát mang khí giới canh gác tổng hành dinh của cảnh sát lại bị một trận ném đá tấn công. Hai người cảnh sát bị thương trầm trọng. Bị bức tới đường cùng, các ông bạn cảnh sát liền nã súng ngang tầm vai con người: Kết quả là 26 người chết.
Đức vua nổi giận, yêu cầu chính phủ từ chức. Vị thủ tướng mới được bổ nhiệm là tướng La Marmora. Những cuộc náo loạn ngừng lại, nhưng sau đó thành phố thủ đô đã sớm được đưa về Firenze.
Torino cảm thấy mình bị phản bội.
Cơn khủng hoảng tôn giáo: Kinh Thánh và lớp học về thị trường chứng khoán
Và chính Đức Thánh Cha cũng cảm thấy mình bị phản bội. Đức Piô IX thấy mình không còn được sự che chở về mặt quân sự của Napoleon III nữa, đã trở nên cứng cỏi trong các lập trường chống chủ nghĩa tự do của ngài. Xuyên qua văn bản Syllabus (Bản liệt kê các tà thuyết), ngài lên án tổng thể các “giáo thuyết hiện đại”. Trong các dòng cuối cùng của tập tài liệu, Đức Thánh Cha chối việc Hội Thánh “có thể và phải dung hòa mình và liên minh với sự tiến bộ, với chủ nghĩa tự do và với nền văn minh hiện đại”.
Đức Thánh Cha cùng với rất nhiều môi trường Công giáo, đã cảm thấy e ngại trước cơn khủng hoàng tôn giáo như có vẻ đang thay đổi bộ mặt thế giới.
Tác giả Traniello đã trích dẫn đoạn văn sau đây: “Các giới lãnh đạo mới và các chủ xí nghiệp thích chọn các lớp học về thị trường chứng khoán hơn là lớp học Kinh Thánh. Các khối đông quần chúng vô sản mới bị mất gốc và bị bóc lột, đã cải hồi một cách dễ dàng để gia nhập cuộc đấu tranh giai cấp hơn là sống theo các mối phúc của Tin Mừng. Việc rời bỏ các miền quê để lên các thành phố, những sự thay đổi chỗ ở do đòi hỏi của nghề nghiệp và nơi làm việc, các điều kiện sống mới và nói chung sự tan vỡ của cơ chế xã hội cũ tạo nên những thay đổi sâu xa trong lối suy nghĩ, làm quay ngược những đoàn lũ dân chúng quan trọng khỏi các vị cha xứ và mục tử của họ. Toàn bộ sự thể này mang dáng dấp một cuộc từ chối các nguyên tắc Công giáo truyền thống, một sự từ bỏ hay giảm thiểu việc thực hành Kitô giáo, và trên hết, một sự chống đối lại giáo quyền vẫn còn gắn chặt với một thế giới kể từ nay đã lỗi thời rồi”.
Hoàn cảnh khủng hoảng này, vốn đã đạt tới tột đỉnh của nó trong cuộc chinh phục Roma của các nhóm quân đội Ý vào năm 1870, đẩy những người Công giáo tái bố trí lại lực lượng của mình, tự tổ chức mình như là “một quốc gia trong một quốc gia”. Để bảo toàn các giá trị riêng của mình và tạo nên những thế hệ mới trong bầu khí Kitô giáo, (trong sự song hành với các tổ chức của Nhà Nước chống giáo sĩ) các người Công giáo tạo nên các Hội “Công giáo” cứu trợ lẫn nhau, các nhà băng “Công giáo”, các chi nhánh bảo hiểm “Công giáo”, các trường trung học cấp II và III “Công giáo” để giáo dục con em của họ.
Don Bosco đã sống cách thâm sâu cái thời điểm lịch sử nước Ý này. Ngài động viên phần lớn các nỗ lực của ngài để mở “các trường Công giáo” tới mức đưa Tu Hội của ngài vào trong “giai đoạn mới”: là giai đoạn của các trường học. Chúng ta sẽ nói rộng rãi hơn về đề tài này trong phần thứ hai của chương này.
Lịch sử không chính thức của giới thợ thuyền
Bên cạnh dòng lịch sử chính thức của nước Ý, diễn ra các biến cố khác, thường bị quên lãng bởi các sách kể lại lịch sử vĩ đại của nước Ý.
Những năm này chứng kiến “nỗi khổ to lớn” của dân nghèo. Các thợ thuyền tại Piemonte phải làm việc trong các xưởng thợ 12 giờ mỗi ngày với những đồng tiền lương buộc người ta phải ăn đói, không có sự tương trợ lẫn nhau, không có bảo hiểm xã hội. Những nông dân tạo thành một đa số rất lớn của dân chúng như chúng ta đã nói tới. Ngay vào tháng Ba, họ đã dẫn con cái khoảng 12 tuổi của họ tới chợ búa, để các chủ đất thuê chúng đi làm việc. Chuyện này đã xảy ra ngay vào thời Don Bosco còn là một em bé. Và chuyện này còn kéo dài rất lâu (và nó còn kéo dài cho tới tận năm 1981 trong một số vùng của nước Ý như Puglires, tức là vùng bàn chân của bán đảo Ý). Các người con gái thì chăm sóc “các bện tóc tóc dài” của chúng, rồi đem cắt đi và bán nó khi các em tới 18 tuổi: đó là phương thức tốt nhất để chuẩn bị món tiền hồi môn khi cưới hỏi.
Những đám di dân cũng rời khỏi Piemonte đang thiếu các luật lệ để điều hành công việc lao động và đảm bảo an sinh xã hội; những người di dân từng mùa một sang Pháp và Thụy Sĩ, còn những di dân vĩnh viễn thì qua Mỹ Châu.
Vào năm 1864 tại Luân Đôn khai sinh “Quốc Tế Những Người Lao Động Thứ Nhất”. Vào lúc khởi đầu nó gồm ba trào lưu chính: phe Nghiệp Đoàn Anh nhắm đến các việc cải cách tuần tự để tạo điều kiện tốt hơn cho các người thợ, cho họ được tham dự trực tiếp hơn vào hành động chính trị; các môn sinh của nhà Xã Hội Pháp Proudhon đứng ra thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cập và chủ nghĩa cộng sản Mac-xít và tìm cách thiết lập “các hợp tác xã thợ thuyền” để dân dần hủy bỏ chủ nghĩa tư bản; các người theo Mazzini vốn đã xây dựng tại nước Ý 450 “Hiệp Hội Công Nhân” với 120,000 người ghi danh.
Tuy nhiên dần dà từng chút một, Quốc Tế này bị thống trị bởi Các-Mác mà qua các cuộc thanh lọc kế tiếp nhau, đã loại bỏ những ai đã không suy nghĩ như ông ta và áp đặt chính các ý tưởng cộng sản của ông ta.
Trong cùng năm 1864 này, đức Cha Ketteler, Giám mục Mayenne, xuất bản cuốn sách Vấn đề Thợ thuyền và Kitô giáo. Đây là một chương trình của nền Công giáo xã hội Đức. Ngài yêu cầu sự can thiệp của Nhà Nước để lập nên bộ luật lao động và việc tiên liệu xã hội. Các luật này sẽ đảm bảo một mức lương tối thiểu, giới hạn các giờ làm việc, đảm bảo việc nghỉ ngơi hằng tuần, cấm đưa phụ nữ và trẻ con vào làm việc, cung ứng cho sự an sinh xã hội, tái lập lại sự quan trọng của các “xã hội cấp trung” giữa cá nhân và Nhà Nước: Đó là gia đình, thị trấn, các cơ chế địa phương, các hội tự do.
Dưới áp lực của các phong trào này và của các cuộc tranh đấu của giới thợ thuyền, những năm này đã chứng kiến được các cuộc chinh phục chậm chạp và gian khổ. Năm 1864, chính phủ của Napoleon III nhìn nhận các công nhân có quyền đình công. Năm 1866, chính phủ Bỉ nhìn nhận các nghiệp đoàn lao động đầu tiên (dưới áp lực mạnh của các hội đoàn Công giáo). Những việc thừa nhận trong các lãnh vực này được thể hiện tiếp theo tại Áo (1870), tại Anh (1878), và tại Pháp (1884).
Ngày 1 tháng năm 1866 bắt đầu một chiến dịch quốc tế nhằm giảm thiểu ngày lao động thành 8 tiếng đồng hồ thôi. Người ta tính ra có đến 5,000 cuộc đình công và nhiều cuộc biểu tình. Khắp nơi cảnh sát và quân đội đàn áp dã man. Tại Chicago, có rất nhiều cái chết và các người lãnh đạo các cuộc biểu tình này đã bị treo cổ.
Trong mười năm sau cùng của thế kỷ XIX, hầu như tất cả mọi Quốc gia Châu Âu đều dùng các luật mới để giảm thiểu thời gian lao động của một ngày còn 10 giờ thôi, đồng thời cấm sử dụng lao động trọn thời gian đối với các trẻ trai dưới 13 tuổi, phê chuẩn các luật pháp về việc ngăn ngừa tai nạn, về vệ sinh, về ngày nghỉ Chúa Nhật. Giữa năm 1883 và 1889, do việc thôi thúc của những người Công giáo Phe Trung, và các người xã hội của Lasalle, chính phủ Đức ban hành luật bảo hiểm bó buộc chống lại các tai nạn, bệnh tật và tuổi già. Việc này sớm được bắt chước bởi các quốc gia Áo, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Bỉ và Ý.
“Thuế đánh trên cảnh đói của dân chúng”
Vào nằm 1868, dân quê Ý đã nghèo cùng cực, lại còn phải gánh chịu một thứ thuế độc ác: thuế “đánh trên bột mì”. Việc say nghiền bột mì và lúa mạch đều bị đánh thuế nặng nề và điều này tác động mạnh đến những người chỉ có lương thực để sống là bánh mì và “bánh đúc lúa mạch Ý” (la polenta), tức là những kẻ nghèo nhất của xứ sở. Thế là dậy lên cả một làn sóng những cuộc nổi dậy nghiêm trọng nhất trong toàn thể đất nước. Traniello viết rằng : Chống lại những kẻ giết người này đôi khi vang lên khẩu hiệu: “Hoan hô Đức Thánh Cha và quân Áo!”. Có hằng trăm người chết và bị thương. Nhưng chính quyền vẫn nhất quyết giữ y nguyên “thứ thuế đánh vào những người đói khổ” trên.
Ngay tại Nguyện Xá và trong các nhà khác của Don Bosco nơi các học sinh “nuốt trửng cả núi bánh mì nhỏ”, thứ thuế trên bột mì này đã làm phí tổn gia tăng: “Bánh mì mắc mỏ khiến chúng tôi khốn khổ: Đó là lời Don Bosco viết vào những tháng đó.
“Những Trường Trung Học Salêdiêng” phát sinh
Bắt đầu từ năm 1863, với việc mở trường tiểu chủng viện Mirabello, Don Bosco đã được nhiều nơi tại nước Ý yêu cầu thiết lập không phải Nguyện Xá, mà là các trường trung học. Don Bosco chấp nhận (nhưng luôn luôn mở một Nguyện Xá tại chính nơi trường học đó).
Thế là trong vòng ít năm sau, Tu Hội Salêdiêng dấn thân làm việc trong các trường học để dạy dỗ các em tiểu học, trung học và nghề nghiệp.
Chúng ta đã nói đến lý do tại sao trong các trang trước. Sau đây là câu trả lời trọn vẹn của cha Pietro Stella: “Sự rộ nở của các trường Công giáo và việc nhân rộng chúng xảy ra vào nửa thứ hai của thế kỷ XIX, khi nền chính trị và pháp luật Ý càng ngày dựa trên những nền tảng của chủ nghĩa tự do… Sự bất đồng sâu xa giữa nước Ý theo Pháp quyền, được thiết định bởi lớp lãnh đạo và nước Ý đích thực, được tạo thành bởi các tầng lớp đông đảo của phe đối lập Công giáo và các lực lượng khác đang trên đà hình thành (đảng xã hội…), đưa đến kết quả là tại các trường công cộng Ý, có một đường hướng thế tục và rõ ràng chống giáo sĩ (với các cuộc đụng độ gây cấn về việc dạy tôn giáo tại các lớp học). Do phản ứng, sự việc trên khơi dậy nơi các người Công giáo một khuynh hướng tự tổ chức bản thân mình trong mọi lãnh vực: hội đoàn tôn giáo, các nhiệm vụ cứu trợ lẫn nhau, các ngân hàng bình dân, các hội bảo hiểm, các trường trung học giáo dục các trẻ em, nhắm nhiều hơn tới các tầng lớp trưởng giả loại nhỏ và dân chúng thợ thuyền và nông dân, hầu như là tạo nên một xã hội ở trong xã hội Nhà Nước.
Điều này cắt nghĩa tại sao vào năm 1863, người ta dự vào một sự nhân rộng các trường trung học, các trung tâm, các trường dạy nghề, các trường canh nông, các chủng viện mở ra hay điều hành bởi các người Salêdiêng với ưu tiên dành cho các học sinh nội trú… Trường học Salêdiêng góp phần tăng sức mạnh cho các lực lượng Công giáo tại ý và trong thế giới qua công việc đóng góp một con số rất lớn các thế hệ người trẻ”.
Các trường dạy học sinh học nghề gọi là các trung tâm học nghề. Chúng chỉ tiếp nhận duy có các em mồ côi và bị bỏ rơi”. Ngược lại các trường trung học thì dành cho các học sinh, tuy nhiên cũng rõ nét là phục vụ cho các trẻ nghèo. Đó luôn luôn là ý muốn minh nhiên của Don Bosco.
Buổi chiều 7-3-1859, sau khi từ Roma trở về, ngài chuyển giao cho các Salêdiêng những lời căn dặn sau đây của ĐứcThánh Cha Piô IX: “Chúng con hãy chăm lo đến các em nghèo của quần chúng. Hãy giáo dục các trẻ nghèo và đừng bao giờ có các trường phục vụ các em nhà giàu và quí tộc. Hãy ấn định tiền học phí vừa phải. Đừng nâng giá học phí. Đừng nhận điều hành các nhà trường sang giàu. Nếu anh em giáo dục những trẻ nghèo, và sống nghèo, người ta sẽ để cho anh em sống yên lành và anh em sẽ làm được nhiều việc thiện” (M. B. Cuốn IX, tr. 566).
Thực tế tương ứng với các chỉ dẫn này, không chỉ trong các năm đầu tiên. Năm 1875, Don Bosco có thể viết: “Tại Alassio, Varazze, Sampierdarena, nền tài chánh hầu như là zêrô”. Năm 1898, mười năm sau cái chết của Don Bosco, tại một trường ở Bologna do vị thư ký riêng của Don Bosco điều hành, có 181 em được sống trong đó. Con số các em mồ côi, được nuôi dạy hoàn toàn miễn phí là 69 em. Tiền ăn học nội trú toàn bộ hằng tháng là 25 lires chỉ có 33 em trả được thôi. Tất cả số còn lại là 99 em bình quân trả được nửa số tiền ăn học. Thu nhập hằng năm là 23,000 lires, còn tốn phí hằng năm là 46,000 lires. Một sự thiếu hụt thu nhập 100%, đó là một con số “lành”.
Năm 1864 khai sinh trường Lanzo. Don Bosco gửi cha Ruffino (24 tuổi) tới trong tư cách giám đốc cùng với 7 tư giáo. Cảnh nghèo khó và xập xệ làm bạn hữu với họ suốt các tháng đầu tiên. Thầy tư giáo Sala sau này là Tổng Quản lý Tu Hội, viết lại rằng: “Căn nhà trống rỗng, một vài bức tường đã hư hỏng một nửa… Chẳng có ghế, bàn chuẩn bị các phần ăn và chúng tôi ăn trên một cánh cửa hư được đặt trên hai cái bộ ngựa. Các cửa sổ không có khuôn kiếng được đóng lại bằng các tấm khăn lau tay và các tấm chăn. Chúng tôi thì ngủ trên rơm rạ”.
Năm thứ nhất trường có 37 học sinh nội trú, với một đám đông ngoại trú vô kỷ luật. Vào tháng ba, thầy tư giáo Provera do một cơn bệnh và sự kiết lực đã trở thành hoàn toàn không làm việc được. Sang tháng 7, cha giám đốc trẻ chết vì bệnh lao. Trường được trao phó cho bảy thầy tư giáo còn sống sót. “Chúng tôi làm việc rao sao ư? – cha Sala nhớ lại – Chúng tôi không muốn người ta nói trường tiến hành xấu bởi vì trường chỉ có duy chúng tôi là những thầy tư giáo trẻ điều hành thôi”.
Năm tiếp theo sau Don Lemoyne tới điều hành trường, và mọi chuyện bắt đầu tiến triển tốt đẹp hơn.
Năm 1870 mở trường Alassio. Giám đốc là cha Cerruti, 26 tuổi.
Năm 1871 mở trung tâm dạy nghề Marassi, được chuyển về Samperdarena vào năm sau. Don Albera làm giám đốc ở tuổi 26. Trường bắt đầu với ba xưởng thợ cho các “trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi”. Ngoài các lớp dạy nghề, Don Bosco cũng muốn có một phân ban cho các trẻ em “nghĩ tới theo đuổi ơn gọi linh mục”.
Năm 1871, 20 Salêdiêng vào Trường Dân lập Varazze. Don Francesia, một trong các học trò đầu tiên của Don Bosco, hướng dẫn họ. 20 Salêdiêng này đã mở trong ba năm một trường trung học tại Cherasco, nhưng họ đã buộc phải từ bỏ nó.
Don Bosco đến nói chuyện tại trường trung học và ngỏ với một đám đông dân chúng của vùng Varazze đang vỗ tay mừng ngài. Ngài tươi cười nói: “Để cho các trẻ con theo học sinh sống, thì không cần dân chúng vỗ tay trong không khí, mà hãy vỗ tay vào túi tiền! Nếu vào giờ ăn, tôi chỉ bằng lòng vỗ tay mà thôi… thì các trẻ em sẽ đứng lại!…”
Năm 1878, Don Bosco tiếp nhận trường Valsalice cho các thanh thiếu niên con nhà quí tộc.
Đây là một thời kỳ nặng nề cho Tu Hội. Một Hội 7 linh mục Torino đã mở trên ngọn đồi Torino một trường trung học cho các thanh thiếu niên quí tộc, nhưng trường đã kết thúc trong cảnh vỡ nợ. Đức Tân Tổng Giám mục Gastaldi đang khi có những mối tương quan căng thẳng với các Salêdiêng, đã gọi Don Bosco đến và buộc ngài phải tiếp nhận lấy trường này. Don Bosco không muốn biết đến chuyện này. Từ lâu ngài đã khẳng định rằng: “Không có chuyện đó! Không bao giờ cả, bao lâu cha con sống! Đó sẽ là sự hư hoại của chúng ta”. Nhưng Đức Tổng giám mục thì sẵn sáng buộc ngài phải tiếp nhận ngay cả bằng lệnh vâng lời.
Don Bosco trao vấn đề cho Công nghị của Tu Hội và tất cả mọi người đều có ý kiến tiêu cực. Ngài liền lên Lanzo để hỏi ý kiến cha Lemoyne, và cha này đã trả lời ngài: “Cha cứ từ chối đi. Cha đã chẳng nói đi nói lại rằng tiếp nhận các trường quí tộc sẽ đem sự suy sụp đến cho Tu Hội chúng ta, và chúng ta phải luôn luôn giữ vững lập trường phục vụ các trẻ em nghèo của dân chúng cơ mà?”
Sau cùng, để tránh đối đầu với quyền bính Giáo Hội, Don Bosco đã phải chấp nhận trường này. Trong suốt 5 năm, trường này là một gánh nặng cho Tu Hội. Có rất ít học sinh mà lại phải chịu một chi phí khổng lồ. Nguyện Xá Valdocco phải giúp đỡ trường bằng những đợt trợ cấp quan trọng về tiền bạc. Don Bosco đã cay đắng thốt lên rằng:
“Thật là những người nghèo lại phải đứng ra cứu giúp những người giàu!”
Rốt cuộc, vào năm 1887, trường này đã trở thành sở hữu của nhà dòng sau khi đã trả một món tiến lớn là 130,000 lires. Thế là Don Bosco thay thế các học sinh con nhà quí tộc bằng các thầy chủng sinh Salêdiêng. Có một tấm bảng rất lớn dựng ở cổng ra vào: Chủng viện của các Vùng đất Thừa sai. Vấn đề lương tâm của Valsalice sau 15 năm đã được giải quyết tốt đẹp.
Một bước ngoặt đánh dấu cho một nguyên tắc nền tảng
Chúng ta dừng lại ở đây danh sách các cơ sở mới được thiết lập. Khi Don Bosco qua đời, các nhà Salêdiêng rải rác trong sáu nước là 64 nhà. Con số Các Salêdiêng là 768.
Để kết luận, chúng tôi xin đưa ra một nhận xét.
Bắt đầu từ năm 1864, sau sự rộ nở của các Nguyện Xá và các trung tâm dạy nghề, còn phát sinh thêm các trường trung học.
Nguyện Xá Chúa Nhật (bao có thể hằng ngày nữa) vẫn tồn tại là “công cuộc thứ nhất của Tu Hội”. Luật dòng Salêdiêng đã khẳng đinh như vậy và thực tế của hoạt động của Các Salêdiêng khẳng định điều đó. Nơi các công cuộc lớn lao mở ra tại Ý và Ác-hen-ti-na, Tây-ban-nha, Brasil, ta thấy tái sinh động cảnh trí náo nhiệt của Nguyện Xá Valdocco. Các đấng kế vị Don Bosco nhấn mạnh đến điều này; đối với tất cả mọi công cuộc Salêdiêng: thì cần có cạnh nó một Nguyện Xá.
Nhưng Don Bosco vào đầu năm 1864, đã nắm bắt được một nhu cầu mới của con cái của dân chúng; các trường học nghiêm chỉnh và có phẩm chất cung cấp một nền dạy dỗ chắc chắn và Kitô hữu. Đây chính là một bước ngoặt đối với Tu Hội: từ cảnh náo nhiệt của các Nguyện Xá, một số ngày càng đông Các Salêdiêng chuyển mình vào hàng ngũ lớp lang của các trường trung học.
Không ngại ngùng nắm bắt lấy bước ngoặt này, xem ra Don Bosco đã thiết lập một nguyên tắc nền tảng cho Tu Hội ngài:
Yếu tố thiết định có tính cách bất biến của sứ mệnh Salêdiêng chính là giới trẻ nghèo, các người con cái của dân chúng: Đối với họ, Các Salêdiêng buộc phải thích nghi công cuộc của họ hầu có thể đọc được cách nhanh chóng và can đảm các dấu chỉ và các đòi hỏi của thời đại. Tắt một lời, không phải giới trẻ nghèo khổ sẽ phải thích nghi chính mình họ với các người Salêdiêng và các công cuộc Salêdiêng, trái lại chính Các Salêdiêng và các công cuộc của họ phải thích nghi với các đòi hỏi của giới trẻ bình dân.
Chương 41
GIỐNG NHƯ VALDOCCO
Ngày 24-6-1866, tại Nguyện Xá cử hành lễ Quan Thầy của Don Bosco. Các giám đốc của hai nhà Salêdiêng đầu tiên là Mirabello và Lanzo đã đến. Cha Lemoyne, giám đốc Lanzo kể lại rằng:
“Mặt trời đã lặn và mặt trăng lộng lẫy tỏa sáng bầu trời. Tôi lên phòng Don Bosco và ở lại một mình với Don Bosco trong hai tiếng đồng hồ. Trên các cửa sổ và vòng bảo vệ ban-công có đốt sáng hàng trăm và hàng trăm ngọn đèn đủ mầu sắc. Don Bosco và tôi, chúng tôi tiến ra phía cửa sổ. Quang cảnh thật là hấp dẫn. Don Bosco mỉm cười. Thình lình tôi thốt lên:
– Don Bosco, cha có nhớ đến các giấc mơ xưa không? Đây các bạn trẻ, đây các linh mục và các thầy tư giáo mà Đức Mẹ đã hứa với cha. Gần 25 năm đã trôi qua và bánh chẳng thiếu đối với bất cứ một ai cả.
– Chúa thật tốt lành – Don Bosco trả lời. Thế rồi chúng tôi lại rơi vào trong thinh lặng tràn đầy ngàn nỗi xúc động. Thế rồi tôi lại bắt đầu lên tiếng lần thứ hai:
– Don Bosco, cha không thấy là còn thiếu một cái gì đó để hoàn tất công việc của cha sao?
– Chuyện gì?
– Thế cha lại không nghĩ làm một cái gì đó cho giới trẻ nữ hay sao? Cha không nghĩ rằng chúng ta nên có một Tu Hội các sơ do cha sáng lập, đó sẽ là triều thiên hoàn thành công cuộc của cha sao? Các sơ sẽ làm được biết bao nhiêu sự thiện cho các học sinh nghèo. Họ có thể làm cho các cô gái điều chúng ta làm cho các trẻ nam.
Don Bosco tư lự một chút, rồi nói:
– Phải, chuyện đó cũng sẽ được thực hiện. Chúng ta sẽ có các sơ. Nhưng không ngay lập tức; cần đợi một chút.
Cha Pietro Stella nghĩ rằng Don Bosco trong một thời gian đã nuôi một hy vọng là sẽ kết hợp lại với Tu Hội Salêdiêng những công cuộc của Marria –Louisa Clarac, một nữ tu Bác Ái đã làm việc không cách Nguyện Xá thánh Lu-y bao xa.
Kế hoạch này nếu Don Bosco đã thực hiện, cũng không có một tuổi thọ lâu dài.
Ngược lại trong các cuộc gặp gỡ với hai nhân vật: Don Pestarino và Maria Đomenica Mazzarello mang tính quyết định.
Dịch bệnh sốt nổi mụn, những tên phù thủy và con mắt soi mói
Năm 1860, giữa mùa hè, trên các ngọn đồi Mornêsê nổ tra dịch sốt nổi mụn. Cuộc chiến tranh giành độc lập lần thứ hai vào năm trước đó đã cất đi mạng sống của nhiều người cha gia đình. Giờ đây dịch sốt này phát xuất từ các giếng nước nơi nước tù tùng và thối ủng trong mùa hè, trải rộng nỗi khiếp hãi trong tất cả miền Alexandrina
Giống như mỗi khi một nạn dịch sốt lây nhiễm phổ biến mọi nơi, người ta ưa nói đến các phù thủy và con mắt xấu. Vi trùng, vệ sinh, diệt vi trùng là những tiếng thời bấy giờ chưa ai biết.
Các gia đình nơi đồn là có nạn dịch thì bị mọi người từ bỏ. Những người lành lặn khóa mình lại nơi nhà riêng của mình.
Có một gia đình mang họ Mazzarello là một trong những nhà đầu tiên bị lây dịch bệnh. Trước hết là ông chồng, sau tới bà vợ, rồi các con cái của ông ta. Ít lâu sau người cha và đứa con bị chết.
Don Pestarino, vị linh mục mà người ta gọi là “vị linh mục nhỏ nhắn mà rất dễ thương” đi thăm giáo dân và nhận ra họ đang thực sự cần một người đến giúp đỡ họ. Ngài đi thẳng tới nhà có cha mẹ cũng mang họ Mazzarello và cô con gái tên là Maria. Nàng là một thiếu nữ mạnh khỏe, 23 tuổi. Nàng làm việc như một người đàn ông và cầu nguyện như một thiên thần.
– Tại nhà ông cậu, chú của con, có hai người sắp chết. Con nghĩ sao nếu mình tới giúp họ một tay?
Maria im lặng một lúc lâu. Cô cũng sợ như mọi người đều sợ. Vị linh mục tốt lành nhìn cô yên lặng và chờ đợi. Maria thì thầm:
– Nếu ba con bằng lòng, con sẽ đi.
Cha cô là một người tín hữu nghiêm chỉnh. Thế là Maria đi vào nhà đang lây bệnh. Trật tự và sự sạch sẽ vãn hồi ngay. Các phương thuốc và của ăn đã sẵn sàng vào đúng những lúc đã định trước.
Nhưng trong khi những người đau bệnh được chữa khỏi và xuống khỏi giường, thì bệnh dịch sốt lại chụp xuống thân Maria –Domenica. Khuôn mặt trái soan đẹp đẽ của cô trong có vài ngày đã trở thành một tam giác có nước da lợt lạt và căng thẳng. Thầy thuốc tới và lắc đầu; cái chết đã sẵn sàng ở đó cả rồi. Ông ghi toa thuốc… Nhưng cô Maria kiệt lực liền lên tiếng:
- Cháu cám ơn ông, nhưng xin ông vui lòng đừng ghi thêm những toa thuốc khác. Cháu sẽ không cần gì thêm nữa, trừ việc Chúa sẽ đến đón cháu thôi.
Nhưng giờ phút của cô đã không bao giờ đến cả. Cô còn phải làm việc nhiều trên trái đất này trước khi Chúa đến đem cô đi.
Thế là chẳng cần thuốc men, Maria đã bất chợt khỏi bệnh. Nét mặt cô lại đượm những mầu sắc của sự sống. Tuy nhiên tứ chi cô như có một sự mệt nhọc, yếu đuối không thể vượt qua được. Cơn sốt quá lớn đã làm đổ vỡ toàn bộ cơ thể cường tráng của cô.
Vậy thì giờ đây mình phải làm gì đây? Có nhiều thanh niên muốn bàn chuyện hôn nhân với cô. Cô chẳng thiếu một đức tính nào để trở thành một người vợ và một người mẹ tốt. Nhưng cô không hề muốn dần mình vào những câu chuyện như thế. Cô tự hỏi: “Rồi tôi sẽ làm gì đây?”
Cô Maria Mazzarello đã ghi danh vào Hiệp Hội đạo đức các nữ tử của Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý tưởng của nhóm này xuất phát từ một nữ giáo viên của vùng xứ sở này, tên là cô Angela Macagno. Don Pestarino đã gợi ý cho cô viết một lược đồ về luật của Hiệp Hội. Sau đó ngài đã gửi nó tới tay cha Frassinetti, một cha xứ nổi tiếng ở Genova. Theo những lời gợi ý này cha Frassinetti sáng tác “một bộ luật của Hiệp Hội Đạo Đức Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Hội này mau chóng trải rộng ra khắp nước Ý.
Don Pestarino đã thiết lập “Hiệp Hội Đạo đức” thứ nhất tại Mornese ngày 9-12-1855 với 5 thanh nữ. Người trẻ nhất là cô Maria Mazzarello, 18 tuổi.
Maria Mazzarello có một bạn nữ mà cô không hề giữ bí mật nào với cô ta: đó là cô Petronilla, cũng là một người Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Một ngày nọ trong năm 1861, Maria nói với cô này rằng:
– Em đã quyết định học nghề may. Khi em đã biết rõ nghề này, em sẽ mở một xưởng và dạy cho các trẻ nữ nghèo. Chị có ưng làm nghề may không? Chúng ta sẽ ở với nhau; chúng ta sẽ sống chung như trong một gia đình thân ái.
Một năm trôi qua. Maria va Petronilla đã thiết lập một xưởng may vá nhỏ ở cạnh xứ sở của mình. Khoảng mười thiếu nữ đến học may. Thế rồi một chuyện mới xẩy ra làm đảo lộn mọi sự.
Vào mùa đông năm 1863, khi các thiếu nữ đi giày và mặc áo mưa chống tuyết, vừa rời xưởng may về nhà mình, thì Maria và Petronilla nghe tiếng gõ cửa. Họ mở cửa ra thì thấy một người đàn ông góa vợ, làm nghề buôn bán lưu động cùng với hai đứa bé gái. Ông ta xin gửi hai cô coi sóc chúng không những trong ngày mà còn cả trong đêm nữa, vì ông ta không ở nhà mình cũng chẳng chăm lo cho chúng được. Hai đứa trẻ mồ côi đứng đó, với những con mắt sợ hãi. Đứa lớn 8 tuổi, đứa nhỏ 6 tuổi. Petronilla cầm tay đứa lớn, còn Maria thì dắt đứa nhỏ. Họ đốt lửa lớn tại lò sưởi.
Thế là chẳng có chương trình trước, xưởng may đã biến thành một mái nhà nhỏ cho các trẻ nữ nghèo. Maria và Petronilla đi gõ cửa các người bên cạnh và mượn được hai chiếc giường và một ít bột để làm món cháo.
Khi dân chúng biết được tại Mornese các cô Mazzarello “đã tiếp nhận trong nhà mình những bé gái mồ côi”, thì nhiều người đem củi, đôi chăn, nửa túi bột mì. Họ cũng mang cả những bé gái nhỏ đang cần một mái ấm. Ít lâu sau, nhóm trẻ đã lên tới 7 em.
Trước khi bắt đầu làm việc tại xưởng, các trẻ nhỏ đọc kinh Kính Mừng. Khi chuông nhà thờ vang lên báo hiệu giờ, cô Maria liền nhắc nhở: “Một giờ bớt đi trên trần gian, một giờ thêm vào trên thiên đàng”. Cô muốn rằng các em học nghề của cô làm việc cho Chúa: “Mỗi một mũi kim là một hành vi tình yêu dâng lên Thiên Chúa”.
Sáng ngày Chúa Nhật, Maria cũng muốn “làm sự thiện cho tất cả mọi trẻ nữ trong xứ mình”. Một hình thức Nguyện Xá phát sinh. Trong các ngày lễ, hai bạn nữ tập họp các trẻ em lại, dẫn các em tới nhà thờ và giúp các em vui chơi hay đi dạo.
Một vị linh mục đi tìm việc làm
Cha Đominico Pestarino sinh tại Mornese; ngài được thụ phong linh mục năm 23 tuổi tại chủng viện Genova. Trong vài năm, ngài ở lại làm việc tại chủng viện, cho tới năm 30 tuổi, đáp lại lời mời trợ giúp của một vị cha xứ già, ngài đã trở lại quê hương. Ngài tự giới thiệu mình tại tòa giảng bằng những lời sau đây: “Tôi đi tìm công việc, không phải tại những cánh vườn nho của chúng ta, mà là tại đây, nơi nhà thờ, trong vườn nho của Thiên Chúa tốt lành. Có nhiều chỗ được cống hiến cho tôi, nhưng tôi ở đây giữa anh chị em nếu anh chị em cung cấp công việc mà tôi tìm kiếm”.
Ngài gặp Don Bosco lần đầu tiên tại Genova, trong nhà cha Frassinetti. Nhưng cuộc gặp gỡ có tính cách quyết định là ở trên xe lửa, khi cả hai người ở tại xe lửa giữa thành phố Acqui và Alexandria. Don Bosco đề nghị ngài tới thăm Nguyện Xá Valdocco. Mấy tháng sau đó, Don Pestarino tới thăm Nguyện Xá.
Quang cảnh rất đông trẻ em đang lớn lên cách vui tươi trong một trường học làm việc và thấm nhuần đức tin làm cho người tới thăm viếng hết sức phấn khởi. Ngài nói với Don Bosco: “Xin cha hãy đem con về với cha”. Don Bosco đồng ý để ngài trở thành Salêdiêng (trên thực tế, vào năm sau, Don Pestarino đã tuyên khấn), nhưng Don Bosco lại muốn ngài ở lại Mornese nơi có rất nhiều chuyện quan trọng khiến ngài trở thành tối cần thiết tại đó. Dẫu sao đi nữa, các mối tương quan với Don Bosco đã trở thành những mối tương quan của sự công tác và sự lệ thuộc. Kể từ giờ phút đó Don Pestarino tham gia các cuộc họp của các giám đốc Salêdiêng.
Tại Mornese trong thời gian đó, cũng có một điều mới mẻ khác. Hai người con của Đức Mẹ Vô Nhiễm xin với Maria và Petronilla để được “sống như họ”. Khi họ hỏi ý kiến Don Pestarino, thì ngài trả lời: “Tại sao không? Với hai chúng con mà thôi, chúng còn có quá nhiều chuyện để làm khiến chúng con không kham nổi nữa”. Thế là họ tạo thành một cộng thể: bốn cô gái dạy may cho các trẻ nữ và giữ vai trò các bà mẹ cho 7 đức bé gái ở với họ cả ngày đêm.
Năm 1864, như chúng ta đã nhắc đến trong chương 37, Don Bosco tới Mornese với các trẻ trai trong kỳ nghỉ hè – dã ngoại vào mùa thu. Ngài lưu lại đây 5 ngày, Maria Mazzarello tham dự bài huấn đức mà Don Bosco ban cho các con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Mỗi buổi chiều cô cũng nghe các huấn từ tối Don Bosco nói cho các trẻ trai. Có người trách cô là không tiện lắm. Cô trả lời: “Don Bosco là một vị thánh, em cảm nhận được điều này”.
Vào năm sau, Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm chia ra thành hai nhóm. Những người đã quyết định sống đời cộng thể với Maria và Petronilla thì cư ngụ tại nhà cha Pestarino là nơi các cô thấy thuận lợi để cư ngụ hơn, và không xa nhà thờ giáo xứ lắm, và giữ nguyên tên Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Còn những người khác như Angelina Maccagno thì thích ở lại gia đình của họ hơn, và họ lấy tên của nhóm mình là Các Chị Em Ursoline mới.
Dân chúng Mornese tại khu gọi là Borgo Alto, xây dựng một trường trung học để cho các cậu con trai có các lớp để học. Don Bosco đã hứa là ngài sẽ gửi các Salêdiêng của ngài tới khi ngôi nhà xây xong. Cả xứ sở tham gia vào công trình, bằng những tiền dâng cúng hay góp ngày công lao động.
Năm 1867, ngôi nhà nguyện của Trường Trung Học hoàn thành. Vào tháng 12, Don Bosco đến cử hành thánh lễ tại đó. Ngài kêu xin Chúa ban các chúc lành của Người xuống trên trường học và dân chúng tại Mornese. Ngài dừng chân tại đó trong 4 ngày và ban một bài huấn đức cho nhóm Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm bé nhỏ này.
Năm 1869, Don Bosco thúc đẩy bước chuyển động để tiến hành việc thiết lập “gia đình thứ hai”. Mắt của ngài giờ đây đã nhắm chắc vào các cô gái Mornese, và không kèn trống, ngài gửi cho Maria và Petronilla một cuốn vở nhỏ “viết bằng chính tay của ngài, chứa đựng thời khóa biểu và một luật nhỏ để họ cùng với các cô gái nhỏ của họ bắt đầu sống một đời sống qui củ hơn” (M. B., Cuốn X, tr. 591).
Cuốn sách nhỏ này đã bị lạc mất; Sơ Petronilla nhớ lại rằng “trong cuốn sách đó có những lời khuyên sau đây: Cố gắng sống thường xuyên trong sự hiện diện của Thiên Chúa; Cầu nguyện qua việc sử dụng các lời kêu cầu thường xuyên; giữ thái độ cư xử hiền lành, kiên nhẫn, dễ thương; để ý nhiều đến các trẻ nữ, luôn giữ cho chúng bận bịu với các công việc và chuẩn bị chúng cho một đời sống đạo đức, đơn sơ, thẳng thắn và tin tưởng” (M.B. Cuốn 10, Tr. 592).
Năm 1870, Don Bosco tới ở lại tại Mornese 3 ngày: để nghỉ ngơi hầu lấy lại đối chút sức lực của mình và cũng để quan sát gần đời sống cộng thể của các chị em. Ngài muốn thấy “cuốn vở nhỏ đó” có tác động gì nơi đời sống của họ. Ngài hoàn toàn mãn nguyện”
Ngày 30-1-1871, tại Nguyện Xá, Don Bosco họp các giám đốc Salêdiêng của ngài, có Don Pestarino tham dự và trình bày về sự phát triển tại Mornese.
Ngày 24-4-1871, Don Bosco họp Công Nghị Tu Hội. Hiện diện Don Rua, Don Cagliero, Don Saviô, Don Ghivarello, Don Durando, Don Albera. Ngài công bố quy tụ họ lại vì “một công việc có tầm quan trong lớn lao”. Sau đây là những lời của ngài, theo biên bản cuộc họp:
“Một số lớn các nhân vật đã nhiều lần khích lệ cha hãy làm cho các trẻ nữ một ít điều thiện mà nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta đã làm cho các trẻ nam. Nếu cha đã nghe theo những khuynh hướng cá nhân của cha, tất cha đã tránh thứ tông đồ này. Nhưng cha sợ mình đi ngược lại với dự định của Chúa Quan Phòng. Vậy, cha mời gọi chúng con suy nghĩ trước mặt Chúa để lấy một quyết định sẽ mang lại một vinh quang to lớn hơn cho Thiên Chúa và lợi ích to lớn hơn cho các linh hồn. Trong tháng này các lời cầu nguyện của chúng ta sẽ hướng nhiều về việc xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng cần thiết trên công chuyện quan trọng này”.
Khi không còn bột bắp để làm món cháo bắp
Felicina Mazzarello, em của Maria, kể lại cuộc sống trong những thời gian đầu tiên đó: “Chuyện vẫn thường xẩy ra là cộng đoàn thiếu đồ ăn cần thiết, nhất là bột bắp để làm món cháo bắp; và khi có được, thì lại thiếu củi để nấu chín cháo.
Thế là chị Maria cùng với một vài chị em khác của chúng ta đi ra cánh đồng và đến dưới các gốc cây để tìm củi khô, rồi vác đem về nhà, chuẩn bị đồ ăn. Khi cháo bắp đã nấu xong, họ đem ra sân, đổ ra đĩa lớn và đặt trên nền đất, rồi mời cả cộng đoàn tham gia bữa tiệc tuyệt vời này. Đĩa và thìa thì thiếu, nhưng chẳng thiếu thức ăn rất ngon và niềm vui chan hòa”.
Vào cuối tháng Năm 1871, Don Bosco lại nhóm họp Công nghị để hỏi ý kiến các thành viên. Tất cả các vị đều nhận xét là thời giờ thuận lợi đã tới để phục vụ cho giới trẻ nữ. Don Bosco rút ra kết luận như sau:
“Trong trường hợp này, hiện nay chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa chắc chắn muốn chúng ta chăm sóc cho các trẻ nữ và để đi tới một cái gì cụ thể, cha đề nghị là nhà cha Pestarino vừa mới xây dựng xong tại Mornese thì được dành cho công cuộc này”.
Vào giữa tháng sáu, Don Pestarino đã mời Don Bosco tới một cách khẩn cấp. Cha Pestarino tốt lành đã tường thuật về cuộc gặp gỡ này như là một buổi nói chuyện thanh thản và hoàn toàn như một lời truyền lệnh. Tuy nhiên cuộc đối thoại giữa hai vị có thể rất khác thế, rất sôi nổi và ý kiến rất trái ngược nhau, nếu chúng ta lưu ý đến lời sơ Petronilla kể lại rằng “thường khi cha Pestarino trở về nhà sau cuộc găp gỡ với Don Bosco, vẻ ngài như đang ở trên tầng trời thứ bẩy, nhưng lần này ngài lại có vẻ rất ái ngại, rối rắm và lo lắng”. Sau đây là lời kể lại của cha Pestarino:
“Don Bosco nói lên ước muốn của ngài là lo chăm sóc cho việc giáo dục Kitô giáo của các trẻ nữ, con cái của dân chúng, và tuyên bố rằng Mornese là nơi mà ngài coi là thích hợp nhất: các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm ở đó có thể đáp ứng cho những tiếng gọi họ sống đời sống chung, tách biệt khỏi thế gian và bắt đầu một Tu Hội các Con Đức Mẹ Phù Hộ, phục vụ cho lợi ích của biết bao nhiều trẻ nữ của dân chúng. Don Pestarino không hề e ngại, đã trả lời rằng: “Nếu Don Bosco (và đây chỉ là lời khẳng định của lời tường thuật lại của riêng cha Pestarino mà thôi) muốn nhận lấy việc hướng dẫn và che chở Tu Hội, thì các cha sẵn sàng đặt bản thân cha trong tay ngài”.
Trong thời điểm này, tại nhà của Maria và Petronilla đã có các thiếu nữ khác cùng dấn thân như Teresa Pampuro, Caterina Mazzarello, Felicina Mazzarello, Gioavnnina Ferrettino và các em nhỏ tuổi hơn là Rosina Mazzarello Baroni, Maria Grosso, Corinna Arrigotti.
Hai khó khăn đặc biệt khiến cho cha Pestarino “ái ngại và bối rối là: Các thiếu nữ này là những Kitô hữu tốt nhưng không có ai trong số họ đã nghĩ đến việc trở thành các nữ tu. Don Bosco muốn trao trường trung học Borgo Alto này làm nơi ở cho các Con Đức Mẹ Phù Hộ; nhưng dân xứ này đã thực hiện công việc xây cất là nhắm đến sao để có được một trường trung học cho các lớp học của các cậu con trai của họ. Sự thay đổi sẽ gợi dậy hầu như là một cuộc cách mạng rồi.
Ý kiến của Đức Thánh Cha và sự bực bội của dân xứ đó
Trong tháng 6-1871 đó, Don Bosco đi Roma để trình bày kế hoạch mới của ngài cho Đức Piô IX. Sau khi đã xin một vài ngày sau để “suy nghĩ kỹ lại”, Đức Thánh Cha nói với ngài: “Kế hoạch của con hiện ra cho cha như là ý của Thiên Chúa. Cha nghĩ là các sơ này phải nhận việc dạy dỗ và giáo dục các trẻ nữ như là mục đích chính của Tu Hội, giống như Các Salêdiêng nam đã làm cho các trẻ nam. Còn về việc các sơ này lệ thuộc vào ai, thì dĩ nhiên là lệ thuộc vào con và các người kế vị con. Theo ý này, con hãy nghĩ đến Hiến luật và hãy bắt đầu viết bản thảo Hiến luật. Những gì còn lại sẽ đến sau”.
Ngày 29-1-1872, theo lệnh của Don Bosco, Don Pestarino tập họp lại 27 Con Đức Mẹ Phù Hộ để họ bầu bề trên thứ nhất của họ. Lá phiếu chọn Maria Mazzarello, nhưng cô khiếp sợ và xin các chị em miễn chước cho cô. Họ vẫn kiên quyết trong sự chọn lựa này và cha Pestarino quyết định trao toàn quyền quyết định lại vào tay Don Bosco. Maria cảm thấy yên lòng: Don Bosco chắc chắn biết rõ là cô không đủ khả năng, nên chắc chắn sẽ miễn chước cho cô khỏi gánh trách nhiệm. Ngược lại Don Bosco biết rõ cô đủ khả năng như thế nào và xác nhận cô trong trách nhiệm bề trên khiến cho cô không khỏi bồn chồn lo lắng.
Giờ đây phải làm sao để cho các Con Đức Mẹ phù Hộ có được một chỗ ở vững bền. Nhưng làm sao để tiến hành được mà không làm dấy lên sự bất mãn của dân trong xứ sở? Một diễn tiến giúp thực hiện giải pháp này. Số là nhà của cha có nguy cơ sụp đổ. Chính quyền thị xã đã quyết định đập nó xuống và xây dựng lại. Trong khi chờ đợi, chính quyền xin cha Pestarino cho cha xứ được sử dụng đến căn nhà mà cha Pestarino có ở gần nhà thờ.
“Thế còn các cô gái đang dạy lớp may và nuôi dạy, cung cấp chỗ ăn chốn ở cho chúng, thì đi đâu?”
Các vị trong ban hội đồng xã suy nghĩ và gợi ý:
– Cứ gửi các cô ấy đến trường đang xây dựng ở Borgo Alto. Tại đấy có tầng trệt đã làm xong và chưa có ai ở.
Don Pestarino thở phào sung sướng: Người ta đã ra lệnh cho cha làm điều cha không dám xin. Việc di chuyển chỗ ở được thực hiện bằng các chiếc xe của dân quê mà không quên dời các nong nuôi tằm là một trong những nguồn tài nguyên sinh lời quí báu của đám các cô gái nghèo này.
Ngay lập tức, việc di chuyển không khơi dậy một sự ngạc nhiên nào. Nhưng tiếng đồn lan rộng ra trong xứ sở rằng các Con Đức Mẹ (mà con số tăng thật nhanh) kể từ nay sẽ chiếm ngôi trường trung học mất để tạo thành một Tu Hội mới. Lập tức nổi lên “những tiếng than phiền dai dẳng và tiếng phản đối chung” (M. B. Cuốn X, tr. 613). Sử gia Writh thì viết chi tiết hơn nữa: “Dân chúng tại Mornese gào lên rằng dây là một sự phản bội. Các Con Đức Mẹ Phù Hộ bước những bước đầu tiên trong một bầu khí không được thông cảm, hầu như là thù nghịch. Và điều tệ hại đó cộng thêm vào với cảnh khó nghèo và thiếu thốn đã quá lớn rồi”.
“Trong xứ sở đồn đại lời ra tiếng vào rằng những chuyện này chẳng kéo dài được lâu đâu – như lời sơ Felicina mazzarello viết. Theo kiểu loài người mà nói, thì đó là chuyện đương nhiên thôi vì các cô thiếu thốn mọi sự. Tuy nhiên cô Maria – Domenica chẳng sợ hãi. Cố tiếp tục cuộc sống mệt nhọc và hy sinh của mình. Tòa nhà đang xây dựng chưa hoàn tất, cô cả ngày lo lắng dồn dập lại. Còn việc giặt giũ thì thế nào? Con sông Roverno chẳng xa xứ Mornese mấy. Ngày giặt quần áo đến, cố lấy một ít bánh đem theo, hay một mảng lớn cháo bột bắp đặc, rồi cô đi tới con sông cùng với một số các bạn hữu. Tại đó các cô làm công việc giặt giũ của mình. Cô trở về nhà mệt nhọc và quần áo ẩm ướt, cô lập tức lo cho các chị em khác thay quần áo và chuẩn bị cho họ một thứ đồ ăn ấm áp nào đó. Cô thực sự là một người mẹ dào dạt tình thương”.
Ngày 5-8-1872, mười lăm Con Đức Mẹ Phù Hộ nhận áo dòng. Mười một người trong số họ cũng khấn ba năm sống trong Tu Hội, trong đó có cô Maria Mazzarello.
Đức Cha Sciandra trao thánh giá cho 15 sơ: “Các con tốt lành, hãy nhân lấy hình ảnh của Đức Giêsu yêu dấu của các con. Ngài sẽ là sự an ủi cho các con trong những khó khăn mà các con sẽ gặp phải”.
Don Bosco dự lễ nhận áo dòng và tuyên khấn. Sau đó với sự đơn sơ đầy âu yếm, ngài nói:
– Các con phải chịu khổ cực, cha tin điều ấy bằng chính mắt cha, bởi vì cả thế giới đều nghịch lại với các con, diễn cợt các con; ngay cha mẹ các con cũng quay lưng khỏi các con. Các con đừng ngạc nhiên. Trong kinh phụng vụ kính Đức Trinh Nữ, các con đã đọc: “Cây cam tùng của tôi tỏa hương thơm ngát”. Các con có biết khi nào cây cam tùng tỏa hương thơm chăng? Khi nó bị đập nát. Các con rất thân mến, chớ gì chuyện các con bị đối xử thậm tệ như các con hiện nay trên trần gian này không làm cho các con kinh ngạc. Các con hãy can đảm lên và tự an ủi mình vì chỉ bằng cách thế như vậy các con mới trở nên có khả năng thực thi sứ mệnh của mình. Nếu các con sống một cách xứng đáng với hoàn cảnh của các con, các con có thể làm ích cho linh hồn các con và cho linh hồn những người bên cạnh các con”.
– Cảnh nghèo nàn của họ đúng là đang gần như là cảnh khốn cùng. Món ăn chính của cộng đoàn là món cháo bắp và những hạt dẻ luộc. Một sơ của những thời ban đầu kể lại rằng: “Mùi thơm của nắm hạt dẻ này bắt đầu tỏa ra từ hai giờ trước đó và làm chúng tôi ngây ngất”.
– Nhiều sơ sử dụng khúc gỗ cuộn giẻ làm cái gối đầu. Toàn bộ những chiếc gối nhỏ có trong nhà đều dành cho các trẻ nhỏ. Maria Mazzarello đã không muốn cho các sơ trẻ phải thực hành việc đền tội này, nhưng mẹ không thể nào cắt nghĩa nổi tại sao chính mẹ là người đầu tiên đã nghĩ ra cách thế đền tội đó.
Ngày 29-1-1874, cái chết lần đầu tiên len lỏi vào trường trung học. Maria Poggio, một sơ trẻ thuộc nhóm đầu tiên, đã ra đi. Cô sống vui tươi, luôn sẵn sàng giúp đỡ, nên hữu ích cho mọi người, và trông nom các người đau ốm. Cô phải chịu đói và lạnh rét trong mùa đông năm ấy! Cô đã ra đi trong sự thinh lặng, chẳng làm phiền ai.
Đám tang của cô sơ trẻ tuổi này đã qui tụ toàn thể dân làng lại. “Nhiều người khóc”, cha Pestarino nhớ lại. Điều đó tái tạo lại sự hòa bình giữa dân chúng và các cô thanh nữ xanh xao đang theo hàng tiến bước trong bộ áo các sơ và lần tràng hạt này. Kể từ ngày hôm đó, bột bắp để nấu cháo và bột mì để làm bánh không còn thiếu trong kho nữa.
Nhưng cái chết vẫn còn đến gõ cửa nhà.
Ngày 15 tháng Năm, Don Pestarino đọc cho các sơ nghe một trang sách về sự vắn vỏi của cuộc sống. Ngài nói: “Có lẽ cái chết sẽ bắt chộp lấy tôi trong vòng một năm, trong vòng một tháng, hay một tuần, hay một ngày, một giờ, hay có thể ngay trong lúc đọc sách này!” Vào lúc đó, vị linh mục bật khóc. Các sơ đều rối loạn.
Vào 11 giờ trưa, đang khi ngài làm việc, ngài đã ngã xuống đất. Ngài chết vài giờ sau đó. Ngài hưởng dương 57 tuổi.
Họ lập thành nhóm ba người, lên đường dưới cảnh tuyết rơi
Ngày 9-12-1876, dưới cảnh tuyết rơi, ba sơ đầu tiên lên đường. Họ đi tới Vallecrosia, miền Liguria, để mở một Nguyện Xá và một trường cho các thiếu nữ.
Ngày 19-3-1876, 7 sơ khác lên đường tới Torino. Cách Nguyện Xá của Don Bosco 50 mét, các sơ khai mạc một Nguyện Xá và một trường cho trẻ nữ. Nhà này sẽ trở thành suốt 40 năm nhà trung tâm của các Con Đức Mẹ Maria Phù Hộ.
Trong năm 1876, 26 sơ lên đường từ nhà Mornese: các sơ đã mở các trường và Nguyện Xá tại Biella, Alssio, Lu Monferrato, Lanzo Torinese. Một nhóm 7 sơ lên đường tới Sestri Levante. Họ đi thiết lập một trại tại vùng biển cho các trẻ nam và nữ bị bệnh lao. Giữa đám trẻ mặt mũi ghê sợ này, có sơ Henriette Sorbone làm việc với một niềm vui thanh thản. Sơ xưa kia là một em bé mồ côi, dắt theo bốn em nhỏ của mình tới nhà Mornese.
Năm 1878, các Con Đức Mẹ Phù Hộ đã trở thành một gia đình đông đảo, tỏa ra khắp thế giới. Theo lệnh của Don Bosco, trung tâm của Tu Hội chuyển từ Mornese đến Nizza Monferrato. Đối với Maria Mazzarello, đây là một nỗi đau xé lòng. Cô chào biệt cha mẹ tuổi đã rất cao, rồi tới nghĩa trang thăm mộ cha Pestarino và chào biệt căn nhà nhỏ nơi cô đã học may cho các trẻ nữ đầu tiên.
Không bao giờ chuyện làm bề trên tổng quyền làm mẹ Mazzarello đánh mất sự nhạy bén với những mối tương giao và tiếp xúc. Mẹ tiếp tục hộ trực các trẻ nữ nhỏ nhất tại nhà ngủ, với con mắt chăm chú và trìu mến. Một em bé mà vì chứng sưng buốt ngồi co quắp, khoanh tròn chân tay, ép lại cùng nhau, rồi lén đưa mắt xem có ai nhìn thấy em, sau đó để nguyên quần áo, chui vào trong chăn chân vẫn đi giày… Mẹ Mazzarello thấy cảnh em này đang làm, nhưng không nói gì cả. Mẹ xuống nhà bếp lấy một chậu nước ấm, ống đo nhiệt độ, và vải len. Mẹ đặt toàn bộ những thứ đó gần bên giường em rồi thì thầm:
– Bây giờ con hãy đưa chân cho mẹ xem. Đừng sợ, mẹ sẽ không làm cho con đau đâu.
Cái chết đến với những bông hoa của tháng Năm
Tháng Giêng năm 1881, các sơ bắt đầu nhận thấy sức khỏe của Mẹ Mazzarello suy giảm. Có người thì thầm với mẹ rằng mẹ phải để ý tới sức khỏe của mình, nhưng mẹ mỉm cười trả lời:
– Sẽ tốt hơn cho mọi người nếu mẹ ra đi. Như vậy người ta sẽ có thể chọn một bề trên có khả năng hơn mẹ.
Cơn bệnh của mẹ trở nên tệ hại hơn khi mẹ hành trình cùng một nhóm các sơ được sai đi truyền giáo tại châu Mỹ. Vì thời tiết xấu, mẹ buộc phải qua đêm nằm co quắt trong một góc xó, vẫn mặc y nguyên quần áo và run rẩy vì cơn sốt. Sáng ra, mẹ không thể dậy khỏi giường. Sau đó chút ít, mẹ đã hết sức cố gắng đứng dậy để đi theo các con của mẹ cho tới bến cảng. Nhưng sau vài giờ mẹ không thể chịu nổi nữa.
Bị viêm màng phổi nghiêm trọng như thầy thuốc chuẩn bệnh. 40 ngày cảm sốt và ở xa nhà mình, với cách chữa duy nhất là hành hạ da lưng mình bằng giác hơi là cách thức chữa bệnh duy nhất được biết tới vào thời bấy giờ và khiến cho lưng của mẹ xưng dộp lên.
Thế rồi cơn sốt biến mất, nhưng thầy thuốc phán một cách minh bạch và hung hãn là mẹ chỉ còn có thể sống được ít tháng nữa thôi.
Trở về Nizza, mẹ gặp Don Bosco và nói với ngài: “Thầy thuốc nói quá rõ. Thưa Don Bosco, con còn có thể chữa khỏi bệnh được nữa chăng?”
Don Bosco không trả lời thẳng vào câu hỏi mà chỉ kể cho mẹ nghe một câu chuyện: “Có một hôm, thần chết đến gõ cửa một tu viện. Thần chết nói cho tất cả các sơ rằng: “Hãy đến theo ta!”; nhưng tất cả họ đều khựng lại vì họ còn có nhiều chuyện phải làm. Cuối cùng thần chết đến với bà bề trên và nói: “Này đến lượt bà phải làm gương tốt đấy nhé. Hãy đi với ta!” Bà bề trên buộc phải chấp nhận và vâng lời”.
Mẹ Mazzarello hiểu, mẹ cúi đầu và cố gắng mỉm một nụ cười.
Xanh xao và kiệt sức, mẹ trở về Nizza. Buổi lễ lớn các sơ tổ chức để đón mẹ về khiến mẹ hết sức cảm động. Mẹ chân thành cảm ơn:
– Trên trần gian dù có chuyện gì xẩy ra đi nữa, chúng ta đừng có vui quá hay buồn quá. Chúng ta luôn ở trong vòng tay của Thiên Chúa, ngài là cha chúng ta, và chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng làm điều ngài muốn.
Kết cuộc xẩy ra vào mùa xuân. Qua các khung kính cửa sổ, mẹ thấy cảnh cây xanh và hoa nở. Mẹ thích nghe tiếng của các trẻ nữ chạy nhảy và vui chơi không tư lự. Mẹ còn muốn nói với các sơ của mẹ:
– Các con hãy thương yêu nhau. Hãy đoàn kết. Các con đã từ bỏ thế gian; các con đừng tạo nên một thế gian khác ở trong nơi này. Các con hãy nghĩ đến điều khiến các con vào Tu Hội.
– Mẹ chịu đau khổ, nhưng không muốn làm buồn lòng một ai. Mẹ cố gắng hát. Thiên Chúa đến tìm mẹ vào sáng sớm 14 tháng Năm. Mẹ thì thầm nói lên được tiếng “Hẹn gặp lại trên trời”. Mẹ đạt được 44 tuổi.
Caterina Daguero, một sơ còn rất trẻ với 25 xuân xanh, được gọi kế tục mẹ đứng đầu các con Đức Mẹ Phù Hộ. Sơ đã vào Dòng lúc 18 tuổi. Mẹ Maria Mazzarello đã giúp cho cô bé vượt thắng nỗi buồn và gian khổ của các ngày đầu tiên. Năm 1879 sơ đã trở thành giám đốc công cuộc Torino. Sự gần gũi với Don Bosco đã thức tỉnh nơi sơ sáng kiến thiết lập một Nguyện Xá và một trường học, làm lộ ra những phẩm chất sâu xa: sự vững vàng, quân bình và lòng tốt.
Dưới sự thúc đẩy của bề trên mới, các Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA) phát triển các công cuộc tại Ý, Pháp, Nam Mỹ. Khi Don Bosco qua đời, họ đã đi được một hành trình dài: Họ điều hành 50 nhà, con số các sơ đạt đến 390 và các tập sinh lên đến cả trăm người.
Chương 42
VÀ CƠN RÙNG MÌNH CỦA SỰ CHẾT
Vào năm 1870 xảy ra hai biến cố quan trọng trong lịch sử của Hội Thánh và của nước Ý: Công đồng Vaticano I và việc quân đội Ý chiếm thành Roma.
Công đồng ở Roma và phản-công đồng tại Napoli
Công Đồng chính thức khai mạc ngày 8-12-1869. Đức Piô IX nêu lên hai mục tiêu chính: một là trình bày giáo thuyết Công giáo đối lại với những sai lầm của thời hiện đại và việc định tín sự bất khả ngộ của Giáo Hoàng.
Ba trăm năm đã trôi qua kể từ Công Đồng cuối cùng là công đồng Trento kết thúc. Đức Piô IX ngỏ lời kêu gọi đầy hối thúc tới các Giám mục của Hội Thánh ly khai Đông phương để mời họ tham dự Công Đồng Vaticano I. Những vị này đã trả lời tiêu cực và thiếu lịch thiệp.
Các người phái Thệ phản cũng được mời tham dự, nhưng công thức mời nói đến “cơ hội tốt lành để trở về với đoàn chiên duy nhất của Chúa Kitô” nghe không mấy thuận tai đối với họ.
Phe Tam điểm Ý, một tổ chức ngầm có những nghi thức riêng chống Giáo Hội, trong thời đại chống giáo sĩ dữ dằn, đã công bố một “phản công đồng” tại Napoli và tiếp nhận sự tán đồng đầu tiên đến từ Giuseppe Garibaldi và văn hào Vitor Hugo. Trong nhiều tỉnh những cuộc biểu tình của quần chúng đã được tổ chức để công bố “một cuộc chiến tranh quyết liệt với Đức Giáo Hoàng”.
Số các Đức Giám mục tham dự Công đồng gồm: 200 Giám mục Ý, 70 Giám mục Pháp, 40 Giám mục Áo-Hungary, 36 Giám mục Tây Ban Nha, 19 Giám mục Ái Nhĩ Lan, 18 Giám mục Đức, 12 Giám mục Anh, 50 Giám mục Đông phương, 40 Giám mục Hoa Kỳ, 9 Giám mục Canada, 100 Giám mục của các quốc gia khác và của các lãnh thổ truyền giáo. Cùng với các Đức Giám mục, còn có cả các Dòng tu và các Tu Hội đại diện tham gia. Toàn bộ là 700 Nghị Phụ Công Đồng.
Ngày 20-1-1870, Don Bosco đi Roma và tới đó vào ngày 24. Ngày 8 tháng Hai, ngài có hai cuộc bệ kiến tư với Đức Thánh Cha. Đức Piô IX xin ngài cho phát hành giữa dân chúng một cuốn sách lịch sử nhỏ nêu rõ sự bất khả ngộ của Đức Thánh Cha. Don Bosco đã vâng lời vào cuối năm đó: ngài gửi tới tất cả mọi độc giả của Báo Đọc Công giáo một ấn bản mới của cuốn Lịch Sử Hội Thánh của ngài, với một phần cuối dành để nói về Vaticano I và sự bất khả ngộ.
“Trời Cao nói với vị Mục tử của các mục tử”
Trong một cuộc bệ kiến kế tiếp (vào ngày 12 tháng Hai), Don Bosco trao vào tay Đức Thánh Cha những trang sách về “các sự thấy trước liên quan đến tương lai”. Những dòng chữ đầu nói: “Vào buổi chiều vọng lễ Hiển Linh năm 1870 đang diễn ra, các vật trong phòng của con biến mất và con đang trong sự chiêm ngưỡng các điều siêu nhiên. Việc này kéo dài rất ít thời gian, nhưng con thấy được rất nhiều điều”. Bản tường trình (mà chúng ta còn giữ lại được bản viết tay của chính Don Bosco) được viết trong một văn thể giàu tưởng tượng, tiên tri, trộn lẫn các lời công kích, các dự kiến, các lời kêu gọi thường có tính cách huyền bí và lẫn lộn. Đoạn văn đánh động Đức Thánh Cha nhất (và cũng là đoạn đủ rõ ràng cho chúng ta nữa) là đoạn sau đây:
“Bây giờ là tiếng nói của trời cao cho vị Mục tử của các mục tử: Ngươi đang ở giữa Phòng Hội Lớn cùng với Bồi thẩm đoàn của ngươi; nhưng kẻ thù của sự thiện không một chút nghỉ ngơi. Nó nghiên cứu và sử dụng đến tất cả mưu đồ chống lại ngươi. Nó gieo vãi sự bất hòa giữa các vị Bồi thẩm của ngươi, khơi dậy các kẻ thù trong số các con cái ngươi. Các quyền lực của thế kỷ này mửa ra lửa và cố gắng bóp nghẹt các lời trong họng của các kẻ gìn giữ luật của ta. Điều ấy sẽ không xảy ra được. Chúng sẽ làm sự dữ, nhưng lại tạo ra sự dữ cho chính mình chúng. Còn ngươi, hãy tiến nhanh hơn. Nếu người ta không có thể gỡ mối cho các khó khăn, thì hãy cắt đứt chúng. Nếu ngươi phải rơi vào những nỗi khổ não, thì đừng dừng bước. Nhưng hãy tiếp tục cho tới khi đầu Con Rắn Biển gây ra sự khủng khiếp bị chặt đứt. Cú đánh này làm cả trái đất lẫn hỏa ngục run rẩy. Nhưng thế giới này sẽ tìm lại được sự an ổn và những kẻ tốt lành sẽ hoan hỉ. Vậy ngươi hay gọi hai người Bồi thẩm đến gần ngươi thôi, nhưng bất cứ ngươi đi dâu, ngươi hãy tiếp tục và hãy hoàn tất công cuộc đã được trao phó cho ngươi.
“Những ngày qua đi nhanh, các năm sống của ngươi đang tiến đến con số đã được xác định. Nhưng vị Nữ Hoàng Vĩ đại sẽ luôn luôn là sự phù hộ cho ngươi và cũng như trong quá khứ, Mẹ luôn luôn trong tương lai sẽ vẫn là magnum et singulare in Ecáclesian praesidium (Đấng Phù Hộ vĩ đại và độc nhất của Hội Thánh)”.
Hai mươi dòng sau đó, Don Bosco nói về tương lai của Đức Thánh Cha:
“Giờ đây ngài già nua, yếu đau, không được bảo vệ; bị bóc lột. Tuy nhiên, với lời nói lôi cuốn, ngài sẽ làm cho thế gian run sợ”. (Việc chiếm Nước Tòa Thánh sẽ xẩy ra vào ngày 20-9-1870).
Những lời đe dọa đen tối trên Nước Pháp
Trang của những điều “dự kiến” vào tháng Hai năm 1870 mà xem ra là trang có tính cách không thể nào tin nổi nhất chính là trang nói về nước Pháp. Vào thời đó, Napoleon III còn là ông vua quyền lực nhất của Châu Âu. Cuộc chiến thảm bại chống lại nước Phổ (nó xẩy ra vào ngày 19-7-1870) và cuộc thảm sát ở Công Xã Paris (trong thời gian từ tháng Ba đến tháng Năm) là chuyện không thể nào nghĩ tới được. Sau đây là các lời Don Bosco viết:
“Các luật pháp của nước Pháp không còn biết đến Đấng Tạo Thành nữa, và Đấng Tạo Thành sẽ tỏ cho nó biết và viếng thăm nó ba lần với cây gậy của cơn lôi đình của Ngài.
Ngài sẽ đánh hạ sự kiêu ngạo của nó bằng những lần bại trận, cướp đoạt và phá hủy các mùa gặt, xúc vật và con người của nó. Các kẻ thù của nó sẽ đưa nó đến cảnh khổ ải, đói và sợ hãi cùng cách đáng ghê tởm đối với các nước. Nhưng khốn cho ngươi nếu ngươi đã không nhìn nhận bàn tay của Đấng đánh ngươi… Người sẽ rơi vào tay những kẻ xa lạ và những kẻ thù ngươi sẽ thấy từ xa các dinh thự ngươi giữa những ngọn lửa. Các nơi ở của ngươi sẽ trở thành một đống hoang tàn đẫm trong máu của các anh hùng của ngươi đã biến mất”.
Trong những ngày sau, Don Bosco đã gặp gỡ nhiều vị Giám mục và sử dụng uy tín mà ngài có để khích lệ các ngài tiến hành mau chóng tín điều bất khả ngộ. Có vẻ như sự can thiệp mang tính cách mạnh mẽ nhất của ngài là ở nơi Đức cha Gastaldi, khi ấy là Giám mục Saluzzo và là một người bạn lớn của ngài.
Don Lemoyne quả quyết rằng Đức Piô IX thật hài lòng với nhiệt tình của Don Bosco nên một ngày kia đã nói với ngài:
– Con không thể từ giã Torino để đến ở lại tại Roma chăng? Liệu Tu Hội của con có vì thế mà bị thiệt hại không?
– Thưa Đức Thánh Cha, đó sẽ là sự tiêu tan của Tu Hội! (Đời Sống Thánh Gioan Bosco, Cuốn II, tr. 44).
Don Bosco rời Roma ngày 22 tháng Hai.
Ngày 24 tháng Tư, Công đồng phê chuẩn tài liệu Dei Filius (Con Thiên Chúa) với sự nhất trí hoàn toàn. Đây là một tài liệu trình bày cô đọng và rõ ràng giáo thuyết Công giáo về Thiên Chúa, Mặc Khải và đức Tin. Nó nhấn mạnh cách riêng tới ý tưởng là khoa học và đức tin một khi được hiểu cách đúng đắn, thì không thể đối nghịch lại nhau, bởi vì cả hai đều đến từ Thiên Chúa.
Liệu Đức Thánh Cha có thể bất khả ngộ?
Vào ngày 15 tháng Năm, tại phòng họp khoáng đại của Công đồng bắt đầu cuộc thảo luận về sự bất khả ngộ của Đức Thánh Cha. Cuộc thảo luận chung tiếp tục cho đến ngày 4 tháng Sáu. Đức Hồng Y Bonnechose ngày hôm đó đã viết trong cuốn sổ tay hoạt động của ngài rằng: “Người ta nói chúng tôi hành trình một cách khó khăn trên một con tàu bị sóng đánh trong đó mọi người đều bị say sóng”.
Có hai trào lưu phân rẽ giữa các Nghị Phụ khi phải đối diện với những cuộc thảo luận cam go ở bên trong cũng như bên ngoài Công đồng. Phần đa số ủng hộ sự bất khả ngộ. Thiểu số (gồm khoảng 60 Giám mục Đức, Pháp, Ý và Mỹ) coi việc định tín cho nó là một cản trở nghiêm trọng cho việc xích lại gần với các Giáo Hội Thệ phản. Đức Piô IX nhiều lần cho thấy sức nặng của quyền bính của ngài ủng hộ cho việc định tín này.
Ngày 18 tháng Bảy Công đồng phê chuẩn bản văn liên quan đến sự bất khả ngộ. Một nhân chứng kể lại rằng: “Đây là một ngày mưa rơi nặng hạt trên Roma và liên tục có những đợt bão rất khốc liệt. Trong khi Đức Cha Valenziani đọc bản văn, các cửa sổ bị lay mạnh bởi sấm sét và khi các ánh chớp ngừng lóe sáng, thì một sự tối tăm nặng nề ập xuống.
Quyết định của Công đồng có chữ ký của Đức Thánh Cha, định nghĩa chân lý sau đây là tín điều[12]:
“Đức Giáo Hoàng Roma tuyên bố ex cathedra (từ ngai tòa chính thức của ngài), trong sức mạnh của quyền tông đồ tối cao của ngài, thì ngài hoàn thành nhiệm vụ vị cha hướng dẫn và tiến sĩ của tất cả các Kitô hữu. Khi trong những điều kiện đó, ngài định tín một giáo thuyết liên quan đến đức tin hay phong hóa, để nó được tiếp nhận như là một tín điều bởi Hội Thánh toàn cầu, thì ngài hưởng sự bất khả ngộ. Do sự kiện này, các định tín (khá là hy hữu) của Đức Giáo Hoàng đều không thể thay đổi được, không phải vì Hội Thánh coi chúng là như vậy, mà vì chính chúng là như vậy”.
Công việc dành cho tín điều bất khả ngộ đã hoàn tất, Công đồng quyết định tạm nghỉ trong 4 tuần. Khi nhóm họp trở lại, Công đồng quyết nghị về các Đức Giám Mục. Nhưng các biến cố nghiêm trọng đã dồn dập nối tiếp nhau tại Châu Âu.
Lính thiện xạ Ý ở Cổng Porta Pia của thành Roma
Ngày 19-7-1870, Napoleon III tuyên bố chiến tranh đối với Nước Phổ. Đây quả là một cuộc thảm họa. Những cuộc chiến bại của quân Pháp dồn dập nối tiếp nhau cho tới trận chiến tại Sedan (mùng 2 tháng Chín) tại đó Napoleon bị bắt làm tù nhân.
Nước Pháp đã không đầu hàng. Pháp công bố mình là Nước Cộng Hòa và dời chính phủ về Tours, nhưng sau cùng nó vẫn phải nhượng bộ. Hòa ước được ký một cách nhục nhã tại Francfort vào tháng Năm 1871, sau khi Paris cố gắng chuyển biến mình thành một Nước Cộng Hòa Công Xã, nhưng rồi nó đã bị đè bẹp bởi chính quân đội Nước Pháp (14,000).
Khi Napoleon bại trận tại Sedan, chính phủ Ý cảm thấy được rảnh tay để đương đầu với Roma. Họ đã chiếm được Venezia thông qua “một cuộc chiến tranh bất hạnh vì độc lập lần thứ ba” (1866). Giờ đây 60,000 quân dưới quyền của tướng Raffaele Cardona đã nhận lệnh đóng quân trên biên giới Latium để chuẩn bị chinh phục Roma. Quân đội của Đức Giáo Hoàng có 14,000 người. Trong những trường hợp này, nhiều người khuyên Đức Thánh Cha Piô IX rời khỏi Roma. Một chiếc tàu Anh sẵn sàng đưa ngài qua đảo Malta. Những người khác thì đề nghị ngài sang Tây Ban Nha, hay Châu Mỹ. Đức Thánh Cha thì coi như ngài đã sai lầm khi trốn sang Gaita vào năm 1848, đã quyết ở lại tại chỗ. Ngài quả thực đã cho hỏi ý kiến của các người thân tín. Don Bosco được Đức Thánh Cha rất tin tưởng ở sự chín chắn trong nhận định, khi được hỏi, đã trả lời cho ngài: “Chớ gì người lính canh, Thiên thần của Ít-ra-en, hãy ở lại tại vị trí của ngài và canh gác đá tảng của Thiên Chúa và hòm bia thánh”. Lá thư trả lời đó đã được bàn tay viết chữ đẹp của Don Cagliero ghi chép lại, được gửi khẩn cấp cho Đức Thánh Cha.
Thủ phủ Civitavecáchia của Roma (bên cạnh bờ biển Tyrrene, nằm cách xa Roma 75 cây số theo hướng Tây Bắc) đã bị bao vây phía đất liền và khép kín lại bởi hạm đội ngoài khơi, nên đã đầu hàng tướng Nino Bixio vào đêm 14, 15 tháng chín. Cùng lúc đó quân đội của tướng Cardona đã vào vùng Latium và bao vây Roma. Vào lúc 5g30, ngày 20-9, một cánh quân pháo binh của sư đoàn Anoletti nổ súng vào cổng Thánh Gioan. Đó chỉ là nghi binh. Mục tiêu đích thật là cổng Porta Pia. Đội quân thiện xạ Ý mở đường thâm nhập vào công viên của thành phố Patrizi và giải tỏa toán quân có súng đang cản đường bước tiến của pháo binh. Khi tới con đường Momentana, các tay điều khiển pháo binh mở cuộc oanh kích vào Cổng Porta Pia. Trước 9 giờ sáng, một lỗ hổng 30 mét đã mở vào trong tường thành. Các đơn vị thiện xạ thứ 12 và 34 vượt qua bức tường.
Hai hay ba phút trước 10 giờ, trên bàn giấy của Đức Thánh Cha, có tin tới báo tường thành đã bị sập đổ. Do dấu hiệu đã được hiểu ngầm trước đó, Đức Thánh Cha ra lệnh lá cờ trắng được kéo lên trên pháo đài Thánh Thiên Thần và ngài ra lệnh cho tướng Ksanzler đầu hàng.
Bản đối chiếu tử vong của đôi bên cho biết con số tử vong không cao lắm, nhưng vẫn luôn luôn là điều rất đau lòng: 56 người tử trận, 141 lính bị thương về phía nước Ý; còn bên phía tòa thánh thì có 20 người tử trận và 49 người bị thương.
Lên tiếng chống lại những người thực hiện cuộc xâm chiếm Roma “dù cho họ là những người nắm giữ các chức vị cao nhất”, Đức Thánh Cha ra vạ tuyệt thông cấp độ cao.
Don Lemoyne viết: Don Bosco “ nhận được tin Roma bị chiếm đóng khi ngài ở tại Lanzo, và trước sự ngạc nhiên của những người hiện diện, ngài tiếp nhận tin này một cách bình thản, như là ngài nghe được điều mà ngài đã biết từ một thời gian trước rồi”.
Đức Thánh Cha thông báo cho các Nghị Phụ Công đồng còn đang ở lại Roma rằng: Trong hoàn cảnh của các sự việc tang thương này, vì nhận thấy rằng các nghị phụ Công đồng không thể có đủ sự tự do cần thiết, cũng như sự yên ổn và bình an để bàn về những chuyện của Hội Thánh… chúng tôi ngưng lại việc cử hành Công đồng chung Vaticano”.
Cơn rùng mình của sự chết tại Varazze
Việc chiếm đóng Roma, sự kết thúc Nước của Đức Giáo Hoàng có một tiếng vang cực kỳ to lớn, chúng ta không thể nào tưởng tượng ra được. Đó là sự kết thúc của một thời đại kéo dài 1,500 năm. Nhiều người đã nghĩ đó là sự kết thúc của Giáo Hội.
Một năm sau đó, Tu Hội trẻ trung và mỏng manh Salêdiêng cảm thấy tới lượt mình lại phải cảm nhận một thời điểm của một sự rùng mình của sự chết. Ngày 6-12-1871, trong khi ở Varazze (trên vùng Riviera nước Ý, khoảng 40 cây số về phía đông của Genova), Don Bosco ngã xuống đất và ngất xỉu. Những nhân chứng e ngại rằng đó là một cuộc đột quỵ các mạch máu não. Người ta đã xốc Don Bosco dậy và đưa ngài vào trong nhà Salêdiêng. Tại đó phải đặt ngài trên một cái giường giống như một đứa trẻ con.
Bệnh này sau vài ngày còn trong nỗi lo lắng, hoài nghi, thì nay lộ ra hết sức nguy kịch. Từng đợt một, thân thể của Ngài phủ đầy những mụn bong bóng đỏ trên da, vừa nhỏ, vừa cứng. Những nỗi đau đớn không tưởng nổi và nhiệt độ lên cao một cách đáng lo sợ. Người ta đã lo cho ngài của ăn đàng, trên hành trình gần tới mồ.
Tại Torino, thật là cả một sự kinh ngạc. Nếu Don Bosco chết, thì điều gì trong công cuộc của ngài còn có thể cứu vãn được? Don Rua, cánh tay mặt của ngài mới có 34 tuổi. Nhiều Salêdiêng dâng hiến cuộc sống mình cho Don Bosco. Và hình như Don Bosco đã nói: “Cha phải chết tại Varqzze. Những năm sẽ đến sau này là một hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho một vài người nào đó trong số các con cái của cha”.
Cơn bệnh kéo dài hai tháng. Vào lúc ban đầu, những tin tức thật làm hoảng sợ, nhưng để tránh gây rối loạn cuộc sống tại Nguyện xá, người ta chỉ chuyển tin bằng điện tín, qua những chữ dùng khá chung chung.
Nhưng chi tiết này đã thực sự trở thành dịp để biểu lộ những dấu chứng của tình yêu bao bọc lấy Don Bosco.
Giữa Varazze (là nơi Pietro Enria, một em mồ côi vào thời nạn dịch năm 1854, đã đi xuống vùng Varazze để coi sóc Don Bosco) và Giuseppe Buzzetti (người đang run sợ tại Torino vì anh không có những tin tức chi tiết về sức khỏe của Don Bosco) bắt đầu thể hiện một loại “thư kín đáo”. Những lá thư giữa hai em “cựu học sinh” của Don Bosco không văn hoa, nhưng đầy những chỗ đồng cảm, chứa đựng một tình cảm yêu thương tha thiết, tuyệt đối chân thành, độc đáo.
Những lá thư đầy tràn tình yêu thương dịu dàng
Chúng ta ghi lại ở đây một ít đoạn văn:
Ngày 23-12-1871, Enria viết cho Buzzetti:
“Với một nỗi buồn mênh mang, tôi buộc phải báo cho bạn những tin không tốt lắm về người cha khốn khổ của chúng ta. Hôm nay cơn sốt không rời ngài một giây phút nào. Trong suốt cả ngày, ngài luôn ướt sũng do toát mồ hôi. Ngài thường khiến tôi lo sợ bởi vì ngài rên rỉ rất nhiều trong khi ngủ. Tôi chạy lại giường của ngài, nhưng ngài nói với tôi: không sao cả.
Ôi! Buzzetti thân mến, tôi đau khổ quá đến nỗi không đủ sức viết thơ cho bạn. Xin các bạn nói cho người ta cầu nguyện, và phải cầu nguyện với hết cả tấm lòng cơ, và Chúa Giêsu hài đồng sẽ thương đến chúng ta. Bây giờ đã hai giờ sáng, ta có thể nói là ngài đã thiếp đi một chút. Chúc các bạn một ngày lễ vui tươi. Tôi sẽ qua ngày lễ này ở bên giường cha của tôi và cha của các bạn”.
Buzzetti đã trả lời thư:
“Tôi chưa đọc xong lá thứ của bạn viết ngày 23 vì buồn quá, vì hoàn cảnh éo le, và vì tôi không cầm nổi nước mắt trong khi biết được rằng Don Bosco thân yêu của chúng ta đau đớn ngày một nhiều.
Tôi đã cầu nguyện và xin mọi người cùng cầu nguyện; tôi cũng xin Chúa Hài Đồng Giêsu để tôi được chịu đựng tất cả những đau đớn mà Don Bosco đang phải chịu đựng kể cả cái chết nếu đó là điều tôi phải chịu, để Don Bosco được mau chóng bình phục và còn được sống nhiều năm nữa.
Bạn hãy tiếp tục viết thư cho tôi nhé, đừng sợ làm tôi khó chịu, ngược lại bạn sẽ làm tôi khó chịu nếu bạn để trôi qua một ngày mà không viết thư thông báo tin tức cho tôi về sức khỏe của người cha thân yêu của chúng ta. Bạn hãy ôm hôn bàn tay thánh thiện của cha thay cho tôi và xin cha chúc lành cho tôi”.
“Buzzetti thân mến, ngày 3-1-1872, sức khỏe của cha mến yêu của chúng ta đã khá hơn, nhưng chầm chậm thôi. Những mụn nhỏ vẫn tiếp tục thay nhau nổi lên khiến cho ngài phải khó chịu đôi chút và làm cho ngài lên cơn sốt nhẹ”.
Buzzetti trả lời: “Bạn Pietro thân mến, chúng tôi đang đợi các tin tức. Hôm qua, tôi đã kết thúc tuần chín ngày. Bởi đó nếu Đức Mẹ Maria Phù Hộ thấy chúng tôi có đáng được hưởng nhờ tình yêu của Mẹ, thì xin Mẹ cho Don Bosco của chúng ta được khỏe mạnh trở lại; bằng không, chúng tôi tiếp tục làm phiền Mẹ trong suốt bao lâu chúng ta thấy cần.
Bạn phải biết rằng trời lạnh như qủi, và mọi ngày chúng ta thấy có nhiều thùng nước bị vỡ ra vì nước đóng băng giá, kể cả các thùng nước trên gác xếp của bạn”.
Khi Don Bosco bắt đầu thực sự khỏe lên, Enria gửi một bức điện tín cho Buzzetti: “Lễ hôm qua, Cha đã dậy được. Việc bạn thăm cha làm cha vui. Hôm nay tốt hơn nhiều”. Những lời: “Cha đã dậy được” lập tức lan rộng ra khắp Nguyện Xá, khiến mọi người thật sung sướng.
Nhờ sức khỏe ngày một hồi phục, nên Enria trong hai hay ba ngày không gửi đi các tin tức và Buzzetti viết cho anh:
“Bạn Pietro thân mến, bạn còn sống chứ? Nếu bạn còn, như tôi hy vọng, thì tại sao bạn không giữ lời hứa của bạn là không để qua đi một ngày mà không viết thơ cho tôi hay về Don Bosco yêu quí? Vậy, bạn đừng đánh lừa tôi nghe”.
Enria lập tức trả lời: “Sức khỏe của Don Bosco mỗi ngày một khá hơn. Nhiều lần cha đã thốt lên: “Ôi! Những ngày chúng ta gặp gỡ nhau tại Nguyện Xá!…” Và ngài bối rối và suy nghĩ mông lung về chuyện phải làm khi trở lại căn nhà được chúc phúc của chúng ta”.
Ngày 15 tháng 2, Don Bosco đã có thể trở lại Torino. Ngài qua cửa chính mà vào Thánh Đường Đức Mẹ Phù Hộ. Trong nhà thờ, các học sinh và nhiều bạn hữu của Valdocco chờ ngài. Vừa khi ngài tiến vào cung thánh ở trước bàn thờ, thì Buzzetti xướng lên các thánh vịnh Laudate, pueri, dominum “Hỡi các bạn trẻ, hãy hát mừng Chúa”. Quì gối trước Nhà Tạm và trước Đức Mẹ Phù Hộ, Don Bosco cầu nguyện lâu giờ. Rồi ngài cám ơn các học sinh và mời gọi các em cám ơn Đức Mẹ.
“Enria đã quì gối trong khu ca đoàn, như lời cha Amadei nhắc nhở lại; Buzzetti cầm tay anh ta và đi theo anh ta ra ngoài”. Họ ôm nhau mà khóc.
Đại bác Ý nổ pháo và bính lính Ý tiến vào Roma qua cổng Porta Pia chấm dứt Nước Đức Gíao Hoàng vào năm 1866!
Chương 43
CÁC SALÊDIÊNG GIỮA TRẦN THẾ
Trong những năm 1870 kế hoạch của Don Bosco về các cộng tác viên biến thành cụ thể. Giống như các ý tưởng của Don Bosco, điều này không phải thình lình mà đến: tất cả các căn rễ của nó đã có từ lâu rồi. Chính ngài đã viết:
“Khi mới bắt đầu công cuộc các Nguyện Xá vào năm 1841, nhiều vị linh mục đạo đức và tận tụy cùng các giáo dân đã đến giúp đỡ, vun trồng cho vụ mùa thu hoạch đã rộ lên rất phong phú trong các lãnh vực giới trẻ đang gặp nguy hiểm. Các cộng sự viên hay các cộng tác viên trong mọi cơ hội đều là sự nâng đỡ cho các công cuộc mà Chúa Quan Phòng phó thác cho chúng ta”.
Don Bosco nhắc nhở trước hết đến các linh mục. Chúng ta đã gặp các linh mục này trong dòng các biến cố của cuộc sống ngài. Trước hết tại Nguyện Xá lưu động, rồi tại Valdocco. Có những sự tương phản đối lại với các ý kiến “điên rồ” của ngài, rồi “thái độ chính trị” của ngài. Nhưng tình yêu cụ thể cho giới trẻ làm cho ngài vượt thắng các trở ngại và các rào cản. Pietro Merla, Luigi nasi, Leonardo, Murialdo, Inhazio và Giuse Vola, Giacinto, Carpano và cách riêng cha Cafasso, và “cha bé nhỏ” Don Borel luôn luôn gắn bó với công cuộc của Don Bosco, như là những cộng tác viên trung thành và hy sinh của Don Bosco.
“Người cha bé nhỏ” Borel nhắm mắt trên trái đất này vào ngày 9-9-1873. Don Bosco khóc bên cạnh ngài vào giờ phút ngài dần tắt lịm sự sống. Don Bosco nói: “Ngài xem ra như là một “vị linh mục nhỏ bé không đáng kể là gì cả, nhưng ngược lại người thợ của Thiên Chúa này đã làm tất cả sự thiện to lớn mà dù cho đến 10 linh mục khác cũng không thể nào làm được”.
Vào lúc qua đời, ngài không để lại thậm chí số tiền cần thiết cho việc an táng của ngài. Nhưng Don Bosco biết rõ đã bao lần ngài đã dốc trọn túi tiền của ngài vào tay Don Bosco, mà không cần biết đó là những đồng xu nhỏ hay những đồng tiền Napoleon bằng vàng. Các giám đốc Salêdiêng được Don Bosco gọi về tham dự đám tang ngài, mang quan tài ngài trên vai. Các thầy tư giáo, các thanh thiếu niên, ban kèn động của Nguyện xá đi theo ngài tới nghĩa trang. Đó là những linh mục, những thầy tư giáo, những thanh thiếu niên mà Don Bosco đã nói về họ với cha Borel vào năm 1844 rằng: “Nhưng tuy vậy chắc chắn có những người đó, vì chính mắt con trông thấy họ”.
Bên cạnh các linh mục, còn có các giáo dân. Một số thuộc về các gia đình quí tộc: Bá tước Cays (người sẽ trở thành Salêdiêng và linh mục ở tuổi cao), bá tước Fassati de Montemagno, hầu tước Callori di Vignale, hầu tước Scaranmpi di Pruney. Những người khác là những người thợ thuyền hay buôn bán. Don Bosco thường nhắc nhở đến một người buôn bán tạp hóa tên là ông Giuse Gagliresrdi với tất cả lòng tri ân lớn lao, vì ông đã cống hiến thời giờ và cả tiền bạc dành dụm cho Nguyện Xá.
Sự hợp tác của các giáo dân này mang tính chất khác nhau. Don Bosco xin họ trước hết hãy sẵn sàng để “dạy giáo lý” vào các ngày Chúa Nhật và các ngày trong tuần trong thời gian mùa chay. Một số còn giúp ngài trong các lớp buổi tối và hộ trực các thanh thiếu niên. Những người khác thì đi tìm việc làm cho các bạn trẻ cách riêng cho những em ra khỏi nhà tù.
Không chỉ có các cánh đàn ông thôi. Chúng ta đã nhắc nhở đến “những bà mẹ” làm việc tại Nguyện Xá: mẹ Margarita, Mẹ của Don Rua, Mẹ của Michel Magone, em của Mẹ Margarita, mẹ của linh mục kinh sĩ Gastaldi.
Người mẹ kể chót này đích thân lo việc giặt giũ quần áo của các trẻ em và phân phát cho chúng vào thứ bảy. “Đó là điều rất cần thiết, như Don Bosco nói. Trong số các trẻ nghèo khổ, có những em không bao giờ thay đổi những bộ quần áo bẩn thỉu các em đang mặc, và chúng thật bẩn thỉu đến độ không ông chủ nào muốn tiếp nhận chúng trong xưởng thợ của họ”.
Trong các ngày Chúa Nhật, bà Gastaldi tập họp các trẻ em lại, và như là “một vị tướng trong một đạo quân”, bà đi duyệt lại cách tỉ mỉ quần áo và sự sạch sẽ của mỗi đứa, kể cả giường chiếu mà thường đã trở thành những tổ rận nhỏ và bốc mùi hôi.
Nhiều người không tham gia trực tiếp vào công việc này, nhưng là bằng tiền nong. Một vị linh mục cho các trẻ con nghèo nhất tất cả số tiền mà ngài nhận được từ những người họ hàng giàu có. Một chủ nhà băng đều đặn cung cấp tiền hằng tháng, như thể chính ông là “một em đã được Don Bosco cứu về” Nguyện Xá. Một người thợ đều đặn đem đến tiền ông ta đã dành dụm được.
Các người Salêdiêng ngoại trú: một ý tưởng bị gạt bỏ
Don Bosco càng ngày càng tin rằng cần thiết phải tập họp lại các cộng sự viên của ngài thành một hiệp hội.
Ngài thực hiện một thí nghiệm vào năm 1850, khi qui tụ bảy người ngài tín nhiệm “gồm toàn các người giáo dân Công giáo”. Nhưng không thành công.
Năm 1864, ngài có một thí nghiệm mới. Trong khi trình diện Hiến luật của ngài tại Roma, ngài đưa vào một “chương” khiến cho nhiều Đức Ông và Đức Cha nhíu mày. Trong chương đó ngài nói đến các “Salêdiêng ngoại trú”. Bất cứ ai, dù cho là họ sống tại gia đình, đều có thể trở thành các người Salêdiêng. Không phải tuyên các lời khấn dòng, nhưng chỉ cần cộng tác vào công việc của Các Salêdiêng để phục vụ cho thanh thiếu niên nghèo khổ. Ở khoản 5, ngài đã tiên liệu thẳng thắn rằng tất cả các Salêdiêng ra khỏi Tu Hội “vì lý do chính đáng”, sẽ trở thành “hội viên ngoại trú” của Tu Hội.
Chương này bị gạt bỏ khi Roma duyệt xét. Với một sự bướng bỉnh của người xứ Piemonte, Don Bosco tái trình bày lại khoản luật này, trước hết có sự mô phỏng, rồi sau đó đặt nó vào phần phụ lục nhưng vô phương. Để được sự chấp thuận cho Luật Dòng (sẽ được phê chuẩn vào năm 1874), ngài buộc phải cam chịu rút nó lại.
Kế hoạch “Các Salêdiêng ngoại trú” đã bị đẩy lùi, Don Bosco lập tức làm việc để thực hiện một cái gì tương tự như vậy. Năm 1874, ngài phác họa những đường nét lớn của Hiệp Hội Thánh Phanxicô Salê. Các Giám đốc mà ngài tham khảo biểu lộ rất ít sự phấn khích. Hiệp Hội này có khác chi các hiệp hội đạo đức khác. Don Bosco lắc đầu:
– Các con chưa hiểu được. Nhưng các con sẽ thấy hiệp hội này sẽ là sự nâng đỡ cho Tu Hội chúng ta. Các con hãy bắt đầu suy nghĩ về nó đi.
Don Bosco trao ba mục tiêu chính cho Hiệp Hội này:
– Thứ nhất là làm sự tốt lành cho chính bản thân mình, trong khi thực hành đức bác ái đối với đồng loại, cách riêng đối với các trẻ em nghèo và bị bỏ rơi.
– Thứ hai tham gia vào các công cuộc đạo đức và tôn giáo mà Các Salêdiêng theo đuổi.
– Tiếp nhận các trẻ em nghèo, dạy dỗ chúng trong nhà riêng của mình, bảo vệ chúng chống lại các mối hiểm nguy.
Trong năm 1876, ngài tìm được công thức vĩnh viễn. Ngài gọi đó là hiệp hội đạo đức các cộng sự viên của ngài, tức là “Các Cộng Tác Viên Salêdiêng”. Ngài viết và in ấn ngay lập tức luật cho họ và gửi tới Đức Thánh Cha để được chấp thuận. Ngài trở về với một “chiếu thư” (lá thư mục vụ) của Đức Piô IX viết ngày 9-5-1876.
Các mục tiêu vẫn đồng nhất với danh sách các mục tiêu đã nêu lên hai năm trước: Làm sự thiện cho chính mình qua đời sống Kitô hữu dấn thân, giúp đỡ Các Salêdiêng trong các công cuộc của họ, giải cứu những mối nguy hiểm đang đe dọa thanh thiếu niên.
Những phương tiện đều y như các phương tiện của người Salêdiêng: việc dạy giáo lý, các cuộc thao luyện thiêng liêng, mối quan tâm đến các ơn gọi linh mục, việc phổ biến sách báo tốt, kinh nguyện và của bố thí.
Hạn từ cuối cùng này đã tạo nên nhiều sự lập lờ nghĩa đôi. Có một số người Salêdiêng giảm thiểu trên thực tế hoạt động của các Cộng Tác Viên thành sự đóng góp tài chánh cho các công cuộc của Các Salêdiêng. Don Bosco đã phản đối một cách quyết liệt chống lại sự đánh giá thấp về người cộng tác viên này.
Ngài nói tại Toulon vào năm 1882 rằng: “Cần phải hiểu mục đích của Hiệp Hội Cộng Tác Viên này. Các Cộng Tác Viên không chỉ thuần túy có nhiệm vụ thu thập các quà dâng cho các công cuộc của chúng ta, mà còn phải nỗ lực dùng mọi phương tiện để cộng tác vào phần rỗi của các anh chị em mình, cách riêng của giới trẻ”.
Trong các cuộc hành trình của ngài tại Ý và ra ngoại quốc, Don Bosco cam chịu rất nhiều sự gian khổ để làm tăng hiệu lực của các Cộng Tác Viên của Ngài. Cha Wirth viết: “Genova và xứ Liguria cung cấp cho ngài nhiều lực lượng Cộng Tác Viên. Tại nước Pháp, Nice trở thành một trung tâm quan trọng có tính chất đa sắc tộc của thành phố. Tại Marseille, các Cộng Tác Viên rất sốt sắng khiến Don Bosco cảm thấy ở giữa họ một bầu khí như gia đình”.
Tại Tây Ban Nha, có một trong những dung mạo Cộng Tác Viên độc đáo là bà Dorotea de Chopitea. Bà đã trở thành “người mẹ của các công cuộc Salêdiêng”; và án vụ phong chân phước cho bà đã được khởi sự.
Tờ “tập san Salêdiêng” cũng đã vươn tới các vùng Sotto il Monte
Don Bosco đã muốn trao cho các cộng tác viên Salêdiêng một dụng cụ được dùng để giúp giữ gìn họ hiệp nhất với nhau và với trung tâm của các công cuộc Salêdiêng. Đó là tập san Salêdiêng, một tờ báo ra hàng tháng. Số đầu tiên xuất hiện vào tháng tám năm 1877.
Don Bosco quý chuộng tờ tập san này cách riêng đến độ ngài đích thân chuẩn bị các số xuất bản đầu tiên. Khi ngài không thể tiếp tục kham nổi công việc này nữa, ngài đã rút ra một vị Giám đốc trong số các Giám đốc của ngài, để ủy thác cho vị ấy tờ tạp san này: Đó là Don Gioan Bonetti (người cũng nằm trong ban Thượng Cố Vấn). Khi người ta hỏi Don Bosco là gửi tờ báo Salêdiêng này tới những ai, Don Bosco trả lời: “Gửi cho những ai muốn nó và cả những người không muốn nó”.
Trong Tập san Salêdiêng có công bố cả các lá thư đầu tiên của các nhà truyền giáo Salêdiêng, được cả giới trẻ lẫn người lớn đọc một cách say mê.
Trong tập san này Lịch sử Nguyện Xá của Don Bosco viết lần đầu tiên được xuất bản nhiều đợt và rất được chờ đợi, kích thích tính hiếu kỳ lạ lùng của giới độc giả. Người ta cũng đọc thường xuyên về những công cuộc Salêdiêng trên khắp thế giới, những ơn lạ lùng nhất của Đức Maria Phù Hộ.
Tập san hiện đại ra hằng tháng này thâm nhập vào mọi nơi, chiếm được lòng của nhiều bạn hữu về với Don Bosco và các công cuộc của ngài. Đức Thánh Cha Gioan XXIII, sinh tại xứ Sotto il Monte nhắc nhở lại như sau: “Những năm đầu đời của cha đã được làm cho rạng rỡ, vui tươi và che chở bởi hình ảnh thân ái của Đức Mẹ Phù Hộ. Ồ! Một bức hình Mẹ rất đơn sơ lấy từ trang bìa của tập san Salêdiêng mà bác của cha là Zaverio đã nhận được và đọc cho bọn cha cũng như đã đọc cho mọi người nghe với một nhiệt tình say sưa. Bức hình Đức Mẹ được đặt ngay ở đầu giường cha. Biết bao nhiêu kinh nguyện đầy tín thác được dâng lên trước bức ảnh này! Và Đức Maria Phù Hộ đã luôn trợ giúp cha”.
Năm 1888, trong khi nói chuyện với cha Lemoyne, Don Bosco tỏ lộ cho ngài một ý tưởng dần dà thành hình và trở thành càng ngày càng rõ ràng cho ngài: “Đó là mục đích của các cộng tác viên không phải là giúp đỡ Các Salêdiêng, nhưng là để phục vụ Hội Thánh, các Đức Giám mục, các cha xứ, dưới sự hướng dẫn của Các Salêdiêng”.
“Cha Morand Writh viết: “Khi Don Bosco chết vào năm 1888, thì một chuyện trở nên hiển nhiên: Lực lượng Tông đồ của Tu Hội Salêdiêng nhỏ bé đã được nhân lên gấp mười nhờ sự trợ giúp huynh đệ của các Cộng Tác Viên. Rất nhiều người trong số họ đã xứng đáng được coi trên thực tế, nếu không phải là trên pháp lý, như những người Salêdiêng đích thực trong thế giới”.
Lãnh vực Cộng tác viên và Gia đình Salêdiêng
Chương 44
MICHELE VÀ NHIỀU BẠN HỮU KHÁC
Năm 1870, Don Bosco trọn năm mươi tuổi. Cuộc sống của ngài nóng nẩy và sinh động như một dòng thác đổ từ núi trong những thập niên đầu tiên, nay mở rộng ra tựa dòng sông lộng lẫy. Mười tám năm của cuộc sống ngài được ghi lại tỉ mỉ trong 100kg các tài liệu và chứng từ, rồi được thu gọn lại trong 9 cuốn Hồi Sử Về Một Cuộc Sống (memorie biografiche), mà hai trong số đó vượt quá 1000 trang.
Hiển nhiên là mỗi một cuốn tiểu sử về Don Bosco luôn phải áp dụng cho nó hạn từ “cắt gọn lại”. Các sự kiện, các cuộc gặp gỡ, các bài nói chuyện cho các trẻ em, các giấc mơ đầy cảm kích và rất đầy tình người; chúng ta rất tiếc là phải để qua một bên hằng chục và hằng chục chuyện trong số chúng. Và mặc dù vậy, con số các trang chúng ta hiện tham khảo được như đã được thiết định, chúng ta vẫn còn buộc phải chấp nhận cắt bớt đi một cách cương quyết.
Tuy nhiên trong chương này, chúng ta lấy lại một chút các sự kiện đã bị bỏ đi. Chúng tôi xin kể ra “theo vòng xoay tự do” một số những sự việc, những cuộc gặp gỡ đầy sức đánh động của những năm này trong khi xin lỗi nếu chúng tôi không thể liên kết chúng thành một chuỗi “hoàn toàn logic”. Đàng khác cuộc sống không luôn luôn sử dụng đến logic như là hành trình chính của nó.
“Tôi đã ăn cắp hai ổ bánh mì tròn”
Vào tháng tám năm 1872. Tiếng chuông đổ và một nhóm đông kinh khủng các trẻ con chạy như bay khỏi các lớp học và các xưởng thợ trong khi la to lên “Bánh mì! Bánh mì!”.
Hai người làm bánh mì đã để ở cuối sân bốn chiếc thúng lớn đan bằng cây liễu dầy ắp những bánh mì mới tinh và mùi thơm ngon. Người ta la to: “Mỗi người một cái, không được lấy thêm!”
Francesco Picácollo, một đứa trẻ 11 tuổi, mới đến đây từ xứ Pecácetto Torinese, nhìn đám trẻ xếp hàng dài này và đợi đến lượt mình. Nó đã ăn cháo vào ban trưa, nhưng sau nhiều giờ, tính thèm ăn lại nổi dậy. Nó nghĩ rằng một ổ bánh mì thì chẳng đủ cho cơn đói của nó. Cần tăng gấp đôi phần ăn, Nguyện Xá thì nghèo, và bánh phải giới hạn theo khẩu phần năm đó (1872).
Trong khi nó suy nghĩ tất cả chuyện đó, nó quan sát thấy rằng một số các bạn nó, sau khi đã nốc xong một cái bánh, lại yên ổn xếp lại vào hàng để lấy thêm chiếc bánh thứ hai, rồi thứ ba mà không có ai nhận thấy.
– Thế là tôi – như lời Francesco kể lại sau này – cũng để cho mình bị chiến thắng bởi tính thèm ăn: tôi ăn cắp hai ổ bánh rồi trốn ra sau dẫy hành lang để ăn hau háu. Thế rồi cơn hối hận xâm chiếm lấy tôi. Tôi đã ăn cắp, nhưng làm sao ngày mai tôi dám rước lễ đây? Tôi phải đi xưng tội!
Nhưng cha giải tội tôi là Don Bosco, và tôi sẽ làm ngài đau lòng biết mấy khi hay biết rằng tôi đã ăn cắp. Làm thế nào đây? Không phải vì xấu hổ, nhưng là vì không muốn làm Don Bosco đau lòng, tôi trốn ra khỏi cửa nhà thờ và chạy thẳng tới đền thờ Đức Mẹ An Ủi không cách xa đó mấy.
Tôi vào trong nhà thờ tương đối tối, tôi chọn tòa giải tội kín ẩn hơn cả và tôi bắt đầu xưng tội:
“Con xưng tội ở đây bởi vì con xấu hổ không dám xưng tội với Don Bosco!” (Tôi không buộc phải nói lên điều này, nhưng tôi quá quen với sự thành thật khiến tôi thấy nói lên điều đó là quan trọng). Một giọng nói trả lời tôi:
“Nói đi con, Don Bosco sẽ không bao giờ biết gì cả đâu”.
Đó chính là giọng Don Bosco! Khốn rồi! Tôi toát mồ hôi trán. Nếu Don Bosco ở Nguyện Xá, sao cha lại có thể ở đây? Phải chăng đó là phép lạ ư? Không, không phải phép lạ. Don Bosco đã được mời tới giải tội ở nhà thờ Đức Mẹ An Ủi để giải tội như thường lệ, và tôi rơi đúng vào tòa giải tội của Don Bosco.
“Nói đi, con người nhỏ tốt lành của tôi. Chuyện gì đã xẩy ra với con?”
Tôi run lên như một chiếc lá.
“Con đã ăn cắp hai ổ bánh mì.
– Và hai bánh mì đó làm con đau ốm ư?
– Không.
– Vậy nó làm con bối rối ư? Con đói chứ?
– Vâng.
– Đói bánh và khát nước, đó là cơn đói và cơn khát tốt lành; khi con cần sự gì, con cứ xin Don Bosco. Ngài sẽ cho con tất cả bánh mà con muốn. Nhưng con nhớ nhé: Don Bosco ao ước con có lòng tin nơi cha, hơn là muốn con hoàn toàn vô tội. Nếu con tin nơi cha, cha có thể giúp con, nhưng với cái vẻ bề ngoài vô tội của con, con sẽ liều trượt và té, và chẳng có ai đưa tay ra cho con. Sự giàu có của Don Bosco chính là sự tin tưởng của các trẻ con của ngài; con đừng quên điều đó, Francesco ạ!
Năm sau tôi lên lớp 8 và một ngày trong bữa ăn, người ta nói cho tôi hay là mẹ tôi đợi tôi ở phòng khách. Tôi ra gặp mẹ và thấy mẹ khóc:
– Mẹ ơi, sao thế?
– Không có gì cả, Francesco nhỏ bé của mẹ, nhưng con biết đấy, chúng ta nghèo và cha quản lý nói nếu chúng ta còn tiếp tục không trả được tiền nội trú, thì ngài buộc phải cho con về nhà.
Mẹ tôi đã khóc trước lời đe dọa này và tôi cũng khóc chia tay mẹ, vì tôi phải vào lớp. Nhưng vào giữa giờ chơi sau trưa, tôi lại thấy mẹ đợi tôi tại cổng, và lần này mẹ sung sướng mỉm cười. Mẹ nói với tôi:
– Francesco ạ, con thấy mẹ bây giờ không còn khóc nữa. Mẹ đã đi gặp Don Bosco và cha nói với mẹ: “Bà tốt lành, hãy nói với con bà rằng nếu cha quản lý cho nó đi khỏi cửa nhà trường, thì bảo nó đi lối nhà thờ và đến gặp tôi. Don Bosco sẽ không bao giờ đuổi nó”.
Rồi mẹ tôi ôm tôi và về nhà. Tối hôm đó cha quản lý đã cho gọi tôi và tôi sợ hãi, nên đã đi gặp Don Bosco trước đã. Tôi gõ cửa phòng ngài:
– Ai đó?
– Con đây, Picácollo Francesco.
– Con vào đi. Sao đấy, Francesco?
Rồi cha lấy một tờ giấy ra:
– Mẹ con nợ tiền nội trú mấy tháng?
Tôi nói số tháng cho cha và Don Bosco tế nhị viết cho tôi một biên nhận cho cả năm và ký tên. Không ai nhận thấy được lòng quảng đại của cha, ngay cả cha quản lý là người tôi đem đến biên nhận này. Tôi thật kinh ngạc nhất là trước thái độ tế nhị mà cha đã giúp tôi bằng cử chỉ thân ái này của cha.
Ba năm trôi qua. Tôi đã lên lớp 12. Một hôm chúng tôi là những học sinh lớn nhất bao bọc lấy Don Bosco và đi lại cùng ngài dọc hành lang có cột và mái vòm. Tôi muốn một mình nói chuyện với ngài, nhưng tôi không dám xin ngài. Như mọi lần, ngài đã nhận ra ngay được ý tôi, liền kéo tôi riêng ra rồi nói với tôi:
– Cha nghĩ con có điều gì muốn nói với cha?
– Cha đã đoán ra. Nhưng con không muốn chúng bạn con nghe được – Tôi rồi thì thầm vào tai ngài:
– Con muốn làm một qùa tặng cho cha. Con nghĩ cha sẽ hài lòng.
– Con muốn cho cha món quà gì?
– Cha hãy nhận con vào số các Salêdiêng của cha!
Don Bosco mỉm cười:
– Con muốn cha sẽ làm gì với với típ người ngô ngộ như con? – Thế rồi thình lình cha trở nên nghiêm nghị và nói với tôi:
– Cám ơn, Francesco ạ! Con không có thể cho cha một món qùa dễ thương hơn thế. Cha nhận con, không phải cho cha, mà để hiến dâng con và tận hiến con hoàn toàn cho Chúa và cho Mẹ Maria Phù Hộ.
Francesco Picácolo đã trở thành Salêdiêng và linh mục, làm việc hơn 30 năm tại Sicilires trong vai trò giáo viên, Giám đốc, rồi trách nhiệm các công cuộc Salêdiêng tại tỉnh dòng Sicilires. Ngài sống cho tới năm 1930.
Cũng trong năm 1872 đó, một học sinh ngoan khác tên là Eusebio Calvi de palestro rất lo lắng vì cha mẹ cậu không thể trả tiền ăn học nội trú. Don Bosco thấy cậu buồn nên mới hỏi:
– Con sao thế, Eusebio?
– À, thưa Don Bosco, cha mẹ con không có thể trả tiền ăn học nội trú cho con nữa và con buộc phải thôi học.
– Nhưng con có là bạn của Don Bosco không?
– Ồ, có!
– Vậy thì chúng ta dàn xếp chuyện này dễ dàng thôi. Con hãy viết cho cha con rằng ông đừng lo gì về quá khứ, còn trong tương lai, thì ông cứ trả theo sức của ông.
– Cha con muốn biết con số chính xác, cha con muốn đem tất cả những gì ông có thể được để lo trả.
– Cho tới hôm nay, thì tiền ăn học hằng tháng là bao nhiêu?
– 12 lires mỗi tháng.
– Con hãy viết cho cha con là chúng ta ấn định là 5 lires nhé. Và ông cứ cố gắng trả theo mức ông có thể. Con hãy đến bàn văn phòng để cha làm cho con một biên nhận cho cha quản lý.
Eusebio Calvi cũng trở thành Salêdiêng và linh mục, làm việc tại Calabre và tại Sicile và sống cho đến năm 1923. Có rất nhiều, tính tới nhiều ngàn trẻ em, theo như cha Adamei viết, đã nhận được những dấu bày tỏ tình thương như thế của Don Bosco.
Don Bosco không mấy hạnh phúc vì sự từ chối
Khi Don Bosco tới Lu vào dịp các cuộc dã ngoại vào mùa thu (như chúng ta đã kể ra ở chương 37), trong sân nhà Rinaldi, ngài trìu mến vuốt ve em bé Filippo lên 5 tuổi.
Khi em bé lên 9 tuổi, tên của Don Bosco lại sôi động lại trong cuộc sống của nó. Tại xứ Mirabello, trong tầm bắn súng tính từ xứ Lu, Don Bosco đã mở một “tiểu chủng viện”.
Đứa bé có vóc dáng lớn, lại rất dịu hiền, vai đeo gói đồ, ôm hôn từ biệt mẹ, rồi lên xe của bố để tới trường mới. Nó có trái tim hơi xe lại, giống như tất cả các đứa trẻ lần đầu tiên bỏ nhà lên ở trường nội trú. Nhưng nó nghiêm trang và suy nghĩ kỹ càng. Nó hiểu hy sinh này có thể mở cho cuộc sống nó những chân trời mới thay vì những cánh đồng ruộng và nương nho của cha nó.
Cậu có giáo viên dạy lớp là thầy Paolino Albera. Cậu viết: “Đối với tôi, thầy Albera là một thiên thần bản mạnh. Chính thầy có nhiệm vụ canh giữ tôi, và thầy đối xử với tôi theo đức ái dịu dàng khiến tôi ngạc nhiên mỗi khi nghĩ lại”. Nhưng tiếc là không chỉ có một mình thầy Albera. Có một thầy hộ trực khác có những cách thức thô lỗ khiến các bạn trẻ cảm thấy bị xúc phạm.
Don Bosco hai lần từ Torino đến thăm “tiểu chủng viện”, và ngài nói chuyện lâu với Filippo. Họ đã trở nên đôi bạn.
Tuy vậy vào mùa xuân, xẩy ra một chuyện buồn. Filippo cảm thấy mệt nhọc do việc học gây cấn trong mùa đông. Trong một ngày cậu quá sức căng thẳng, thầy hộ trực đụng độ với cậu một cách đặc biệt, với những lối xử sự thô lỗ. Filippo không mất sự điểm tĩnh. Cậu đi thẳng tới cha Giám đốc, nói với ngài rằng cậu muốn về nhà. Xem ra đó chỉ là một cách tức tối nhất thời, nhưng không phải như vậy. Filippo đã quyết định như vậy, và không ai có thể làm cậu thay đổi quyết định.
Filippo đã nhận được một số thư từ Don Bosco trong những năm kế tiếp. Trong mỗi lá thư, Don Bosco đều khuyên cậu nghĩ lại, để quay về trường: “Những nhà của Don Bosco sẽ luôn luôn mở rộng cho con”.
Rất ít khi Don Bosco lại nhấn mạnh nhiều như thế với một em bé. Xem có vẻ như ngài thấy một cái gì nơi tương lai của đứa bé. Nhưng đứa bé tuy vẫn là bạn thân của Don Bosco, lại không cảm nhận được điều Don Bosco cảm nghĩ.
Năm 1874, Filippo được 18 tuổi, và Don Bosco tới gặp cậu tại xứ Lu. Chính lúc ấy có một người đàn bà nghèo khổ đến. Bà ta chống nạng bước đi và có một cánh tay đau yếu. Bà ta đến xin Don Bosco chữa lành mình. Vị thánh đã ban cho bà phép lành Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, và bà ta, trước ánh mắt nhìn của Filippo, đã ném nạng xuống mà bước đi được để trở về nhà hoàn toàn khỏi bệnh. Cậu thanh niên trẻ này rất cảm động, nhưng cậu đã trả lời “không” cho lần không biết thứ bao nhiêu Don Bosco mời gọi theo ngài tới Torino. Tiếng thứ “không” đó đã đè nặng lên cậu trong suốt cả cuộc đời: “Chớ gì Chúa và Đức Mẹ làm cho tôi sẽ không bao giờ lạm dụng ơn huệ của Chúa sau khi đã bao lần từ chối ân sủng của các ngài trong quá khứ”, đó là lời cậu nói với tất cả lòng khiêm nhường.
Tiếng “không” này mà cậu đã đáp lại cho Don Bosco sẽ trở thành tiếng thưa không đầu tiên trong một chuỗi những tiếng thưa không khác. Cậu bắt đầu nói không cho việc cầu nguyện, nói không cho mẹ cậu lên tiếng quở trách cậu nối kết những mối tình bạn nguy hiểm, thưa không cho cha xứ mời gọi cậu đi tới nhà thờ thường xuyên hơn. Có cả một “cơn khủng hoảng tôn giáo” mà cậu sẽ vượt thắng nhờ lời cầu nguyện của mẹ cậu.
Khi Don Bosco quyết bước vào một cuộc chiến
Năm 1878, Filippo Rianaldi tròn 20 tuổi. Cha mẹ của một cô gái tốt lành đến xin ba Cristoforo của Filippo đồng ý đám cưới giữa Filippo với con gái của ông ta. Nhưng từ Torino cũng có Don Bosco đến, quyết thực hiện một cuộc chiến để mang Filippo về với ngài.
Có một cuộc nói chuyện lâu dài và quyết định. Với một sự ngoan cường của người nông dân, Filippo đưa ra tất cả một chuỗi những khó khăn của cậu. Nhưng Don Bosco cũng là một nông dân như cậu, và ngài tranh luận từng điểm một với cậu một cách bình tĩnh. Ngài đã khám phá ra nơi chàng trai này tấm vải làm nên một người Salêdiêng vĩ đại, và ngài không muốn chàng ta trốn thoát. Filippo viết lại: “Ngài đã chiếm lấy tôi dần dà, dần dà. Cha mẹ tôi để cho tôi tự do, và sự chọn lựa của tôi hướng về phía Don Bosco”.
Tháng 11 năm 1877, Filippo Rinaldi tới Samperderena, nơi Don Bosco đã mở một nhà cho “các ơn gọi muộn”. Với 21 tuổi, chàng nông dân xứ Lu tái mở cuốn văn phạm Ý và văn phạm La-tinh ra. Những thời ban đầu thật là cam go. Trên vở làm bài đầu tiên, bên cạnh cả một rừng chữ thập đỏ, xanh, còn có cả số điểm thấp nhục nhã. Tuy nhiên với sự ngoan cường qua đó trong bao nhiêu năm cậu đã cưỡng lại tiếng gọi của Don Bosco, ngày này qua ngày khác Filippo gò bước trên con đường gay cấn của học hành.
Cha giám đốc của nhà Sampierderena lại chính là thầy Paolo Albera mà Filippo say mê tại Mirabello. Trong những thời điểm trắc trở cậu tìm được niềm an ủi nơi ngài. “Một ngày kia cậu nói với ngài là cậu sợ mình sẽ một lần trong những lần trốn của mình, thì ngài trả lời rằng ngài sẽ tới để đem cậu trở lại”.
Ngày 13-8-1880, Filippo quì gối dưới chân Don Bosco, tuyên các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Cậu đã trở thành người Salêdiêng. Cậu được 24 tuổi.
Trong mùa thu, cậu bắt đầu bước trèo cao tới chức linh mục. Cậu tiếp nhận các chức nhỏ, rồi chức phụ phó tế, chức phó tế. Có một đặc điểm đầy sức thu hút sự hiếu kỳ: Filippo tiến lên phía trước không phải bởi cậu muốn, mà là bởi Don Bosco đã ra lệnh cho cậu phải làm. Cậu kể lại rằng: “Don Bosco nói với tôi: trong ngày đó con sẽ thi cử…, con sẽ nhận chức này. Tôi vâng lời từ lần này sang lần khác”. Không bao giờ Don Bosco lại cư xử với một ai khác như đã cư xử với Filippo: Với họ, Don Bosco chỉ khích lệ, mời mọc. Còn với Rinaldi thì Don Bosco ra lệnh. Don Bosco chắc chắn đã đọc được rõ ràng tương lai của chàng trai trẻ này.
Vào vọng Giáng Sinh 1882, Don Filippo Rianaldi cử hành thánh lễ đầu tiên, Có Don Bosco hiện diện, rồi ôm hôn tân linh mục, Don Bosco hỏi: “Giờ đây con bằng lòng chứ?”. Câu trả lời khiến cho người ta phải buông thõng tay xuống: “Nếu cha giữ con lại với cha, thì có. Nếu không, con cũng chẳng biết mình sẽ làm gì”.
Nhưng ít ngày sau Don Coastamagna trở về Torino từ vùng truyền giáo nam Mỹ và Don Filippo lần đầu tiên cảm thấy vô cùng phấn khích, đã xin Don Bosco để đi truyền giáo. Nhưng lần này, chính là tới lần Don Bosco nói “không” với Rinaldi:
– Con sẽ ở lại đây. Tới các khu truyền giáo, thì con sẽ sai những người khác”.
– Đấng kế vị thứ nhất của Don Bosco để đứng đầu Tu Hội chính là Don Rua; vị thứ hai chính là Don Albera; người thứ ba chính là Don Filippo Rinaldi. Cha già Francesia nói về ngài: ngài chỉ còn thiếu có giọng nói của Don Bosco thôi. Tất cả điều còn lại thì Rinaldi giống hệt Don Bosco”.
Vị Kinh sĩ ngưng công việc để nghỉ ngơi
Năm 1872 Don Bosco thực hiện một chuyến viếng thăm ngắn ngủi ở Genova. Cha Amadei kể lại:
“Giữa những người khác, Don Bosco đã đến thăm kinh sĩ Ampugnani đang sống tại Marassi và là người đã giúp ngài mua trường trung học Alassio. Don Bosco hỏi vị kinh sĩ:
– Vậy bây giờ cha làm gì?
– Con hở? Không làm gì cả, chỉ nghỉ ngơi thôi.
– Sao, sao cha lại nghỉ ngơi? Cha đang khỏe, lại còn trẻ nữa.
– Con đã làm việc rất nhiều bên Mỹ, và bây giờ con nghỉ ngơi.
Don Bosco trở nên rất nghiêm nghị:
– Vậy cha không hay là sự nghỉ ngơi của một linh mục là ở thiên đàng chăng? Còn chúng ta phải chịu trả lẽ rất ngặt trước Thiên Chúa về quãng thời gian đã mất chăng?
Vị kinh sĩ bị đánh động bởi những lời như thế, mà không biết chạy tới ai để giúp ngài thoát khỏi điều này. Một ngày sau đó, ngài trở về nhà Salêdiêng, và nói với vị giám đốc của nhà đó để cho ngài đánh đàn, dạy âm nhạc, giảng thuyết. Ngài thốt lên rằng:
– Don Bosco đã nói với con những lời thật kinh khủng!
Don Bosco còn gặp cả Bề Trên Tổng quyền dòng Anh em hèn mọn thánh Phanxicô – Phaolô, một con người hết sức uyên bác, hiện đang làm cha xứ. Ngài chào vị linh mục cách cung kính, sau đó Don Bosco mới nói:
– Chắc là cha rất bận rộn với các công việc của dòng cha!
– Thật sự ra có rất ít việc. Chúng tôi rất ít người, cha biết không?
– Cha có bao nhiêu tập sinh?
– Chẳng có tập sinh nào cả.
– Còn các học viên thì sao?
– Chẳng có ai.
– Sao vậy? – Nét mặt Don Bosco trở nên nghiêm trọng, lời lẽ ngài run lên. Vậy cha không làm gì cả để ngăn chặn cho một dòng tu đã có bao công lao lớn với Hội Thánh khỏi chết đi, vì nó đã không còn đạt tới mục tiêu mà Đấng Sáng Lập ra nó đã đặt ra và ngài vẫn còn có biết bao nhiêu lời tiên tri rất vinh quang đang cần phải được thể hiện chăng?
– Nhưng chúng con không có các ơn gọi!
– Nhưng nếu cha không tìm ra ơn gọi tại nước Ý, cha hãy đi sang Nước Pháp, hay Nước Tây Ba Nha, hãy sang châu Mỹ, Châu đại dương. Cha có một trách nhiệm vô cùng quan trọng, một sự tính sổ nghiêm chỉnh mà cha còn phải làm trước mặt Thiên Chúa. Biết bao nhiêu lao nhọc, đau đớn thánh Phanxico Phaolô đã phải chịu đựng khi thiết lập Tu Hội của ngài? Còn cha, cha lại chấp nhận để mất đi biết bao nhiêu kinh nguyện, biết bao nhiêu lao nhọc, biết bao nhiêu hy vọng đó sao?
Vị linh mục Tổng quyền tốt lành cảm thấy như mình bị dồn đến chỗ không. Ngài hứa sẽ làm hết sức để tìm những ơn gọi mới”.
Những người thợ xây trẻ của Nguyện Xá Chúa nhật
Ai nhìn vào cuộc sống của Don Bosco trong thời kỳ này đều có thể có ấn tượng là Nguyện Xá Chúa Nhật mà ngài đã từng sống trong những năm vinh quang của ngài, giờ đây đã mất hút trong đàng chân trời. Nhưng thật sự không phải vậy. Dĩ nhiên Don Bosco đã bận rộn tới 90% bởi nhà to lớn của các học sinh cũng như của các anh em học nghề chứa đến 800 thanh thiếu niên và bởi các công cuộc Salêdiêng khác đang nhân rộng thêm. Nhưng ngài không quên Nguyện Xá “của ngài”. Những chứng từ không phải nhiều lắm, nhưng cũng đủ để nêu cao lãnh vực Nguyện Xá này.
Enrico Angelo Bena kể lại rằng: “Tôi đến Nguyện Xá vào dịp mùa chay năm 1871. Tôi đến từ vùng Magnano Biellese và tôi phải vất vả làm nghề thợ xây. Vào ngày thứ nhất của tuần thánh, theo như cha xứ của tôi đã căn dặn cho tôi và cho các bạn khác, tôi tới Nguyện Xá của Don Bosco. Tôi rất thích. Mỗi năm, khi trở lại Torino từ tháng ba đến tháng mười một, tôi tiếp tục lui tới Nguyện Xá, bởi vì tôi không ghi danh vào quân đội.
Lối vào Nguyện Xá trong những năm đó ở phía bên trái đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ. Lối vào là một cổng thô làm bằng những tấm ván. Có ba hay bốn linh mục tại Nguyện Xá. Don Bosco thường đến vào ban sáng để cử hành Thánh lễ, và vào ban chiều để dạy giáo lý. Năm thứ hai tôi đến Torino, tôi được chịu lễ lần đầu tại Nguyện Xá. Tất cả mọi người đều được mặc áo sạch sẽ. Ai không nhận được áo từ gia đình của mình, thì nhận áo từ Don Bosco. Chính ngài cử hành thánh lễ trong nhà thờ thánh Phanxicô Salê và trao Mình Thánh cho chúng tôi. Sau đó khi ra khỏi nhà thờ, bàn ăn được dành cho chúng tôi: có bánh, phó mát, dồi. Don Bosco đi qua trao cho chúng tôi một chút rượu mà ngài rót vào các ly của mỗi người chúng tôi. Ngài cũng phân phát bánh ga-tô nữa.
Khi một bạn trẻ có áo quần, giầy rách, thì Don Bosco phân phát cho họ quần áo và giầy dép tuy có vá lại, nhưng rất chắc. Điều tôi thích thú là các cuộc chơi kỵ sĩ tấn công nhau, hay cuộc chơi thi đua chạy lướt và những món quà chúng tôi nhận được. Ban kèn đồng chơi những điệu rất thích thú”.
Trong năm 1871, cậu thợ trẻ của vùng Villa Miroglio tên là Francesco Alemano cùng với cả gia đình đến Torino, và cậu ta bắt đầu lui tới Nguyện xá Chúa Nhật. Ngày đầu tiên cậu ta đến đó thì gặp Don Bosco. Sau khi đọc giờ kinh phụng vụ, thì có tổ chức một cuộc sổ số nho nhỏ và Alemanno thắng được một món quà là chiếc cra-vát. Don Bosco quàng cra-vát vào cổ cậu ta và hỏi:
– Con tên là gì?
– Franceso Alemanno
– Con đã đến Nguyện Xá được lâu chưa?
– Đây là lần đầu tiên.
– Con có biết Don Bosco không?
Cậu ta tỏ vẻ bối rối, rồi ngước đôi mắt nhút nhát lên, cậu ta nói:
– Don Bosco là cha đó.
– Con sẽ biết rõ Don Bosco hơn nếu con để cho ngài làm ích cho linh hồn con.
– Thưa cha, đó chính là điều con tìm kiếm, một người bạn chăm lo cho linh hồn con.
– Thật là kỳ diệu! Chiều hôm nay, con đã thắng sổ số được một chiếc cra-vát và cha, với chiếc cra-vát này, cha sẽ cột chặt con vào Nguyện Xá mà con không thể xa nó được nữa”.
– Francesco đã trở nên một người bạn thực thụ của Don Bosco. Từ Nguyện Xá, cậu chuyển sang Tu Hội Salêdiêng.
Các người thợ trẻ, việc phân phát những quần áo cho các trẻ nghèo khổ hơn cả, các câu chuyện trao đổi giữa cha và con với các bạn trẻ : đó luôn luôn là Nguyện xá của Don Bosco vẫn còn tiếp tục sống và phát triển mạnh mẽ dưới bóng Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ.
Don Bosco trao Nguyện Xá cho cha Barberis hướng dẫn trong một vài năm. Rồi trao cho Don Pavia điều khiển nó rất lâu năm. Thế là trong những năm dài của thời cha Pavia, Nguyện xá được trợ giúp bởi một sư huynh huyền thoại Giovanni Garbellone. Đó là một con người có tính hướng ngoại đôi chút và kỳ quái, chính là một bằng chứng sống động của quyền giáo dục phi thường của Don Bosco, con người vốn biết biến các đức tính tự nhiên dù là của những con người nghèo khổ nhất, thành các sức mạnh có giá trị to lớn.
Trong suốt 50 năm, Garbellone là linh hồn của Nguyện Xá Chúa Nhật. Trong cuốn sổ tay của thầy, thầy đã giữ sáu ngàn tên của các bạn trẻ được chuẩn bị rước lễ lần đầu. Kể từ năm 1884, cậu trở thành nhạc trưởng của Ban Kèn đồng mà thầy đã dẫn dắt một cách oai vệ cho tới năm 1928, năm thầy qua đời.
Don Bosco đã chiếm lãnh tình cảm của thầy bởi một cử chỉ tín nhiệm lớn lao. Ngài đã đặt vào tay thầy 30.000 lires (một con số kếch xù để đem đi trả một món nợ. Garbello khi đó mới có 28 tuổi, và là một con người nghèo khổ. Cử chỉ này chạm tới tim thầy một cách sâu xa đến độ kể từ đó thầy luôn sẵn sàng dù là ném mình vào trong lửa vì Don Bosco.
Ngày 19-3-1871, một thanh niên nông dân 27 tuổi đến Nguyện Xá. Tên cậu ta là Michele Unia. Cậu ta nói với Don Bosco rằng cậu muốn học để trở thành linh mục, nhưng không phải là Salêdiêng.
– Con muốn trở lại Rocácaforte thuộc Mondoi, xứ sở của con.
– Nhưng nếu Chúa muốn cho con một sứ mệnh to tát hơn thì sao?
– Nếu Chúa cho con hiểu ra được rằng đó là thánh ý của Ngài…
– Nếu Thiên Chúa tỏ lộ cho cha điều chỉ mình con biết về con mà thôi, và nếu cha nói điều đó cho con ở đây, thì liệu đó có phải là một dấu chỉ đủ cho con thấy rằng ngài muốn con là một linh mục Salêdiêng chăng?
Michele Unina không biết liệu mình có thể lấy những điều cha nói đó là nghiêm chỉnh chăng hay chỉ như là một trò chơi vui thôi. Cậu ta suy nghĩ một chút, rồi nói:
– Được, xin cha nói cho con hay rằng cha thấy trong lương tâm của con.
Don Bosco đã nói cho cậu tất cả. Ngài nêu một danh sách các hành động tốt và các tội của cậu, cho tới những chi tiết nhỏ nhất. Unia tưởng như là mình đang mơ:
– Và cha còn biết con hơn là con có thể tưởng tượng ra được. Khi đó con lên 13 tuổi, con ở trong ca đoàn nhà thờ của con, và vào dịp hát kinh chiều. Một trong các bạn của con, ngồi kế bên con, ngủ, với cái đầu ngẩng lên và miệng mở to ra. Con có những trái mận trong túi. Con đã chọn trái to nhất và đã đút vào miệng đang mở to của thằng bé khốn khổ ấy. Cảm thấy nó bị nghẹt thở, nó đứng dậy và chạy khắp nơi như một đứa điên. Nó phải ngưng buổi hát kinh chiều. Con cười bò lê bò càng, nhưng cha xứ đã bạt tai con cả nửa tá.
Michele Unia đã ở lại với Don Bosco. Đó là vị truyền giáo Salêdiêng đầu tiên đến với những người cùi ở Colombia, trong một vùng đất xa tít gọi là Agua de Dios (Vùng Nước của Thiên Chúa). Ngài đã sống ở đó giữa 730 người bị chứng bệnh ghê gớm đó. Với một công việc thật cực nhọc, cuối cùng ngài đã bị kiệt sức hoàn toàn, và qua đời. Ngài đã trả lại một khuôn mặt mang phẩm giá thực sự của những con người và của con cái Thiên Chúa cho họ.
Chương 45
Trong những năm 1871-1872, Don Bosco có một giấc mơ đầy kịch tính. Có vẻ ngài đã kể lại với Đức Piô IX, rồi với một số Các Salêdiêng. Trong số họ có cha Barberis và cha Lemoyne đã kỹ lưỡng ghi các điểm lại.
“Cha thấy mình đang ở trong miền đất man rợ và hoàn toàn chưa được biết tới. Đấy là một đồng bằng mênh mông chưa được canh tác, và không có các ngọn núi hay ngọn đồi nhô lên. Tuy nhiên ở đằng chân trời xa tắp, người ta thấy được nhô lên những dẫy núi gồ ghề, lởm chởm. Cha thấy có những người đi ngang qua cánh đồng bằng này. Họ gần như để trần, thân hình to lớn ngoại thường và vẻ hung dữ. Tóc họ dài và thô, màu đồng thậm và đen. Họ chỉ mặc áo da súc thùng thình tỏa xuống từ bờ vai. Họ mang khí giới là lao và cung nỏ.
Những bộ lạc này ở rải rác và xuất hiện trong những cảnh khác nhau: một số người chạy và săn các con vật hoang dã; những người khác thì đi qua lại, dùng lao giơ cao những miếng thịt máu me. Có những người giao tranh chống lại nhau; những người khác thì chống lại các người lính mặc theo lối Âu châu và mảnh đất đó phủ đầy xác chết. Trước cảnh tượng đó cha rùng mình khiếp sợ.
Và này tại chân trời xuất hiện rất nhiều người theo lối ăn vận và cách hành động của họ, cha hiểu được rằng đó là những vị truyền giáo thuộc các dòng khác nhau. Họ tiến bước tới đó để rao giảng cho các người man rợ này đạo thánh của Chúa Giêsu Kitô. Cha quan sát kỹ họ, nhưng cha không nhận ra ai cả. Họ tiến vào giữa những người man rợ. Những người man rợ này vừa khi thấy họ, thì tiến đánh và giết họ. Trên các cây gậy dài của họ, họ buộc những chiến tích rùng rợn.
Những con người tình nguyện mới sẵn sàng liều mạng
“Sau khi đã thấy những cảnh kinh khủng trên, cha tự nhủ: “Làm thế nào để có thể cải hồi những con người hung dữ này?”
Trong khi đó cha thấy từ xa một nhóm các nhà truyền giáo khác có đám thanh thiếu niên đi trước, gặp gỡ những người man rợ này với những vẻ mặt vui tươi. Cha run lên trong khi suy nghĩ: “Chúng sẽ giết họ mất”. Cha lại gần họ, thấy họ chính là các thầy tư giáo và các linh mục. Cha chăm chú nhìn họ và nhận ra họ là những người Salêdiêng của chúng ta. Những người đầu tiên cha biết rõ, còn những người khác đi theo họ, tuy cha không thể đích thân mình biết đến họ, nhưng cha có cảm tưởng đó là những nhà truyền giáo Salêdiêng như là tất cả các người truyền giáo của chúng ta.
“Sao lại vậy?”, cha tự hỏi trong lòng. Cha không muốn để họ cứ tiến lên và cha muốn ngăn cản họ. Cha chờ đợi từ lúc này sang bất cứ lúc nào đó, họ cũng sẽ chịu cùng một số mệnh như những nhà truyền giáo tiên khởi, nhưng trái lại cha thấy họ tới làm cho các bộ tộc man rợ này vui hẳn lên. Họ đã hạ các vũ khí của đám dân này xuống, khiến cho chúng mất hết vẻ man rợ và tiếp nhận những người của chúng ta với những dấu thân thiện, lễ phép. Ngạc nhiên quá, cha mới tự nhủ: “Nào chúng ta xem chuyện sẽ kết thúc như thế nào!” Cha thấy các nhà truyền giáo của chúng ta tiến vào giữa đám dân man rợ, dạy dỗ chúng và chúng vui lòng lắng nghe họ. Họ dạy dỗ và chúng chú ý học hỏi. Họ khích lệ chúng và chúng tiếp nhận và đem ra thực hành các lời khuyên nhủ của họ.
Cha tiếp tục quan sát: Các nhà truyền giáo đọc kinh Mân Côi và các người mạn rợ đáp lại bằng lời kinh của họ. Sau này một khoảng cách thời gian ngắn, Các Salêdiêng còn đi sống ở giữa đám dân này, và chúng bao bọc lấy họ. Các nhà truyền giáo quì gối xuống, các người man rợ cũng qùi gối xuống sau khi đã hạ các khí giới. Và này đây một người Salêdiêng cất cao giọng: Hãy ca ngợi Đức Mẹ Maira, hỡi các tiếng nói của các tín hữu. Đám đông đều đồng thanh tiếp tục bài ca này cách thật mạnh mẽ đến nỗi cha khiếp sợ và thức giấc.
Giấc mơ này tác động mạnh mẽ trong đời Don Bosco. Chính ngài quả quyết: “Sau giấc mơ này, cha cảm thấy phát sinh trong lòng cha một niềm ước ao xưa là làm việc trong cánh đồng tông đồ truyền giáo”.
Don Bosco bắt đầu nghĩ đến các xứ truyền giáo khi ngài còn là một học sinh trẻ tại Chieri. Cha Lemoyne kể rằng: “Khi ấy, tại Piemonte, công cuộc Truyền giáo đã mang lấy một tầm mức khổng lồ. Những sách vở miêu tả những sự khó nhọc và những cuộc tử đạo của các nhà truyền giáo đã được hăm hở đọc. Và Gioan Bosco cảm thấy một ước muốn hăng nồng hiến mình cho các xứ truyền giáo xa lạ”.
Công đồng Vaticano I (1869-1870) đã đóng góp một cách nghiêm chỉnh cho việc phát triển các xứ truyền giáo. Lợi dụng các chuyến hành trình tới Nước Ý (nơi hàng giáo sĩ rất đông đảo so với các hàng giáo sĩ tại các xứ xở truyền giáo của mình), các Đức Giám Mục của hai Châu Mỹ và châu Á đã tìm cách ghi danh những linh mục và những sơ muốn gia nhập các lãnh địa của các ngài.
Nhiều đơn cầu xin các hội viên cũng đã được gửi đến Valdocco. Đức Cha Barbero xin Don Bosco gửi các sơ tới Hydebad, tại Ấn độ. Đức cha Alemanày, giám mục San Francisco tại California, cũng xin ngài mở tại đó một trường dạy nghề. Don Bosco trả lời bằng các quà dâng, nhưng chưa nghĩ “cách cụ thể” đến các xứ truyền giáo.
Một năm sau đó , Don Bosco một giấc mơ về “cánh đồng bằng với những con người có những bộ mặt hung dữ” vừa kể ở trên, và Don Bosco cảm thấy “ước ao xưa” lại nổi dậy. Kể từ lúc đó, ngài đi tìm miền truyền giáo mà Chúa Quan Phòng ủy thác cho các người Salêdiêng đấy, là nơi nào. Những đơn yêu cầu thiết lập công cuộc bên kia biển tiếp tục được gửi đến và ngài xem xét chúng với một sự chú tâm khác hẳn trước.
Đi tìm một chi tiết: Hai con sông và một vùng sa mạc
Don Bosco kể lại rằng: “Những người da đen trong giấc mơ, trước đó tôi đã tin rằng đó là những người Phi châu và Êthiopi. Nhưng sau khi đã hỏi những người biết đến vùng này, và đã đọc những sách địa dư, tôi bỏ ra một bên những vùng này. Thế rồi tôi dừng lại ở Hong Kong, một hòn đảo của Trung Hoa. Tôi còn tìm hiểu về Nước Úc. Từ Đức Cha Quinn, tôi nhận được những lời cắt nghĩa về tình trạng của các dân bản địa này, nhưng các miêu tả của ngài không tương ứng với điều tôi đã thấy. Thế rồi tôi hướng trí tôi tới miền Mangalore và Malabar.
Cuối cùng vào năm 1874, vị lãnh sự Achentina tại Savone, Gazolo, nói một tiếng về các người Salêdiêng cho Đức Tổng Giám Mục của Buenos-Aires. Ngài nói lên ý nguyện của ngài là các người Salêdiêng sẽ đến Achentina. Khi ấy tôi đi tìm các sách địa lý về vùng nam Mỹ Châu và tôi đọc chăm chú. Điều đáng kinh ngạc là theo như các sách và các bức tem thư minh họa về vùng này, tôi nhận ra thật sự các người man rợ này ở ngay trong vùng đất Nam Achentina”.
Có một chi tiết mà Don Bosco cứ mãi tìm cho được trong các bản đồ để khám phá ra “nơi được chỉ định bởi Thiên Chúa”. Don Amadei, một trong các hạnh sử gia chăm chú nhất về Don Bosco gợi lại rằng: “Trong lãnh vực tông đồ của giấc mơ, ngài đã ghi nhận hai con sông ở cửa một sa mạc rất rộng, mà ngài không thể tìm ra được trên các tấm bản đồ mà ngài đã xem rất kỹ. Đó chính là con sông Rio Colorado và con sông Rio Negro tại Pantagonia; ngài chỉ biết được về điều này trong dịp ngài nói chuyện lần đầu tiên với vị sĩ quan chỉ huy Gazzolo, lãnh sự viên của Achentina tại vùng Savone. Tôi (Don Amadei) nhớ lại chính mình đã thấy một trong những tấm bản đồ cũ mà Don Bosco đã nghiên cứu trong đó ta đọc thấy ở dưới Nam Mỹ có những tiếng: “Vùng đất Pantagonia, nơi các dân ở đó là những người khổng lồ” (M.B. Cuốn 10, tr. 1273).
Suy nghĩ về những biến cố này, Piero Stella bình luận: “Rõ ràng là ý hướng của Don Bosco là tìm kiếm một con đường cho việc bành trướng công cuộc của ngài ở ngoài đất Âu châu. Ngài đã nghĩ đến và mơ tới những nơi truyền giáo theo nghĩa sát từ ngữ nhất, in partibus infidelium (trong những vùng đất của những người chưa có đức tin), và theo nghĩa mơ hồ nhất của thời đại đó: tức là nơi những dân tộc hung dữ và man rợ… Tại Achentina, có các người man rợ: còn tốt hơn nữa: là có những người man rợ ở trong đầu óc ngài. “Những người man rợ” là tiếng ma thuật gợi nên mối quan tâm thích thú và sự tò mò hơn cả… Có cả một bầu khí của huyền thoại bao bọc lấy những dân man rợ của vùng Pantagonia này, được miêu tả như những người khổng lồ bởi những tay thám hiểm xa xưa nhất, và cũng được trình bày lại ngay vào thế kỷ XIX, theo như trí tưởng tượng của những người diễn tả về họa hình các sách du hành, như là những người khổng lồ mà những người Châu Âu, với những cái mũ ba múi của họ, chỉ đứng cao tới thắt lưng của những người dân bản địa vừa mới sinh ra đấy. Họ là những người man rợ mà vào năm 1864 còn được miêu tả trong Từ điển Những Sự Hiểu Biết ích lợi, xuất bản tại Torino, với “những vai rộng, đầu to tướng, tóc đen và kết bện lại, ít râu, dung mạo lạnh lùng và thân mình cao hai mét. Họ là những người có lẽ là cao lớn nhất trên trái đất”. Sự hung dữ của họ là hình ảnh của vùng lãnh thổ chưa được khai hóa, không có cây cối, không có người ở, tại đó gió mạnh tàn phá, và cũng tại đó họ cưỡi những con ngựa chạy ngang dọc cực nhanh, mang những vũ khí như dây rợ, trái ném, và giáo mà họ sử dụng rất khéo léo”.
Một thư luân lưu để tìm những người tình nguyện
Một lời xin cụ thể đến từ Đức Tổng Giám mục Buenos Aires vào cuối năm 1874. Don Bosco nói: “Những lá thư này cha đã đọc ở Công Nghị của Tu Hội vào buổi chiều 22-12”.
Đức Tổng Giám mục đề nghị hai nơi: Một là đảm nhiệm tại Buos Aires một giáo xứ có các di dân Ý cư ngụ, được dâng kính cho Mẹ Từ ái; hai là điều hành tại San Nicolas một trường trung học các trẻ nam mới hoàn thành cách đây ít lâu. San Nicolas là một trung tâm rất quan trọng của Tổng Giáo phận Buenos Aires.
Don Bosco trả lời bằng tiếng Áchentino bằng việc trình bày ba điểm về chương trình của ngài:
– Ngài sẽ sai một vài linh mục sang Buenos Aires để xây dựng tại đó một điểm xuất phát cho Các Salêdiêng vào Mỹ Châu. Họ sẽ chăm sóc “cách riêng cho giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi, cho việc dạy giáo lý, cho các trường học, việc rao giảng, các Nguyện xá Chúa Nhật;
– Thời gian thứ hai, Các Salêdiêng cũng sẽ đảm nhận công cuộc giáo xứ San Nicolas;
– Từ hai địa bàn đầu tiên này, Các Salêdiêng sẽ có thể “được mời tới những chỗ khác”.
Trong điểm thứ ba, Don Bosco bao hàm hay dưới một hình thức nào đó dấu ẩn cái dự tính của ngài là “dấn thân càng sớm càng tốt vào với những sắc dân man rợ”.
Bằng cách này ngài đã xác định bằng các hạn từ cụ thể và thực hiện một phương pháp riêng để Tin Mừng hóa trong địa hạt truyền giáo. Các tu sĩ của Don Bosco không dấn thân ngay lập tức vào môi trường của các bộ lạc xa xăm, nhưng họ sẽ tạo nên những nền tảng tại những vùng đất an ổn trước đã, khi làm việc cho những di dân Ý rất đông đảo tại Achentina và thật sự họ đang thiếu thốn sự trợ giúp tôn giáo và luân lý. Từ các địa bàn đó, họ sẽ ra đi để đảm nhận những thí nghiệm tông đồ khác “ở tuyến đầu”.
Don Ceria kể rằng: “Khi ấy vị thánh đã không lộ ra bất cứ một điều gì cả trong nhà, và ngài chuẩn bị một màn kịch đáng ngạc nhiên nhất. Buổi chiều 29-1, nhằm vào lễ thánh Phanxicô Salê, ngài cho tập họp các học sinh tập nghề, các học sinh văn hóa, cùng các hội viên tại phòng hội nơi các bạn học, tại đó đã được dựng lên một sân khấu. Don Bosco bước lên đó cùng với ông lãnh sự Achentina trong bộ đồng phục rất đẹp của ông, cùng với các thành viên của Thưởng Công Nghị và các giám đốc Salêdiêng”.
Với một cộng đồng hết sức chăm chú, Don Bosco công bố là với sự chấp thuận của Đức Thánh Cha, các người Salêdiêng đầu tiên sẽ sớm lên đường tới các nơi truyền giáo vùng Nam Mỹ. Những lời của ngài không khơi lên một nỗi sợ hãi vì những mối hiểm nguy sẽ gặp phải tại đó, hay vì hành động này quả có quá táo bạo chăng, nhưng một sự hồ hởi không thể tả được giữa các bạn trẻ cũng như các người Salêdiêng.
“Một nắm men mới đã bắt đầu rắc lên giữa đám học trò và các Salêdiêng. Các ơn gọi tới chức linh mục đang nhân rộng và các đơn xin gia nhập Tu Hội tăng lên cách thấy được. Nhiệt tình truyền giáo tỏa rộng khắp thế giới”. Cha Eugenia Ceria đã viết những lời trên trong Lịch sử biên niên của Tu Hội đã bình luận như sau: “Nếu chúng ta nhận định về ấn tượng đã có được, thì phải báo cáo lại rằng vào thời kỳ đó khi Tu Hội còn có vẻ một gia đình kết chặt lại quanh thủ lãnh của mình. Sự bùng phát được thình lình ban cho trí tưởng tượng trong ngày hôm đó bỗng khiến cho nó vượt ra khỏi những chân trời có giới hạn để rồi nó lập tức làm cho lớn rộng lên cái ý tưởng tốt đẹp mà người ta đã có về Don Bosco và về công cuộc của ngài. Một lịch sử thứ hai đã bắt đầu cách thực sự cho Nguyện xá và Tu Hội Salêdiêng”.
Ngày 5 tháng Hai, Don Bosco loan báo cuộc xuất phát truyền giáo thứ nhất cho tất cả các Salêdiêng cư trú tại Valdocco. Lá thư luân lưu của ngài kêu gọi những người tình nguyện làm đơn xin truyền giáo. Ngày xuất phát truyền giáo được ấn định trên nguyên tắc vào tháng Mười.
Sự hồ hởi gia tăng khắp nơi, hầu như tất cả mọi người đều xung phong đi truyền giáo. Những tiếng như “một lịch sử mới đã bắt đầu” hình như không phải là quá đáng.
Người dẫn đầu đoàn truyền giáo là đứa trẻ có hai người Da đỏ khổng lồ đu lên
Chính Don Bosco đứng ra tổ chức mười một cuộc xuất phát truyền giáo trong suốt dòng cuộc sống ngài; nhưng không có cuộc xuất phát truyền giáo nào vượt qua được lòng nhiệt thành và cơn sốt bỏng của cuộc xuất phát truyền giáo thứ nhất.
Nó đã được chuẩn bị cho tới tận chi tiết nhỏ nhặt. Để cho các con của ngài được tiếp nhận như là “những người bạn giữa đám bạn hữu”, Don Bosco đã liên lạc với các nhân vật tại Bueos Aires. Để cho họ có được tất cả những gì cần thiết, ngài đã quay về với các cộng tác viên và chính ngài cũng phải ngạc nhiên về sự quảng đại của họ.
Các nhà truyền giáo lên đường sẽ phải diễn tả cái tốt đẹp nhất của Tu Hội non trẻ và nhỏ bé. Trong số những người đã đáp lại lời kêu gọi của ngài (một đám rất đông đảo), Don Bosco chọn ra sáu linh mục và bốn sư huynh. Có một số người đã kết thúc tồi tệ: Don Bosco không phải lúc nào cũng xét đúng người đúng chỗ, cũng chẳng phải lúc nào ngài cũng nắm bắt được ánh sáng soi sáng từ Trời cao.
Gioan Cagliero sẽ là thủ lãnh của cuộc xuất phát truyền giáo này. Đó là đứa trẻ mà Don Bosco đã thấy hai người da đỏ không lồ có nước da mầu đồng đu lên. Với cái tuổi 37, Don Cagliero là một linh mục cường tráng, vui vẻ, thông minh và có một hoạt động sôi nổi. Cha chuẩn bị mình để trở nên con người của hoàn cảnh mới tại Nam Mỹ. Khó có thể tượng ra cảnh Nguyện xá không có Cagliero: cha có văn bằng thần học, giáo sư của các thầy tư giáo trẻ, một bậc thầy khôn bì, và một nhà soạn nhạc. Cha chịu trách nhiệm về các hoạt động khá tế nhị, dẫn dắt đời thiêng liêng cho nhiều Tu Hội trong thành phố. Sự ra đi truyền giáo của cha sẽ tạo nên một sự vắng mặt rất nặng nề.
Don Bosco đã ghi danh cha vào nhóm xuất phát truyền giáo qua một phương cách kỳ lạ. Don Ceria kể lại rằng:
“Sau khi giữ thái độ tư lự và im lặng, một ngày kia Don Bosco nói với Cagliero đang đứng bên cha:
– Cha muốn sai một trong những linh mục ở với cha lâu nhất để cùng đồng hành với các người đi truyền giáo tại Mỹ Châu: người ấy sẽ ở lại với họ trong vòng ba tháng, cho tới khi họ đã ở lại đó một cách tốt đẹp. Bỏ mặc họ ngay lập tức không có một sự nâng đỡ nào, hay một người cố vấn nào có được sự tín cẩn của họ, đối với cha xem ra là một điều khá đau lòng”.
Cagliero trả lời:
– Nếu Don Bosco không tìm ra được một người nào khác và muốn chọn con vào nhiệm vụ đó, con sẵn sàng.
– Tốt lắm! – Don Bosco kết luận.
Nhiều tháng trời qua đi mà không thấy Don Bosco có lúc nào khơi lại chuyện này trong khi nói chuyện. Nhưng khi ngày xuất hành đến gần, thì thình lình một hôm Don Bosco nói với ngài một cách đột ngột:
– Về vấn đề lên đường đi Mỹ Châu, con có luôn luôn ở trong cùng một tâm tưởng không? Hay là con chỉ nói thế để diễu cợt thôi?
– Cha biết rõ con không bao giờ diễu cợt với Don Bosco cả.
– Tốt, vậy trong trường hợp này, con hãy chuẩn bị, thời gian đã đến rồi.
Don Cagliero chạy đi để bắt đầu việc chuẩn bị. Trong vài ngày, bằng cách làm việc cật lực để sắp đặt đâu vào đó.
Và cứ như vậy, với sự đơn sơ quen thuộc và dễ chịu, vị truyền giáo thứ nhất và cũng là nhà truyền giáo vĩ đại nhất Salêdiêng bắt đầu sứ mệnh của mình. Nhưng ba năm nhằm chuẩn bị cho nhà tân truyền giáo làm quen với môi trường mới, đã được kéo dài thành 30 năm đối với Don Cagliero.
Một linh mục khác có giá trị xuất phát đi truyền giáo là Don Fagnano, có tâm hồn của một nhà tiên phong, là cựu chiến binh của tướng Garibaldi. Bốn linh mục còn lại là những vị Cassinis, Tomatis, Bacácino và Allavena. Bốn sư huynh trong phái đoàn này là Scavini; thầy dạy nghề mộc, Gioia đầu bếp và thầy dạy đóng giày, Molinari thầy dạy âm nhạc, và Belmonte quản lý.
Hai mươi lời kỷ niệm viết bằng bút chì
Mùa hè được dành cho những người lên đường để học tiếng Tây ban nha.
Sang tháng Mười, Don Cagliero dẫn họ tới Roma để lãnh nhận phép lành của Đức Thánh Cha. Đức Piô IX vừa vào phòng đã nói: “Ồ Cha già mất rồi. Đâu là các nhà truyền giáo trẻ của cha? Vậy ra các con là các con của Don Bosco và các con đi rao giảng Tin Mừng cho Achentina. Các con sẽ có một khung cảnh rộng rãi tại đó để làm việc thiện. Các con hãy nêu gương nhân đức ở giữa các dân tộc này. Cha mong ước là các con sẽ trở thành đông đảo hơn bởi vì công việc thì bất tận và mùa gặt thì dồi dào giữa các bộ lạc man rợ đó”.
Rồi họ trở lại Torino. Eugenia Ceria kể lại rằng: “Một cuộc xuất phát truyền giáo ở cuối Châu Mỹ vào năm 1875 có một cái gì đó anh hùng lắm trước con mắt của những người sống trong góc nhỏ mất hút của thành phố Torino gọi là Valdocco. Người ta nhìn các người lên đường như những nhà quán quân quảng đại đã tung mình cách kiên quyết vào cuộc gặp gỡ với mầu nhiệm. Trong khi xem thấy họ đi lại trong bộ áo kỳ lạ, ai cũng muốn tìm gặp họ để trao đổi với họ vài điều”.
Ngày 11-11-1875, tại đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ, Don Bosco nói lời chào biệt cùng họ. Và lúc 16 giờ, nhà thờ đầy ắp người. Vào cuối kinh chiều, Don Bosco lên tòa giảng và vạch ra cho các người lên đường một chương trình cho hoạt động của họ. Trước hết họ sẽ chăm sóc cho các di dân Ý tại Achentina:
“Cha căn dặn các con cách mạnh mẽ đặc biệt về hoàn cảnh đau thương của nhiều gia đình Ý. Các con sẽ gặp rất đông các trẻ em và cả các người lớn sống trong sự ngu dốt đáng buồn không biết đọc, biết viết và bất cứ nguyên tắc tôn giáo nào. Các con hãy đi tìm kiếm các anh chị em của chúng con mà sự nghèo khổ và bất hạnh đã dẫn họ tới vùng đất xa lạ này…”.
Tiếp đến họ sẽ bắt đầu truyền giáo tại Pantagonia:
“Chúng ta bắt đầu một công cuộc lớn, không phải vì chúng ta tin mình hoán cải cả thế giới trong vòng vài ngày, không. Nhưng ai sẽ biết được cuộc xuất phát truyền giáo này sẽ ra sao và xem xem từ một cây nhỏ bé, nó sẽ trở thành một cây lớn thế nào? Ai biết được rằng nó sẽ giống như cây hạt cải hay hạt kê, nhưng sẽ mọc lên và sản sinh thiện ích to lớn?”.
Cuối cùng, với tình huynh đệ, Don Bosco ôm hôn các người lên đường. Mối cảm xúc thật lớn khi các người đi truyền giáo đi dọc theo nhà thờ, bước qua các lớp học sinh và bạn hữu. Tất cả muốn bao bọc lấy họ. Don Bosco là người cuối cùng bước tới cửa cuối nhà thờ. Quang cảnh thật là vĩ đại: Sân nhà thờ chứa đầy dân chúng; những hàng dài các xe cộ chờ đợi các nhà truyền giáo, ánh sáng đèn lồng soi sáng vào ban đêm. Don Lemoyne ở bên Don Bosco, nói với ngài:
“Don Bosco ơi, đây là khúc khởi đầu của câu Inde exibit gloria mea (“Từ đây sẽ tỏa ra vinh quang của Mẹ”; xem Chương 38).
– Đúng đấy, Don Bosco trả lời với sự xúc động sâu xa.
Đây là thời điểm mà người ta có thể đánh mất đi ý thức về thực tại.
Nhưng Don Bosco đứng chắc đôi chân trên mặt đất. Vài tháng trước đó ngài đã tuyên bố: “Nguyện Xá Valdocco của chúng ta là gì so với thế giới? Một hạt nguyên tử. Nhưng tuy nhiên chúng ta có biết bao việc phải làm khởi sự từ góc xa xôi này, này đây chúng ta nghĩ đến việc sai những người tại nơi đây hay nơi kia. Ôi, Chúa tốt lành biết bao!”.
Mỗi người lên đường đều nhận được một tờ giấy với “20 lời ghi niệm đặc biệt” do chính Don Bosco viết. Ngài đã biên ra những lời này trên một cuốn sổ tay nhỏ của ngài trong một cuộc hành trình trong toa xe lửa, rồi ngài đã cho các người đi truyền giáo chép ra nhiều bản. Đó là những điều cốt yếu nói lên ý niệm của ngài về việc truyền giáo Salêdiêng. Chúng ta chỉ nêu ra ở đây năm điều có ý nghĩa nhất:
- Hãy tìm kiếm các linh hồn, chúng không phải tiền bạc, hay những vinh dự hay các phẩm trật.
- Hãy chăm sóc những người ốm đau một cách đặc biệt.
- Hãy làm cho thế giới thấy chúng ta là những người nghèo trong áo mặc, ăn uống, nhà cửa, và các con sẽ nên giàu có trước mặt Thiên Chúa và trở thành những người làm chủ trái tim con người.
- Giữa các con, hãy yêu thương nhau, khuyên bảo nhau, sửa lỗi cho nhau, đừng có ghen tỵ, giận hờn; trái lại, chớ gì cái tốt của một người là cái tốt của tất cả mọi người; những nỗi đau khổ của một người phải được coi là những nỗi đau khổ của tất cả mọi người, và mỗi người đều nỗ lực để chữa chúng cho lành hay ít nhất là làm thuyên giảm chúng.
- Trong những lao nhọc và thử thách, chúng ta đừng quên rằng chúng ta có một phần thưởng lớn trên trời. Amen.
Cùng ngày 11 tháng 11 đó Don Bosco đồng hành cùng các nhà truyền giáo tới Genova nơi họ xuống tàu hơi nước Savoia của Pháp vào ngày 14. Một nhân chứng nhớ lại rằng Don Bosco mặt đỏ rực do nỗ lực ngài cố kiềm hãm sự cảm động của mình.
Tương lai hiện lên ở đằng chân trời chẳng có chút gì là sự nghỉ ngơi, nhưng Don Cagliero mang theo mình một tờ giấy nhỏ trên đó Don Bosco đã viết cho ngài là: “Các con hãy làm điều các con có thể; Thiên Chúa sẽ làm cái mà chúng ta không thể làm được. Các con hãy tín nhiệm vào Chúa Giêsu Thánh Thể và vào Mẹ Maria Phù hộ và các con sẽ thấy phép lạ sẽ ra sao”.
Chương 46
Họ tới Buenos Aires ngày 14-12-1875 và thấy mình ở giữa các bạn hữu. Cùng với Đức Tổng Giám mục của thành phố và các linh mục, còn có 200 di dân Ý hô vang lên lời chào đón của mình. Thậm chí họ còn tìm ra được một nhóm các cựu học sinh của Nguyện Xá Valdocco.
Nhưng họ còn kinh ngạc “trước cảnh tượng của số dân chúng tính tình tốt lành và có truyền thống tốt đẹp, rất kính trọng các linh mục, quảng đại với nhau, nhưng hoàn toàn không biết gì về đạo và không được sự giúp đỡ nào về tôn giáo cả. Dựa trên những lá thư đầu tiên họ gửi về, thì hầu như 30,000 dân Ý tại Buenos Aires, và hầu như 300,000 di dân Ý trong đất nước Áchentina, do thiếu các linh mục đồng hương, nên hầu như bị bỏ mặc cho bản thân họ. Don Cagliero và các anh em hội viên Salêdiêng cảm thấy mình như là nước mưa bị hút hết bởi mảnh đất khô hạn” (Cha Pietro Stella).
Sau vài ngày, Các Salêdiêng chia ra thành hai nhóm, như đã được quyết định tại Torino: Don Cagliero với hai hội viên cư trú tại nhà thờ dâng kính Đức Mẹ đầy lòng thương xót, để điều hành một giáo xứ có di dân Ý sống; còn Don Fagnano hướng dẫn 6 hội viên Salêdiêng khác đến San Nicolas, để sinh động một trường trung học trẻ nam.
Tại Buenos Aires, cái thật thích hợp với hoàn cảnh theo ý Chúa Quan Phòng là hoạt động Nguyện xá ngày lễ, được mở ra ngay lập tức. Trong thành phố lớn này thiếu hoàn toàn việc phục vụ cho các trẻ em. “Don Cagliero và các cộng tác viên của ngài đều há hốc miệng ra ngạc nhiên khi tìm thấy mình bị bao quanh bởi đám trẻ. Đa số chúng là trẻ Ý. Khi được mời làm dấu Thánh Giá, chúng nhìn họ ngạc nhiên, vì không hiểu họ muốn nói gì. Khi hỏi chúng để biết xem chúng có đi lễ Chúa Nhật chăng, chúng trả lời là chúng không nhớ bởi vì chúng không biết khi nào là ngày Chúa Nhật và khi nào không phải là ngày Chúa Nhật” (P. Stella).
Khắp nơi đều thiếu các trường học và trong khoảng vài tuần Don Cagliero bị tấn công bởi các lời yêu cầu, không chỉ ở Áchentina, mà còn ở nước Uraguay bên cạnh. Đức Khâm sứ Montevideo trong khi khích lệ gửi tới các Salêdiêng, đều đã nêu lên những con số đau đớn: Trong toàn thể đất nước Uraguay, lớn bằng một nửa Nước Ý, không có cả tiểu chủng viện lẫn đại chủng viện, và chỉ có duy nhất một trường học Công giáo.
Còn những người man rợ thì sao?
Việc nghĩ đến những người man rợ đã từng là động cơ giúp rất nhiều người trong số họ quyết định vượt Đại dương, thì lúc ấy hãy còn tạm gạt sang bên cạnh.
Don Cagliero hiện chú tâm đến ba công cuộc mà ngài thấy là cần thiết phải mở ngay lập tức. Trước hết là một trường dạy nghề, “một xưởng huấn luyện các ngành nghề đáp ứng cho các nhu cầu hiện tại, sẽ là một biến cố phải được ghi lại trong lịch sử của quốc gia, khiến cho công chúng ai ai cũng phải kinh ngạc, và mang đến ích lợi thật to lớn” (thư cho Don Bosco ngày 5-2-1876). Rồi một Trường Trung Học tại Montevideo: một trường trung học Kitô giáo đầu tiên tại thủ đô Uraguay. Và sau cùng là một công cuộc cho các trẻ nam tại một khu nghèo nhất của Buenos Aires: “La Boca”, nơi di dân Ý sống, và bị cai quản bởi các người tam điểm.
Không ai dám đi qua phố xá tại nơi đó. Don Cagliero lập tức tới đó, qui tụ một nhóm trẻ trong khi phân phát cho chúng các ảnh Đức Mẹ, và đã thành công nói chuyện với một vài gia đình. Đức Tổng Giám mục hay tin đó, đã nói với cha:
– Anh em đã mắc một sai lầm to lớn. Tôi đã chưa bao giờ dám đến đó và tôi cũng đã không cho phép các linh mục của tôi đến đó. Ai đến đó tất sẽ gặp những nguy hiểm lớn.
– Nhưng tuy vậy con thật sự đang tính lại đó.
Quả vậy, hai hay ba ngày sau, cha Cagliero đã quay trở lại đó. Các trẻ chạy lại với cha và nói bằng tiếng vùng Genova: “Ông linh mục cho ảnh đã đến!” Thế là chúng tái lập lại những cảnh xưa kia ở vùng ngoại ô Torino: “Cha sẽ cho ảnh cho những người tốt nhất… Vậy ai là người xấu nhất nào…Các con có biết làm dấu thánh giá chăng? Và có biết đọc Kinh Kính Mừng Maria chăng?!…”.
Những người đàn ông, đàn bà đi ra đứng ở ngưỡng cửa nhà để xem vị linh mục dám ở lại giữa những đứa trẻ phá phách này và còn hứa dành cho chúng một khu đất với các trò chơi, các bài hát, âm nhạc và niềm vui nữa. Tuy nhiên tại Valdocco, người ta vẫn cứ hỏi đến các tin tức về đám dân man rợ. Eugenio Ceria viết: “Pantagonia đã là một tiếng làm bừng dậy trí tưởng tượng của các bạn trẻ. Biết bao nhiêu em mơ về các cuộc mạo hiểm giữa những người Da Đỏ đang đi khắp các vùng đất mênh mông không người ở này”. Don Bosco phải nuôi những trí tưởng tượng của giới trẻ và không để mất đi nhiệt tình này.
Các nhà truyền giáo gửi qua những lá thư gửi về các tin tức mà họ lượm lặt đây đó. Lúc đầu còn chưa được chính xác lắm, nhưng dần dần với thời gian các tin tức trở thành chính xác hơn. Sau đây là một lá thư viết ngày 10-3-1876:
“Những điều kiện sống vật chất và tinh thần của các người Da đỏ, tức là các bộ lạc Pampas và Patagon lấp đầy tâm hồn chúng con bằng nỗi cay đắng. Các thủ lãnh các bộ lạc này chiến đấu chống lại chính phủ. Họ phàn nàn về những sự sỉ nhục và những phiền toái. Họ tránh né các đơn vị đồn trú để rồi giữ chân các đơn vị đó lại, rồi đi lại khắp các vùng quê, đánh cắp, rồi trang bị mình với những khẩu xúng carabin hiệu Remington, bắt tù cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, ngựa và cừu. Về phía các binh lính của chính phủ thì thực hiện một cuộc chiến sinh tử với họ đến độ tinh thần họ thay vì bình thản, lại càng ngày càng căng thẳng lên quá mức, và nổi máu trả thù. Điều này có thể đã khác đi nếu thay vì các binh lính, chúng ta có các thầy dòng Capuxin hay các nhà truyền giáo khác: Họ sẽ cứu được biết bao các linh hồn và sự thịnh vượng, an sinh xã hội được thiết lập nơi các người man rợ này. Trong hoàn cảnh chiến tranh và căng thẳng hiện tại của những người Da đỏ chống lại chính phủ, những nhà truyền giáo chỉ có thể làm được rất ít điều hoặc không thể làm được gì cả…”
Don Bosco từ Torino am hiểu rõ tình hình: Thành phố Buenos Aires đầy các di dân, nhắc nhở cho ngài cảnh thành phố Torino với các bạn trẻ đến đó từ các vùng thung lũng cao, khi ngài còn là một linh mục trẻ.
Ngài chuẩn bị một cuộc xuất phát truyền giáo thứ hai. Ngày 7-11-1876, ngài gửi tới Mỹ Châu 23 Salêdiêng để cho tại đó Don Cagliero có thể thiết lập các công cuộc xem ra là khẩn trương nhất. Trong số các nhà truyền giáo này có Don Brodato và Don Luigi Lasagna (“Cậu bé có tóc hung hung”) là những người tạo nên một lực đẩy rất quan trọng cho công cuộc Salêdiêng. Đây là một cố gắng làm đổ máu Tu Hội Salêdiêng còn non trẻ và mỏng manh. Ngài viết cho Don Cagliero: “Cuộc xuất phát truyền giáo này làm cho chúng ta nền nhà lún sâu vào nước tới tận cổ, nhưng Thiên Chúa giúp đỡ và chúng ta sẽ thoát mình được ra khỏi đó”.
Tuy nhiên, Don Bosco không muốn người ta từ bỏ quá vội kế hoạch lúc khởi đầu: đó là việc Tin Mừng hóa các người Da đỏ.
Ngài đề nghị một kế hoạch mà từ xa xem ra hoạt động tốt: đó là mở các trường trung học trong các tỉnh gần với các lãnh thổ của người Da đỏ, tiếp nhận các con cái của dân man rợ này và qua chúng tiếp cận được với những người lớn, “trong khi nỗ lực vun trồng ơn gọi mà tình cờ có thể xuất hiện ở nơi những học trò của mình. Bằng cách này ta hy vọng chuẩn bị được các nhà truyền giáo cho các vùng Pampas và Patagoni. Những người man rợ sẽ trở thành các nhà rao giảng Tin Mừng cho chính các người man rợ khác”.
Nhưng kế hoạch này tại chính địa bàn của nó không thể thực thi được. Don Costamagna, Don Fagnano, Don Lasagna thực hiện các cuộc xâm nhập truyền giáo vào giữa các bộ lạc mất hút trong đồng quê mênh mông, rất xa khỏi các thành phố trung tâm của quốc gia, nhưng họ không bao giờ gặp được khuôn mặt nào của người man rợ cả. “Các thành phố gần với lãnh thổ của dân Da đỏ” không hiện hữu. Để tới được với những vùng đất dân Da đỏ, thì phải cùng đi với các nhà mạo hiểm và các con buôn du hành xuống phía nam thành từng đoàn lữ hành, hoặc đi bằng tàu buồm, trong khi trải qua hằng ngàn Kilô mét. Tới đó có dân Da đỏ qui tụ lại, nhưng chỉ là ít căn nhà lều mà sau này sẽ trở thành các thành phố của tương lai.
Sáng tháng 11-1877, Don Bosco sai tới Achentina một đoàn truyền giáo thứ ba gồm 18 người. Người ta đã gọi là đây là “một đạo binh Thánh giá gồm các trẻ con”, bởi vì có trong đó cả các thầy tư giáo trẻ. Nhưng các kết quả sẽ chứng mình rằng Don Bosco có lý.
Cùng với Các Salêdiêng nam, lần đầu tiên cũng có cả các Con Đức Mẹ Phù Hộ, các sơ Salêdiêng) mà Mẹ Mazzarello đã theo họ tới tận tàu biển. Sau nhóm nhỏ các Con Đức Mẹ này, hằng ngàn những người nữ truyền giáo khác cũng sẽ vượt đại dương.
Đức Tổng Giám mục Buenos Aires hiểu được rằng Don Bosco đã làm cho Giáo phận của ngài những điều “vượt hết mọi giới hạn có thể”. Ngài muốn chứng tỏ lòng biết ơn của mình. Để đi vào quan điểm của chính Don Bosco, ngài sai vị Tổng đại diện của ngài, Đức Cha Espinosa, và hai Salêdiêng lên đường đi tới tận Pantagonia, vùng đất của dân Da đỏ. Bằng cách này Don Bosco rốt cuộc có thể tiếp nhận được “những tin tức hằng mong mỏi về các người man rợ”.
Vùng đồng bằng phía Tây và phía Nam Buenos Aires được chia thành Humid Pampa với nền nhiệt cao và Dry Pampa có khí hậu khô hạn hơn. Humid Pampa chiếm phần lớn diện tích của Buenos Aires, tỉnh Córdoba, phần lớn tỉnh Santa Fe và tỉnh La Pampa. Phần phía Tây của tỉnh La Pampa và tỉnh San Luis nằm trong vùng Dry Pampa. Đất đai ở đây thiếu nước cho trồng trọt, chủ yếu được sử dụng để chăn thả gia súc.
Nằm trong các tỉnh Neuquén, Río Negro, Chubut và Santa Cruz. Phần lớn vùng này có khí hậu bán hoang mạc phía Bắc đới lạnh và hoang mạc phía Nam nhưng thực vật phát triển ở vùng rìa phía Tây và được tô điểm bởi rất nhiều hồ. Tierra del Fuego có khí hậu mát mẻ và ẩm ướt, được điều hòa bởi sự tác động của biển.
Ngày 7-3-1878, trên bờ sông Paranà, Don Coatamagna, Don Rabagliresti và vị tổng đại diện lên một chuyến tàu chạy hơi nước để đi về phía Nam. Họ cập bến Bahia Blanca, cách thủ đô 1000 km đường biển, về hướng Nam. Từ đấy, họ tiếp tục đi thêm 250km trên con sông Rio Negro, “theo một cách thức nào đó” để đến Pantagonia.
Nhưng nỗ lực này không những thất bại, mà còn có nguy cơ rơi vào thảm họa. Một trận bão nổi dậy. Gió từ khu Pampa lay động và quật ngã mọi sự trong ba ngày hai đêm. Con tàu chạy bằng hơi nước sau cùng bị hư hại và buộc phải quay trở lại bến cảng Buenos Aires.
Lá thư miêu tả cảnh tượng bão tố này của Don Costamagna đã có một sự thành công không tưởng tượng được giữa giới trẻ của Valdocco và các độc giả của Tập san Salêdiêng.
“Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi!”
Cuộc xuất phát truyền giáo thứ hai tới vùng đất các người Da đỏ bắt đầu vào 16-4-1879. Julio Roca, Đại tướng và Bộ trưởng chiến tranh hành quân về miền Nam với 8000 quân. Đó là một cuộc hành quân càn quét chống lại các bộ lạc dân bản địa vẫn tiếp tục gây nên những vụ giết người và những cuộc đánh du kích.
Trong các cuộc hành quân trước đây không ít người da đỏ đã bị giết, những người khác thì được dẫn về Buenos Aires và được phân tán đi các gia đình để làm nô lệ. Trong các bộ lạc còn sống sót thì có cả một niềm căm phẫn sâu xa đối với những người da trắng. Người ta có thể dễ dàng ước đoán rằng họ thà làm cho mình bị tiêu diệt hết còn hơn là đầu hàng. Cũng dễ tiên liệu rằng các binh lính dễ dàng để cho mình tham gia vào các cuộc tàn sát thông thường như thế.
Do vậy vị bộ trưởng chiến tranh muốn thử sử dụng đến “các phương tiện luân lý”. Ông đã xin với Đức Tổng Giám mục các vị linh mục hoạt động trong chiến dịch mới này như là những vị tuyên úy quân đội, và đồng thời như là các nhà truyền giáo giữa các bộ lạc người da đỏ. Đức Tổng Giám mục đã mời vị tổng đại diện của ngài cùng các Salêdiêng là cha Costqmagna và cha Otta.
Chuyện này không làm vui lòng cha Costamagna mấy, như lời cha Bodrato viết cho Don Bosco vào thời gian đó. “Ngài sợ rằng người linh mục dây mình vào giữa đám binh lính tất làm cho dân chúng quay gót khỏi Tin Mừng. Dù sao đi nữa, thì hơn bao giờ hết cần phải cầu nguyện cho họ”.
Cuộc hành quân đi qua các thành phố Buenos Aires, Azul, Cahúe, Choele –Choel, Pantagònes bao gồm 1300km đi ngựa, hay đi trong các xe ngựa nghiêng ngả trên đường đá sỏi khởi hành theo hướng cực Tây. Đây là cuộc “hành trình truyền giáo” đầu tiên của các Salêdiêng được Don Costamagna kể lại qua các thư từ gửi cho Don Bosco trong suốt chặng đường. Chúng được đọc với một cảm xúc lớn tại Valdocco, và được công bố trong tờ Tập San Salêdiêng và những tờ báo Công giáo, khơi dậy một niềm phấn khởi vô bờ.
Sau đây là một số đoạn:
“Với ông Bộ trưởng chiến tranh và nhiều binh lính, chúng tôi đã lên đường đi Azul, là xứ sở ở tận cùng nước Áchentina. Sau khu vực đó là sa mạc to lớn của vùng Pampa.
Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi! Đức Tổng Giám mục đã chấp nhận như thế và chúng tôi phải cúi đầu. Một con ngựa được trao cho chúng tôi và một chiếc xe ngựa dành cho tất cả chúng tôi: Chúng tôi đã chất lên đó bàn thờ, đàn Hácmonium, và những chiếc va-li của chúng tôi.
Ngày đầu tiên chúng tôi thỉnh thoảng còn thấy những chiếc lều hay những mái nhà làm bằng da súc vật. Đó là nơi ở của những người da đỏ Pampas, những người coi như đã hoàn toàn khai hóa rồi. Nước da họ mầu đen rất xậm, mặt họ thườn thượt. Khi chúng tôi đi ngang qua họ, chúng tôi chào họ bằng đôi lời trong ngôn ngữ của họ và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về phía sa mạc…
Cahúe là một đồn nằm ở giữa sa mạc, trên đường ranh giới giữa Áchentina và các bộ lạc những người da đỏ. Đồn này gồm một pháo đài bằng đất, khoảng 40 căn nhà và các túp lều làm bằng da thú vật gọi là các “toldos” của hai bộ lạc dân da đỏ có tên là “những người Eripaylá và những người Manuel Grande. Tôi đã mượn một con ngựa và đã đến gặp gỡ các bộ lạc này.
Trong khi tôi lại gần các chiếc lều, tôi cảm thấy trái tim đập thình thình: Tôi phải làm sao đây?… Chính người con trai của tộc trưởng bộ lạc Eripaylà đến gặp tôi; may quá, anh ta nói tiếng Tây Ban Nha. Anh ta tiếp đón tôi cách thân tình, dẫn tôi tới cha của anh ta và đứng ra làm thông ngôn. Tộc trưởng tiếp đón tôi với tấm lòng ưu ái và nói với tôi rằng ông ao ước tất cả mọi người trong bộ tộc được dạy dỗ trong đạo Công giáo và tiếp nhận phép rửa tội. Khi ấy tôi được thoải mái tập họp các đứa trẻ trai lại và tôi bắt đầu dạy giáo lý. Với một chút khó khăn tôi dạy cho chúng học làm dấu Thánh Giá…
Tại miền Carhúe, chúng tôi đã rửa tội cho 50 đứa con trai da đỏ và cho 20 con cái của các người Kitô hữu và nếu Thiên Chúa muốn, chúng tôi đã có thể ở đó ít là một tháng! Nhưng ông Bộ trưởng chiến tranh khẩn cầu chúng tôi đi theo ông ta. Chúng tôi chẳng đã phải lên đường với một ước vọng nồng nhiệt sớm được trở lại nơi đây bao có thể…
Chúng tôi đi con đường sa mạc, không những cùng đồng hành với quân đội mà còn với những thành viên của các bộ tộc da đỏ mà theo lệnh của ông bộ trưởng họ buộc phải đem các túp lều da của họ tới vùng Choele-Choel, để tạo nên một đám dân chúng mới trên những vùng lãnh thổ mới. Cuộc di dân luôn luôn là sự di chuyển từ sa mạc này đến sa mạc khác trong suốt một tháng…
Ngày 11 tháng 5, sau khi đã đi qua các ngọn đồi và các thung lũng, ao hồ và thác nước, sau cùng chúng tôi đã tới con sống Rio Clorado, một con sông gần bằng con sông Pô ở Torino. Trên bờ con sông này chúng tôi cử hành thánh lễ.
Tôi xin và được phép đồng hành với đoàn quân tiên phong dẫn đường cho đoàn xe ngựa, và đã tới con sông Rio Negro trước tiên. Tôi chạy ngựa tiến lên phía trước trong ba ngày giữa những bụi gai, và làm mọi điều có thể, cho dù là rất khó, để cho quần áo tôi khỏi trở thành rách bươm. Sáng ngày 24 tháng 5, thức dậy từ hừng đông, sau khi đã phủi đám sương trắng toát trên chiếc giường của tôi (tôi phải gọi nó là như thế), tôi sưởi ấm tôi bên ngọn lửa tốt lành và tôi lên đường bằng ngựa khi nhảy và chạy nước đại cho tới vùng Choele – Choel. Vào lúc 16g34, khi mặt trời bắt đầu biến mất sau dẫy núi Cordilliera, tôi bước chân vào đất bên bờ sông Rio Nigro, tức là bên ven Pantagonia, bởi vì con sông này phân chia nó ra khỏi vùng pampa. Từ đáy lòng mình, tôi xướng lên bài thánh thi tạ ơn đối với Đức Mẹ Maria Phù Hộ, trong ngày lễ này của Mẹ…”
“Ngày hôm sau, tôi vội vã đi kiếm tìm ở Choele-choel những tù nhân chiến tranh da đỏ để dạy giáo lý cho họ. Tôi nhận thấy cảnh khốn khổ của họ thật tang thương. Có những người một nửa người trần trụi; họ không có lều trại, mà phải ngủ ngoài trời, không nơi náu ẩn. Đích thị họ là những con người nghèo! Trong khi thấy tôi đến, họ bao vây lấy tôi, cả đàn ông và đàn bà, trẻ trai và trẻ gái…”
Các nhà truyền giáo tới vùng Pantagònes, một khu dân cư chừng 4000 người dân sống trên vùng Rio Negro và từ đó chúng tôi trở lại Buenos Aires vào cuối tháng Bẩy.
Nhưng chiến dịch quân sự trên vùng Rio Negro còn tiếp tục trong hai năm, cho tới tháng Tư 1881. Bị bỏ mặc cho nỗi sợ hãi và thất vọng, các người da đỏ băng qua dẫy núi Cordiliera trốn qua nước Chile và định cư tại đó. Tộc trưởng Manuel Namuncurá can đảm kiêu hãnh, với một đơn vị những người chiến binh da đỏ ít ỏi, trốn vào dẫy núi Cordiliera và ẩn náu ở vùng thung lũng cao.
Kể từ giờ phút đó các người da đỏ ngưng là một đội quân, Những nhóm nhỏ tập họp lại mà còn sống sót, bị dồn đến cảnh sống sợ sệt và nghèo khổ, trong những năm kế tiếp đã trở thành đối tượng của một cuộc săn lùng âm thầm và không thương hại, để bắt họ đem về làm những kẻ nô lệ cho các nông trại hoặc đơn giản là thủ tiêu họ.
Ngày 5-8-1879, Đức Tổng Giám mục Buenos Aires trao phó vùng truyền giáo Pantagònes cho Don Bosco. Don Bosco trao trách nhiệm cho Don Costamagna thương lượng nghiêm chỉnh với Đức Tổng Giám mục về “việc mở một nhà chính cho các sơ và anh em Salêdiêng. Còn tôi (Don Bosco) thì sẽ lo liệu các nhân sự và đồng thời các phương tiện vật chất”.
Trong lá thư chúc năm mới cho các cộng tác viên viết ngày 1-1-1880, ngài loan báo bước khởi đầu của vùng truyền giáo Pantagonès. “Tôi đã tiếp nhận vùng đó, với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và vào lòng bác ái của các cộng tác viên”.
Ở vùng hạ lưu con sông Rio Negro, ở hai bên bờ sông, có hai khu tập trung dân lớn là Pantagonès và Viedma. Ngày 15-12-1879 hai nhóm các Salêdiêng lên đường tới Buenos Aires. Các điểm truyền giáo Pantagonès và Viedma đã được trao phó cho họ. Don Fagnano, cha xứ của vùng Pantagones, với hai linh mục, hai sư huynh và bốn sơ, sẽ phải chăm sóc cho các khu kiều dân và các bộ tộc sống ở giữa hai con sông Rio Negro và Rio Colorado: một vùng lãnh thổ được gọi là “La Pampa” rộng như Bắc Ý trải dài từ Piemonte tới Venezia. Don Milanesio, cha xứ của vùng Viedma, phải chăm lo cho tất cả dân chúng tại phía nam sông Rio Negro, trong vùng gọi là Pantagonia: một vùng lãnh thổ lớn như “vùng bán đảo Ý từ sông Pô cho tới Calabria, nằm ở giữa Nước Ý với đảo Cicilires”.
Don Fagnano thực hiện chiến thật “lo sao cho thật nhiều người đến với nhà của chúng ta”. Trong khoảng 10 tháng, ngài đã xây dựng hai trường học cho trẻ nam và trẻ nữ. Khóa học sinh đầu tiên là 88 em, trong số đó có cả các em da đỏ.
Don Milanesio thì theo chiến thuật hoàn toàn khác, là “đi tìm dân chúng tại chính nơi họ sống”. Ngài lên ngựa và đi tìm những người dân da đỏ. Trong một thời gian ngắn, ngài đã học ngôn ngữ của họ, đi tới được và trở thành bạn của nhiều bộ lạc, cứu các nhóm và các gia đình bị cô lập bởi sự đàn áp của các người da trắng. Với bộ râu phất phơ trước gió, ngài đã trở thành hình mẫu cho các nhà truyền giáo tiên phong. Các người da đỏ biểu lộ lòng tín nhiệm và kính trọng ngài. Họ thậm chí kêu đến tên ngài dưới một hình thức ma thuật để bảo vệ họ khi những người da trắng tự nhận mình, là “những người văn minh” xử tệ với họ.
Các chiến thuật của cả hai nhà truyền giáo vĩ đại này bổ sung cho nhau một cách hoàn hảo. Viedma và Patagonès trở thành những địa bàn có những trường tiểu học và trung học có ảnh hưởng, tại đó một thế hệ công dân mới được chuẩn bị: vừa lương thiện, Kitô hữu, tôn trọng các người da đỏ. Chúng trở thành các điểm chiến lược tại đó các nhà truyền giáo du hành trong khi men theo các dòng sông, tiến về phía các thung lũng, đồi núi, để đi thăm các lều trại của dân da đỏ và các công xưởng của những người da trắng.
Manuel Namuncura, vị tộc trưởng cuối cùng của tộc Araucan, khi ông quyết định thương lượng cuộc đầu hàng với chính phủ, đã chọn cha Melanesio như là người trung gian. Dưới sự che chở của ngài, vị tộc trưởng hạ vũ khí tại đồn Roca vào ngày 15-5-1883. Bù lại, ông ta đã nhận được chức tước, quân phục và sự đối xử đích danh của một đại tá trong quân đội.
“Cha đã thấy tận trong bụng của các núi non”
Cũng trong năm 1883, ở khoảng cách hằng ngàn cây số, Don Bosco lại thấy trong một giấc mơ mới miền Nam Mỹ và các nhà truyền giáo của ngài.
“… Cha đã nhìn qua cửa xổ một toa xe lửa và thấy lướt qua mặt cha các cảnh trí khác nhau và đáng ngạc nhiên. Rừng, núi, đồng bằng, sông rất dài và mênh mông. Chúng tôi đã đi hằng ngàn cây số qua bờ một khu rừng nguyên sinh chưa từng có ai thám hiểm…
Cha đã thấy tự trong bụng của núi non và trong chốn thâm sâu của các đồng bằng. Cha đã thấy trải ra trước mắt cha nhưng sự phong phú không thể so sánh được của các quốc gia này mà một ngày kia người ta sẽ khám phá ra. Cha thấy rất nhiều mỏ kim loại quí, những vựa than đá vô tận, những mỏ dầu khổng lồ mà người ta chưa tìm thấy được ở những nơi khác…
Con tàu hỏa tiếp tục cuộc hành trình của nó xuyên qua vùng Pampa và Pantagonia. Chúng tôi tới eo biển Magellan (chót điểm của Nam Mỹ)
Cuộc du hành của Magellan Quanh Thế Giới 1519-1521
Chúng tôi đi sâu xuống lòng đất. Chúng tôi có trước mắt Puntas Arenas[13]. Đất của nhiều dặm đầy những tầng ngầm than, gỗ, xà, ván, các thứ kim loại, có thứ ở thể thô, có thứ đã được tinh luyện. Bạn của cha chỉ cho cha thấy tất cả các thứ đó và nói: “Cái mà ngay hôm nay còn nằm trong kế hoạch, thì tương lai sẽ được thực hiện”.
Cha kết luận: “Tôi đã thấy quá đủ rồi. xin anh hãy dẫn tôi đi tới các Salêdiêng của tôi tại Pantagonia”.
Chúng tôi trở lại nhà ga và chúng tôi lại tiếp tục lên xe lửa, sau khi đã trải qua một cuộc hành trình rất dài, đầu máy xe lửa dừng lại ở một thị trấn quan trọng. Cha xuống xe lửa và liền gặp được các người Salêdiêng…
Cha đến giữa họ. Họ đông lắm. Nhưng cha không biết họ và trong số họ không có một ai là những cựu học sinh của cha. Tất cả nhìn cha kinh ngạc như thể cha là một người không quen biết. Cha nói với họ:
– Các con không biết cha ư? Các con không biết Don Bosco à?
– Ôi, Don Bosco chúng con biết tiếng tăm cha, nhưng chúng con chỉ trông thấy cha trong các bức hình thôi. Còn gặp gỡ Don Bosco dĩ nhiên là không.
– Còn Don Fagnano, Don Costamagno, Don Lasagna, Don Milanesio thì đang ở đâu?
– Chúng con không biết các ngài. Có những người đã gặp các vị ấy xưa kia, đó là các Salêdiêng đến từ Âu Châu. Nhưng bây giờ, những người ấy đã chết từ lâu rồi.
Với câu trả lời như vậy, cha lấy làm ngạc nhiên: “Nhưng đây là mơ hay là thực tại?”.
Chúng tôi lại lên xe lửa, còi xe lửa rít lên và lên đường đi về phía Bắc… Trong nhiều giờ kéo dài, chúng tôi tiến đến phía các bờ của những con sông rất dài. Khi thì nó đi bên trái, khi thì nó đi bên phải. Trên những bờ sông đó xuất hiện rất nhiều bộ lạc man rợ. Và người bạn của cha nhắc lại: “Đây là mùa gặt của những người Salêdiêng! Đây là mùa gặt của những người Salêdiêng!”.
Trong giấc mơ dài và kích thích trí tưởng tượng này, vị hướng dẫn huyền bí của Don Bosco tiên báo cho ngài thời gian cần thiết để “cứu chuộc” hoàn toàn những dân tộc man rợ này của miền Nam Mỹ:
– Điều này sẽ hoàn thành trước khi kết thúc thế hệ thứ hai. Mỗi một thế hệ là 60 năm.
Và ngài cũng đề ra phương pháp qua đó các nhà truyền giáo sẽ đạt được kết quả:
– Với mồ hôi và máu.
Giấc mơ cuối cùng của Don Bosco
Trong đêm 9 đến 10 tháng 4-1886, Don Bosco mơ thêm giấc mơ truyền giáo cuối cùng. Ngài kể lại với một giọng vỡ tiếng do mệt nhọc và xúc động cho Don Rua và thư ký của ngài là cha Viglietti. Đây là một thị kiến vĩ đại và thanh thản về tương lai.
Từ các việc ghi nốt do các thính giả, chúng ta nêu lên những đoạn được coi là cốt yếu:
“… Từ đỉnh cao, Don Bosco nhìn thật xa, tận chân trời. Ngài trông thấy một số rất đông đảo các thanh thiếu niên đang chạy xung quanh ngài, đồng hành với ngài trong khi họ lên tiếng:
– Chúng con đã đợi cha, chúng con đã chờ đợi cha nhiều lắm: nhưng bây giờ cha ở đây rồi, và cha không chạy thoát khỏi chúng con được nữa!
Một Nữ chăn chiên dẫn dắt một nhóm bất tận đàn chiên nói với ngài”:
– Hãy nhìn kỹ nè! Hãy nhìn kỹ, tất cả các con! Các con thấy gì chăng?
– Chúng con thấy những đồi núi, rồi biển; rồi lại núi và biển.
– Một đứa trẻ nói: “Con đọc thấy: Valparaiso”. Đứa khác nói: “Con đọc thấy Santiago”.
– Vậy – người nữ chăn chiên tiếp tục nói – hãy đi khỏi địa điểm này và con sẽ thấy những điều mà Các Salêdiêng phải làm trong tương lai! Con hãy vạch một đường thẳng rồi nhìn đi.
Những bạn trẻ nhấp nháy con mắt, rồi đồng loạt thốt lên:
– Chúng con đọc thấy “Bắc Kinh”.
– Bây giờ con hãy kéo một đường thẳng từ điểm này sang điểm kia, từ Bắc Kinh tới Santiago[14], hãy phác họa ra một trung tâm ở giữa Phi Châu và con sẽ có một ý tưởng chính xác về tất cả những gì người Salêdiêng phải làm.
– Nhưng làm sao có thể thực hiện được tất cả các chuyện này? – Don Bosco thốt lên – Các khoảng cách thật rất dài, các miền lại khó khăn và các người Salêdiêng thì không mấy đông đảo.
– Con đừng lo. Các con của con sẽ hoàn thành được mà; và rồi còn các con của các con của con… Con hãy vạch ra một đường từ thành phố Santiago cho tới trung tâm của Phi Châu. Con thấy gì?
– Mười trung tâm ga xe lửa.
– Đúng thế, các trung tâm này mà con thấy sẽ là những trung tâm dạy học và huấn luyện nhà tập. Thế con còn thấy thiếu gì chăng?
– Mười trung tâm.
– Phải, những trung tâm mà con thấy đó chính là các trung tâm học vụ và các tập viện sẽ cung cấp vô số các nhà truyền giáo để đáp ứng các nhu cầu của các miền nay. Và bây giờ con hãy quay sang phía khác. Tại đó con thấy mười trung tâm nằm ở giữa Phi Châu và Bắc Kinh. Và những trung tâm này cũng cung cấp các nhà truyền giáo cho tất cả các miền này. Tại đó có cả Hong Kong và Calcutta, rồi Madagascer. Những trung tâm đó và nhiều trung tâm khác nữa sẽ có những nhà cửa, các trung tâm học vụ và các nhà tập”.
Khi Don Bosco kết thúc cuộc đời dương thế của ngài, thì đã có 150 Salêdiêng và 50 Con Đức Mẹ Phù Hộ làm việc tại Mỹ Latinh. Họ thiết lập vững chắc trong năm quốc gia: Áchentina, Uraguay, Bresil, Chile, Equador. Trong vòng 13 năm, cả một công việc lớn lao như vậy đã được thực hiện.
Chương 47
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC GASTALDI
Năm 1882, khi nói chuyện với kinh sỹ Coloniatti, Don Bosco thưa về Đức Tổng Giám Mục Torino là Lorenzo Gastaldi rằng:
– Kể từ nay chỉ còn thiếu một việc duy nhất là ngài thọc một con dao vào trong tim tôi mà thôi.
Một lời khẳng định vô cùng nghiêm trọng, có khả năng đóng băng lại việc “phong Chân Phước” cho bất cứ người nào dám tuyên bố như vậy. Tuy nhiên các chuyên gia của Tòa Thánh, sau khi đã dùng kính hiển vi mà tra cứu trong một thời gian lâu dài, đã tuyên bố rằng các nhân đức của Don Bosco thật là anh hùng: Tất cả các nhân đức, kể cả đức kiên nhẫn. Trong những lời này, họ đã không tìm thấy một hành vi giận dữ hay mất kiên nhẫn. Đó chỉ là tiếng thốt lên rất nhân loại của một linh mục khốn khổ đã đi tới chỗ giới hạn cuối cùng (nhưng chưa ra ngoài các giới hạn) của sự chịu đựng.
Trong chương này, chúng ta kể lại các biến cố được xét “như là gai góc” trong quá khứ và vì lý do đó, đã được giữ trong yên lặng hay để lướt qua bởi các người viết về sử hạnh Don Bosco.
Ngày nay chúng ta tin rằng các Kitô hữu đã trưởng thành, đã lớn lên rồi. Chúng ta tin rằng đấy không phải là nguyên nhân tạo nên một gương mù, mà đúng hơn rất có tính cách xây dựng để biết được rằng những “con người vĩ đại của Thiên Chúa” cũng có thể lầm lẫn. Và làm sao nhân danh Thiên Chúa, họ không những có thể chịu đau đớn mà còn làm cho những người khác phải đau đớn. Bởi vì trên mặt trái đất này, chúng ta chỉ là những con người khốn khổ, dù chúng ta có mặc lên một sắc phục nào đi nữa, hay có mang lon cấp bậc nào đi nữa trên vai áo của chúng ta.
Sự lạnh nhạt của Đức Cha Ricácardi
Don Bosco trong những năm ngài đã thực hiện được những công việc rực rỡ, để phải chịu đựng một cuộc đụng độ lâu dài, nhục nhã, đau đớn với Đức Tổng Giám Mục của mình, giống như phải mang một mão gai.
Đức Cha Fransoni chết trong cảnh lưu đày tại Lyon năm 1862. Ngài đã phong chức linh mục cho Don Bosco; ngài đã thấy công cuộc của Don Bosco sinh ra và lớn lên; ngài đã nâng đỡ nó, và tặng cho Nguyện xá tên gọi là “giáo xứ của các trẻ em không có giáo xứ”.
Vì những bất đồng chính trị, Torino mãi cho tới năm 1867 mới lại có thể có được tổng Giám mục: là Đức Tổng Ricácardi, thuộc dòng tộc bá tước Nero. Đức tổng mới hơn Don Bosco 7 tuổi, và cả hai vị là bạn tốt. Ngài nhận việc bổ nhiệm làm tổng Giám mục Torino đang khi là Giám mục Savone. Don Bosco tới thăm ngài và quàng tay quanh cổ ngài để ôm hôn. Ngài đã nói là ngài đã biết rõ khả năng đã được công nhận của Don Bosco để làm việc cho giới trẻ và những thiện ích Don Bosco đã làm cho các linh mục của ngài tại tiểu chủng viện Mirabello. Ngài tới Torino với một chương trình rõ nét: trao phó cho Don Bosco việc tái sinh các tiểu chủng viện Giaveno và Bra và việc tái tổ chức lại tiểu chủng viện Chieri.
Tuy nhiên có một cái gì đổ vỡ ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai vị. Don Bosco loan báo cho ngài hay ngài đã lập một Tu Hội kể từ năm 1859 và Tòa Thánh đã ban cho mình sự chấp thuận ban đầu với “Sắc lệnh ngợi khen” vào năm 1864. Đức Tổng Ricácardi như từ mây rớt xuống. Ngài nói với một chút bực bội:
– Tôi cứ nghĩ rằng Tu Hội của cha thuộc quyền giáo phận và do sự kiện này, nó thuộc về tôi. Tôi đã nghĩ rằng công việc của cha hoàn toàn được hiến dâng cho giáo phận của tôi…
Sự ngạc nhiên và cay đắng của Đức Cha Ricácardi thật dễ hiểu: trong thời điểm thoát ra được khỏi biết bao nhiêu các kẻ thù, thì tất nhiên người ta phải tập trung các lực lượng của giáo phận lại, tạo nên sự thống nhất và siết chặt lại các hàng ngũ xung quanh Đức Tổng Giám mục của mình, thì tiếc thay khi đó Don Bosco lại lẩn trốn. Don Bosco đang khao khát một sứ mệnh rộng lớn hơn và giờ đây lại đang nhìn về hướng Hội Thánh hơn là về hướng giáo phận Torino.
Sự lạnh nhạt của đức Tổng giám mục Ricácardi đối với Don Bosco và công cuộc của cha ngày càng lớn lên trong suốt ba năm sau.
Khi đại Chủng viện của tổng giáo phận bị đóng cửa, nhiều thầy tư giáo đã tới nương mình tại Valdocco, một số khác thì tới viện Cottolengo. Điều này đã lôi cuốn rất nhiều thiện cảm tới với Don Bosco, khiến cho Nguyện xá trở thành như thành lũy của Chúa quan phòng, một nơi ẩn cư cho các hy vọng của giới tư giáo trẻ trung của giáo phận Torino.
Còn giờ đây, hoàn cảnh đã thay đổi khác đi. Ngày 11.9.1867, Đức Tổng Giám mục viết cho Don Bosco:
“Về những gì liên quan tới các thầy tư giáo của giáo phận, tôi không cho phép họ học hành cũng như dạy học hay hộ trực các nhà ngủ và các lớp học nữa. Tôi làm điều này để cổ võ các thầy tư giáo chăm lo việc học hành của họ. Tôi quyết định là sẽ chỉ trao ban các chức thánh cho những người ở chủng viện mà thôi”.
Đối với Don Bosco, những thời gian ảm đạm đã bắt đầu: nhiều chủng sinh không còn có ý hướng ở lại luôn mãi với Don Bosco, họ từ giã Nguyện xá và chuyển sang chủng viện giáo phận. Những ai đã gắn kết mình với Don Bosco bởi các lời khấn, thì dễ hiểu là họ xin cho biết họ bao giờ mới có thể làm linh mục.
Don Bosco đến nói chuyện với Đức Tổng Giám Mục Ricardi và lên tiếng sốt bỏng rằng:
– Theo lệnh của Đức cha, thì các linh mục trẻ phải đến ở trong trung tâm giáo phận, và các chủng sinh thì phải tới chủng viện. Vậy Don Bosco phải ở lại một mình với các trẻ con sao?
Đức Tổng giám mục vẫn cương quyết giữ lại lập trường của mình. May mắn là sợi dây căng thẳng không kéo dài lâu. Ngày 1-3-1869, một sắc lệnh của Tòa Thánh (do Don Bosco tha thiết khẩn cầu) đã chấp thuận chính thức Tu Hội Salêdiêng. Một sắc lệnh khác cho Don Bosco quyền trao ban “thơ giới thiệu chịu chức linh mục” trong vòng 10 năm cho các thầy tư giáo đã ở tại Nguyện xá kể từ trước năm 14 tuổi. Điều ấy có nghĩa là các bạn trẻ ở Nguyện xá từ tuổi nhỏ có thể được Don Bosco giới thiệu sau này để chịu chức thánh với thư được đảm bảo do chính ngài viết, dù cho người đã không lui tới chủng viện.
Đức Cha Ricácardi qua đời tháng Mười năm 1870.
“Nếu con muốn, thì cha ban điều đó cho con”
Đức thánh cha Piô IX rất quí mến và đánh giá cao Don Bosco và hỏi thăm ngài trong việc lựa chọn đức Tổng Giám Mục mới cho Torino. Don Bosco đề cử Đức cha Lorenzo Gastaldi, Giám mục Sluzzo. Đó là bạn của ngài và Tu Hội của ngài đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ vị Giám mục này. Đức Piô IX biết rõ sự phản ứng nhạy cảm của Đức Gastaldi, nên không đồng ý. Nhưng Don Bosco nhấn mạnh và Đức thánh Cha (theo chứng từ của Don Amadei) chấp nhận lời đề cử với lời lẽ:
– Con muốn điều đó, vậy cha ban cho con. Cha cho con lo liệu việc loan báo cho Đức Cha Gastaldi biết rằng cha trao cho ngài làm Tổng Giám Mục Torino, và trong vòng hai năm, cha sẽ làm cho ngài cái gì đó còn lớn hơn thế nữa. (Đó là một sự gợi ý cách rõ ràng tới việc sẽ tuyển chọn ngài lên chức Hồng Y).
Don Bosco lập tức đánh điện tín cho Đức Cha Gastaldi:
“Thưa ngài, con được vinh dự là người thứ nhất tham dự vào việc ngài sẽ được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Torino”.
Khi Don Bosco vừa từ Roma trở về, Đức Cha Gastaldi vội bay về Torino. “ Vừa gặp cha Lemoyne, ngài ôm hôn cha, rồi cùng cha tới với Don Bosco. Ngài không thể ở im, mà rất là hồi hộp hăm hở. Thế là ngài xuất hiện trước mặt Don Bosco. Vị Giám mục cầm lấy tay Don Bosco, đi theo cha, rồi nói chuyện thân mật rất lâu cùng cha” (M.B., Cuốn X, Tr. 446). Với một bóng dáng của sự thiếu cẩn trọng, khi kết thúc câu chuyện, Don Bosco cho ngài hiểu ra rằng Don Bosco đã góp phần của mình trong việc Đức Thánh Cha tuyển chọn ngài. Don Bosco nói cho ngài hay chính các lời của Đức Thánh Cha: “Bây giờ ngài là Tổng Giám mục, còn trong vòng hai năm nữa sẽ có một cái gì hơn thế nữa”. Đức tổng ngắt lời: “Chúng ta hãy để chuyện đó lại cho Chúa Quan Phòng”. Đó là một hành vi khiêm cung ư? Nhưng cũng có thể nhuốm màu bị tự ái!
Tình bằng hữu của Don Bosco với Gastaldi có thể thực sự nói là gặp một sự thử thách của một trái bom. Mẹ của Đức Giám mục đã làm việc nhiều năm tại nguyện xá, và bà coi Don Bosco như là con của bà (Don Bosco và Đức Cha Gastaldi có cùng một tuổi).
Khi Don Bosco tìm cách để có từ Đức Giám mục một lá thư kêu gọi Roma chấp thuận Tu Hội, Đức Cha Gastaldi đã viết một lá thư tuyệt đẹp như sau:
“Hiện Chúa làm chứng cho rằng Đức Tổng Giám Mục Fransoni trong khi còn sống trong lưu đày tại Lyon, đã quả quyết coi Tu Hội này là một chúc lành đặc biệt của Trời Cao, bởi vì tại đó nhiều người trẻ có thể được chuẩn bị cho chức linh mục tại đó trong khi các chủng viện của giáo phận bị đóng cửa” (11-7-1867).
Mười tháng sau ngài còn viết rằng:
“Thiên Chúa nhân từ thương thi ân dồi dào tại đây các chúc lành của Ngài: một sứ mệnh cách riêng phục vụ cho giới trẻ lộ ra rõ ràng nơi đây… Người ký tên dưới đây đã thấy, như là một phép lạ, trong lòng Tu Hội này một nhà thờ vĩ đại (Đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ), tạo thành một cảnh quan kỳ diệu những ai muốn quan sát thật kỹ, và thánh đường ấy đã tiêu hao đến cả một triệu lires mà các vị linh mục nghèo này, sống thiếu mọi sự, phải nai lưng ra lo tìm kiếm: Đây thật như một công trình chứng tỏ rằng Thiên Chúa chúc phúc cho Tu Hội này”.
Trong cuốn sách Các Kỷ Niệm Lịch Sử, ngài đã viết về khu phố Valdocco: “Lãnh thổ này hiển nhiên đã được Thiên Chúa chúc phúc bởi sự có mặt của những Tu Hội bác ái và đạo đức như Nhà Nhỏ của Chúa Quan Phòng (Cottolengo) và Nguyện Xá Thánh Phanxicô Salê (Don Bosco)”.
Don Bosco luôn luôn ngỏ với ngài như với một người anh em bạn. Ngài gửi cho vị Giám mục họa đồ Đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ để ngài duyệt xét và Don Bosco cũng chấp nhận những thay đổi mà Đức Cha Gastaldi đề nghị.
Ngài là một vị Giám mục vĩ đại
Tại Torino, Đức Tổng Giám Mục Gastaldi là một vị Tổng Giám Mục vĩ đại.
Đức Cha, Đức Giám mục Aoste, đã phác họa chân dung ngài như sau: “Ngài được sinh ra để làm Giám mục. Uy lực trong tư cách ngài, khí lực của các kế hoạch và các quyết định của ngài, mức uyên bác của sự hiểu biết của ngài, lời nói lưu loát của ngài, lòng đạo đức sốt sáng của ngài, sự gắn bó của ngài với giáo thuyết của tòa thánh, tình yêu đam mê của ngài đối với các linh hồn và đối với Hội Thánh, tất cả đã cho ta thấy nơi ngài một vị thủ lãnh của dân chúng”.
Để hoàn tất bức tranh này, còn cần phải thêm vào đó những lời lẽ của Đức Cha Ré, Giám mục Alba, người đã đệ trình dưới hình thức tuyên thệ: “Đức Tổng Giám Mục, với nhiều phẩm chất tốt lành, cũng có một ý tưởng hơi quá đáng về quyền bính của mình và về sự hiểu biết của mình, đàng khác tính cách mau lẹ của ngài khiến ngài lấy những quyết định vội vã mà ngài không thích quay ngược trở lại vì sợ điều đó sẽ làm giảm uy quyền của ngài”.
Thời gian của những niềm lạc quan hỗn độn của “Chế độ Phục hưng” đã trôi qua. Công đồng Vaticano I đã bẻ lái con tàu đi sang “việc tập trung hóa” của Hội Thánh. Mỗi một địa phận phải tự tổ chức mình theo một cách nhất định quanh vị Giám mục của mình là người trực tiếp lệ thuộc vào Đức Thánh Cha.
Đức Tổng Giám mục Gastaldi là một người cải tạo vĩ đại cho Tổng giáo phận Torino. Ngài trả lại sức sống và kỷ luật cho chủng viện. Ngài thâu thập lại trong lòng bàn tay của mình cả các lực lượng Hội Thánh của thành phố. Trong các thư mục vụ, ngài khai mở trí hiểu về các vấn đề cụ thể của Hội Thánh cho các tín hữu và kêu gọi họ hãy vững vàng trong đời sống đức tin của họ hơn. Sau đây là hai ví dụ:
Trích từ thư mục vụ năm 1873: “Trong năm vừa qua, 40 linh mục giáo phận qua đời, và chúng tôi đã phong chức cho 14 vị mới! Anh em nghĩ sao, hỡi các anh em cùng các tín hữu thân ái? Hàng giáo sĩ sẽ còn bao nhiêu kể từ đây cho đến một số năm nữa, nếu anh em không đến trợ giúp chúng tôi và không không cung cấp cho chúng tôi tất cả các phương tiện hầu đem lại cho giáo phận có nửa triệu linh hồn này tất cả những linh mục mà nó cần đến?”.
Trích từ thư mục vụ 1877 về việc giáo dục các trẻ nữ: “Việc giáo dục mà chỉ giới hạn trong việc vun trồng tình cảm tôn giáo cho các thiếu nữ, làm cho các em trở nên dễ thương liên quan tới những chuyện có tính cách tình cảm trong các thực hành đức tin; một thứ giáo dục chỉ bằng lòng với các hình ảnh trình bày Đức Maria được đặt tại các nhà nguyện, với các đèn sáng, và đồ trang trí bàn thờ, các nghi lễ phụng vụ rực rỡ, các tiếng đàn tiếng hát du dương, hương thơm ngào ngạt, các bài giảng làm thức tỉnh các tình cảm của con tim; nhưng lại không đả động gì cả đến hành vi hy sinh, tới sự từ bỏ, sự khiêm nhường, sự tha thứ vì tình yêu Chúa Giêsu, toàn bộ nền giáo dục như thế sẽ không bao giờ có thể tự nhận là Kitô hữu, ngoại trừ theo một nghĩa hết sức bất toàn; nền giáo dục đó sẽ không bao giờ làm cho các thiếu nữ được thực sự trở thành các Kitô hữu của Chúa Kitô.
– Ngài có một lòng sùng kính vững mạnh và kiên trì đối với Đức Mẹ Maria. Vào buổi chiều trước khi ngài chết, ngài đã muốn tới đền thờ Đức Mẹ của lòng thương xót. Ngài nói: “Nào chúng ta hãy đến tìm Mẹ chúng ta, chúng ta hãy đặt mình dưới tà áo Mẹ. Thật là an ủi được sống, được chết dưới tà áo Mẹ”.
Khi tin cái chết của ngài (vào ngày 25-3-1883) tới Vatican, Đức Hồng Y Nina, người bảo trợ chính thức của Tu Hội Salêdiêng, nhuốm một vẻ buồn thảm sâu xa. Sau đó ngài đã đặt bút viết rằng: “Tôi nghĩ các hành vi cuối cùng của hoạt động mục vụ của ngài tác động đến các người Salêdiêng khốn khổ của tôi có thể gây nên sự cản trở cho việc phong thánh cho ngài”. Người ta không nghĩ phong thánh cho một dung mạo nửa vời.
Sai lầm nền tảng của Don Bosco
Như vậy tại sao giữa Don Bosco và Gastaldi lại xẩy ra một cơn bão tố ghê gớm và cay đắng như vậy? Tại sao sức căng thẳng trở nên quá nghiêm trọng, khiến cho Vatican phải mở ra một phiên tòa, và chính Đức Thánh Cha Lêô XIII phải xâm mình vào? Don Bosco đã mắc một sai lầm nền tảng và đã phải trả giá mắc. Trong một lá thư dài gửi cho Đức Tổng Giám Mục từ xứ Borgo San Martino ngày 14-5-1873, Don Bosco đã hết sức năn nỉ để thuyết phục ngài trở lại với tình bạn xưa cùng mình. Nhưng vào cuối lá thư, Don Bosco đã viết những dòng chữ oái ăm này: “Con ước ao rằng Đức Tổng Giám mục nên biết được một số thông tin giữ kín tại tòa nhà chính phủ, đã bị rò rỉ bởi một vài nhân viên chính phủ để rồi lan truyền đi khắp Torino rằng vị kinh sĩ Gastaldi đã được làm Giám mục của Saluzzo cũng là nhờ sự đề xuất của Don Bosco. Và nếu ngài đã trở thành Tổng Giám Mục Torino, thì cũng do đề xuất của Don Bosco”.
Cái sai lầm nền tảng của Don Bosco chính là việc tin rằng những lời lẽ này và thái độ này sẽ gợi lên lòng biết ơn, trong khi thực ra chúng chỉ khơi dậy sự hằn học, bực dọc nơi Đức Tổng Giám mục Gastaldi.
Trong thời điểm lá thư này được viết, những sự can thiệp của Đức Tổng Giám mục đã dạt tới những mức độ rất nặng nề rồi. Giờ đây Don Bosco lại dại dột viết ra những dòng kể trên, thì nỗi tức giận của Đức Tổng Giám mục Gastaldi càng tệ hại biết mấy. Nhắc nhở lại những chuyện trước kia, thì lẽ ra Don Bosco đã phải hiểu ngay từ những ngày đầu tiên khi Đức Tổng Giám mục tới địa phận Torino, Don Bosco cũng đã mắc phải những sai lầm y như vậy, cho dù có tầm cỡ nhỏ bé hơn. Ngay lập tức khi Đức Cha Gastaldi được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám mục Torino, Don Bosco không chỉ cầu xin, mà còn thuyết phục ngài bổ nhiệm kinh sĩ Bertagna làm phó đại diện Giáo phận. Vào lúc Đức Tổng Giám mục vào thành phố, Don Bosco ở bên cạnh ngài; lúc ấy Don Bosco đã đảm bảo là đã nhận được từ giới chính quyền thành phố chống – giáo sĩ một sự đảm bảo cho một cuộc đón tiếp long trọng (một điều đã không xẩy ra). Đối với một người bình thản, thì những cách bày tỏ này nói lên một tình bạn chân thành; nhưng đối với một người tính dễ tự ái quá mức, thì những lời lẽ trên có nghĩa là những cách thức hành động của một người muốn làm “kẻ che chở” (theo chứng từ của Đức Cha Ré).
Vừa khi vào tới nhà thờ chính tòa và ngồi trên tòa dành cho Giám mục, Đức Tổng Giám mục Gastaldi đã mạnh mẽ khẳng định rằng việc tuyển chọn ngài là một cử chỉ bất ngờ của Chúa Quan Phòng, mà ngài không hề coi đó như là một ân huệ do loài người thí ban. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất đã dặt ngài làm đầu của Tổng Giáo Phận. Đức Tổng đã nhắc lại những lời này nhiều lần trong cùng một bài diễn văn và với một sự nhấn mạnh ngoại thường. Đó là dấu hiển nhiên tỏ ra rằng ngài muốn rũ sạch khỏi vai ngài một thứ che chở”. Đó cũng là dấu ngài sẽ không đời nào chấp nhận tiếng đồn theo đó Don Bosco đã kiếm cho được việc bổ nhiệm ngài vào chiếc ghế này, một tin đồn đã lan ra trong khắp thành phố. Kinh sĩ Sorasio có mặt trong bài diễn văn đó, đã thì thầm:
– Không hay cho Don Bosco rồi, không hay cho Don Bosco rồi!” (M.B., Cuốn X, tr. 230).
– Don Adamei đã viết rằng đó là “những ánh chớp đầu tiên” báo hiệu “một cơn bão tố bất ngờ”.
Nhưng lá thư 14-5-1873 đã khai mào toàn bộ cơn bão tố đó. Ngay cả cho một người bạn đi nữa, thì cũng khó mà tiếp nhận một lời tự hào như sau: “Chính tôi đã xin được chiếc huy hiệu Kỵ Sỹ cho bạn”. Đối với một Đức Tổng Giám mục như Gastaldi là “một con người có một ý tưởng quá mức về quyền bính Tổng Giám Mục của mình”, thì những lời trên có khác chi mật đắng.
Ngay cả bốn năm sau đó, khi nói chuyện với nhà thần học Tresso, cựu học sinh được Don Bosco quí mến, người tìm cách đem lại sự hòa bình giữa hai người bạn, Đức Tổng Giám mục cũng đã chua chát nhận định:
– Don Bosco tự hào đã lo cho cha làm Giám mục; Ông ta còn viết cho cha một lá thứ để quở trách tôi về chuyện này; nhưng tôi đã gửi thư ấy đi Roma để cho họ thấy rõ vị thánh nổi tiếng mà họ đặt biết bao tin tưởng đó”.
Các tờ báo chống giáo sĩ đã đánh hơi được khả năng xúi Đức Tổng Giám mục chống lại Don Bosco, và khi có dịp là họ thực hiện ngay. Tờ Fanfulla ngày 16-10-1871 đã viết: “Để bổ nhiệm các Giám mục trong các địa phận của Nước Ý, người ta đã sử dụng tới các đề nghị của Don Bosco của Torino, được gọi cách đặc biệt về Roma”. Tại Milan, một tờ báo gọi Don Bosco là “Đức Thánh Cha bé nhỏ của xứ Piemonte” (và như người ta biết, một Giám mục thì phải lệ thuộc vào Đức Thánh Cha). Tờ Gazzetta của Torino, ngày 8-1-1878 đã viết: “Don Bosco nổi tiếng đã có mặt ở Roma. Ngài được hưởng các cuộc vào Vaticano danh giá, tại đó Đức Thánh Cha nhìn ngài với con mắt thiện cảm. Ngay cả các cửa của chính quyền cũng rộng mở ra cho Don Bosco”. Trong số 6-7 tháng 5 – 1876, tờ Lanterna del Ficácanaso còn viết rằng Đức Tổng Giám mục đã cấm Don Bosco cử hành Thánh lễ bởi vì ngài đã quá gắn bó với Roma, tách mình khỏi quyền bính Giám mục của ngài và đòi hỏi gia sản thừa kế cho các người hấp hối. Rồi tờ báo kết luận: “Chúng ta sẽ xem xem ai quyền thế hơn, phải chăng là Don Bosco hay là Đức Tổng Giám mục Gastaldi”.
Những hàm ý mà báo chỉ kể ra ở trên (và của cả những phương tiện khác mà chúng tôi không thể đan cử các danh tính ra) đã đổ thật nhiều dấm vào các vết thương nhức nhối này.
Cắt nghĩa sự kiện sứt mẻ tình bạn giữa hai người bằng những hạn từ như vậy, xem ra sự bất đồng giữa hai vị có thể bị nhìn một cách thiên vị. Một đàng đóng một vai trò trong chuyện này là sự được yêu mến và khâm phục của Don Bosco và tính nhạy cảm quá mức của Gastaldi, một người không muốn làm một thứ “đại diện” cho Don Bosco” (theo như những lời phát biểu của nhà thần học Belasio trong năm 1876). Nhưng còn một vai trò khác còn quan trọng hơn được thủ diễn bởi các yếu tố khác nhau mà chúng ta sẽ lần mò ra (dù là qua một sự trình bày vắn gọn) khỏi cuộn chỉ đã càng ngày càng rối tung lên trong suốt 13 năm của cuộc chung sống giữa hai nhân vật này.
Quyền lực đúng mức và quyền lực đi quá mức
Đức Tổng Giám mục đã làm những chuyện lớn để tái cơ cấu lại giáo phận. Nhưng cái giá của những sự mất mát những con người mà ngài phải trả để thực hiện những chuyện này là khá cao: kết án các nhân vật trong địa phận, sự cứng ngắc thiếu mềm dẻo, các quyết định thiếu cân nhắc, các thủ tục đáng ghét.
Với năm tháng trôi qua, “cái tính khí quá mạnh” của ngài càng trở nên nghiêm trọng. Kinh sỹ Sorasio, thư ký của Tòa Giám Mục là người vào thời đó phải chấp thuận một số những việc can thiệp nặng nề, đã viết vào năm 1917 cho Đức Hồng Y chủ tịch Thánh Bộ Lễ Nghi rằng: “Thiên Chúa tha thứ cho con. Đây là thời gian của quyền lực và quyền lực toàn năng, nếu không muốn nói nhiều hơn nữa”.
Ngài dễ dàng cấm các linh mục của ngài hành lễ và giải tội (từ thông dụng bên Công giáo là “treo chén”, tức là những hình phạt nghiêm trọng đối với hàng giáo sĩ). Nhiều người đã theo đuổi một vụ kiện tại Roma chống lại ngài. Trong tháng Hai 1878, tại Tòa Thánh, có tới 30 vụ kiện tụng giữa Đức Tổng Giám Mục Gastaldi và các linh mục của địa phận Torino.
Trong những thời gian đầu tiên (khi sợi dây liên hệ còn thả lỏng), Don Bosco đã kêu xin để ủng hộ cho một giáo sĩ cấp cao tại nhà thờ chính tòa, tuy có một chút bướng bỉnh, nhưng rất tốt lành. Đức Tổng Giám Mục đã cấm vị đó cử hành thánh lễ và giải tội, và vị linh mục khốn khổ đó vì xấu hổ phải rời thành phố Torino.
Một trường hợp vang âm khác là trường hợp của nhà thần học Bertagna mà Don Bosco đã gợi ý để được bổ nhiệm làm phó đại diện của giám mục. Khi đó vị này dạy thần học luân lý tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo sĩ kể từ 20 năm qua. Ngài thình lình bị cấm dạy vào tháng Chín 1876. Ngài đã chịu cú đau này trong im lặng và tới ẩn náu tại xứ quê hương ngài là Castelnuovo trong khi Trường Mục Vụ giáo sĩ bị đóng cửa. Do bị nhục nhã, Don Bertagna đã ốm nặng. Sau đó, vào năm 1879, Đức Giám Mục Asti là Đức Cha Saviô, đã gọi ngài về Asti và bổ nhiệm làm Tổng Đại diện. Cha Bertagna xứng đáng được coi là một trong những nhà luân lý có uy tín nhất trong thời đại ngài. Năm 1884, Đức Hồng Y Alimonda (người kế vị Gastaldi) đã phong chức Giám mục Phụ tá của giáo phận Torino và đặt ngài làm Giám đốc chủng viện của Tổng Giáo phận.
Cha Luigi Testa, thuộc Dòng Tên, rất được lắng nghe tại Roma, đã viết khi ấy rằng: “Tôi đã giàn xếp rất nhiều các chuyện bất đồng giữa Đức Tổng Giám Mục Gastaldi và các nhân vật quan trọng… Tại Roma, người ta mệt nhọc và đầy ắp đến cổ các vụ việc của Tổng giáo phận Torino này”.
Tuy nhiên sẽ nông cạn nếu coi Tổng Giám Mục Gastaldi là một hỏa diệm sơn. Do bản chất tự nhiên, ngài khiêm nhường, quảng đại, dễ mến. Như người ta nói: Ngài có một “trái tim vàng”. Nhưng đối với các công việc ngài xử lý, vừa khi ngài cảm thấy mình trong tư cách Tổng Giám Mục, thì xẩy ra ngay điều mà trong lịch sử Hội Thánh (tôi nghĩ mình có thể nói như vậy đã đến với nhiều nhân vật: Ngài liền trở thành quyền uy, bất biến. Những nhân vật này tỏ ra “không thương xót nhân danh Thiên Chúa”. Người ta cảm nghiệm ở nơi họ cái con người đại diện cho Thiên Chúa toàn năng hơn là đại diện của “Con Thiên Chúa – trong vai bác thợ mộc, Đấng đã nên tôi tớ của các tôi tớ, đã rửa chân cho những tôi tớ khác và để cho mình bị đóng đinh vào thập giá”!
Yếu tố thứ nhất: Nguyện Xá của Don Bosco thiếu kỷ luật
Sự cứng rắn của Đức Tổng Giám mục, càng trở nên cứng cỏi hơn vì sợ mình “bị coi là một tạo vật của Don Bosco” trước con mắt các giáo dân của mình, và ngài đã dùng nó đế chống lại Tu Hội trẻ còn trong trứng nước.
Yếu tố thứ nhất ngài tấn công chính là “tính cách thiếu kỷ luật tại Nguyện Xá”. Cha Pietro Stella viết: “Ngài không chịu nổi nhiệt tình giống như sức một núi lửa của Nguyện Xá và của Tu Hội Salêdiêng, là cái được làm chủ bởi nắm tay của Don Bosco, nhưng nó có thể hiện ra đối với những người bên ngoài như là một đống ồn ào và hỗn độn chứa đựng các sức lực không ăn khớp với nhau, khiến cho trong tương lai rất gần sẽ phải đòi hỏi đến các biện pháp can thiệp đau đớn của quyền bính hợp pháp”.
Cả những người khác tại Torino cũng có ấn tượng tiêu cực về bầu khí của sự thân tình thánh thiện mà sự vui tươi của Don Bosco tạo nên. Đức cha Gaetano, đặc trách về các chuyện của Tòa Thánh tại chính phủ Torino, trong một bài tường trình dài đã viết: “Tôi có một ấn tượng đau đớn khi thấy vào các giờ chơi các thầy giáo sĩ trộn lẫn với đám trẻ đang theo học các nghề may, mộc, đóng giầy,v.v…, họ chạy nhẩy, vui chơi, với rất ít sự trang nghiêm giáo sĩ. Don Bosco tốt lành thì bằng lòng là các thầy tư giáo của mình cầm lòng cầm trí tại nhà thờ là đủ, còn ít quan tâm đến gieo sâu vào trong lòng họ những tình cảm của sự nghiêm trang của bậc sống của mình mà họ muốn ôm ấp”. Theo Đức Cha Tortone, thì Don Bosco lẽ ra phải dạy các thầy tư giáo của mình “giữ một khoảng cách” khỏi các trẻ học may hay đóng giày. Cái đó thực là rất xa với cảm nhận của Don Bosco.
Một lý do khác của sự căng thẳng
Với “cái tính cách vô kỷ luật” này, thì xem ra Đức Tổng Giám Mục Gastaldi đã nghĩ đến đích thân sửa chữa lại. Và chúng tôi xin đan cử ra đây hai giai thoại khá huyền bí mà chúng ta khó có thể cắt nghĩa thấu suốt được, nhưng có lẽ nó nói lên lý do khác của “mối quan hệ rất căng” giữa đôi bên.
Vừa mới nhận chức Tổng Giám Mục Torino, thì Don Bosco ốm nặng tại Varazze (như chúng ta đã kể). Đức Tổng Giám Mục Gastaldi hỏi thăm tin tức, và khi ngài nghiệm ra bệnh tình Don Bosco nghiêm trọng, ngài liền hỏi cha Cagliero:
– Vậy anh em có vững chắc và quyết tâm trong ơn gọi của anh em không?
– Thưa Đức Cha chúng con hiện có hơn 150 hội viên.
– Vậy nếu người cha Don Bosco của anh em qua đời thì sao?
– Chúng con sẽ tìm một người “Bác” tiếp nối chỗ của cha.
– Tốt lắm, tốt lắm! Nhưng chúng ta hy vọng là Chúa gìn giữ ngài.
Cha Amadei bình luận rằng: Đối với cha Cagliero, thì hình như nếu Don Bosco có chết đi, thì các Salêdiêng sẽ chạy tới ngài để xin ngài điều hành”. Đó cũng là ý tưởng của Đức Ông Marengo, người mà Don Cagliero kể lại cuộc gặp gỡ trên, và ngài có bình luận rằng: “May là cha đã không nói gì thêm. Một đề nghị thêm sẽ rất tai hại cho Tu Hội”.
Khi Don Bosco lành bệnh trở lại Torino từ Varazze, Đức Tổng Giám Mục tới chào ngài. Kinh sỹ Anfossi có mặt tại Valdocco, kể lại rằng trong khi các trẻ con tìm cách nói lên một lời chào đón để chúc mừng Đức Tổng Giám Mục đến, “thì tôi thấy Đức Tổng Giám Mục xuống cầu thang với những bước đi vội vã mà Don Bosco không theo kịp. Ngài không quan tâm đến những tiếng chúc mừng của đám trẻ. Tôi mới nói với Don Bosco: “Buổi lễ kết thúc không tốt rồi. Liệu có điều gì chăng?” Don Bosco trả lời: “Cha còn muốn gì thêm nữa! Đức Tổng Giám Mục muốn đứng đầu Tu Hội và chuyện này không thể được; người ta sẽ không bao giờ thấy chuyện này xẩy ra…:” (M. B. Cuốn X, tr. 311). Cụ thể Đức Tổng Giám Mục Gastaldi muốn đề nghị gì? Chắc là ngài muốn Don Bosco có quay trở lại phía sau để biến các Salêdiêng thành một Tu Hội thuộc giáo phận? Rất có thể sự thể là như thế. Thật mạo hiểm biết mấy khi nghĩ rằng Đức Tổng Giám Mục suy nghĩ đến chuyện ngài trở thành thủ lãnh thực thụ của Tu Hội Salêdiêng? Năm 1874, ngài sẽ viết cho Đức Hồng Y Bizzari như sau: “Don Bosco là một thiên tài đặc biệt để giáo dục của học sinh, nhưng hình như cha không có cái tài năng đó để giáo dục các giáo sĩ trẻ”. Còn Đức Tổng Giám Mục thì ngài nghĩ mình có tài năng đó để đưa tay nắm chắc lấy Tu Hội trong giây lát và “sắp đặt mọi chuyện vào chỗ của nó”. Còn Don Bosco kể từ đây sẽ tiếp tục là “người cha tốt lành” sao cũng được của Nguyện Xá. Cái khả thể đó giờ đây đã vuột khỏi tay Đức Tổng Giám Mục, nên ngài tìm cách áp đặt một kỷ luật sắt, mà đã sớm trở thành một cuộc bách hại. Mọi khiếm khuyết, mọi sự chậm trễ đều bị lên án là “sự bất tuân phục”, “sự nổi loạn”, “sự vô kỷ luật”.
Nói thêm các chi tiết khác sẽ là chuyện không có cảm quan tốt. Cuộc cãi lộn rốt cuộc vẫn là những cuộc cãi lộn.
Luật Tu Hội được phê chuẩn vĩnh viễn
Ngày 30-12-1873 Don Bosco lên đường đi Roma.
Có cuộc thảo luận tại Tòa Thánh, sau khi đã có những cuộc dãn lại và đặt lại vấn đề rất nặng nề, về một vấn đề sinh tử cho Tu Hội Salêdiêng: việc phê chuẩn vĩnh viễn Tu luật.
Đức Thánh Cha bổ nhiệm một ủy ban gồm bốn Hồng Y.
Các cuộc thảo luận và các việc sửa liên tục bản văn kéo dài cho tới tháng Tư. Đức Tổng Giám Mục Gastaldi can thiệp chống lại việc phê chuẩn qua lá thư ngài viết cho Đức Hồng Y Bizzari trình bày quan điểm của ngài như chúng ta đã nêu ra ở phía trước: Don Bosco có khả năng giáo dục các người trẻ nhưng không có khả năng giáo dục các giáo sĩ và các linh mục.
Vào đầu tháng Tư có cuộc biểu quyết cuối cùng của ủy ban các Hồng Y: ba phiếu thuận, một phiếu chống. Đức Piô IX được cho hay còn thiếu một phiếu nữa để giải quyết cuộc thảo luận, đã tuyên bố:
“Lá phiếu đó sẽ là của Tôi”.
Hôm đó là ngày 3 tháng Tư, Mười ngày sau sắc lệnh chấp thuận vĩnh viễn Tu Hội Salêdiêng được ban hành. Thánh bộ lúc này được đặt dưới quyền lệ thuộc chặt chẽ vào Đức Thánh Cha ban cho Don Bosco năng quyền mười năm giới thiệu bất cứ người Salêdiêng nào để thụ lãnh các Chức Thánh.
Nhưng tại Torino sự việc không thay đổi gì cả.
Các danh sách “những biện pháp trừng phạt”
Ngày 16-12-1876, Don Bosco trình bày trong một lá thư cho Hồng Y Ferrieri các “điểm chính của sự xích mích”. Và đây là danh sách:
– Tháng Chính 1876, Don Bosco bị treo quyền giải tội (Kinh sĩ Zappato bình luận trong cơn tức giận: “Nhưng đó là những chuyện chỉ những kẻ say sưa mới phải gánh chịu!”). Don Bosco buộc phải rời khỏi Torino vì các trẻ em có thói quen xưng tội với ngài. Không bao giờ Đức Tổng Giám Mục cho biết lý do của biện pháp này;
– Cấm các nhà Salêdiêng tổ chức giảng Tuần Tĩnh tâm cho các giáo viên ngoại trú;
– Thu hồi phép giảng thuyết khỏi một số các linh mục Salêdiêng;
– Đức Tổng Giám Mục từ chối tham dự vào các cuộc cử hành lễ long trọng của Nguyện Xá và cấm mời các Đức Tổng Giám Mục khác (ngay cả các đợt xuất phát truyền giáo cũng chỉ được cử hành không có Giám mục);
– Từ chối ban phép Thêm Sức cho các trẻ em Nguyện xá và cấm các Đức Giám Mục khác ban thêm sức tại đó.
Don Bosco bình luận trong một lá thư rằng: “Những biện pháp này giả thiết các lý do nghiêm trọng, và chúng con không được biết các lý do đó. Điều này tạo nên một gương mù trong thành phố”.
Ngày 25-3-1878, Don Bosco cho Đức Hồng Y Oreglires hay một danh sách mới “các hình phạt”:
– Don Bosco bị đe dọa ngưng lập tức quyền giải tội nếu ngài viết bất cứ một điều gì bất lợi cho Đức Tổng Giám Mục, trừ trường hợp viết cho Đức Thánh Cha, cho Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, cho Đức Hồng Y đặc trách Các Dòng Tu;
– Một số các Salêdiêng bị ngưng quyền giải tội, và còn tiếp tục bị ngưng như thế suốt 8 tháng;
– Đức Tổng Giám mục từ chối phong chức cho những ứng sinh linh mục được đệ trình lên ngài, điều đó gây thiệt hại cho các nhà Salêdiêng và các công cuộc truyền giáo Salêdiêng.
Nhưng Đức Tổng Giám Mục còn gửi tới Roma “các danh sách” của ngài nữa. Cha Ceria viết: “Sự tiếp tục không ngừng nghỉ các lời tố giác vì bất cứ lý do gì mà Đức Tổng Giám Mục coi là không đáng vinh dự cho Don Bosco và Tu Hội của ngài kết cuộc đã dẫn tới những sự nói bóng gió, hay thì thầm làm mất uy tín của Don Bosco và Tu Hội của ngài giữa các Hồng Y không có một sự hiểu biết chính xác về các sự việc”.
Chẳng hạn Đức Hồng Y Ferrieri, trong suốt cả đời sống ngài, chống lại các Salêdiêng, tin chắc rằng đó là “một đống hỗn độn giả tạo và tạm bợ của một số đông tụ tập lại”.
Nhưng điều làm đau lòng Don Bosco hơn cả chính là sự kiện chính bản thân Đức Piô IX, sau bao năm luôn luôn là bạn và người che chở cho Don Bosco, đã lạnh lùng đối với ngài. Don Ceria viết: “Việc liên tục trình bày Don Bosco như là một con người bướng bỉnh và nổi loạn đã tác động trên tình cảm của Đức Thánh Cha”.
Đức Piô IX qua đời vào ngày 7-2-1878. Don Bosco lúc đó đang ở Roma và gõ mọi cánh cửa để được bệ kiến ngài, nhưng đã không thể được thấy ngài.
Đức Thánh Cha mới thử thách Don Bosco
Ngày 20-2-1878, Mật tuyển viện các Hồng Y đã bầu Đức Leon XIII làm Đức Thánh Cha mới.
Ngài tiếp nhận Don Bosco vào bệ kiến ngày 16-3-1878. Lập tức một tin đầy phấn khởi loan báo về cuộc bệ kiến này: Đức Thánh Cha chấp nhận ghi danh mình vào danh sách các Cộng Tác Viên, nhìn nhận “ngón tay của Thiên Chúa” trong các công cuộc Salêdiêng, ban những chúc lành nồng nhiệt cho các nhà truyền giáo. Nhưng chỉ có một điểm việc thông tin chỉ thoáng qua mà thôi: về phía “những khác biệt của chúng ta với Đức Tổng Giám Mục Torino, thì Đức Thánh Cha nói là là ngài đợi báo cáo chính thức của Thánh Bộ các Dòng Tu”.
Trong tường trình riêng tư cho các Salêdiêng, Don Bosco nói kém vẻ đắc thắng hơn: “Ngài cho thấy rõ ràng ngài đã phải chịu đau khổ đến mức nào: những cuộc bệ kiến bị ngăn cản, những lá thư bị chặn lại, sự chống đối công khai hay bí mật từ mọi phía, những lời nói cứng cỏi và cay đắng, nhục nhã”.
Đức Thánh Cha Leon XIII hiển nhiên biết đến các cuộc tranh cãi nghiêm trọng đang treo lơ lửng trên đầu vị linh mục Torino này và nếu ngài giải quyết chúng với bàn tay đeo găng, thì chính ngài lại hết sức lo lắng tìm hiểu cách tường tận. Quanh Don Bosco, các đối thủ rất nhiều và rất thiện chiến.
Một trong các người bạn trung thành của Don Bosco vào thời điểm đó là Đức Hồng Y Alimonda, người đang tìm cách để “chứng minh” cho Đức Leo XIII về sự thánh thiện của Don Bosco; một bằng chứng nghiêm chỉnh trong đó tỏa sáng tất cả cái giá trị của vị linh mục khổ đau này.
Vậy trong thời điểm đó người ta đã cố gắng xây tại Roma một Đền thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bất chấp những cố gắng của chính bản thân Đức Thánh Cha tham gia vào công việc này, lời kêu gọi các Giám mục của toàn thế giới, cuộc lạc quyên được thực hiện trong nhiều quốc gia, các công việc đã phải ngừng lại ở ngay tại sân nền móng mà thôi.
Đức Thánh Cha thất vọng về chuyện này. Chính trong những trường hợp này, Đức Hồng Y Alimonda can thiệp vào:
– Tâu Đức Thánh Cha, Con đề nghị với Đức Thánh Cha một phương thức chắc chắn để công trình này thành công.
– Phương thức nào?
– Trao nó cho Don Bosco.
– Nhưng Don Bosco sẽ nhận hay sao?
– Tâu Đức Thánh Cha, con biết rõ Don Bosco và lòng sùng kính hoàn hảo và tuyệt đối dành cho Đức Thánh Cha. Nếu Đức Thánh Cha đề nghị chuyện này với Don Bosco, con tuyệt đối chắc chắc là Don Bosco sẽ nhận lời.
Don Bosco khi đó đã ngụp chìm trong các phí tổn lớn lao. Ngài đã xây dựng hai thánh đường: Nhà thờ thánh Gioan, Tác giả Tin Mừng, tại Torino và Nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ tại Vallecrosia[15] Ngài còn đang xây dựng ba nhà tại Marseille, Nice, la Spezia, và đã 65 tuổi.
Ngày 5-4-1880, Đức Lêô gọi ngài đến. Đức Thánh Cha đưa ra đề nghị và thêm rằng nếu Don Bosco nhận, thì Don Bosco sẽ làm một việc rất thánh thiện và “vô cùng tốt đẹp” đối với Đức Thánh Cha. Don Bosco trả lời:
– Ước ao của Đức Thánh Cha đối với con là một lệnh. Con chấp nhận nhiệm vụ mà Đức Thánh Cha đã ưu ái trao phó cho con.
– Nhưng cha không thể cho con tiền bạc được.
– Con không xin tiền bạc. Con chỉ xin chúc lành của Đức Thánh Cha. Và nếu Đức Thánh Cha cho phép, thì ở bên cạnh nhà thờ này, chúng con sẽ xây một Nguyện Xá với một trung tâm lớn từ đó có thể rất nhiều trẻ em sẽ được gửi tới trường học và các xưởng học nghề và nghệ thuật, cách riêng là các trẻ em thuộc các khu phố bị bỏ rơi.
– Tốt lắm. Cha chúc lành cho con và tất cả những người sẽ góp sức cho công cuộc thánh thiện này.
Các mối tương quan với Đức Tổng Giám Mục trong những tháng này càng trở nên tệ hại hơn. Don Bosco để bảo vệ Tu Hội buộc phải đem sự việc lên Vatican, nơi diễn ra một phiên xử bình thường.
Người cháu của Đức Tổng Giám Mục tên là Lorenzina Mazé della Roche, khi lo việc tiến hành phong chân phước cho Don Bosco, đã tuyên bố bằng lời thề rằng:
“Kể từ năm 1873, xẩy ra những chuyện xích mích giữa Don Bosco và Đức Tổng Giám Mục Gastaldi, người bác đáng kính của tôi…Tôi được biết những tin đồn giữa công chúng và qua những lời tâm sự của Don Bosco cho chính bản thân tôi và cho mẹ của tôi, để khích lệ chúng tôi tìm cách trực tiếp báo cho Đức Tổng Giám Mục những chuyện xì xầm đang phổ biến cách riêng giữa hàng giáo sĩ và đồng thời kinh qua các kênh báo chí. Cáo hại cho cả hai bên. Những cuộc đối kháng đã là chiếc gai đâm mãi mãi vào trái tim tôi và vào trái tim mẹ tôi…
Trong tất cả các cuộc nói chuyện với mẹ tôi và với tôi về điều này, ta thấy rõ được là Don Bosco đã đau khổ đến mức nào vì các thử thách cam go… Nhưng Don Bosco luôn luôn nói về Đức Tổng Giám Mục với một sự tôn kính và một đức bác ái mà chúng tôi cảm thấy phải ngưỡng mộ mà noi gương.
Trên trang nhật ký của tôi vào những năm đó, tôi rút ra được những lời tôi đã ký thác vào đó: “Tại sao Đức Tổng Giám mục, Bác của chúng ta lại đã thay đổi như thế? A! Con người đã đóng vai trò buồn thảm là khơi dậy cuộc bất hòa như vậy, chắc chắn sẽ cảm thấy những sự hối hận lớn lao”.
Tôi như nhận thấy rằng một trong những kẻ chủ yếu khơi dậy những cuộc bất hòa này phải kể vị thư ký của Đức Tổng Giám Mục Bác của chúng tôi, tức là nhà Thần học Tommaso Chiuso, vừa mới chết cách đây vài năm, đó là người mà tôi ngầm nhắc tới trong những lời tôi vừa nói đến ở trên. Tôi rất thường được mời tới dùng bữa với Bác của tôi Đức Tổng Giám Mục, tôi đã nghe được những lời diễu cợt và những lời châm biếm liên quan tới những người ở Valdocco, hay đúng hơn: những người ở chỗ đó…
Tôi ghi nhận trong những trang nhật ký của tôi những lời của Don Bosco: “Mình cứ muốn mình phải mạnh mẽ và duy trì sự can đảm đi, nhưng để rồi chất đống những phản cảm và những phản cảm, và trái tim khốn khổ cảm nhận những sự tê tái của chúng và tan nát ra”. Chưa bao giờ tôi đã trông thấy trong suốt cả đời tôi là Don Bosco đã đổi dạng cả dung mạo, nhưng mà lần đó, trong khi ngài nói chuyện, thì mặt ngài lúc thì xanh lợt, lúc thì tím lại…
Đàng khác, tôi có thể và phải làm chứng rằng Bác đáng kính của tôi trong khi nói với tôi đã tỏ ra là rất đau khổ, không những chỉ qua các lời nói, mà còn trong những nét buồn bã, vì lẽ những mối tương quan với Don Bosco đã không còn được như lúc ban đầu của Nguyện Xá nữa”.
Cuộc xử án giữa Don Bosco và Đức Tổng Giám Mục đã được bàn cãi ngày 17-12-1881. Tám Hồng Y tham dự vào đó. Hai vị bỏ phiếu ủng họ Đức Tổng Giám Mục, 4 vị bỏ phiếu cho Don Bosco. Đức Thánh Cha sau khi đã nhận ra kết quả, đã cho ngừng cuộc bàn cãi lại. Ngài nói với Đức Hồng Y Nina, Đấng bảo vệ chính thức cuả Tu Hội Salêdiêng: “Phải cứu vãn quyền bính. Don Bosco nhân đức nên có thể thích nghi với mọi sự”. Đó là ván bài thứ hai mà Đức Thánh Cha muốn thử, để đo lường mức thánh thiện của Don Bosco.
Chính Đức Thánh Cha ấn định các điều kiện cho cuộc “hòa giải”, với một khuôn phép ngôn từ chỉ có trong một nền ngoại giao tinh tế. Tuy nhiên điều cốt yếu lộ ra rất rõ và không để lại chỗ cho một sự tránh né. Đó là một đàng Don Bosco phải viết một lá thư xin lỗi Đức Tổng Giám Mục, một đàng Đức Tổng Giám Mục trả lời là ngài sung sướng lấy một tảng đã lấp đi cái quá khứ.
Don Bosco phải nuốt mật đắng. Ngài họp Hội đồng của Tu Hội lại, và đọc nguyên bản của tờ “Hòa giải”. Tất cả đều kinh ngạc. Có người đề nghị là phải xin một thời gian để suy nghĩ đã. Chính Don Cagliero đã cho nổ bung cái nút khúc mắc đó bằng những lời thẳng thắn:
– Đức Thánh Cha đã nói và chúng ta buộc phải vâng lời. Đức Thánh Cha đã lấy quyết định trên vì ngài biết Don Bosco và ngài biết rằng mình có thể tin tưởng vào Don Bosco. Không cần phải có gì thêm nữa. Chỉ cần duy một việc là phải vâng phục”.
Don Bosco đã viết thư xin lỗi. Và Đức Tổng Giám Mục đã trả lời: “Với tất cả tấm lòng, tôi chấp thuận lời xin tha thứ”.
Ngày sau đó Don Bosco viết cho Đức Hồng Y Nina một lá thư theo đó người ta có thể đo lường được liều thuốc cay đắng mà ngài đã phải cố nuốt và những hậu quả chua chát đang dần thể hiện:
“Tại Tòa Giám mục, người ta vui sướng vì những sự nhục nhã người ta đã làm cho Don Bosco phải đau khổ. Những chuyện đàm tiếu, phổ biến với ác ý, cắt nghĩa sai lệch, đè bẹp những người Salêdiêng khốn khổ. Đã có hai vị giám đốc nhà xin rút lui khỏi Tu Hội vốn đã trở thành trò cười của các bậc quyền thế. Đàng khác các linh mục của chúng con và các chủng sinh của chúng con cũng xin y như thế. Tuy nhiên con muốn giữ tuyệt đối im lặng, như con đã viết cho Đức Hồng Y đáng kính”.
Thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp
Đức Lêô XIII, vị Đại Giáo Hoàng trong lịch sử Hội Thánh khởi sự từ giờ phút đó đã có những cử chỉ tốt lành rất tinh tế đối với Don Bosco. Chính ngài bổ nhiệm Don Gioan Cagliero làm Giám Mục Salêdiêng đầu tiên và còn ban cho các “đặc ân” làm cho Tu Hội được quyền miễn trừ không chỉ trong 19 năm, mà còn vĩnh viễn khỏi sự lệ thuộc vào quyền bính của các Đức Giám Mục trong vấn đề tế nhị là việc phong chức thánh.
Nhưng khi ngài mới được bầu làm Giáo hoàng, Ngài đã tìm thấy ở Vatican có cả một môi trường thù nghịch với Don Bosco và qua hai thử thách trên, ngài đã đo lường được sự thánh thiện của Don Bosco.
Để xem xem một viên đá có chứa vàng hay không, người ta phải vất nó vào trong độ nhiệt của nồi nấu kim loại. Nếu nó sản xuất ra vàng, nó sẽ là một khoáng sản quí, còn nếu không nó chỉ là rác rưởi. Don Bosco đã bị thử thách như thế. Từ ngài xuất ra vàng, và là vàng ròng. Tuy nhiên con người nhân loại của ngài bị tiêu hao, thành bọt. Cha Morand Writh viết: “Kể từ năm 1884, Don Bosco chỉ còn là cái bóng của chính mình”.
Xin lỗi Đức Tổng Giám Mục là người đã quất đòn vào ngài trong suốt 10 năm trời là cái đã khiến ngài phải trả giá quá mắc. ngài không sinh ra, như chúng ta đã nói, để mà đưa má bên kia cho người ta vả. Ngài buộc cho người ta phải chấp nhận ngài bằng một nỗ lực kinh khiếp. Việc xây dựng thánh đường Thánh Tâm Chúa Giêsu đã nuốt chửng một triệu rưỡi lires, đã buộc ngài phải gánh chịu trong những năm sức khỏe thể lý giảm thiểu, những nỗi khó nhọc vượt quá sức con người.
Don Bosco đã chấp nhận tất cả bởi đức tin vào Đấng Đại Diện Chúa Kitô và bởi tình yêu Tu Hội đang cần một cách tuyệt đối sự quí mến của Đức Thánh Cha.
Don Bosco đã thoát ra khỏi những thử thách này một cách thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp. Vì lý do đó Tu Hội đã triển nở một cách rực rỡ: Tu Hội đã được phát sinh từ một linh mục chịu đóng đinh.
Lorenzo Gastaldi (1815-1883), Giámmục Saluzzoe Tổng Giám mục Torino
Chương 48
QUA PHÁP VÀ TÂY BAN NHA
“Cây Thánh Giá của Công trình Nhà Thờ Thánh Tâm” bắt đầu đè nặng lên vai Don Bosco.
Trước tiên Don Bosco sai Don Dalmazo, rồi Don Angelo Saviô tới Roma để tìm hiểu về công việc và “kiểm soát những chi phí”. Tiếc thay theo một truyền thống thông thường tại Roma, thì “các công trình của Giáo Hoàng là có ăn cho mọi người”. Don Bosco chuyển đến cha Dalmazzo những những yêu cầu rất thúc bách theo hướng này: “Có thiếu một kiểm soát viên theo dõi các đồ đạc nhập vào không?”, “Hãy để ý đến giá cả”, “Ai coi sóc các vật liệu buộc phải di chuyển sang chỗ khác?”, “Người ta có làm việc ít? Có ăn cắp trong nhà hay ở ngoài? Có phí phạm vật liệu? Nhất là những chiếc bàn?”, “Hãy để một người biết công việc giám sát”…
Thế rồi Don Bosco lại tái thúc đẩy cả một bộ máy hoạt động quyên góp tiền đã bao lần được thử nghiệm: Các thư luân lưu bằng nhiều ngôn ngữ, các cuộc xổ số, việc quyên góp, các thư cá nhân. Công việc này không phải là một thứ đũa thần. Nó đòi hỏi nhiều lao nhọc, những sự nhục nhã, việc kiểm soát, những nặng nhọc ghê gớm của nhiều hội viên. Gánh nặng hơn cả chính Don Bosco đưa vai gánh vác.
“Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai”
Don Rua trong lời khai có kèm theo việc tuyên thệ trong án vụ phong chân phước cho Don Bosco làm chứng rằng: “Thật xe lòng thấy cha lên xuống các bậc cầu thang để xin bố thí, và trơ mặt chịu những sỉ nhục gay go. Ngài chịu đau khổ biết mấy, nên đôi khi giữa những người thân, trong nơi riêng tư, có hỏi ngài là làm sao một người có thể cúi mình xuống như vậy, ngài trả lời: “Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai”. Một lần khác, trong khi nói đùa vui vẻ, ngài nói: “Người ta nói Hội Thánh bị bách hại. Còn cha, ngược lại, cha có thể nói Hội Thánh bách hại cha!”. Người ta có thể nói được rằng cha đã rất yếu ớt về vấn đề sức khỏe trong nhiều năm rồi, và một công việc nặng nề như vậy sẽ làm cạn kiệt một phần lớn sức lực của cha nữa”.
Nỗi mệt nhọc nặng nề nhất mà cha phải dấn mình vào chính là “cuộc hành trình lớn sang Pháp” mà cha đi từ tỉnh này sang tỉnh khác để ăn xin trong suốt 4 tháng: từ 31-1 cho đến 31-5 năm 1883.
Chúng tôi xin có một thoáng nhận định. Don Bosco khi đó đã 68 tuổi, cha còn sống được 5 năm nữa. Tu Hội của cha đã phát triển rộng rãi và thế giới đang trải qua một trong những thời kỳ biến động sâu xa nhất về các ý tưởng và các cơ cấu. Don Bosco đáng lý đang cần phải có có thời giờ để có thể thử làm một tổng hợp ý tưởng của ngài, các trực giác của ngài là những cái tạo nên nền tảng cho các công cuộc của ngài. Ngài phải sử dụng chút ít thời gian còn lại để tái suy nghĩ lại về các chương trình hành động của mình trong bối cảnh xã hội đang thay đổi nhanh chóng, để cung cấp một tổ chức vững chắc cho Tu Hội.
Trái lại, trong những năm còn khả năng làm việc cuối đời, ngài bị bó buộc “phải đi kiếm các đồng tiền xu” để xây dựng một nhà thờ. Đấy chẳng phải là việc đi xin tiền cho các trẻ nghèo khổ của ngài, mà là đã xây dựng những bức tường của một nhà thờ tại Roma. Từ vòm mái cho tới tận đất, đấy là một câu chuyện hoàn toàn làm cho người ta phải sững sờ.
Nhưng đồng thời, chính những năm “bị đốt cháy” này đã buộc Don Bosco phải thực hiện hai cuộc hành trình lớn (qua Pháp và Tây Ban Nha), đã trở thành cho ngài một cuộc khải hoàn của “người của Thiên Chúa”. Những thời gian đó cho ngài cơ hội để đốt sáng lên “cảm thức về Thiên Chúa” giữa những khối quần chúng đông đảo.
Marx đã định nghĩa “tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng” có sức làm quên đi mọi sự. Bakounine đòi hỏi các người tham gia phong trào của ông ta phải công khai hành nghề “chủ nghĩa vô thần”. Công Xã Paris[16] lại vừa mới biểu lộ những dấu hiển nhiên của chủ nghĩa vô thần chiến đấu. “Các Hội Thánh Kitô giáo buộc phải duyệt xét lại các toan tính của mình, không phải với các hiện tượng vô tín ngưỡng có giới hạn trong các lãnh vực tương đối của các nhà lãnh đạo, mà là với sự xa lìa thực hành tôn giáo và sự vâng phục Hội Thánh rất nghiêm trọng” (Trích từ Francesco Traniello).
Toàn thể xã hội đánh mất cảm thức về Thiên Chúa và sự kính trọng thần linh đối với sự sống của con người. Trong những ngày của Công Xã Paris, sự vô đạo của các thành viên Công xã hiển nhiên không tệ hại hơn sự vô đạo của những người phe trưởng giả đã dập tắt Công xã bằng những phát đại bác, giết hết thảy 14000 công nhân (và những công nhân thời đó là những đàn ông, đàn bà và trẻ con).
Don Bosco đã gánh chịu những nỗi mệt nhọc cuối cùng của ngài không phải vì một nhà thờ hay vì các người trẻ nghèo khổ, mà còn vì tất cả một thế hệ đang liều đánh mất cảm thức về Thiên Chúa và về những giá trị của cuộc sống. Thế hệ này tại Pháp và tại Tây Ban Nha tái khám phá ra được “cảm thức về Thiên Chúa” và “sự tận tụy phục vụ tha nhân” nhờ vào cuộc hành trình của ngài.
Chúng ta hãy dõi theo cuộc hành trình sang Pháp qua bài tường thuật của Henri Bosco dựa trên không chỉ các tài liệu Salêdiêng mà còn trên cả các tờ báo ở Pháp vào thời đó.
Khi lên đường, mắt Don Bosco hầu như mù, ngài hầu như không thể đứng nổi trên đôi chân ngài do chứng giãn tĩnh mạch. Thân thể ngài gần như kiệt lực. Ngài vào Pháp qua ngã thành phố Nice là thành phố từ 18 năm qua đã không còn thuộc về Ý nữa. Ngài tới Paris qua ngã Toulon – Marseille – Avignon – Lyon – Moulins. Một cuộc hành trình chậm rãi kéo dài 2 tháng 19 ngày.
Không một ai, lại càng không phải chính ngài, đã có thể tiên đoán trước được nỗi cảm xúc lạ thường, sự hồ hởi, việc dân chúng tuôn đến, và sức cháy bừng của niềm tin được khơi dậy bởi “một linh mục nghèo khổ thuộc miền quê”.
Những người cẩn trọng đã khuyên ngài: “Đừng đi Pháp. Tại Paris người ta đang xây dựng Thánh Đường kính Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Mont Martre. Nó đã ngốn hằng triệu Francs và vẫn còn chưa xong. Vậy liệu có ai còn có thể cho cha một xu nào chăng?”
Tại Lyon, các nhà thờ đầy ắp. Chiếc xe ngựa những người đón tiếp dành cho ngài bị bao vây, siết thắng và đông cứng lại. Người đánh xe ngựa sốt ruột bởi sự náo nhiệt của đám đông nên đã thốt lên: “Đánh xe cho quỉ còn dễ hơn đánh xe cho một linh mục như vị này”.
Tại Paris, người ta đã sợ một sự thất bại hoàn toàn. Nước Ý chính thức vừa chuyển mình từ liên minh với Pháp sang liên minh với Đức và Áo bởi hiệp ước ba Đồng Minh. Và Don Bosco là người Ý. Hơn nữa, chính quyền ở đây chống giáo sĩ cách gắt gao.
Bất chấp sự nhạy cảm của mình, Paris đã tiếp đón vị tông đồ của những người nghèo với một sự nhiệt tình đầy đam mê. Don Bosco đến vào ngày 19-4-1883, và ở lại đó năm tuần lễ (trừ một lần dừng chân ngắn tại Amiens và Lille). Ngài được đón tiếp tại một gia đình bạn hữu tại Paris, số 34 Đạo lộ Messine. Tuy nhiên mỗi buổi sau trưa ngài đi đường Ville- l’ Êvêque tới ở nhà các Tu sĩ Tận Hiến cho Thánh Tâm Chúa, và ngài thực hiện việc này để tránh cho chủ nhà đón tiếp ngài khỏi bị áp lực của đám đông lập tức tràn tới nơi ngài ở.
Người ta đồn thổi: “Đó là một vị thánh”; lời quả quyết này rất nguy hiểm. Sẽ có cả một đống người sẵn sàng tỏ ra mối hoài nghi và chỉ một chuyện không không mà thôi cũng đủ để chuyển mọi sự thành một trò cười. Ngài để cho người ta thoải mái chụp hình ngài, một mình hay cùng những người khác. Có người trách ngài rằng: đó là một chuyện phù phiếm. Nhưng ngài trả lời: “Đó là một phương tiện tốt, không phải để cho người ta biết tôi, mà để công bố cho dân chúng biết công cuộc của tôi”. Ngài giúp cho các người viết sử hạnh ngài được dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ của họ hơn, như bác sĩ vùng Espiney, người đầu tiên viết tiểu sử ngài bằng tiếng Pháp. Cuốn sách này có những chỗ sai lớn, nhưng nó đã được in 50.000 bản trong vòng vài tháng.
Một bức hình chụp Don Bosco Tại Pháp
Có một bức hình chụp Don Bosco, là một hình chụp nổi tiếng nhất được chụp tại Paris. Khuôn mặt Don Bosco trong bức hình chụp này thật già, mệt nhọc, tàn tạ; ngài già một vẻ già không thể tin được, giống như một tờ giấy nhàu nát. Những nét nhăn hằn lên trên trán, miệng ngài vẻ tốt lành, những méo mó do vẻ phờ phạc không cách nào hồi phục được. Mắt ngài chìm sâu sau dẫy lông mày dày đặc, chỉ hơi lóe lên một chút ánh sáng, thật là một ánh nhìn hầu như mù lòa; Nhân vật sống sau khuôn mặt này từng biết đến sự đau khổ gồm cả đau khổ của mình và đau khổ của những người khác mà ngài đã coi như là những người thân của mình, mà ngài đã cứu vớt họ để ở dưới trần gian này họ sống mà được bớt đi những đau khổ, và có một thiên đàng mà người ta được thị kiến thấy vào giờ chết của họ. Thoạt nhìn, khuôn mặt này gợi ra cho người ta thương xót ngài hơn là hồ hởi.
Nhưng trên bức hình chụp này người ta cũng thấy đôi bàn tay của Don Bosco; những bàn tay của một người lao động, một con người lao động lương thiện, một con người lao động đầy quyền lực để tạo nên sự sống. Đôi bàn tay này giơ lên để chúc lành cho những người đau ốm, vuốt ve những đứa trẻ và đem lại sức khỏe giống y như nước của Lộ Đức. Khi thấy những bàn tay này giơ lên, hoạt động, những người Paris không còn thấy xót thương cho Don Bosco, nhưng là xin ngài xót thương họ. Họ nhìn thấy nơi ngài con người được Thiên Chúa sai tới đem lại niềm hy vọng, giống như một con người của Thiên Chúa, kẻ phân phát những sự chữa lành và những ân sủng của Chúa Quan Phòng.
Tại thủ đô cũng nhắc lại những chuyện y như tại tỉnh lỵ. Dân chúng chạy ùa tới ngài càng đông hơn và càng vội vã hơn và Don Bosco chịu nhiều đợt ào đến thô bạo hơn và cực nhọc hơn. Đó là cái khác lạ duy nhất.
Trong những ngày đó người ta đọc thấy trên tờ Le Figaro: Trước căn nhà của phố Ville-l’ Évêque, nơi Don Bosco bước xuống, các dòng xe đậu lại suốt ngày trong cả một tuần lễ. Những bà lớn cầu khẩn ngài làm các phép lạ cho họ và cho thân quyến họ, các phép lạ ngài làm, như người ta nói, thật rất dễ dàng”.
Tờ báo Le Pèlerin thì viết: “Người ta kể lại, và thậm chí người ta còn sáng tác ra các phép lạ… Các bà thuộc thế giới cao tuổi chạy tới sau các vết của vị thánh không hề lo để thế gian vỗ tay khen mình, và giảng những bài giảng cho mọi giới, bất phân biệt đó là những cô như Mađalêna, hay đó là là một người ăn mày, và dành thời giờ cho một người thợ cũng y như cho một ông hoàng tử”.
Một ngày của một linh mục nghèo
Don Bosco dậy sớm, vào 5 giờ sáng, và đi ngủ vào nửa đêm, khi đã mệt nhoài. Vào 6 giờ sáng bắt đầu các cuộc thăm viếng. Rồi ngài đi cử hành thánh lễ tại xứ này hay xứ kia, luôn luôn người ta rình gặp ngài khi vừa ra khỏi nhà thờ, với những câu hỏi dồn dập, những yêu cầu tới tấp, rồi những lời cầu xin, những lời xin cầu nguyện. Người ta muốn nói chuyên với ngài, chạm đến ngài, hay ít là trông thấy ngài. Người ta chặn ngài lại ở mọi nơi, tại cầu thang, trong hành lang, tại cửa phòng áo, trên đường phố. Tiếng Pháp của ngài không xuôi, giọng không chuẩn, sự lưu loát không tốt lắm.
Tại Tổng Hiệp Hội cầu nguyện cho các người tội lỗi ăn năn trở lại”, ngài chuẩn bị cử hành thánh lễ. Đám đông thật lớn: có người muốn vào, không vào được; người ấy ngạc nhiên mới hỏi: “Có gì vậy?”. Một phụ nữ thuộc quần chúng trả lời: “Chúng tôi đến để dự thánh lễ, thánh lễ cầu cho những kẻ có tội. Có một vị thánh sắp cử hành thánh lễ”.
Khi người ta xin ngài ban cho họ phép lạ “của ngài”, Don Bosco trả lời: “Tôi là một tội nhân, xin cầu cho tôi. Nhưng chúng ta cùng nhau kêu xin Đức Mẹ Phù Hộ. Chính Mẹ chữa lành, lắng nghe, hiểu hết, và thương xót chúng ta. Mẹ từ trời cao trả lời cho chúng ta. Tôi, tôi chỉ biết cầu xin Mẹ mà thôi”. Nhưng khi con người khốn khổ này cầu xin, thì Đức Mẹ luôn trả lời. Người ta tin rằng Đức Mẹ đang ở đây, ngay bên cạnh ngài, sẵn sàng làm theo điều ngài kêu xin.
Các bậc có quyền bính tiếp đón ngài cách thân tình. Đức Hồng Y Lavigerie đợi ngài ở nhà thờ Thánh Phêrô biệt danh Tảng Đá Lớn, và nói chuyện với cử tọa hiện diện trong khi nhiệt tình gửi gắm ngài cho lòng quảng đại của họ. Ngài gọi Don Bosco là “vị thánh Vinh sơn Phaolô của nước Ý”.
Những lời kêu gọi tới lòng quảng đại không chỉ được đáp ứng bởi những gia đình giàu có, mà còn bởi cả dân chúng khiêm tốn. Tất cả mọi người dâng cúng cho ngài. Don Bosco đón nhận các tiền giấy, các đồng nhỏ, các lượng vàng, và cả đến các đồ trang sức. Có xẩy ra những lúc Don Bosco chẳng còn biết để tiền ở đâu nữa.
Ngài rời Paris để đi Lille và Amiens; cũng cùng một lòng nhiệt tình như vậy tại những nơi đó. Trước những nhát kéo kinh khủng cắt áo chùng thâm của ngài, ngài thốt lên: “Tất cả những người điên không ở hết trong các viện tâm thần!”.
Sau đó là chuyến trở về. Trong xe lửa hai người bạn của ngài là Don Rua và Don Barruel im lặng. Họ đang suy nghĩ lại về những ngày trong mơ mà họ không bao giờ quên. Thình lình Don Bosco cắt đứt sự im lặng:
Don Rua, cha có nhớ lại con đường đi từ Buttiglires đến Murialdo không? Tại đó, ở phía bên phải, có một cái đồi và trên đồi đó có một cái nhà nhỏ bé. Đó là nơi ở của tôi và mẹ tôi. Trên những cánh đồng đó lúc tôi còn là một chú bé, đã đưa các con bò đi ăn cỏ. Nếu tất cả các ông tại Pháp biết được rằng họ hầu như đã đưa một chú bé nhà quê nghèo nàn tại Bécchi này tới chỗ vinh quang đấy…
Đức Hồng Y, người mang đến hòa bình
Ngày 18-11-1883, Đức Hồng Y Gaetano Alimonda, Đức Tổng Giám Mục mới, đã tới Torino theo cách thức hoàn toàn riêng tư. Trong một lần bệ kiến Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm 1884, Don Bosco đã nghe Ngài nói: “Trong khi cha gửi ngài tới, cha đã nghĩ đến con. Đức Hồng Y Alimonda mến con rất nhiều, rất nhiều”.
Cha Ceria viết rằng: “Sự tốt lành của Đức Hồng Y là một niềm an ủi Chúa quan phòng gửi đến cho Don Bosco trong những năm cuối đời ngài”.
Sau khi Đức Hồng Y đến được ít lâu, Don Bosco sai một ai đó tới hỏi xem Đức Hồng Y có ở nhà không để đến gặp ngài. Đức Hồng Y lấy xe ngựa và lập tức tới Valdocco.
– Để gặp gỡ cha thật sớm, tôi đã đích thân đến với cha.
Lúc ấy nhằm 10 giờ sáng, như lời một nhà viết sử hạnh hiện diện tại đó, nhắc nhớ lại. Cuộc hội kiến ở ngay trong văn phòng Don Bosco, và kéo dài hơn một giờ. Trong thời gian đó, các trẻ em tại các xưởng thợ và các lớp học đã được báo cho hay, các nhạc công vội đi lấy nhạc cụ và một em nào đó đã vội kéo các lá cờ lên dẫy cột cờ ở các ban-công. Khi Đức Hồng Y đi ra ngoài ban-công ở lối ra khỏi phòng Don Bosco, thì ban kèn liền chơi, và các trẻ em vỗ tay chào đón. Đức Tổng Hồng Y vui vẻ nói: “Tôi muốn đến để tạo cho cha một sự ngạc nhiên nhưng chính cha lại đem sự ngạc nhiên đến cho tôi!”. Ngài vẫy tay chào các học sinh và nói với các em:
– Các con rất thân mến, cha cám ơn các con. Cha chúc lành cho các con và xin các con cầu nguyện cho cha.
Ngài đi thăm các xưởng thợ và ở lại lúc lâu trước ảnh Đức Mẹ Phù Hộ để cầu nguyện.
Tiền quyên góp tại Pháp rất dồi dào, nhưng nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Roma cho thấy nó là một cái giếng không có đáy. Vào đầu năm 1884, có những món nợ to lớn phải trả, mà két tiền lại rỗng. Ngày 28 tháng Hai, bất chấp sức khỏe thê thảm của mình, Don Bosco nói với các con cái ngài rằng:
– Cha lại đi Pháp một lần nữa.
Don Rua và Don Cagliero tìm cách thuyết phục ngài đừng đi. Các vị xin bác sĩ Albertotti đến thăm ngài. Bác sĩ sau một cuộc xét nghiệm lâu giờ, đã nói một cách rõ ràng:
– Đối với con, nếu cha tới Nice mà còn sống, thì đó là một phép lạ.
– Nếu tôi chết, thì đành vậy! Don Bosco thì thầm. Trước khi đi, tôi sắp xếp mọi chuyện cho ổn. Nhưng tôi phải lên đường.
Vừa ra khỏi phòng Don Bosco, Alberlotti nói với Don Rua:
– Cha phải lưu ý. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Don Bosco chết thình lình, mà không ai hay. Vậy đừng có ảo tưởng đấy!
Don Bosco gọi một Công chứng viên và các nhân chứng tới và đọc cho viết lời di chúc. Rồi ngài gọi Don Rua và Don Cagliero tới và chỉ cho các cha thấy tài liệu công chứng đang đặt ở trên bàn. Ngài nói:
– Đây là di chúc của tôi. Tôi đã ghi tên cả hai cha như là những người thừa kế mọi tài sản. Nếu tôi không trở về nữa, thì hai cha đã biết trước công chuyện đã như thế nào rồi.
Trái tim như nổ tung, Don Rua ra khỏi phòng. Don Cagliero ở lại, nước mắt rưng rưng:
– Này cha, cha muốn đi trong tình trạng này ư?
– Thế con muốn cha làm khác đi sao? Con không thấy là chúng ta không còn các phương tiện để tiếp tục hay sao? Nếu cha không đi, thì cha tìm ở đâu ra cho các con những cái cần thiết để trả các món nợ đã hết hạn? Chúng ta phải để cho lũ trẻ không còn bánh ăn hay sao? Cha chỉ có thể tìm ra được sự trợ giúp nơi nước Pháp.
Don Cagliero bật khóc. Cố gắng cầm mình lại, ngài nói với Don Bosco:
– Chúng ta luôn luôn tiến bước nhờ các phép lạ. Cha sẽ thấy là Đức Mẹ còn tiếp tục giúp đỡ chúng ta. Vậy cha hãy đi, chúng con sẽ cầu nguyện.
– Được, cha đi. Chúc thư của cha ở đó nhé. Cha trao nó cho con trong cái hộp này. Con hãy giữ nó như một kỷ niệm cuối cùng.
Cuộc hành trình qua Pháp lần này không dài. Ngài chỉ đi tới miền nam nước Pháp, nhưng ngài đã thu lượm được đủ số tiền quan trọng. Gia đình của Bá tước Colle tại Toulon một lúc trao vào tay Don Bosco cả 150000 lires.
Tại Marseille, Don Albera lo lắng cho sức khỏe của Don Bosco, đã xin bác sĩ nổi tiếng Combal tới thăm bệnh cho cha. Sau một cuộc khám bệnh tỉ mỉ, Combal cho ý kiến bằng một ngôn ngữ hình ảnh:
Cha chính là một chiếc áo đã hư nát. Cha đã mang nó cả tuần lễ, và tới cả Chúa Nhật để còn duy trì được nó, phương thức thứ nhất là đặt nó trong tủ áo. Cha hiểu là con căn dặn cha hãy nghỉ ngơi tuyệt đối.
– Tôi xin cảm ơn bác sĩ, nhưng đó là thứ thuốc duy nhất mà tôi không muốn uống.
Những khó khăn đã buộc ngài phải thực hiện chuyến hành trình quyên góp cuối cùng. Vào năm 1886, chỉ hai năm trước khi ngài chết, ngài lại đi Tây Ban Nha. Tại Barcelona, ngài được tiếp đón nồng nhiệt như ở Paris. Những đường phố tràn ngập người, những mái nhà bị gỡ ngói, và những đám đông người tụ lại dưới các đèn đường. Và người ta đã quảng đại tới mức nào! Họ dâng cho ngài thậm chí cả một quả đồi, “đồi Tibi Dabo” (Đồi “Ta Cho Con”), từ đó người có thể có một cái nhìn từ cao điểm để thấy cả thành phố một cách phi thường.
Ngài trở về Torino qua ngã miền Nam Nước Pháp: Montpellier, Tarascon, Valence, Grenoble. Một chuyến trở về chậm chạp tới nước Ý của ngài, đó là chuyến trở về cuối cùng. Ngài nói với một người cùng đi với ngài:
“Tất cả là công trình của Đức Mẹ. Tất cả đến từ kinh Kính Mừng Maria mà ngài đã đọc lên với một đứa trẻ cách đó 55 năm, tại nhà thờ Thánh Phanxicô Assisi”.
Trong khi cơ thể của ngài còng xuống ngày càng nhiều, thì linh hồn ngài tỏa ra thứ ánh sáng ngày càng sinh động. Don Belmonte, giám đốc nhà Sampierdarena, một ngày kia tâm sự với ngài: “Con mệt nhọc quá, con chẳng thể làm gì được nữa”.
Don Bosco cúi xuống phía trước một tí, kéo áo chùng thâm lên và cho thấy đôi chân xưng phồng lên, những vành da phủ xuống hai bên giầy của ngài. Và ngài chỉ góp ý thêm một lời:
– Con yêu quí, can đảm lên. Chúng ta sẽ nghỉ ở trên Thiên đàng. Buổi chiều ngày 25 tháng 6, các cựu học sinh dâng lên ngài những lời chào kính nồng nhiệt mừng lễ bổn mạng của ngài. Cảm kích, Don Bosco cám ơn họ và vì quá mệt nên ngài chỉ có thể nói lên được một lời:
– Cha không là gì khác ngoài chuyện là con ve sầu kêu ve ve rồi chết.
Nếu có ai đó thấy ngài đi một mình, còng lưng xuống, nên tới giúp ngài và hỏi ngài: “Cha đi đâu đấy, Don Bosco?”, thì ngài nhìn người ấy và mỉm cười dịu dàng rồi trả lời: “Chúng ta đi tới Thiên đàng”.
Nữ hầu tước de Barolo và Thủ tướng Camilo Cavour Nước Ý
là những người có liên hệ nhiều với Don Bosco trong giai đoạn đầu
Chương 49
Don Gioan Cagliero dựa theo các chương trình của Don Bosco, thì sẽ ở lại 3 tháng tại Châu Mỹ, để củng cố địa bàn truyền giáo thứ nhất này, rồi lại trở về Ý. Tuy nhiên ngài đã ở lại đó tất cả là hai năm.
Năm 1877, Don Bosco đã sai hai nhóm Salêdiêng khác với hai vị đứng đầu mỗi nhóm là Don Luigi Lasagna và Don Giacomo Costamagna, những vị này có khả năng giải quyết được các tình huống.
Thế là Don Cagliero trở về Ý. Trong năm 1877, Tổng Tu Nghị đầu tiên của Tu Hội họp tại Lanzo, và dĩ nhiên Don Cagliero cũng tham dự trong tư cách Giám Linh của Tu Hội và chuyên viên duy nhất về các vấn đề truyền giáo. Trong dòng những năm sau đó, Don Bosco trao cho ngài hai nhiệm vụ tế nhị: phát triển công cuộc Salêdiêng tại Tây Ban Nha và điều hành Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ đang trong những bước khởi đầu.
“Ai có thể đảm nhận chỗ của cha?”
Năm 1879, Don Bosco mới có 64 tuổi nhưng ngài đã cảm thấy kiệt lực và đang đi xuống mau chóng. Ngài muốn chọn giữa những người đã theo ngài đầu tiên một người nào đó để dần dần có thể đảm nhận trách nhiệm của tất cả các công việc của Tu Hội, và vào thời điểm mong muốn, có thể thay thế ngài; tóm lại là “một tổng đại diện” hay “phó bề trên cả”. Hai danh tánh khả thể là Rua và Cagliero. Rất trung thành và có khả năng, Don Bosco đều yêu quí cả hai và trong một mức độ nào đó ngài còn lưỡng lự. Chọn một người có nghĩa là để người kia trong bóng của kẻ khác chăng?
Và sau đây là tiến trình tế nhị Don Bosco sử dụng. Một buổi sáng mùa thu năm 1879, vào lúc ngài lên đường đi Foglizzo, ngài xin Don Cagliero đi theo ngài. Trong cuộc hành trình, ngài hỏi Don Cagliero:
– Nếu cha chết đi, thì con nghĩ ai sẽ thế chỗ của cha?
Don Cagliero không thề thốt, nhưng nhấp nháy mắt:
– Don Bosco yêu dấu, cha không nghĩ rằng còn quá sớm để nói về chuyện này sao?
– Đồng ý như vậy. Nhưng chúng ta cứ giả thiết là nó xẩy ra đi: Con sẽ nói cho cha hay những tên ai có thể làm?
– Những tên ai ư? Con chỉ thấy có một người sẽ đảm nhận chỗ của cha.
– Còn cha ngược lại cha chọn hai hay ba tên.
– Tiếp theo đó có thể có hai hay ba tên. Còn hiện tại con không tin là như vậy. Vậy cha hãy nói cho con nghe xem hai hay ba người đó là những ai?
– Trước hết con hãy nói cho cha nghe ứng cử viên của con.
– Don Rua. Vâng chỉ có một mình Don Rua thôi.
– Con có lý; Rua luôn luôn là cánh tay phải của cha.
– Là cánh tay, là đầu, là trái tim của cha đấy, Don Bosco thân yêu. Đó là người duy nhất có thể thay thế cha khi Chúa thật sự muốn gọi cha về Thiên Đàng.
Don Bosco đã rất tế nhị và Cagliero cũng rất tế nhị trong việc tránh đưa mình vào.
Chẳng có một bóng tối nào làm rối loạn việc tuyển chọn “Don Bosco thứ hai”.
Don Bosco không bao giờ nói lên lời cảm ơn, nhưng thật sự Don Bosco rất biết ơn Don Cagliero vì những lời cha nói đó với một sự khiêm cung thẳng thắn trong chiếc xe ngựa dẫn họ tới Foglizzo.
Một cái ôm hôn nồng thắm người con giám mục đầu tiên
Ngày 16 và 20 tháng 11 năm 1883, Tòa Thánh công bố hai tài liệu quan trọng. Miền Bắc và miền Trung Pantagonia (gồm phần lãnh thổ gần con sông Rio Negro, Chubut và Santa Cruz) được tuyên bố là “Hạt Đại diện Tông Tòa” tương đương với giáo phận, dưới quyền của Don Gioan Cagliero, được bổ nhiệm làm Quyền Đại diện Tông tòa. Và vùng đất Lửa (vùng đất cực Nam của Pantagonia) được tuyên bố là “Hạt Phủ Doãn Tông Tòa” và Don Fagnano được bổ nhiệm làm “Phủ Doãn Tông Tòa”.
Don Cagliero sẽ phải đi tới Mỹ Châu với tư cách là Quyền Đại diện tông tòa, chứ không phải với tư cách Giám mục: chỉ sau này ngài mới được nâng lên chức giám mục. Nhưng Don Bosco không đồng ý. Ngài nói với Đức Hồng Y Alimonda, và viết cho vị bảo trợ các Salêdiêng là Đức Hồng Y Nina, tha thiết khẩn cầu Đức Thánh Cha. Chính Đức HồngY Ferrieri không lắng nghe lời xin chi hết, nhưng lần này Đức Thánh Cha Leô XIII đã nhận lời khẩn cầu của Don Bosco.
Ngày 9-11-1884, một lá thư từ Roma gửi tới Valdocco: “Đức Thánh Cha trong lần bệ kiến thứ sáu cuối cùng này, đã ưu ái nhận lời cầu khẩn của Don Bosco, đồng ý trao ban chức Giám mục cho Don Cagliero, vị Quyền Đại diện Tông tòa mới tại Pantagonia”.
Don Bosco trải qua một ngày vui sướng. Giấc mơ xưa về con chim bồ câu và ngành lá ô-liu được thực hiện. Những lời nói cho đứa bé hấp hối tức Cagliero: “Các Sách Kinh nguyện linh mục, con sẽ phân phát cho nhiều người khác nữa… Con sẽ đi xa, đi thật xa…”, chẳng phải là một ảo tưởng sẽ trôi qua: tất cả đã trở thành hiện thực.
Lễ Tấn phong giám mục diễn ra tại thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ vào ngày 7-12-1884. Đối với Valdocco, đó là biến cố không thể nào quên. Một trong các học trò đầu tiên của Don Bosco, một cậu bé vào Nguyện Xá khi mới 13 tuổi, mồ côi cha, được tấn phong giám mục ở tuổi 46 để cai quản một vùng đất truyền giáo mênh mông.
Có hai chi tiết. Cuối buổi lễ nghi rất vĩ đại, vị Giám mục trẻ tách ra khỏi đoàn rước tiến về phía mẹ của mình. Bà cụ già bé nhỏ, bà Têrêsa tốt lành (đã 80 tuổi) đến gặp người con Giám mục của mình nhờ sự nâng đỡ của một người con trai và một người cháu. Đức Cha Cagliero xiết chặt vào ngực mình cái đầu trắng bạc phơ của mẹ, và giữa các người chứng kiến hết sức cảm động, ngài lại dẫn mẹ ngài với tất cả sự trìu mến về chỗ ngồi của mẹ. Bên cạnh phòng áo, trộn lẫn trong đám đông, Don Bosco đợi vị Giám mục với mũ Berét – linh mục cầm ở tay. Đức giám mục chạy lại và ôm siết ngài bằng cái hôn chào tha thiết. Đức cha đã dấu ngón tay đeo nhẫn Giám mục của mình trong các nếp áo. Chính Don Bosco “của ngài” mới là người đầu tiên hôn lên chiếc nhẫn mục tử mới này.
Don Rua Phó Bề trên đại diện Don Bosco
Don Bosco chỉ loan báo việc chọn vị Phó Bề Trên đại diện ngài sau khi Don Cagliero được tấn phong giám mục vùng Pantagonia. Ngày 24-10-1884, tại Ban thượng Cố vấn của Tu Hội, ngài nói: “Tôi cần một người để tôi có thể trao phó cho vị đó Tu Hội, để đặt Tu Hội trên đôi vai vị đó và trao cho vị đó toàn bộ trách nhiệm. Đức Thánh Cha sẽ bằng lòng là Don Bosco rút lui hoàn toàn. Đầu óc của tôi không tiếp tục chịu đựng được nữa…”.
Ngài viết cho Đức Thánh Cha trong khi đề nghị tên cha Michel Rua.
Sự phê chuẩn đến vào đầu tháng Mười Hai.
Don Bosco cầm lấy tay của ngài
Đức Cha Cagliero phải rời Torino đi Nam Mỹ vào ngày 1-2-1885. Ngài mang theo với mình 18 Salêdiêng và 6 Con Đức Mẹ Phù Hộ. Nhưng vào buổi chiều ngày 1 tháng 2, sau khi đã đồng hành cùng các nhà truyền giáo trong xe lửa, ngài cảm thấy mệt nhọc và trở lại qua đêm tại Valdocco. Ngài lên phòng Don Bosco, ngồi bên cha và cả hai đều giữ im lặng. Sau khi ngưng lại một lúc lâu, Don Bosco hỏi:
– Các bạn của cha đã đi rồi chứ?
– Vâng.
– Còn cha, khi nào cha đi?
– Con sẽ tới Samperdarena, ngày mai đi xuống tàu[17].
– Nếu được, cha hãy đi muộn hơn; cha đi nghỉ ngơi cho khỏe.
– Cứ để cho con đi. Bây giờ xin cha ban phép lành cho con.
– Tại sao lại phải ban chiều này? Sáng mai cha đến đây, chúng ta sẽ nói chuyện cách yên lành hơn.
– Không, Don Bosco, ngày mai con đi rất sớm.
– Nhưng cha đang mệt… Dẫu sao, cha cứ làm điều gì cha nghĩ là tốt nhất.
– Vậy cha hãy chúc lành cho con và đồng bạn của con.
– Vị giám mục quì xuống. Don Bosco cầm lấy tay ngài.
– “Con hãy đi một cuộc hành trình tốt đẹp. Nếu chúng ta không còn thấy nhau trên trái đất này nữa, chúng ta sẽ thấy lại nhau trên Thiên đàng.
– Cha đừng nói ra điều này. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
– Cứ như Chúa muốn. Ngài là chủ của chúng ta. Tại Áchentina và tại Pantagonia, các con sẽ có rất nhiều điều để làm; các con hãy làm việc thật nhiều. Đức Mẹ sẽ giúp các con.
Don Bosco bắt đầu đọc công thức ban phép lành. Ngài nói bằng một giọng chậm rãi và có lúc ngài không nhớ được các lời lẽ. Đức Cha Cagliero phải nhắc lại cho ngài cách nhẹ nhàng và Don Bosco dễ dạy, nhắc lại y nguyên các lời ấy trong khi vẫn cầm lấy tay Đức Cha Cagliero. Cuối cùng vị giám mục đứng dậy:
– Don Bosco thân yêu, con chúc cha giấc ngủ ngon lành. Bây giờ cha hãy đi ngủ đi.
– Con hãy chào thay cha các bạn đồng hành của con, các hội viên đang làm việc tại Châu Mỹ, các cộng tác viên… Cha còn nhiều điều khác phải nói với con…Xin Thiên Chúa chúc lành cho con.
Nhà của Đức Giám Mục là một nhà gỗ nhỏ bằng thân cây
Don Bosco theo dõi với nỗi cảm xúc âu yếm trong những năm cuối cùng của đời ngài các công việc truyền giáo của người con trai cường tráng và lạc quan này. Ngài đọc các lá thư và lập tức đưa sang cho Tập san Salêdiêng để ấn hành.
Vào tháng 7 năm 1886, Đức Cha Cagliero loan báo rằng phần đất quan trọng nhất và đông dân nhất tại phía bắc Pantagonia kể từ nay đã được biết đến, được thăm viếng và được dạy giáo lý do các nhà truyền giáo Salêdiêng.
– Cũng trong tháng Bẩy đó, người con trai của tộc trưởng Sayuhueque từ vùng thung lũng đi tới nơi ở của Đức Cha tại Pantagonès để xin ngài tiến vào trong vùng thung lũng Chichimal để rao giảng Tin Mừng cho các người lớn thuộc bộ lạc. Đức Cha Cagliero kể lại rằng: “Trong thung lũng rất rộng Chichinal, chúng tôi đã rửa tội cho 1700 dân bản địa. Hằng ngày chúng tôi dạy 3 giờ giáo lý vào ban sáng, và 3 giờ giáo lý vào ban chiều. Nhà của Đức Giám mục giống như một túp lều làm bằng thân cây và mái trét bùn để che chở cho tôi và các bạn hữu … khi trời không mưa. Không có dấu vết sử dụng đến giường. Chúng tôi ngủ trên các bộ da lông mà các người dân bản địa có tính tình tốt lành và đầy phấn khởi đã trao tặng cho chúng tôi cùng với một tấm lòng yêu thương lớn lao”.
– Năm 1887, Đức Cha Cagliero thực hiện một cuộc xuất phát truyền giáo mới với cha Milanesio và hai Salêdiêng khác. Cuộc hành trình truyền giáo này trải rộng trên 1500km gồm: các thung lũng Rio Negro, Andes, các dẫy đồi Cordillìeres và sườn dốc vươn xuống dưới vùng Concepción của nước Chilê.
– Trong vòng 1300km đi bằng ngựa, mọi sự diễn ra tốt đẹp. Đức Giám Mục ban phép rửa cho 997 người, hầu như tất cả là các người lớn da đỏ, chứng hôn cho 101 đôi, phân phát mình thánh cho hằng ngàn người và trao ban phép thêm sức cho 1513 người. Không thể kể hết được những giờ đã trải qua để dạy giáo lý cho các trẻ em và giảng Tin Mừng cho những người lớn.
– Sáng ngày 3 tháng Ba, trong khi các nhà truyền giáo vừa mới lên đường đi Malbarco trên bờ sông Neuquén, thì xẩy ra một tai nạn nghiêm trọng. Chính Đức Giám Mục đã kể lại trong một lá thư:
– “Sau khi đã đi ngang qua dẫy núi Cordillère cao 2000m, thì chúng tôi phải leo lên thềm nhiều ngàn mét khác. Con đường mòn đi ngoằn ngoèo bên cạnh các vách đá granít, và lao sâu xuống dưới thung lũng sâu. Thình lình con ngựa của tôi hoảng sợ và nhẩy cẫng cách điên cuồng. Tôi cầu khấn Đức Mẹ Phù Hộ và nhẩy khỏi yên ngựa. Một viên đá nhọn chọc vào người tôi, làm bể hai xương sườn và chọc thủng phổi tôi. Tôi chết lịm người đi và thở rất khó khăn. Các bạn tôi tới, và tôi nắm bắt sự việc từ góc cạnh lạc quan để tạo sự can đảm cho họ. Tôi nói rằng vì chúng ta có tất cả 24 cái xương sườn, nên chúng ta có thể thoải mái hy sinh vài cái. Chúng tôi phải trở lại phía sau đi qua hai con sông và leo hai dãy núi để tìm ra một chỗ nghỉ ngơi chăm sóc cho tôi. Nhưng chăm sóc theo kiểu nào! Chúng tôi chỉ có duy một người biết chữa chạy đứng ra lo cho các cơn bệnh với các cách chữa trị cổ xưa. Tôi xin anh ta làm thợ rèn chữa lành hai bên xương sườn của tôi. Tôi ở lại đó một tháng và “như Chúa muốn”, tôi được chữa lành. Tuy còn trong thời dưỡng bệnh, tôi lại phải lên ngựa và hành trình trong bốn ngày cùng với các người truyền giáo của tôi, tôi lại đi 3000 mét ngang qua dẫy núi Cordillères và rồi đi xuống các đồi dốc nhẹ của nước Chilê để tới ven bờ Thái Bình Dương. Tại đó chúng tôi thiết lập các nền tảng cho những nhà Salêdiêng mới của vùng Concapción, Talca, Santiago và Valparaiso. Như vậy trong suốt năm đó, luôn luôn trên lưng ngựa, cùng với ba người bạn đường, ngủ trong các hốc đá, hay dưới bóng cây, chúng tôi đã vượt qua Châu Mỹ từ biển này sang biển khác.
Vào tháng Tư năm 1884, Don Bosco phải đi Roma. Một số các ân nhân đã hứa một món tiền lớn cho nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhưng họ đã không xuất đầu lộ diện nữa. “Vậy phải đi rung chuông báo cho”, Don Bosco nói với một nụ cười buồn bã.
Vào dịp đó, lần đầu tiên trong đời, Don Bosco đứng ra trả lời cho một cuộc phỏng vấn (lối thông tin này đã được sáng chế ra vào năm 1859 do một người Mỹ có tên là Horace Greely). Chúng ta tin rằng có nhiều cái đang tò mò để đọc xem Don Bosco đã trả lời ra sao trước các câu hỏi trực tiếp của một nhà phóng viên Tờ Báo Roma . Buổi phỏng vấn này được ấn hành trong số báo ra ngày 25-4-1884.
Câu hỏi: Do một phép lạ nào ngài đã thiết lập biết bao nhiêu nhà tại các nước trên thế giới rất khác biệt nhau?
Trả lời: Tôi đã thực hiện được điều tôi không dám mơ ước, nhưng làm thế nào thì tôi cũng không biết nữa. Chính Đức Nữ Trinh, Đấng biết những nhu cầu của thời đại chúng ta, đã giúp đỡ tôi.
Câu hỏi: Nhưng Đức Mẹ đã giúp cha như thế nào?
Trả lời: Ông hãy nghe đây. Có một lần, để thực hiện nhà thờ chúng tôi đang xây dựng tại Roma, người ta đã viết cho tôi từ Torino rằng cần phải có 20.000 lires trong vòng tám ngày. Vào lúc đó, tôi không có tiền. Tôi đã đặt lá thư đó tại nơi có bình nước phép để xin chúc lành. Tôi đã nhiệt thành kêu xin Đức Mẹ và trao phó tất cả mọi chuyện này trong tay Mẹ, rồi tôi lên giường ngủ. Sáng hôm sau, tôi nhận được một lá thư từ một người lạ nói với tôi rằng: “Con đã làm một lời khấn xin Đức Mẹ nếu Mẹ ban một ơn chắc chắn cho con, thì con sẽ dâng 20.000 lires cho một công việc bác ái. Nay con đã nhận được ân huệ này và con trao số tiền này cho cha sử dụng”. Một lần khác, khi tôi đang ở Pháp, tôi nhận được một tin xấu là một trong các nhà của tôi thật sự đang cần tới 70.000 lires để tránh xa một nguy cơ. Tôi không thể tìm ra được một giải pháp nào, mà chỉ biết cầu nguyện thôi. Vào 10 giờ chiều, tôi đi ngủ thì thình lình tôi nghe tiếng gõ cửa căn phòng của tôi. Tôi đi mở cửa. Một người bạn vào cùng với một tập hồ sơ trong tay và nói với tôi: “Don Bosco thân mến, trong chúc thư của con, con đã tiên liệu một số tiền cho các công cuộc của cha. Nhưng hôm nay, con thoạt suy nghĩ là để làm sự thiện, tốt hơn là đừng đợi cho đến khi chết. Vậy nên con đã lập tức đem tới cha số tiền 70.000 lires”.
Câu hỏi: Đó quả là những phép lạ. Cha cho phép cho con một sự tò mò: Liệu chính cha có làm một phép lạ nào chăng?
Trả lời: Tôi chỉ luôn nghĩ là mình hoàn thành tốt bổn phận của mình thôi. Tôi cầu nguyện và tôi gửi gắm tôi cho Đức Mẹ.
Câu hỏi: Cha có thể nói cho chúng con hay hệ thống giáo dục của cha như thế nào chăng?
Trả lời: Điều đó thật vô cùng đơn giản: là hãy để cho các trẻ em được hoàn toàn tự do làm những điều mà các em thấy thích nhất. Vấn đề là phải làm sao tìm ra những mầm mống của các khả năng tốt lành và phải làm sao để làm điều mình cần phải làm để phát triển chúng. Mỗi người sẽ chỉ vui lòng làm điều mình biết là có thể thành công thôi. Tôi dựa trên nguyên lý này và tất cả các học sinh của tôi đều đã làm việc, không những với nhiệt tình mà còn với cả tình yêu. Trong 46 năm, tôi chưa bao giờ nghiêm phạt chúng. Tôi dám quả quyết rằng các học sinh của tôi thương mến tôi nhiều lắm!
Câu hỏi: Làm thế nào mà cha có thể trải rộng các công cuộc của cha sang tới tận Pantagonia và Vùng đất lửa?
Trả lời: Dần dần trong mỗi lúc..
Câu hỏi: Cha nghĩ gì về các điều kiện mới của Hội Thánh tại Âu châu, tại Ý, và tương lai của Hội Thánh?
Trả lời: Tôi không phải là một tiên tri. Ngược lại, chính tất cả các ông là những nhà báo mới là những người tiên tri đấy! Vậy các ông phải hỏi chính các ông chuyện gì sẽ xẩy đến chứ. Không có ai cả, ngoại trừ Thiên Chúa, mới biết được tương lai. Tuy nhiên, nói theo kiểu loài người, ta có thể tin rằng tương lai chắc sẽ khó khăn. Những tiên đoán của tôi thật là buồn thảm, nhưng tôi không sợ gì cả. Thiên Chúa sẽ luôn luôn cứu Hội Thánh và Đức Mẹ, Đấng hiển nhiên che chở thế giới hiện đại một cách hữu hình, sẽ làm nẩy sinh ra những vị cứu tinh.
Căn nhà của Don Bosco tại thôn Becchi
Chương 50
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG của Don Bosco trong những năm cuối cùng càng ngày càng thêm tinh tế. Nỗi đau đớn có thể đẩy đến một sự thất vọng hay sự chỉ trích cay độc, nhưng cũng nẩy sinh sự thánh thiện. Sự ươm mầm thánh thiện này đã biểu lộ nơi Don Bosco ngày càng nổi bật. Nhân cách ngài như được biến đổi.
Pietro Stella viết: “Trong mười năm cuối cùng của cuộc sống ngài, cách riêng kể từ năm 1882, Don Bosco biểu lộ như một con người kể từ nay đã thấm nhuần một mối lợi chất cao của một kinh nghiệm lâu dài. Xem ra ngài không còn phải chịu nỗi đau khổ của những sự bất đồng với anh Antôn của ngài, hay với những cộng sự viên đầu tiên của ngài và với Đức Tổng Giám Mục Gastaldi. Hơn bao giờ hết ngài từ bỏ sự tranh luận; ngài không thích người ta đánh nhau; ngài đòi hỏi ngay cả trong các cuộc tranh cãi hay đối đầu, người ta không được cao giọng, không được tấn công, không được bắt chước cung cách của những tờ báo Công giáo chỉ thích tranh cãi gay gắt và mang tính chất đả phá. Ngài muốn người ta đi qua giữa những giọt nước của cơn bão mà không bị ướt”. Những năm cuối cùng của đời ngài là những năm của những bất đồng lớn và những sự tôn trọng rất thô thiển của chính quyền, của các mối phiền toái về thuế má xẩy ra quá thường xuyên do các chính quyền quản trị và chính trị, nhưng cũng chính khi đó ngài xem ra hơn bao giờ hết thấm đượm cái lý tưởng của lòng dịu dàng và của sự thông cảm”.
Một vị linh mục nghiêm chỉnh và suy tư
Năm 1883, một linh mục trẻ, nghiêm chỉnh, giàu suy tư, tới Lombardia để được nhìn thấy ngài. Vị linh mục đó tên là Achille Ratti. Don Bosco nói chuyện với ngài tới hơn nửa tiếng đồng hồ và trả lời cho ngài những điều mà ngài muốn biết. Sau đó Don Bosco:
– Bây giờ cha hãy coi cha là chủ của nhà này. Tôi không thể đi cùng cha được vì tôi rất bận, nhưng xin cha hãy đi, đến và xem tất cả những gì cha muốn xem.
Cùng lúc ấy các giám đốc của các nhà Salêdiêng đến tham dự cuộc họp, đã có mặt tại Valdocco. Sau bữa ăn, trong khi Don Bosco đứng đó, dựa vào chiếc bàn ăn, thì họ đến trình bày những khó khăn của họ. Cha Ratti muốn rút lui, thì Don Bosco nói với ngài một cách kỳ lạ:
– Không, không, cha cứ ở lại đó!
Linh mục đó sẽ trở thành Đức Giáo Hoàng Piô XI. Bốn mươi chín năm sau, khi nói về Don Bosco cho các chủng sinh tại Roma, ngài kể lại sự kiện này và nói: “Có những người đến với cha từ khắp mọi nơi: người thì với khó khăn này, kẻ khác có khó khăn kia. Còn ngài, thì đó như là một chuyện của chốc lát, lắng nghe tất cả, nắm bắt tất cả, trả lời tất cả. Con người đó chú ý tới tất cả những gì xẩy ra xung quanh mình, và đồng thời, ngài đang ở với Thiên Chúa. Hay, một chuyện lạ là ngài nói chính xác điều gì cần cho mỗi người. Đó chính là một thứ cuộc sống của sự thánh thiện, của kinh nguyện liên lỉ mà Don Bosco đã sống giữa những bận rộn không ngừng và rất nặng nhọc”.
Một bông hoa giúp nghĩ về cõi đời đời
Vào tháng Tư năm 1885, ngài đi lại vài bước trong vườn của một bà quí tộc đã mời ngài dùng bữa sáng cùng với vị thư ký của ngài là cha Viglietti. Trong khi bước đi chậm rãi, ngài dừng chân lại trước một thảm những cây hoa. Ngài ngắt một bông vi-ô-lét (hoa tím) và tặng nó cho bà chủ:
– Thưa bà, bà đã ưu ái mời chúng tôi tới dùng bữa điểm tâm, tôi muốn cám ơn bà với một bông hoa mà nó là một tư tưởng.
– Tư tưởng nào đó, Don Bosco?
– Tư tưởng về cõi đời đời. Đó là tư tưởng phải luôn luôn đồng hành với chúng ta. Tất cả mọi sự ở trần gian qua đi: chỉ có cõi đời đời mới tồn tại vĩnh viễn. Chúng ta hãy làm việc cho cõi đời đời của chúng ta thật là nơi hạnh phúc.
Don Bosco đã nghĩ về cái chết, về cuộc gặp gỡ cùng Thiên Chúa. Đôi khi tư tưởng này khiến cho ngài trở nên nghiêm chỉnh, tư lự. Một ngày kia vào năm 1885, trong khi chào một người tại San Benigno Canavese, ngài nói với ông ta:
– Xin ông cầu nguyện cho tôi.
– Ồ, Don Bosco! Nhưng cha không cần lời cầu nguyện mà.
Don Pisetta có mặt ở đó làm chứng rằng:
– Khi đó ngài trở nên rất nghiêm nghị, nước mắt trào ra, và nhắc lại với một dấu nhấn của một sự thành thực sâu xa: “Tôi cần lắm”.
Vào tháng Tám 1885, ngài đến Nizza Monferrato để chủ sự lễ mặc áo dòng cho các các nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ. Ngài thật sự kiệt sức đến độ ngài chỉ có thể cho một vài sơ chịu lễ được thôi. Ngài tham dự lễ mặc áo dòng và tuyên khấn khi ngồi tại ghế bành. Nhưng ngài muốn nói một đôi chút. Giọng ngài thều thào và Don Bonetti bên cạnh ngài đứng ra làm “loa phóng thanh” trong khi nhắc lại với giọng to những câu mà người ta không hiểu.
– Vậy các con muốn cha nói với các con vài lời. Nếu cha có thể nói được một bài diễn văn, thì cha có biết bao nhiêu điều để nói với các con! Nhưng cha già rồi, một cụ già sắp ngã xuống, như chúng con thấy đó. Cha muốn nói với chúng con duy một điều thôi là Đức Mẹ yêu mến chúng con rất nhiều, rất nhiều. Và chúng con biết đấy, Mẹ đang ở đây, giữa chúng con…
Và cha Bonetti lớn giọng cắt nghĩa rằng:
– Don Bosco muốn nói rằng nếu các chị em tốt lành, thì Đức Mẹ là Mẹ của các chị em, sẽ gìn giữ và che chở các chị em.
– Không, không – Don Bosco lấy lại tư tưởng của mình – Cha muốn nói rằng Đức Mẹ thật sự ở đây, trong nhà này, và Mẹ bằng lòng với các con.
Cha Bonetti tiếp tục nói:
– Don Bosco nói rằng nếu các chị em tốt lành, Đức Mẹ sẽ bằng lòng với các chị em…
– Khi ấy Don Bosco thu góp lại toàn thể sức lực của ngài, và mở rộng đôi cánh tay ra và nói:
– Nhưng không phải thế, không phải thế! Cha muốn nói rằng Đức Mẹ thật sự đang ở đây, ở giữa các con! Đức Mẹ đi dạo trong nhà này và phủ áo lên nhà này.
Don Bosco và những người giàu có
Trong 25 năm cuối đời, những món tiền to kếch xù, đã qua tay Don Bosco. Thực sự là những triệu đồng lires (và đó là tiền lires của những năm 1800). Don Bosco vẫn luôn luôn là một người nghèo, điều đó dĩ nhiên là vậy! Không bao giờ một đồng xu ở lại trong tay ngài; nhưng người ta tự hỏi: “Những người giàu cho cha cả những món tiền lớn, Don Bosco có khen ngợi họ một cách quá đáng hay không? Ngài có làm cho lương tâm họ yên lắng về trách nhiệm xã hội mà họ phải có chăng?”. Câu hỏi này là một câu hỏi chính đáng.
Sau khi đã học hỏi về đời sống Don Bosco, có vẻ như ngài đã cư xử rất tế nhị đối với những ai làm điều tốt cho ngài: người nông dân và thợ thuyền đã cho ngài 10 xu và bá tước Colle đã cho ngài tổng cộng là 50 tờ ngân phiếu mỗi tờ 1000 lires.
Hơn là kể ra những lời (nhất là những lời liên quan đến “việc làm yên ổn các lương tâm”), chúng ta muốn kể ra những sự kiện.
Tại Sampierdarena, vào năm 1882, ngài đi thăm một cha dòng Capuxin, cha giải tội của một ông quí tộc giàu có hằng triệu triệu ở Genova, nay đã già mà không có con. Don Bosco sau khi đã vào được trong vấn đề, đã hỏi ngài:
– Tại sao ông giàu có đó lại không làm sự thiện tương xứng với gia sản ông ta có?
– Cha lầm rồi, thưa Don Bosco. Hằng năm, ông ta cho 20 ngàn lires cho người nghèo.
– Hai mươi ngàn lires mà thôi sao? Nếu ông ta vâng lời Chúa Giêsu Kitô, tức là cho tương xứng với tài sản ông ta có, thì trăm ngàn có lẽ còn chưa đủ nữa là đàng khác.
– Tôi hiểu, nhưng tôi không biết làm sao thuyết phục ông ta. Cha sẽ làm gì trong hoàn cảnh của tôi?
– Tôi sẽ nói là tôi không thể đi vào hỏa ngục vì cớ ông ta, và rằng nếu ông ta muốn vào hỏa ngục, ông ta cứ đi vào một mình đi. Sau đó tôi sẽ bó buộc ông ta làm việc thiện theo như hoàn cảnh của ông ta. Nếu ông ta không muốn, tôi sẽ nói với ông ta là tôi không thể tiếp tục trách nhiệm về linh hồn ông ta.
– Được, tôi sẽ nói cho ông ta – Vị linh mục Capuxin hứa.
Cha Capuxin đã làm như ngài đã hứa. Những lời lẽ của ngài không làm vui lòng ông giàu có đó, và ông ta bảo ngài đi. (M.B., Cuốn XV, tr. 520).
Ông nhà thầu Borgo, cũng là người quê ở Sampierdarena, đã làm rất nhiều công việc phục vụ cho nhà Salêdiêng, giúp đỡ các trẻ em thật sự rất nghèo. Ông ta đã ứng trước những món tiền rất lớn mà không đòi hỏi tiền lợi tức; ông ta đã thực hiện các sơ đồ xây dựng và trong suốt hai năm, ông ta không đòi hỏi tiền lương cho việc trông coi công việc xây cất.
Vợ ông ta đã chết từ 20 năm nay và ông ta giữ lại tại nhà ông những đồ trang sức và những quần áo lộng lẫy của người vợ quá cố. Một ngày kia, như tình cờ, ông ta nói với Don Bosco rằng ông ta muốn làm cái gì đó để nhớ tới vợ ông ta và có ý đảm bảo cho việc cứu rỗi linh hồn của bà ta. Don Bosco với một vẻ đột ngột và đã hỏi ông ta:
– Nếu ông muốn là người Kitô hữu, thì tại sao ông lại giữ lại nhà ông biết bao nhiêu đắt đỏ và vô ích thế?
– Cha muốn khuyên tôi điều gì?
– Ông hãy mang những thứ đó lại đây cho các trẻ con này. Chúng chẳng có cả đến những cái cần thiết.
– Ông nhà thầu từ biệt cha, và cảm thấy bị xúc phạm. Hy sinh mà Don Bosco nói tới đây thật là qúa đáng. Dẫu sao ông cũng suy nghĩ kỹ lưỡng về những lời nói đó. Sau ít ngày, ông ta trở lại. Don Bosco vẫn còn ở Sampierderena. Ông đích thân trao lại cho ngài tất cả những kỷ niệm quí giá của người bạn đời của ông.
Xem ra đối với rất nhiều các Salêdiêng, những lời lẽ Don Bosco sử dụng đối với những người giàu có có vẻ quá nghiêm khắc, nhưng vào ngày 4-6-1887, Don Bosco cắt nghĩa: “Trong một số đêm cha đã thấy Đức Mẹ trong giấc mơ. Mẹ đã quở trách cha nhiều lần là không nói về bổn phận thi hành việc bố thí. Mẹ đã than phiền các linh mục, Giáo Hội, đã sợ hãi không dám cắt nghĩa về bổn phận phải cho đi những thứ dư thừa cho người nghèo; chính vì lỗi của họ mà những người giàu có chất đống vàng bạc của họ trong két.
Ngày 22-4-1887, cùng với Don Belmonte và Don Viglietti, Don Bosco từ Sampierdarena tới Sestri Ponente để thăm bà Luigia Cataldi, vị đại ân nhân của ngài. Cuối cuộc gặp gỡ, trong khi bà đi theo Don Bosco đến lối ra, bà hỏi cha:
– Don Bosco, con phải làm gì để được cứu rỗi?
– Để được cứu rỗi, bà nên nghèo khó như ông Gióp.
Bà đâm hoang mang và Don Belmonte, người đã nghe được câu hỏi và câu trả lời, cũng hoang mang. Don Bosco không nói thêm một lời nào nữa. Khi chiếc xe đã đưa họ trở về nha, Don Belmonte, với sự thẳng thắn của các hội viên Salêdiêng đầu tiên, đã nói:
– Don Bosco, cha đã táo bạo tới mức nào mà dám nói như vậy với người đàn bà khổ sở ấy như thế! Của bố thí thì bà ta đã phân phát nhiều lắm mà!
– Cha hãy nghe – Don Bosco trả lời – Không bao giờ có ai dám nói chân lý cho những người vĩ đại cả.
Trong cuộc hành trình cuối cùng của ngài sang Pháp, Don Bosco thực hiện một chuyến đi tới Hieres. Ông chủ tịch Xã Hội thượng lưu vì thương mại, đã đích thân đi qua các hàng ghế nhà thờ vận động quyên góp cho Don Bosco. Vào cuối cuộc quyên góp, ông đã chia vui với Don Bosco rằng đã có rất nhiều người dự thánh lễ đã trút hết ví tiền vào khay quyên góp. Don Bosco mới nói với ông ta:
– Tôi thấy đó là chuyện tự nhiên thôi. Nếu họ là các Kitô hữu, họ phải đem cho những của dư thừa cho người nghèo. Ông xem đấy, thưa ông Abeille, khi ông đã để dành ra được 100 đồng Francs mỗi tháng và một trăm đồng Francs mỗi tháng là nhiều lắm rồi, thì phần còn lại họ phải cho Thiên Chúa chứ!
Cái chết của một trong các nữ ân nhân của Don Bosco, một nữ bá tước 84 tuổi. Vẫn còn mãi in sâu một cách đau đớn nơi tâm trí Don Bosco. Bà đã cho gọi Don Bosco đến, đã xưng tội với ngài, rồi bà nhìn cha Bosco với con mắt lạc lõng, rồi nói với cha:
– Vậy là con sẽ phải thực sự chết sao?
Bosco mới tìm cách nói với bà về Thiên Chúa, nhưng bà ta nhìn ra xung quanh với một nỗi đau khổ nặng nề, rồi tiếp tục thì thầm:
– Ôi tòa dinh cơ đẹp đẽ của tôi, những căn phòng của tôi, phòng khách ấm cúng của tôi, tôi phải thực sự từ giã chúng sao?
Bà đã muốn các người giúp việc đặt cạnh giường bà một tấm thảm Ba tư quí báu, bà vuốt ve nó và như mất hút trong suy tưởng, bà nhắc đi nhắc lại:
– Nó đẹp quá! Tại sao tôi lại phải từ giã nó?
Với Don Antôn Sala, người tỏ ra ái ngại đi ngửa tay xin tiền từ thiện, Don Bosco nói cách kiên quyết:
– Cha hay can đảm đi đi. Những người giàu có giúp đỡ chúng ta, nhưng chúng ta cũng giúp đỡ họ khi tạo cho họ cơ hội để giúp đỡ những người nghèo.
Trong năm 1876, khi đi ngang qua Chieri, Don Bosco thấy ông Giuseppe Blanchard, người bạn nhỏ của ngài thường trút hết giỏ trái cây của gia đình mình để giúp nuôi sống ngài khi xưa. Ông ta bây giờ cũng đã trở thành một cụ già nhỏ bé rồi. Ông ta đi qua đường phố tay cầm một chiếc đĩa và một chai rượu. Don Bosco liền giã từ các linh mục mà ngài đang nói chuyện, để đến gặp người bạn cũ cách vui tươi:
– Blanchard thân mến! Mình sung sướng quá khi được gặp cậu. Khỏe chứ?
– Tốt, tốt, thưa nhà hiệp sĩ – Blanchard bối rối trả lời.
Khuôn mặt Don Bosco trở nên buồn rầu:
– Sao cậu gọi mình là Hiệp sĩ? Chúng ta không nói chuyện “tớ, cậu” với nhau nữa sao? Mình chỉ là một Don Bosco khốn khổ, luôn luôn nghèo như khi cậu còn cho mình ăn đấy.
Rồi Don Bosco quay mặt về phía các linh mục đang tiến lại phía họ:
– Thưa các ngài, đây là một trong các vị ân nhân của Don Bosco nghèo khó đấy. Này Blanchard, mình muốn các vị ấy biết cậu. Bởi vì cậu đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được cho mình. Vậy cứ mỗi lần cậu lên Torino, thì cậu tuyệt đối phải dùng bữa ở nhà mình nhé.
Mười năm sau đó, tức năm 1886, Clanchard nghe tin sức khỏe của DonBosco xấu đi. Ông ta đến Torino để thăm ngài. Trong phòng đợi, vị thư ký mới nói với ông ta:
– Don Bosco đau ốm và đang nghỉ. Ngài không thể tiếp đón một ai.
– Xin cha cứ nói với ngài là có Blanchard; cha sẽ thấy là ngài sẽ đón tiếp tôi.
Don Bosco ở sau cửa nhận ra tiếng của ông ta. Ngài cố gắng đứng dậy và tới gặp ông ta. Ngài cầm lấy tay ông ta, đưa ông ta vào, rồi ngồi gần ông ta:
Bạn Blanchard tuyệt vời, bạn đã nhớ tới Don Bosco nghèo khổ. Sức khỏe của bạn ra sao, và gia đình bạn thế nào?
Hai người nói chuyện với nhau một lúc lâu, và đã tới giờ ăn:
Bạn thấy đó, mình đã già rồi và lại ốm yếu nữa. Mình không thể xuống phòng ăn để dùng bữa với bạn được. Chân của mình không chịu nổi cảnh bước xuống cầu thang nữa. Nhưng mình muốn bạn xuống ăn với các Salêdiêng.
Ngài gọi cha thư ký:
– Cha hãy dẫn người bạn của tôi xuống phòng ăn các bề trên và đặt ông ta ở chỗ của tôi. Mình cầu nguyện cho bạn nhé, Blanchard ạ! Và bạn đừng bao giờ quên Don Bosco khốn khổ nhé.
– Vô cùng bối rối, người bạn già nhỏ bé ở vùng Chieri xưa đã dùng bữa hôm đó ở giữa Ban Thượng Hội Đồng của Tu Hội và kể lại tình bạn của ông ta với Gioan Bosco tại Chieri và cuộc gặp gỡ của họ 10 năm về trước.
Xuống Roma trong vòng mười ngày
Sang tháng Năm 1887 thánh đường Thánh Tâm coi như đã được hoàn tất, sắp được cung hiến. Trong các bức tường đền thờ này, Don Bosco đã có bẩy năm gồm những công việc, những khổ cực và sức khỏe bị tàn tạ.
Don Bosco lý ra đã chẳng thể nào đến được Roma. Người ta đã nghĩ cách để hoàn thành chuyện này qua những chặng hành trình ngắn, với nhiều dịp dừng lại. Ngài lên đường sáng 20-5-1887. Don Lazzero viết: Ngài rời khỏi nhà, và có vẻ như ngài chẳng chịu nổi ngay khi vừa tới Moncalieri, một chặng dừng ngay ngoài Torino. Don Rua và Don Viglietti đồng hành với ngài. Đây là lần đầu tiên Don Bosco cho phép mình đi trên toa xe hạng nhất. Ngài thực hiện nhiều chặng dừng chân tại các nhà Salêdiêng ở dọc theo bước hành trình của ngài và tại các nhà của các ân nhân đã được báo trước.
Tại Firenza, ngài gặp nữ bá tước Ugucácioni. Don Bosco thì được Don Viglietti nâng đỡ, còn nữ bá tước thì ngồi trên ghế bành. Don Bosco nói đùa:
– Rất sung sướng được gặp lại Bà bá tước! Chúng ta thử làm một cuộc đi dạo bằng vũ điệu nhé?
– Ồ, Don Bosco! Cha không thấy con đang ở trong tình trạng như thế này sao…
– Được, được, Bà bá tước đừng sợ. Cuộc dạo bằng vũ điệu này chúng ta sẽ thực hiện ở trên Thiên đàng!
Tại nhà ga Arezzo có một cuộc gặp gỡ bất ngờ. Ngay khi thấy ngài, ông chủ nhà ga đã chạy tới, ôm hôn ngài và vừa nói vừa khóc vì sung sướng:
– Don Bosco, cha không nhận ra con sao? Con là một đúa bé ngỗ nghịch ở Torino, không cha, không mẹ. Cha đã tiếp nhận con, dạy dỗ và yêu mến con. Bây giờ con có một gia đình tốt đẹp và địa vị này chính là nhờ cha mà con có được.
Don Bosco tới Roma vào buổi sau trưa ngày 30 tháng 04.
Người ta đưa ngài đi thăm chủng viện Lombardia. Họ xin ngài nói chuyện với các chủng sinh. Ngài chỉ nói ra được một câu thôi:
– Các con hãy luôn luôn nghĩ đến điều Chúa có thể nói với các con, chứ đừng để ý đến điều người ta sẽ nói về các con, dù là lời nói tốt hay lời nói xấu.
Đức Thánh Cha đã tiếp ngài và để ngài ngồi bên cạnh và đặt trên hai đầu gối ngài miếng da chồn lớn. Ngài nói thì thầm:
– Tâu Đức Thánh Cha, con đã già. Đây là lần hành trình cuối cùng và kết thúc mọi sự đối với con…Có quá nhiều chuyện phải làm, nhưng con không cần căn dặn các con cái của con phải làm việc. Tốt hơn con phải căn dặn họ sự chừng mực – và đang khi nói như vậy, Don Bosco hướng ánh nhìn của ngài sang phía Don Rua đang ở bên ngài. Có nhiều người đã làm hư hoại sức khỏe của mình do làm việc không những ban ngày mà cả ban đêm nữa.
– Tâu Đức thánh Cha, – Don Rua nói,- người đã làm gương xấu này cho chúng con đó chính là Don Bosco.
Đức Thánh Cha mỉm cười và cho một lời khuyên tốt lành:
– Cha tha thiết nhắn nhủ cha và người đại diện cho cha là đừng lo sao cho có con số đông hội viên, mà phải lo sao cho các hội viên của mình thánh thiện. Không phải số lượng các Salêdiêng làm tăng lên vinh quang của Thiên Chúa, mà là nhân đức, sự thánh thiện. Do đó, hãy khôn ngoan và nghiêm khắc trong những việc tiếp nhận.
Trong khi các ngài xuống cầu thang, thì những lính gác Thụy Sĩ bắt đầu nói “Hãy cẩn thận đấy”. Don Bosco cười và nói với họ:
– Cứ yên tâm. Tôi không phải là một ông vua. Tôi là một linh mục nghèo khổ gù lưng.
Đền thờ Thánh Tâm Chúa được cung hiến vào ngày 14-5-1887.
Ngày 15, Don Bosco muốn vào thánh đường để cử hành thánh lễ tại bàn thờ Đức Maria Phù Hộ. Ngài vừa mới bắt đầu làm lễ, thì Don Viglietti giúp lễ cho ngài thấy ngài bắt đầu khóc: Những dòng nước mắt bất tận, không thể cưỡng lại được chảy ra hầu như trong suốt buổi lễ. Cuối lễ, người ta phải dìu ngài lên và đưa vào phòng áo. Don Viglietti lo lắng, mới nói nhỏ với Don Bosco:
– Don Bosco, cha có gì thế? Cha không được khỏe chăng?
Don Bosco lắc đầu:
– Chính cái cảnh sinh động của giấc mơ 9 tuổi hiện lên trước mắt tôi. Tôi đã thấy lại giấc mơ ấy và nghe mẹ tôi, các anh tôi bàn luận với nhau về điều tôi đã mơ.
Trong giấc mơ xa xôi ấy, Đức Mẹ đã nói với tôi: “Vào giờ của nó, con sẽ hiểu”. Hiện tại, khi nhìn về quá khứ của ngài, Don Bosco hình như đã thật sự hiểu hết tất cả. Chuyện này đáng để cho ngài phải chịu biết bao nhiêu hy sinh, biết bao nhiêu lao nhọc để cứu nhiều người trẻ.
Ngày 8-5-1887, Don Bosco giã từ Roma lần chót.
Luigi Orione: ba cuốn sổ tay ghi các tội
Ngay cả trong những năm cuối đời, bị nghiền nát bơi các cuộc hành trình và nợ nần, Don Bosco cũng không bao giờ tách mình khỏi đám trẻ con. Nhìn thấy chúng, lắng nghe chúng, mỗi bước đi với chúng, đều đem lại cho ngài sức sống sau những ngày mệt nhoài .
Vào tháng Mười 1886, một đứa trẻ 14 tuổi vùng Pontecursone được nhận vào Nguyện xá. Tên cậu bé là Luigino Orione, con trai của một người lát gạch vỉa hè. Chính cậu ta cũng từng qùy ở bên bố mình, hằng giờ với đầu gối dìm vào đống cát, rồi xếp những viên gạch này bên cạnh viên khác, vùi chúng xuống đất bằng những cú gõ nhẹ của búa. Cậu ta đã thử trở thành sư huynh La Salle tại Voghera, nhưng rồi bị ốm và buộc phải trở về nhà. Các Salêdiêng tại Valdocco đã tiếp nhận cậu.
Louis thích Don Bosco lắm và bị thu hút bởi ngài. Khi cha đi xuống sân chơi “nhưng kể từ đó họa hiếm lắm cha mới xuống”, thì các trẻ em từng toán mười hay cả trăm em chen nhau bao quanh ngài, tranh nhau chỗ gần ngài nhất, sung sướng tiếp nhận lấy mỗi lời Luigino lấn mạnh nhất để có chỗ ở hàng đầu. Don Bosco nhận diện cậu bé, và mỉm cười với cậu, hỏi cậu ta rằng tại xứ cậu, mặt trăng có to lớn như ở Torino chăng, và khi ngài thấy cậu bé cười, thì ngài nói đùa rằng: “Con là thằng bé làm cho tuyết rơi, một thằng bé ngây thơ”. Luigino nẩy sinh một khao khát là được xưng tội với Don Bosco. Nhưng làm sao để làm được chuyện này?
Don Bosco hầu như mất hết sức lực rồi. Cha chỉ giải tội cho một vài Salêdiêng và cho các học sinh lớp 12 đang chuẩn bị vào nhà tập. Nhưng bằng một phương cách rất đặc biệt nào đó, Luigino được cha nhận giải tội cho. Vậy cậu ta nghĩ là mình phải chuẩn bị cho thật kỹ. Sau đây là lời chính Don Orinoe kể lại: “Trong việc xét mình của tôi, tôi viết đầy ba cuốn sổ”. Để không quên một điều gì, cậu tra hỏi các công thức xưng tội. Cậu chép lại hết, cáo mình về mọi sự. Chỉ có một câu hỏi cậu trả lời là không có mà thôi: đó là “Con có giết người không? Thì cậu viết lại rằng “thưa con không!”. Thế rồi cậu đút cả ba cuốn sổ vào túi, tay đặt trên ngực, mặt cùi xuống đất, xếp hàng để đợi phiên mình. Cậu run lên vì cảm động.
Don Bosco sẽ nói với mình cái gì đây khi ngài sẽ đọc hết các tội này?
Cậu đưa tay chạm vào các cuốn sổ đó. Và phiên của cậu đã đến. Cậu quì gối xuống. Don Bosco nhìn cậu mỉm cười.
– Con đưa các tội của con cho cha.
Cậu bé rút ra cuốn sổ tay thứ nhất. Don Bosco cầm lấy nó, xem ra ngài đang thử xem nó nặng bao nhiêu rồi ngài xé nó đi.
– Con đưa cho các cuốn khác.
Cả hai cuốn sổ khác cũng chung số phận như vậy. Đứa bé tiếp tục nhìn, bối rối không biết làm gì nữa.
– Bây giờ thì việc xưng tội đã xong – Don Bosco nói – Con đừng nghĩ gì nữa về những gì con đã viết.
Rồi ngài mỉm cười với cậu. Luigino sẽ không bao giờ quên được nụ cười ấy. Sau lần xưng tội này, cậu còn thành công được vài lần khác xưng tội với Don Bosco.
Một hôm Don Bosco nhìn vào mắt cậu:
– Con hãy nhớ là chúng ta hai người sẽ luôn là bạn của nhau nhé.
Luigi Orione sẽ không bao giờ quên được lời hứa đó. Khi cậu biết là Don Bosco sắp kết thúc cuộc sống, cậu đã dâng hiến cuộc sống của mình để đổi lấy mạng sống của Don Bosco. Khi cậu sẽ trở thành Cha của một Tu Hội với các Nguyện Xá và các nhà cho các trẻ con nghèo khổ nhất, thì ngài còn lên tiếng nói khi nghĩ về Don Bosco:
– Để có thể được thấy ngài một lần nữa và nói với ngài tiếng cám ơn, tôi sẽ sẵn sàng bước đi trên than hồng.
Ngài luôn luôn gọi ba năm ở Valdocco là “Mùa sự sống sung sướng nhất của cuộc đời tôi”.
Chương 51
Vào cuối tháng Tám 1887, có các khóa tĩnh tâm tại Valsalice, trên đồi Torino, cho các người trẻ xin gia nhập Tu Hội Salêdiêng. Don Bosco tới đó sẵn sàng tiếp nhận những ai muốn xưng tội với ngài.
Kể từ ngày 25 tháng Năm, ngài đã không còn chủ trì các cuộc họp của Ban Thượng Hội Đồng của Tu Hội nữa, mà để lại nhiệm vụ này cho Don Rua, phó bề trên đại diện ngài. Nhưng ngày 12 tháng 9 năm 1887, ngài tham dự khóa họp tại Valsalice.
Vào giữa tháng Chín năm đó, ngài cảm thấy cơn bệnh đến. Những cơn sốt và các cơn đau đầu kinh khủng tấn công ngài. Có những ngày ngài không thể cử hành thánh lễ. Don Viglietti, thư ký của ngài, đã ghi nhận trong sổ nhật ký rằng: “Tuy nhiên ngài vẫn luôn luôn vui vẻ, làm việc, viết lách, tiếp nhận người ta đến gặp gỡ. Đáng lý ngài cần sự an ủi của những người khác, thì ngài lại luôn an ủi mọi người”.
Một buổi chiều vào cuối tháng Chín, trong khi ngài cố gắng dùng bữa tối tại phòng, thì cha giám đốc trung tâm nông nghiệp của xứ Mogliresno Veneto, Don Veronesi, đến ở bên ngài. Don Bosco thình lình nói với vị đó:
– Tôi chỉ còn sống được ít lâu nữa thôi. Các bề trên của Tu Hội không tin điều đó, họ nghĩ rằng Don Bosco còn sống lâu hơn… Tôi không tiếc vì phải chết. Điều làm tôi đau lòng là những món nợ của thánh đường Thánh Tâm Chúa và nghĩ đến biết bao nhiêu tiền cần phải quyên góp. Don Dalmazzo thân mến là một người tốt lành, nhưng không phải là một quản trị viên…Các con cái của tôi sẽ nói gì khi thấy nhiệm vụ đó được trao cho họ gánh vác?… Cha hãy cầu nguyện cho tôi. Năm tới, vào dịp tĩnh tâm năm, tôi sẽ không còn nữa.
Cha cảm thấy nỗi cô đơn dần dần bao trùm lấy cha
Don Albera, Giám Tỉnh các nhà Salêdiêng tại Pháp, phải lên đường. Ngài tới chào Don Bosco. Don Bosco trìu mến nhìn “Paolino nhỏ bé” của ngài và thì thầm với nước mắt tràn mi:
– Cả con nữa, con cũng đi, tất cả các con đều bỏ cha. Cha biết Don Bonetti sẽ đi chiều nay. Don Rua nữa cũng sẽ đi. Người ta để cha lại một mình.
Ngài bắt đầu âm thầm khóc; đó là một người khốn khổ, nhọc mệt đang cảm thấy sự cô đơn dần dần bao phủ lấy mình, sau biết bao nhiêu công việc. Don Albera khóc lên vì cảm xúc. Don Bosco tiếp lời:
– Cha không quở trách con đâu, con biết rõ đấy. Con phải làm bổn phận của con. Nhưng cha nay là một người già khốn khổ… Cha sẽ cầu nguyện cho con, để Thiên Chúa đồng hành với con.
Trước khi xuống núi trở lại Valdocco, Don Bosco qua một vài phút với Don Barberis, giám đốc Valsalice. Ngài nhìn hồi lâu vào chiếc cầu thang lớn và nói cách thanh thản:
– Kể từ giờ phút này cha sẽ ở dưới sự che chở của nhà này…
Sau đó một lúc, ngài nói:
– Hãy cho sửa soạn họa đồ đi.
Don Barberis nghĩ là Don Bosco có ý nói đến phần cuối cùng của một tòa nhà đang xây cất:
– Con sẽ sửa soạn bức họa đồ và con sẽ trình lên cha.
– Không phải vào mùa đông này mà là vào mùa xuân sắp tới. Bức họa đồ cha sẽ trình bày với Don Rua.
Rồi ngài tiếp tục nhìn về phía cầu thang.
Trên những bậc của chiếc cầu thang lớn đó, bốn tháng sau, người ta sẽ đào một chỗ để chôn Don Bosco. Bức họa đồ về một bia đài nhỏ bé để tôn vinh Don Bosco được Don Barberis trình bày cho Don Rua vào đúng mùa xuân năm 1888. Khi ấy cha Barberis nhớ lại những lời huyền bí của Don Bosco.
Don Bosco trở về Valdocco ngày 2 tháng Mười. Các học sinh hồ hởi đón ngài. Các em sung sướng đi theo ngài từ sân cho tới tận cầu thang lên phòng của ngài. Các em lớn giúp ngài bước lên phòng, đi từng bậc thang một. Lên tới trên đó, Don Bosco xuất hiện tại ban-công vẫy tay chào các học sinh. Chúng vẫy tay đáp trả lại và hô to: “Don Bosco muôn năm!”.
Ngài giống như một cây nến dần tắt.
Ngài cử hành thánh lễ tại phòng riêng, nhưng luôn luôn có một linh mục giúp lễ. Ngài nói và thở rất khó. Ngài đùa giỡn với các người tới thăm viếng:
– Cha tìm thêm hai ống bễ (ống thổi) để thay đổi. Những ống bễ của cha không còn hoạt động nữa.
Ngày 4 tháng 12, Don Cerruti, người đứng đầu Nguyện Xá lên nói chuyện với ngài. Don Bosco nói với cha:
– Tôi thấy cha xanh xao. Sức khỏe của cha ra sao? Cha phải săn sóc lấy mình. Cha hãy làm cho cha điều cha muốn làm cho Don Bosco.
Don Cerruti cảm kích. Don Bosco lại lên tiếng:
– Can đảm lên nhé, Don Cerruti yêu mến, trên Thiên đàng chúng ta sẽ thật sự sung sướng.
Các thư ký đem đến cho cha rất nhiều các lá thư gửi tới. Ngài mới viết vài chữ để hướng dẫn câu trả lời cho các thư, nhưng chính ngài thì không thể đích thân trả lời thư cho một ai. Lá thư cuối cùng trên đó, chính tay ngài viết hai dòng gửi tới cho bà Broquier: “Chúng ta hãy cho đi nhiều, nếu chúng ta muốn nhận thật nhiều. Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta và hướng dẫn cho bà”.
Trong Thánh Lễ, ngài không thở được. Ngài cử hành thánh lễ vào ngày mùng bốn. Ngày Chúa Nhật, tức là ngày 11 tháng Mười Hai, ngài cố gắng cử hành thánh lễ một lần nữa, nhưng vào cuối lễ ngài đã gục xuống. Đó là thánh lễ cuối cùng của ngài.
Chiều ngày 7 tháng 12, 1887, Đức Cha Cagliero từ Mỹ Châu trở về. Don Rua đã đánh diện tín cho ngài rằng: “Bố trong tình trạng báo động”. Ngài đã lập tức lên đường.
Trong khi Đức Cha đi qua sân, các học sinh ra đón mừng ngài. Ngài liền ngước mắt nhìn lên các cửa sổ mà ở trong đó Don Bosco đang sắp chết. Ngài vào phòng. Don Bosco ngồi trên một ghế xô-pha nhỏ. Đức Cha Cagliero qùi xuống ôm hôn ngài, siết chặt ngài vào lòng, tựa đầu vào vai ngài. Sức mạnh và lòng can đảm của một trong những người con đầu tiên của ngài đem lại sức sống cho Don Bosco. Ngài xoa xoa trên ngực nơi Đức Cha Cagliero đã bị gẫy hai chiếc xương sườn trong một tai nạn ngã nặng nề tại giải núi Andes:
– Bây giờ con khỏe chưa?
– Và khi Đức Cha trả lời, thì ngài đưa mắt quan sát Don Bosco: trông cha mình bây giờ già quá, yếu quá sau ba năm trời!
Họ qua buổi chiều bên nhau, cùng ngồi trên ghế xô-pha. Vị Giám mục kể lại tất cả những điều ngài có thể kể ra về cuộc truyền giáo, các Salêdiêng làm việc tại đó, về các người dân bản địa mà họ đã dạy dỗ, rửa tội lên tới hằng ngàn. Thình lình, giống như khi còn nhỏ, Đức Cha nói yêu cầu:
– Don Bosco, xin cha giải tội cho con.
Những lời khuyên của Don Bosco chiều hôm đó đã được vị Giám mục viết lại trên một tờ giấy để đem sang Châu Mỹ. Don Bosco đặc biệt nói với ngài:
“Cha ước mong là con ở lại cho tới khi mọi sự giải quyết xong sau khi cha chết”.
“Con hãy nói cho tất cả các Salêdiêng là họ hãy làm việc với lòng nhiệt thành và hăng say: làm việc và làm việc!”.
“Các con hãy yêu thương nhau như những người anh em: hãy yêu thương nhau, hãy giúp nhau, hãy chịu đựng nhau.”
Ngày hôm sau, Don Bosco còn nói chuyện lâu dài với Đức Cha. Thình lình, Don Bosco âu lo, thốt lên với ngài:
“Cha đang ở những thời gian cuối của cuộc sống. Bây giờ tới lượt các con làm việc để cứu giới trẻ. Nhưng cha phải thú nhận với các con một nỗi lo sợ của cha. Cha sợ rằng một số trong các con sẽ cắt nghĩa sai tình thương yêu mà Don Bosco có đối với các trẻ, rằng Don Bosco để cho mình bị lôi cuốn tới chúng do quá nhiều tình cảm; và rồi họ dựa vào cái cớ đó để biện minh cho một số những tình cảm yêu thương đáng nghi ngại đối với bất cứ trẻ em nào.
– Don Bosco xin cha cứ yên lòng. Không ai trong chúng con lại cắt nghĩa sai cách thức cha đối xử với các thanh thiếu niên. Còn về nỗi sợ hãi của cha là có thể có nhưng ai đó mượn cớ đó để làm sai, thì cha cứ để cho con lo liệu: những lời nhắn nhủ này của cha chúng con sẽ nhắc nhở lại cho tất cả mọi người”.
Ngày 16 tháng 12, bác sĩ ra lệnh cho Don Bosco thực hiện một cuộc đi dạo bằng xe ngựa: không khí thông thoáng sẽ làm cho Don Bosco dễ chịu. Don Rua và Don Viglietti nâng đỡ ngài từ trong cầu thang và đi theo ngài. Khi trở về, trong khi chiếc xe ngựa leo lên trên đại lộ Victore Emmanuel trở lại, thì Don Viglietti nhìn thấy Đức Hồng Y Alimonda ở phía dãy cột hành lang. Don Bosco mới nói với Don viglietti:
– Con đến xin Đức Hồng Y đến đây một chút. Cha muốn nói chuyện với ngài, nhưng cha không thể đi tới đó được.
Vừa nghe cha Viglietti nói, Đức Hồng Y liền vội tiến ra phía xe ngựa, giang rộng hai cánh tay và thốt lên:
– Ôi! Don Bosco, Don Bosco!
Ngài bước lên xe ngựa, ôm áp má Don Bosco với biết bao tình thương mến. Don Rua xuống xe. Đức Hồng Y và Don Bosco nói chuyện với nhau nửa tiếng đồng hồ trong khi chiếc xe ngựa chậm rãi lăn bánh yên tĩnh trên đường phố Cenaria.
Các ý tưởng đậm hương vị cõi đời đời
Ngày 17 tháng 12, 1887. Sức lực bắt đầu rời bỏ Don Bosco hoàn toàn. Ở ngoài cửa có khoảng 30 em đợi xưng tội với ngài. Ngài mới nói với Don Viglietti:
– Tôi không cảm thấy muốn… giải tội cho các em…
Nhưng rồi sau một lúc:
– Tuy vậy, đây là lần cuối cùng tôi có thể giải tội cho các trẻ em. Đây chính là lần cuối cùng… Cha hãy nói là chúng hãy lại đây.
Ngày 19 tháng 12. Don Eugenio Reffo, thuộc Tu Hội Thánh Giuse, đến gặp Don Bosco. Don Bosco dịu dàng nói:
– Người bạn thân mến, cha luôn thương yêu con và cha sẽ mãi mãi thương yêu con. Cha đang ở trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Con hãy cầu nguyện cho cha, và cha sẽ cầu nguyện cho con.
– Ngày 19 tháng 12. Don Viglietti thấy ngài rất thanh thản, nên cha xin ngài viết vài lời trên một vài bức hình để rồi cha sẽ gửi chúng cho các Cộng Tác Viên. Don Bosco trả lời : “Tốt lắm!”.
Ngài ngồi dậy trên chiếc đi-văng, với một tấm bảng gỗ trước mặt ngài, ngài viết phía sau lưng hai bức ảnh:
“Ôi Mẹ Maria, xin hãy xin Chúa Giêsu ban cho con sức khỏe thể xác, nếu nó có lợi cho linh hồn con, nhưng xin hãy đảm bảo cho con ơn cứu độ đời đời”.
“Hãy sớm thực hiện các việc thiện, vì người ta có thể thiếu thời gian để làm”.
Viết tới đây, cha dừng lại.
– Nhưng con biết đấy – Don Bosco ngỡ ngàng lên tiếng nói với cha Viglietti – cha chẳng còn biết viết gì nữa? Cha mệt quá.
Don Viglietti gợi ý là ngài nên dừng lại, nhưng Don Bosco lại nói:
– Không, cha phải viết tiếp. Đây là lần cuối cùng cha cầm bút để viết.
Và Don Bosco tiếp tục viết ra những ý tưởng của mình trên các bức ảnh. Những tư tưởng này có tất cả cái hương vị của cõi đời đời.
“Phúc cho những người đã dâng hiến mình cho Thiên Chúa ngay từ thời niên thiếu”.
“Ai dâng hiến mình cho Thiên Chúa muộn màng, thì liều gặp nguy hiểm lớn là để mất linh hồn”.
Các con nhỏ của cha, các con hãy gìn giữ tốt thời gian, và thời gian sẽ gìn giữ các con trong cõi đời đời”.
Chúng ta làm tốt, chúng ta sẽ vui sướng ngay trong đời này và cả đời sau”.
Ai gieo các công việc lành, thì thu hoạch hoa trái tốt”.
Vào cuối đời con người thu hoạch hoa trái của các việc lành của mình”.
Don Viglietti ở bên cạnh cha, khi đọc câu cuối cùng này, không cầm nổi nước mắt, liền lên tiếng:
– Don Bosco ơi, cha hãy viết cái gì đó vui vẻ hơn – Còn Don Bosco thì pha trò:
– Nhưng con là đứa bé thế nào, bé Carlucácio thân mến của cha… Con đừng khóc nữa. Cha đã nói với con đây là những lời cuối cùng mà cha viết đó Sapo? Dẫu sao, thì cha cũng phải tìm cách để vâng lời con.
– Và rồi Don Bosco tiếp tục viết:
“Chớ gì Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta và cất đi mọi sự dữ khỏi chúng ta”.
“Hãy cho và anh em sẽ nhận được”.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng con, và Đức Trinh Nữ Maria sẽ là Đấng hướng dẫn chúng ta khỏi tất cả mọi nguy hiểm của cuộc đời”.
“Những người trẻ là các bạn hữu thân thiết nhất của Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria!”.
Tới đây, Don Bosco lại tự nhiên tái viết lại những tư tưởng của cõi đời dời:
“Ai cứu rỗi linh hồn mình, thì cứu rỗi tất cả. Ai mất linh hồn mình thì mất tất cả”.
“Ai bảo vệ các người nghèo, thì sẽ nhận lãnh phần thưởng lớn lao từ nơi Tòa Án Thiên Chúa”.
Chúng ta sẽ nhận lãnh phần thưởng to lớn biết mấy vì những việc thiện chúng ta làm trong cuộc sống!”.
“Ai làm tốt trên trái đất, thì sẽ hưởng sự tốt lành trong giờ chết”.
“Trong cõi Thiên đàng người ta sẽ được hưởng mọi sự tốt lành, đời đời, mãi mãi”.
Đấy là câu cuối cùng Don Bosco đã viết lên, bằng những chữ nghuệch ngoạc hầu như không đọc ra được.
Sáng hôm đó, Don Bosco tiếp nhận các cuộc thăm viếng cuối cùng. Từ gần 40 năm nay, Don Bosco dành cả buổi sáng để cố vấn, chúc lành, an ủi, cứu giúp, khích lệ tất cả những ai muốn đến nói chuyện với ngài. Đó là một nhiệm vụ nặng nề trong suốt cả cuộc đời ngài. Cả một chuỗi dài các cuộc thăm viếng này khép lại với lần thăm viếng của nữ bá tước Mocenigo vào 12g30 ngày 20-12-1887.
Buổi chiều bác sĩ yêu cầu một cuộc dã ngoại mới trong xe ngựa. Ngài tuyệt đối cần hít thở không khí ngoài trời. Bất chấp sự phản đối của ngài, người ta đã khiêng ngài xuống trên chiếc ghế bành. Trong khi chiếc xe ngựa lăn chậm rãi trên phố Regina Margherita, có một người lạ dừng xe lại. Đó là một người từ miền Pinerolo, một học sinh của thời đầu Nguyện Xá. Don Bosco nhận ra người này và ôm hôn ông.
– Con yêu quí, công việc của con ra sao?
– Cũng thường thường thôi, cha ạ. Xin cha cầu nguyện cho con. Người ta đã nói với con ở cổng Nguyện Xá là cha đã đi qua đây và con muốn đến chào cha.
– Tốt lắm! Còn phần linh hồn con có tốt đẹp không?
– Con đã cố gắng luôn luôn giữ mình cho xứng với danh học trò của Don Bosco.
– Tốt lắm, tốt lắm! Thiên Chúa ân thưởng cho con. Con hãy cầu nguyện cho cha. Con hãy sống luôn luôn là một Kitô hữu tốt.
Không khí ngoài trời xem ra khiến cha dễ chịu, nhưng vừa khi cha trở về nhà, bác sĩ Albertotti thấy cha rất khó chịu. Ông liền buộc cha lên giường. Thầy Festa có mặt, mới hỏi Don Bosco:
– Cha cảm thấy thế nào?
– Bây giờ cha chỉ còn đợi thực hiện một sự kết thúc tốt đẹp.
Giữa những ngày 20 đến 31 tháng Mười Hai, bước kết thúc xem ra rất gần.
Sư huynh Pietro Enria, người đã thức suốt nhiều đêm, tóm tắt các ngày cực nhọc của cha bằng hai tiếng: “Ngài chịu đau khổ và giữ im lặng”.
Nhiệt độ trong người cha lên cao, hơi thở khó khăn. Bác sĩ nói:
– Ngài tuyệt đối cần phải ăn uống thứ gì đó.
Ngồi gần giường cha, Don Viglietti cho cha ăn một chút cháo nhẹ. Don Bosco đưa tay là cầm lấy bát cháo, nhưng cha Viglietti muốn mình cầm bát cháo thay cho cha. Don Bosco bông đùa:
– Thế đấy, con muốn ăn cháo thay cha chứ gì?
Trong sân lớn đầy ắp các học sinh. Một bầu khí im lặng bao trùm cách nặng nề. Ngay cả những chú bé cũng nhìn lên cửa sổ đằng sau đó có người bạn vĩ đại của chúng sắp chết.
“Tới lượt cha, cha phải xin người ta nói câu ấy cho cha”
Ngày 23 tháng Mười Hai. Ban trưa, người ta coi như là giờ phút chót của ngài. Don Bosco thì thầm:
– Cha xin có ai đó chuẩn bị cho cha chịu phép xức dầu kẻ liệt.
Don Bonetti ở gần giường ngài. Don Bosco thình lình nắm lấy tay cha siết mạnh:
– Con hãy luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho Don Rua.
Khi Don Cagliero tới, ngài tập hợp tất cả sức lực của mình và nói với Đức Cha:
– Con sẽ nói cho Đức Thánh Cha là Tu Hội và các Salêdiêng, dù bất kỳ họ ở đâu hay làm việc gì, cũng đều có mục tiêu đặc biệt là nâng đỡ quyền bính của Tòa Thánh… Được sự bảo vệ của Đức Thánh Cha, các con sẽ lên đường đi Phi Châu… Các con sẽ vượt qua đó…Các con sẽ đi Á Châu và những chỗ khác…Hãy có niềm tin.
Giusepe Buzzetti đang ở đó, gần bên ngài, với bộ râu đỏ oai nghi. Don Bosco không còn nói được nữa, nhưng cố pha trò cười trong khi cử hành một cái chào nhà binh. Sau đó ngài có thể thì thầm những lời:
– Ôi! Người bạn của tôi! Con luôn luôn là một người bạn thân thiết của cha!
Vào buổi chiều, Don Cassini, một nhà truyền giáo vừa trở về cùng với Đức Cha Cagliero, ngồi gần Don Bosco. Don Bosco thì thầm vào tai cha này:
– Cha biết mẹ của con nghèo. Con cứ nói thật đơn sơ với cha và với cha mà thôi, đừng nói lại với ai những bí mật này. Cha sẽ cho mẹ của con tất cả những gì con nghĩ là mẹ con cần.
Pietro Enria phục vụ ngài trong những việc nhỏ nhất, Don Bosco nói với anh ta trong tiếng thều thào rằng:
– Pietro vất vả của cha, con kiên nhẫn nhé!
– Ồ, Don Bosco! Con sẵn sằng dâng hiến mạng sống con để cho cha được khỏi bệnh. Cha biết đấy, không phải chỉ có con, mà nhiều bạn khác cũng yêu mến cha như vậy.
Don Bosco cố gắng trả lời cho cậu ta bằng những lời:
– Điều cha đau đớn nhất khi chết, chính là phải chia tay với các con.
Trời đã về khuya khi Đức Hồng Y Alimonda tới. Người ta đã báo với Don Bosco rằng đêm nay có thể là đêm cuối cùng. Don Bosco xiết chặt Đức Hồng Y vào gần trái tim mình và ôm lấy ngài. Don Bosco cố gắng nói với Đức Hồng Y vài lời:
– Thưa Đức Hồng Y, xin cha cầu cho con được cứu linh hồn con.
– Nhưng cha, cha không phải sợ chết. Cha đã từng căn dặn những người khác là hãy chuẩn bị mình cho kỹ mà!
– Vâng… và tới lượt mình cũng cần người ta phải nói với con như vậy.
Vào lúc 24 giờ sáng người ta mang của Ăn đàng đến và Đức Cha Cagliero ban cho ngài bí tích xức dầu bệnh nhân.
Người ta chứng kiến có một sự gì đó tiến bộ về sức khỏe của cha.
Ngày 26 tháng Mười hai, Carlo Tomatis, một cựu học sinh cùng thời với Đaminh Saviô đến gặp cha. Ông ta đem theo đứa con trai của ông để Don Bosco chúc lành cho nó, nhưng ông ta không ngờ rằng mình tìm thấy cha trong tình trạng hoàn toàn bị hủy hoại bởi cơn bệnh như vậy. Ông ta quá bối rối bên giường cha và chỉ thốt ra được những lời: “Ôi, Don Bosco! Ôi! Don Bosco!” Khi ông ra khỏi căn phòng, Don Bosco ra dấu hiệu cho Don Rua cúi xuống và ngài thì thầm với cha:
– Con biết ông ta đang gặp khó khăn. Con hãy trả cho ông ta tiền đi đường thay cho cha.
Cùng ngày hôm đó, Mẹ Caterina Daghero đến thăm ngài. Mẹ xin Don Bosco chúc lành cho các Con Đức Me Phù Hộ. Don Bosco thì thầm:
– Được, được. Cha chúc lành cho tất cả các nhà Con Đức Mẹ Phù Hộ, cha chúc lành cho Bề Trên Tổng Quyền và tất cả các sơ … Các con hãy làm sao để cứu được thật nhiều linh hồn.
Bác sĩ ra toa buộc bệnh nhân phải hoàn toàn im lặng và cấm mọi cuộc thăm viếng. Don Bosco qua cả ngày thiếp ngủ, liên tục trong cảnh nửa mê nửa tỉnh.
Ngày 19 tháng Mười Hai. Vào cuối ngày Don Bosco cho gọi Don Rua và Đức Cha Cagliero. Ngài cầm lấy tay họ và nói cách bình tĩnh:
– Các con hãy thương yêu nhau như anh em. Hãy thương yêu nhau, giúp đỡ và chịu dựng nhau như anh em. Thiên Chúa và Đức Mẹ Phù Hộ không quên giúp đỡ chúng con… Các con hãy hứa cùng cha là thương yêu nhau như anh em.
Trong đêm hôm đó, ngài xin anh Enria cho một ngụm nước. Sau đó ngài nói thêm:
– Cần phải học sống và học chết.
Giờ phút “những con vật ghê gớm” trở lại
Tất cả xem như đã hết. Nhưng ngược lại ngày 20 tháng Giêng, thật ngoài sức tưởng tượng, Don Bosco khỏe hẳn lại. Sức khỏe của ngài coi như đã trở lại, gốc cây già nay lại tái trổ bông. Đó là một phút giây Thiên Chúa ban cho, nhưng niềm hy vọng phút chốc tiêu tan.
Ngày 21 tháng Giêng, Đức Cha Cagliero vào phòng Don Bosco:
– Don Bosco ạ, xem ra mối nguy hiểm chúng con e ngại đã bị đẩy lui. Người ta gọi con tới Lu để mừng lễ thánh Bổn mạng của họ. Đó là một xứ sở đã cung cấp cho chúng con biết bao nhà truyền giáo tốt và nhiều nữ tu. Sau đó con sẽ đi một vòng thăm các học sinh của chúng con tại Borgo San Marino.
– Con cứ đi, cha rất vui lòng. Nhưng con lo thực hiện chuyện này nhanh lên đấy.
Sáng ngày 22 tháng Giêng, tất cả mọi hy vọng tiêu tan. Bệnh tình mau quay lại tình trạng nghiêm trọng.
Sau trưa ngày 24 tháng Giêng, bệnh tình Don Bosco lại càng nghiêm trọng. Các bác sĩ nói rằng có thể mất Don Bosco vào bất cứ lúc nào. Cơn hôn mê lại chụp xuống ngài, trong đó có cả việc mê sảng.
Anh Phêrô Enria, luôn luôn có mặt, thấy Don Bosco thình lình vỗ tay và anh hiểu rằng ngài sẽ la lên:
– Hãy chạy lại, hãy mau chạy lại cứu các bọn trẻ!… Lạy Mẹ Maria rất thánh, xin giúp chúng… Lạy mẹ, lạy Mẹ!
Có người nói trong các câu ngài nói trong cơn mê sảng này, Don Bosco nói lên nỗi sợ cho các thanh thiếu niên, chứ không phải là một tình cảm tín nhiệm nơi Đức Mẹ. Một khoa tâm lý học tốt đẹp ngày nay quả quyết rằng: những nỗi sợ hãi, những tình cảm bị dồn sâu vào đáy tâm hồn bởi một cố gắng to lớn của ý chí trong cuộc sống của ngài, xem ra tái phát sinh trở lại vào lúc đó. Đó là “những bóng ma”, “những con vật ghê gớm” tái xuất hiện trở lại, xuất phát từ những độ sâu của sự vô ý thức khi mà ý chí (đã từng cột trói chúng) vào lúc đó đã bị tê liệt, phá hủy đi bởi một giấc mơ do cơn bệnh tạo nên.
Trong những năm xa xưa của thời chủng sinh, Don Bosco đã duy trì (ở chốn sâu xa của chỗ vô ý thức) một khung giáo dục được cô đọng trong hai chữ sợ hãi và tin tưởng. Nhưng trong suốt đời sống của ngài, ngài đã quay sang một danh từ kép khác: đó là tình bạn và sự tin tưởng. Ngài đã cảm nhận tình bạn và tin tưởng ấy một ít thời gian trước đó bằng cách thức giải tội cho một em bé hãi sợ là Luigi Orione.
Nghịch lý thay, vào lúc sắp chết này, hình như cái mà ngài đã chiến thắng trong suốt cả cuộc sống của ngài, thì nó lại tái hiện mạnh mẽ trở lại.
Ngày 26 tháng Giêng, Đức Cha Cagliero trở lại. Ngài lập tức tới bên đầu giường của bệnh nhân. Ngài hiểu rằng mọi chuyện giờ đã rất xấu rồi, nhưng ngài muốn “biết” bởi chính Don Bosco xem còn có được chút hy vọng nào chăng:
– Người ta gọi con tới Roma. Con có thể đi chăng?
– Con sẽ đi, nhưng sau này thôi.
Giọng nói sang sảng của ngài bây giờ chỉ còn thều thào. Những nỗi đau đớn đôi khi không thể nào chịu nổi. Don Lemoyne gợi ý:
– Cha hãy nghĩ đến Chúa Giêsu trên Thánh giá. Chính Chúa đã chịu đau khổ mà không thể nào cử động được.
– Phải, đó là điều cha vẫn liên tục làm!
Ngày 27 và sáng ngày 28 Don Bosco mê sảng liên tục.
Sau trưa ngày 28, vào một trong những lúc cuối cùng, Don Bosco lại thoát khỏi cơn mê sảng và hoàn toàn sáng suốt. Ngài bập bẹ:
– Hãy nói cho các đứa trẻ của cha là cha đợi chúng trên Thiên đàng,
Rồi với ánh mắt nhìn bất định:
– Ngày mai?… Ngày mai?… Cha sẽ đi một chuyến hành trình dài…
Trong những giây phút đầu canh đêm, ngài nói to:
– Paolino bé nhỏ, Paolino bé nhỏ, con đang ở đâu? Tại sao con không đến?
– Paolino tức là Don Paolo Albera, Giám Tỉnh của các công cuộc Salêdiêng bên Pháp, vẫn còn chưa tới.
Ngày 30 tháng giêng, trong một lúc tỉnh táo, ngài thì thầm với Don Rua:
– Hãy làm cho con được yêu mến.
Vào một giờ sau trưa, Giuseppe Buzzetti và Don Viglietti ở bên cạnh Don Bosco. Don Bosco mở thật to đôi mắt, cố gắng mỉm cười, đưa tay lên chào họ. Buzzetti khóc nức nở.
Ngày 31 tháng Giêng, vào lúc hai giờ sáng, Don Rua thấy rằng mọi chuyện đang dồn dập tới. Ngài đeo dây Sto-la [dây áo linh mục], và bắt đầu cầu nguyện cho người lâm tử. Các bề trên khác của Tu Hội được triệu tập khẩn cấp.
Khi Đức Cha Cagliero tới, Don Rua nhường dây Sto-la cho ngài, bước sang phía bên phải, ghé sát tai Don Bosco và nói với ngài:
– Don Bosco, chúng con, các con của cha, ở cả đây. Chúng con xin cha tha thứ vì tất cả những nỗi đau khổ cha phải chịu đựng vì chúng con. Như dấu của sự tha thứ và tình yêu thương phụ tử, xin cha ban cho chúng con một lần nữa phép lành của cha. Con đưa tay cha lên và công bố công thức chúc lành.
Don Rua nâng tay phải cha đã không cử động được lên và công bố các lời ban phép lành cho các Salêdiêng hiện diện và những người ở xa.
Trong phòng vang lên tiếng thở ồn ồn của người hấp hối. Vào bốn giờ rưỡi sáng, những hơi thở dồn dập bỗng dưng ngưng lại. Hơi thở ngắn lại trong một lúc rồi lịm đi. Don Belmonte hầu như kêu to:
– Don Bosco đã chết
Ba tiếng thở vất vả nối tiếp nhau nặng nề và khó khăn… Đức Cha Cagliero lớn giọng đọc kinh cầu mà ngài đã học từ Don Bosco khi còn là một đứa bé.
Giêsu, Maria, Giuse, Con xin phó thác trái tim và linh hồn cùng mạng sống con.
Giêsu, Maria, Giuse, xin cứu giúp con trong giờ hấp hối.
Giêsu, Maria, Giuse, xin cho con được tắt thở bình an trong sự hiện diện của các ngài.
Ngài cất dây Sto-la khỏi cổ và đặt lên vai Don Bosco, người đã vào trong Ánh Sáng.
(1) Thánh Quan Don Bosco qua thăm Việt Nam
(2) Hình cuối đời cho thấy Don Bosco đã tiêu hao đời mình vì giới trẻ nghèo khổ như thế nào!
MỤC LỤC
CHƯƠNG 01 : XA NHÀ LÚC 12 TUỔI 7
Một tay nải trong tuyết lạnh . 8
180 trang đầy những kỷ niệm………………………. 13
CHƯƠNG 02 : NHỮNG BI KỊCH NHỎ VÀ LỚN . 14
Một biến cố sẽ làm thay đổi cục diện thế giới 16
Vị đại tướng 27 tuổi: Napoléon . 18
Một ông Vua vặn cho đồng hồ lui lại 15 năm .. 20
CHƯƠNG 03 : NHỮNG NĂM SỐNG TRONG TỔ ẤM 23
Con quỷ trong kho chứa đồ cũ . 29
Mẹ là mẹ của con, chứ không phải là một bà mẹ ghẻ 33
CHƯƠNG 04 : NHỮNG NGÀY THÁNG BA . 35
Bọn cướp trong khu rừng cây . 37
Mẹ tôi đã dạy tôi cầu nguyện . 39
Trường học trong thời vụ chết của vùng nông thôn. 40
Một con nhồng nhỏ xíu xìu xiu . 43
CHƯƠNG 05 : DIỄN VIÊN XIẾC TÍ HON 45
Màn trình diễn trên đồng cỏ . 48
Mùa đông ảm đạm nhất đời cậu . 50
CHƯƠNG 06 : BA NĂM SỐNG Ở TRẠI VÀ MỘT NĂM TẠI NHÀ XỨ 52
Hai hạt giống và bốn bông lúa 53
Bốn đồng xu để thưởng cho một bài giảng . 58
Với cái chết của Cha Calosso, mọi hy vọng tắt lụi 60
CHƯƠNG 07 : ĐƯỜNG ĐI CASTELNUOVO . 62
“Ở xóm Becchi chỉ lớn lên toàn một lũ lừa mà thôi” 64
Bóng áo dòng đen xa cách và lạnh lùng . 66
CHƯƠNG 08 : “TÔI CẦN PHẢI HỌC” . 69
Giấc mơ chín tuổi năm xưa” lại trở lại 71
Nỗi gớm ghiếc phải ngửa tay xin bố thí 73
Bánh xe lịch sử vẫn tiến tới 73
“Hãy đến nói với hoàng tử…” 75
Là vua nhờ ơn Chúa chứ không nhờ ai khác . 76
Cao và buồn như một mùa chay . 77
CHƯƠNG 09 : THỜI THIẾU NIÊN TẠI CHIERI 79
Một cây cột giữa bọn trẻ nhỏ . 80
Bỗng đâu xảy ra một sự kiện nhỏ… . 82
Bốn màn tỷ thí với tên mãi võ . 86
CHƯƠNG 10 : MÙA CỦA NHỮNG TÌNH BẠN CAO ĐẸP 92
Hai cái tát dành cho Lu-y Comollo . 92
Jacques Lévi, gọi là bạn Giona. 96
Những trái táo của ông Blanchard . 97
CHƯƠNG 11 : TUỔI HAI MƯƠI 99
Một người đàn bà với khăn choàng vai màu đen . 101
Sao không đến hỏi ý kiến Don Cafasso . 103
CHƯƠNG 12 : CHỦNG VIỆN: NHỮNG ĐIỂM SÁNG VÀ ĐIỂM TỐI 105
Bảy quyết định làm đảo lộn cuộc sống . 105
Những lời ấy, tôi sẽ không bao giờ quên . 107
Các điểm tối của chủng viện . 109
Ngụm khí oxy mỗi ngày thứ năm .. 110
Vẻ hấp dẫn của Lu-y Comollo . 112
Một chủng sinh mới đơn độc . 114
CHƯƠNG 13 : GIOAN BOSCO ĐƯỢC ĐÀO TẠO LÀM LINH MỤC THẾ NÀO? . 115
Việc huấn luyện linh mục . 116
Đánh giá về thời đại của ngài 118
Đâu rồi các nhân sĩ Cavour, Mazzini, Garibaldi? . 120
CHƯƠNG 14 : GIOAN ĐÃ TRỞ THÀNH DON BOSCO 123
Một giao ước với cõi bên kia . 124
Bánh mì trộn hạt kê với rượu vang vùng Barbera . 126
“Linh mục không lên Thiên Đàng một mình” 127
CHƯƠNG 15 : NHỮNG BƯỚC ĐẦU ĐỜI LINH MỤC 130
Don Bosco sẽ làm gì bây giờ? . 130
Khám phá đầu tiên: cảnh cơ cực của vùng ven đô . 131
Chợ mua bán những tay thợ trẻ . 132
Cuộc cách mạng công nghiệp . 133
Sự tiến bộ lớn lao được cống hiến cho thế giới 135
Cái giá khủng khiếp mà con người đã trả . 136
Thảm cảnh của các trẻ em vô tội ở Ý . 137
CHƯƠNG 16 : “CON TÊN LÀ BARTHELÉMY GARELLI” 140
Những đứa trẻ đằng sau các song sắt. 140
Don Bosco quyết định, trong khi các cha xứ thì chờ đợi 142
Kinh nghiệm của cha Cocchi 143
Một kinh Kính Mừng để khởi sự . 145
Ngay bây giờ nhé: Đó là một lời đánh dấu cả một hành trình 148
CHƯƠNG 17 : NGUYỆN XÁ CỦA CÁC CHÚ BÉ THỢ HỒ 150
Những mẫu ảnh nhỏ, và cả những ổ bánh nhỏ . 151
Mười hai cung nhạc Kính Đức Mẹ . 152
Thằng bé đến từ xứ Caronno . 153
“Nếu cha chỉ còn lại mỗi một miếng bánh…” 153
“Quyền lãnh đạo thuộc về Đức Giáo Hoàng, thanh gươm thuộc về Đức Vua Carlo Alberto” 155
“Cha có một chiếc áo dòng quá mong manh” 156
Ngài thanh thản nói về Chúa . 157
CHƯƠNG 18 : BÀ HẦU TƯỚC VÀ “ÔNG CHA NHỎ” [CHA BOREL] 159
Chiếc áo nhặm dưới bộ xiêm y sang trọng . 160
Những chú chiên hoá thành những chàng chăn chiên tí hon 162
Don Bosco đâu? Nguyện Xá ở đâu?………………… 163
Thất bại ở Nhà thờ Thánh Phêrô bị trói 166
CHƯƠNG 19 : NGUYỆN XÁ LƯU ĐỘNG . 169
“Hỡi các con yêu thương, Những cây cải bắp…” 170
“Lấy đi, bé Micae, lấy đi” 171
Những cuốn sách viết trong những đêm thức dài… 173
Ba phòng trong nhà Cha Moretta . 173
Một dấu chấm hỏi lớn về Nguyện Xá . 174
Một Nguyện Xá hoàn toàn khác . 176
PHỤ CHƯƠNG : VĂN ĐỐI THOẠI CỦA DON BOSCO 181
CHƯƠNG 20 : VÔ VỌNG TRÊN ĐỒNG HOANG MỪNG PHỤC SINH DƯỚI HẦM MÁI CHE . 183
Bà hầu tước và các cảnh vệ . 185
Don Bosco điên rồi chăng? . 186
Một cái gốc chẳng ai biết đến là khởi nguồn mọi sự . 190
CHƯƠNG 21 : PHÉP LẠ BỌN TRẺ THỢ XÂY KÊU XIN CHÚA 194
Chia tay nhau tại Bùng Binh “Rondo” 195
“Lạy Chúa, xin đừng để ngài chết” 199
“Hoặc túi tiền hoặc nộp mạng cho tao!” 201
Những kẻ tha hương tay không, túi rỗng . 204
CHƯƠNG 22 : MỘT KHO THUỐC SÚNG SẴN SÀNG NỔ TUNG 206
Những phòng lớp sáng choang đầy các trẻ em .. 206
Đức Giáo hoàng Mastai – Ferreti lấy danh hiệu “Piô IX” 207
Cuộc đụng độ của Don Bosco với “các linh mục yêu nước” 210
Những lời ca và những tiếng la ó của bọn dân nhậu . 214
Các giáo viên trẻ và những cộng sự viên người đời 215
CHƯƠNG 23 : “CON MỒ CÔI, QUÊ Ở VALSESIA” 217
Một thằng bé ướt sũng và lạnh cóng . 219
Chú bé thợ cạo run như tầu lá . 221
Cú đánh đầu của Đức Tổng Giám Mục . 224
Phù hiệu ba màu đeo trên ngực [cờ Ý Thống Nhất] trong thánh lễ đại triều 225
Ngọn lửa ấm trong phòng áo . 226
CHƯƠNG 24 : CƠN SỐT ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT NĂM 1848 228
Các phe tự do, ái quốc, thợ thuyền sát cánh nhau trong các chiến tuyến phòng thủ 229
Hiếp pháp sẽ được gọi là “Pháp chế” 230
Don Bosco và vị Hầu tước Roberto D’ Azeglio mặt đối mặt 232
Những băng nhóm chống giáo sĩ tràn ra khắp nơi 233
Chiến tranh chống lại nước Áo . 235
Những trận đánh thật và những trận đánh giả ở Valdocco 236
“Hãy để tôi quay về nhà mình” 237
Cuộc chiến tranh tại ý tại xứ Lombardia . 238
CHƯƠNG 25 : HY VỌNG SỤP ĐỔ . 239
Gà-men và “khẩu phần” tại nguyện xá . 241
Lòng trung thành với Đức Thánh Cha và cái giá phải trả 242
Súng nổ tại nhà Pinardi……………………………… 245
Làm việc nhằm đào tạo một lớp linh mục khác . 246
Những tin buồn đến từ La Mã . 248
Hai tín hiệu đầy hy vọng ở Valdocco . 249
CHƯƠNG 26 : DON BOSCO CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 251
Chính trị của tôi là kinh lạy Cha . 251
Don Bosco và vấn đề xã hội 254
“Gạt sang một bên mọi thứ chính trị” có nghĩa là gì? 256
Và nếu sự chọn lựa của ngài đã khác đi thì sao? . 260
CHƯƠNG 27 : 1849, NĂM GAI GÓC MÀ PHONG PHÚ 262
Tờ báo “Bạn của Giới Trẻ”, một thất bại! 263
Những tàn tích cuối cùng của tự do . 265
Sự thất bại của “các linh mục yêu nước” 266
33 lire dâng kính Đức Thánh Cha . 266
“Hai quả tim nhỏ để tạ ơn” 267
Bốn đứa trẻ và một khăn mùi xoa trắng………….. 267
Đại đội ở Borgo Vanchiglires 268
Một bao đầy lá khô…………………………………… 269
“Tôi đã gọi đích danh anh ta: Carlo!” 272
Một giỏ hạt dẻ không bao giờ cạn . 273
CHƯƠNG 28 : MỘT NGÔI NHÀ VÀ MỘT NHÀ THỜ 275
Đức Tổng Giám mục bị bắt giữ . 276
30.000 lire và một thoáng chóng mặt. 279
Và giờ đây, một Thánh đường nguy nga tráng lệ . 280
CHƯƠNG 29 : VÀ CHÚA ĐÃ GỬI ĐẾN MỘT CON CHÓ 285
Đối Thoại Giữa Những Kẻ Điếc . 286
Họ Vồn Vã Chào Đón Tôi…………………………….. 289
Ngủ tại tiệm giầy…………………………………….. 292
CHƯƠNG 30 : NỬA TÁ XƯỞNG THỢ . 294
Một ngón tay trên nhiều ung nhọt 295
Đơn độc, không được bảo vệ, trong tay ông chủ . 296
Hai bàn thợ mộc đã bắt đầu . 297
Bốn cách thức để tìm ra cách thức tối ưu . 299
“Ai không hoàn toàn nghèo thì không có chỗ trong Nhà này” 300
CHƯƠNG 31 : NHỮNG HỌC SINH KHOÁC ÁO NHÀ BINH 302
“Ngủ trong chiếc thúng đựng mì dòn” 303
“Con sẽ đi qua biển Đỏ và sa mạc” 305
Bọn “con ông cháu cha” và đám học sinh khoác áo nhà binh 307
“Cha thấy mình thoải mái được ở giữa bọn trẻ” 308
“Don Bosco không có thể hiểu hết giá trị của gia đình…?” 310
CHƯƠNG 32 : 1854: CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ SALÊDIÊNG 312
Dàn dây leo và những bông hồng . 313
“Cha trả lương cho tôi ra sao?” 315
Thần chết trên các đường phố ở Khu Borgo Dora . 317
Những tên khổng lồ mặt mày rầu rĩ 319
Tám phút đã thuộc hết một trang . 320
Một tấm biển treo tường bí ẩn . 323
Những bóng đèn tròn muôn mầu trên hai bờ sông Pô 324
Đứa bé mô côi ở khu phố Thánh Đa Minh . 326
CHƯƠNG 33 : 1855: NHỮNG THIẾU NIÊN “PHẠM PHÁP” Ở KHÁM LỚN 329
“Những đám ma lớn tại triều đình!” 330
Đối đầu trực diện với Bộ trưởng . 334
Chín trang để trình bày phương pháp của mình . 338
Giấc mơ về “đời sống Nguyện Xá xưa” như một lời kêu gọi 339
CHƯƠNG 34 : VĨNH BIỆT MẸ GIÀ VÀ MỘT CẬU BÉ 344
Mẹ Margarita ra đi về cõi vĩnh hằng . 348
Một cậu bé trò chuyện với Chúa . 350
Trên Thiên Đàng, con có thể thấy các bạn của con chứ? 352
CHƯƠNG 35 : THẦY TU HAY KHÔNG, TÔI SẼ VẪN Ở LẠI VỚI DON BOSCO . 357
Bản Phác thảo viết tay về một Tu Hội mới đang phát sinh 358
Cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha . 360
Một tuần lễ để quyết định cuộc sống của Tu Hội 362
“Nếu không làm linh mục, cậu sẽ làm gì tại Nguyện Xá?” 364
Cơn khủng hoảng của Giuse Buzetti 365
Người sư huynh Don Bosco có trong trái tim ngài 367
CHƯƠNG 36 : MICAE MAGONE: MỘT ĐỨA BÉ VÀ BẢY CẢNH SÁT 369
Phải mất xe lửa hay là mất đứa bé . 370
Những cú đấm tại Quảng Trường Castello . 374
Don Bosco đặt tay trên đầu Magone . 376
Nền “chính trị vĩ đại” tức là Việc Thống Nhất Nước Ý . 377
“Nếu cần thì hãy dựng các hàng rào cản tại Torino” 379
Thảm cảnh Hỏa ngục trong suốt 12 giờ…………… 380
Sự thành công của “chính trị thực dụng” 382
CHƯƠNG 37 : NHỮNG CUỘC DÃ NGOẠI TỚI CÁC VÙNG MIỀN MONTEFERRATO VÀ CUỘC SỐNG TẠI NGUYỆN XÁ 385
Một em bé lên năm tuổi có tên là Philip Rinaldi 387
Một cậu bé có mái tóc hung và trời mưa . 388
Cô gái xứ Mornese có tên là Maria Mazzarello . 390
Thánh lễ đầu tiên của Don Rua . 391
400 chiếc bánh mì trong một thúng bánh . 393
Thi hành đức ái vì các người nghèo mà thôi 395
“ Một ban được qui tụ bí mật” vào năm 1861 . 396
CHƯƠNG 38 : ĐỀN THỜ LỚN ĐƯỢC NHÌN THẤY TRONG GIẤC MƠ 401
“Đây sẽ là Nhà Thờ Mẹ cuả Tu Hội chúng ta” 403
Những biến cố tại Spoleto và Đức Maria Phù Hộ . 404
Một Tên gọi của Thánh Đường khiến người ta phải nhăn mặt 408
Đức Mẹ đi quyên góp cho Don Bosco . 411
Người mẹ, đứa trẻ thơ và những đồ trang sức của người nghèo 412
Người làm công nhật xứ Alba . 414
CHƯƠNG 39 : DON RUA: TỪ MIRABELLO CHO TỚI HỒI KHÁNH THÀNH VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC MẸ PHÙ HỘ 420
Bốn trang giấy mang giá trị của một di chúc . 421
Những lời nói rỉ vào tai của Don Bosco . 424
Một bà mẹ, và biết bao nhiêu chuyện phải làm .. 425
Bức họa Đức Maria Phù Hộ . 425
Chào biệt Don Alasonnati sang thế giới bên kia và chào đón Don Rua trở lại Nguyện Xá 427
Ban sáng Don Bosco phải gặp gỡ liên tục khách viếng thăm 428
Ông De Amicis nhìn thấy tượng Đức Mẹ Phù Hộ vĩ đại trên vòm của Đền Thờ 429
Đây chính là lúc những lời tiên tri “điên” đã trở thành hiện thực 431
CHƯƠNG 40 : MỘT GIAI ĐOẠN MỚI CHO CÁC NGƯỜI SALÊDIÊNG 435
Lịch sử diễn ra ở bên ngoài cổng lớn của Nguyện Xá . 435
Cuộc chiến chống lại bọn cướp và cuộc di dân vĩ đại 437
Chiến tranh du kích tại Torino………………………. 438
Cơn khủng hoảng tôn giáo: Kinh Thánh và lớp học về thị trường chứng khoán 440
Lịch sử không chính thức của giới thợ thuyền . 441
“Thuế đánh trên cảnh đói của dân chúng” 443
“Những Trường Trung Học Salêdiêng” phát sinh . 444
Năm trường trung học đầu tiên . 445
Một bước ngoặt đánh dấu cho một nguyên tắc nền tảng 448
CHƯƠNG 41 : MORNESE CŨNG GIỐNG NHƯ VALDOCCO 449
Dịch bệnh sốt nổi mụn, những tên phù thủy và con mắt soi mói 450
Bốn con mắt vẻ đầy hãi sợ . 453
Một vị linh mục đi tìm việc làm .. 453
Khi không còn bột bắp để làm món cháo bắp . 456
Ý kiến của Đức Thánh Cha và sự bực bội của dân xứ đó 458
Họ lập thành nhóm ba người, lên đường dưới cảnh tuyết rơi 462
Cái chết đến với những bông hoa của tháng Năm .. 463
CHƯƠNG 42 : CUỘC CHINH PHỤC ROMA VÀ CƠN RÙNG MÌNH CỦA SỰ CHẾT 465
Công đồng ở Roma và phản-công đồng tại Napoli 465
“Trời Cao nói với vị Mục tử của các mục tử” 466
Những lời đe dọa đen tối trên Nước Pháp . 467
Liệu Đức Thánh Cha có thể bất khả ngộ? . 469
Lính thiện xạ Ý ở Cổng Porta Pia của thành Roma . 470
Cơn rùng mình của sự chết tại Varazze . 472
Những lá thư đầy tràn tình yêu thương dịu dàng . 473
CHƯƠNG 43 : CÁC CỘNG TÁC VIÊN: TỨC CÁC SALÊDIÊNG GIỮA TRẦN THẾ . 476
Những người nam nữ thiện chí 477
Các người Salêdiêng ngoại trú: một ý tưởng bị gạt bỏ 478
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng . 479
Tờ “tập san Salêdiêng” cũng đã vươn tới các vùng Sotto il Monte 481
CHƯƠNG 44 : FRANCESCO, EUSEBIO, FILIPPO, MICHELE VÀ NHIỀU BẠN HỮU KHÁC . 483
“Tôi đã ăn cắp hai ổ bánh mì tròn” 484
Eusebio Calvi di Palestro . 487
Don Bosco không mấy hạnh phúc vì sự từ chối 488
Khi Don Bosco quyết bước vào một cuộc chiến . 490
Vị Kinh sĩ ngưng công việc để nghỉ ngơi 491
Những người thợ xây trẻ của Nguyện Xá Chúa nhật 493
Michele Unia, một nông dân . 495
CHƯƠNG 45 : ĐI XA HƠN . 497
Những con người tình nguyện mới sẵn sàng liều mạng 498
Đi tìm một chi tiết: Hai con sông và một vùng sa mạc 500
Một thư luân lưu để tìm những người tình nguyện . 501
Người dẫn đầu đoàn truyền giáo là đứa trẻ có hai người Da đỏ khổng lồ đu lên 504
Hai mươi lời kỷ niệm viết bằng bút chì 506
CHƯƠNG 46 : PANTAGONIA, ĐẤT HỨA . 509
Còn những người man rợ thì sao? . 510
Những bạn trẻ đến từ Torino . 512
“Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi!” 515
“Cha đã thấy tận trong bụng của các núi non” 520
Giấc mơ cuối cùng của Don Bosco . 523
CHƯƠNG 47 : DON BOSCO VÀ ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC GASTALDI 526
Sự lạnh nhạt của Đức Cha Ricácardi 527
“Nếu con muốn, thì cha ban điều đó cho con” 529
Ngài là một vị Giám mục vĩ đại 531
Sai lầm nền tảng của Don Bosco . 533
Quyền lực đúng mức và quyền lực đi quá mức . 536
Yếu tố thứ nhất: Nguyện Xá của Don Bosco thiếu kỷ luật 538
Một lý do khác của sự căng thẳng . 539
Luật Tu Hội được phê chuẩn vĩnh viễn . 540
Các danh sách “những biện pháp trừng phạt” 541
Tiến trình xét xử tại Vatican . 545
Chén đắng dành cho Don Bosco . 546
Thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp . 547
CHƯƠNG 48 : CÁC CUỘC HÀNH TRÌNH LỚN: QUA PHÁP VÀ TÂY BAN NHA . 549
“Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai” 550
Paris bừng lửa nhiệt tình . 552
Một bức hình chụp Don Bosco Tại Pháp…………… 553
Một ngày của một linh mục nghèo . 554
Đức Hồng Y, người mang đến hòa bình……………. 556
Nếu cha không trở lại nữa . 557
CHƯƠNG 49 : GIOAN CAGLIERO LÀM GIÁM MỤC 561
“Ai có thể đảm nhận chỗ của cha?”………………… 561
Một cái ôm hôn nồng thắm người con giám mục đầu tiên 563
Don Rua Phó Bề trên đại diện Don Bosco . 564
Don Bosco cầm lấy tay của ngài……………………. 564
Nhà của Đức Giám Mục là một nhà gỗ nhỏ bằng thân cây 566
CHƯƠNG 50 : NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT NÓNG HỔI 571
Một vị linh mục nghiêm chỉnh và suy tư . 572
Một bông hoa giúp nghĩ về cõi đời đời 572
Don Bosco và những người giàu có . 574
Xuống Roma trong vòng mười ngày . 579
Những dòng nước mắt nóng hổi 581
Luigi Orione: ba cuốn sổ tay ghi các tội 582
CHƯƠNG 51 : CHÀO BIỆT TRÁI ĐẤT . 585
Cha cảm thấy nỗi cô đơn dần dần bao trùm lấy cha . 586
Các ý tưởng đậm hương vị cõi đời đời 590
Sự im lặng ở khu sân lớn . 593
“Tới lượt cha, cha phải xin người ta nói câu ấy cho cha” 594
Giờ phút “những con vật ghê gớm” trở lại 597
“Hãy nói với các con của cha” 598
[1] Đồng tiền Ý gọi là đồng lire.
[2] Khu Nguyện Xá của Don Bosco nằm ở khu có tên là “Valdocco”.
[3] Castello có nghĩa là Pháo đài
[4] Là nơi có thủ phủ là thành phố Milano
[5] Nơi này Don Bosco đã xác định chính xác, là nơi hiện tìm thấy trong nhà nguyện các hài cốt của Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Phù Hộ. Trên nền đá có ghi dấu chữ thánh giá mạ vàng.
[6] Umbria nằm ở miền trung nước Ý, giáp Tuscanà về phía Tây, Marche về phía Đông và Lazio về phía Nam. Vùng này chủ yếu là đồi núi. ..
[7] Em I 553-554.
[8] A Pio IX, 10 marzo 1863, Em I 561.
[9] Lett. Del 5 giugno 1862 di Cesare Chiala (1837-1876). Piu tardi salesiano, al cav. Federico Oreglires di S. Stefano, ASC A 0050401, Fdb 929 C 10-D1; P. Stella, Don Bosco nella storia della religiosità catolica II, 547-554.
[10] Em I 1629.
[11] Ghi Chú:
Các giấc mơ của Don Bosco
Trong chương này, chúng ta đã nói tới ba giấc mơ của Don Bosco: Đó là những giấc mơ “Một Nhà Thờ Lớn trên cánh đồng bắp”, “Ba ngôi Nhà Thờ”, “Hai cột trụ”.
Xin cho phép tôi được có một nhận xét cá nhân của mình.
Về các giấc mơ của Don Bosco, người ta đã viết rất nhiều, nói chung là nghiêm chỉnh và có uy tín. Khốn thay, cũng có người bàn đến một cách kỳ quặc khiến cho người đọc phải tự hỏi những người viết đó có mơ nhiều hơn là Don Bosco đã mơ chăng.
Để cắt nghĩa các giấc mơ này và để loại bỏ tất cả tính chất “phi thường” của cuộc sống của Don Bosco, người ta đã sử dụng cả đến các giả thiết cắt nghĩa theo lối khoa học, chẳng hạn dựa trên khoa nghiên cứu các hiện tượng thần kinh ngoài lãnh vực tâm lý bình thường (nhưng những cách thức cắt nghĩa đó ngày nay đã bị hoài nghi một cách nghiêm chỉnh và bị các nhà thông thái loại bỏ), hay coi những giấc mơ là một thứ “huyền thoại hóa” mà những người kể lại các sự việc và các lời nói của Don Bosco đã rơi vào, để rồi họ minh nhiên lên án các giấc mở trên như là các chứng từ giả.
Chúng tôi chân nhận rằng người ta có quyền đặt ra những giả thiết để làm việc và nghiên cứu hầu có thể kiệm nghiệm cách thích đáng các giấc mơ này. Nhưng chúng tôi không thấy chính đáng khi người ta chấp nhận mọi thứ giả thiết đưa ra để nghiên cứu về chúng, chỉ trừ duy nhất cái giả thiết coi chúng chính là sự can thiệp của Thiên Chúa trong đời sống của Don Bosco. Nếu người ta hành xử đàng hoàng, thì người ta cũng buộc phải đưa cả cái giả thiết siêu nhiên này vào để nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. Vậy một sự kiểm nhận nghiêm chỉnh của sử gia buộc phải lưu ý đến việc chọn lựa các chứng từ đã tuyên thệ trước tòa án phong á thánh cho Don Bosco về lời chứng của mình. Việc chối bỏ một cách tiên thiên các chứng từ được thực hiện với lời thề, chỉ vì muốn bảo về các lý thuyết đáng hoài nghi trên, cho thấy rằng công việc điều tra lịch sử ấy đã không được theo đuổi một cách nghiêm chỉnh, trái lại nó xuất phát từ các thiên kiến muốn loại trừ ánh sáng siêu nhiên. Làm như vậy là rơi vào các tín điều của chủ nghĩa thực chứng (cho rằng không thể nào tiếp nhận những cái gọi là siêu nhiên cả, và do vậy vô ích nếu chúng ta muốn nhận định về nó).
Chúng tôi không phải là những chuyên viên trong lãnh vực này. Nhưng chúng tôi tin rằng để có một ý niệm chính xác về các giấc mơ của Don Bosco, thì vô cùng quan trọng phải biết Don Bosco thực sự đã nghĩ gì về các giấc mơ của ngài, và những người sống cùng ngài đã nghĩ gì. (Điều này dĩ nhiên là chưa phải là tất cả các dữ kiện mà một sử gia cần đến, nhưng nó chính là một bước xuất phát cho một cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh).
Vậy chúng tôi xin cho mình quyền kể lại một số câu nói của Don Bosco và của những người đã sống bên cạnh ngài trong nhiều năm trời. Chúng tôi không sửa lại bản văn của các nhân chứng này, dù cho làm thế có thể khiến cho những người không quen với lối diễn tả bằng tiếng Ý của những năm 1800 (tức là trong thế kỷ XVII) sẽ gặp khó khăn để hiểu được các câu văn thời xưa đó.
Giấc mơ 9 tuổi. Chứng từ tự thuật của Don Bosco
“Bà nội biết khá đủ về thần học – vì bà hoàn toàn không biết chữ – để tuyên bố phán đoán cuối cùng như sau: “Đừng bận tâm về mộng mị”. Cha cũng đồng quan điểm với bà nội; tuy nhiên cha không hề cất bỏ giấc mơ đó khỏi tâm trí cha được. Những điều cha sẽ kể lại sau đây sẽ trao cho giấc mơ một cái ý nghĩa của nó” (Hồi Ký Nguyện Xá, do cha E. Ceria xuất bản, tr. 25).
Giấc mơ về ngôi nhà thờ lớn trên cánh đồng bắp: Chứng từ tự thuật của Don Bosco
Giấc mơ này làm tôi suốt đêm trằn trọc suy nghĩ; nó kéo theo nhiều chi tiết. Tôi không hiểu nổi ý nghĩa của nó vào thời điểm đó, bởi lẽ tôi không tin vào nó lắm; nhưng tôi dần dần hiểu ra hiệu quả của nó khi các sự việc thành sự. Thậm chí sau này, cùng với một giấc mơ khác, tôi đã sử dụng nó làm chương trình cho các quyết định của tôi” (Hồi Ký Nguyện Xá, do E. Ceria xuất bản, tr. 136).
Chứng từ của Don Bosco do cha Lemoyene thuật lại
“Trong những năm đầu tôi dần dần đặt tin tưởng vào những giấc mơ này như chúng đáng được hưởng. Rất nhiều lần tôi đã coi đó là trò do trí tưởng tượng của tôi tạo ra. Trong khi kể lại những giấc mơ này, trong khi loan báo những cái chết sắp tới, tiên báo tương lai, rất nhiều lần tôi tư lự không dám chắc chắn, vì không tin tưởng rằng mình đã hiểu chúng và sợ rằng mình nói những chuyện dối trá. Tôi tới mức đã phải thú nhận cùng cha Cafasso về mối nguy hiểm nếu tôi nói chúng ra. Ngài nghe tôi, suy nghĩ một chút rồi nói: “Bắt đầu từ lúc mà cha thấy là những điều cha nói đang được thực hiện, thì cha có thể an tâm và tiếp tục tiến bước”. Tuy nhiên chỉ sau đó một năm khi chàng trai Casalegno chết, và tôi đã được thấy cậu nằm trong quan tài, đúng hệt như tôi đã mơ, thì tôi mới không còn ngần ngại để tin rằng những giấc mơ này thực sự là những lời cảnh cáo của Chúa” (M. B., Cuốn V, tr. 376).
Chứng từ của cha Lemoyne
Cho tới khoảng năm 1880, khi kể lại các giấc mơ này, Don Bosco đã không bao giờ nói đó là những thị kiến. Nhưng với riêng tôi, vào những năm sau cùng này, tuy rằng ngài không bao giờ nói chính tiếng “thị kiến”, nhưng ngài để cho tôi sử dụng chúng trong các cuộc trao đổi thân mật giữa chúng tôi” (M. B. Lời dẫn nhập, Cuốn XVII).
Chứng từ của cha Berto, thư ký của Don Bosco trong suốt 20 năm
“Ngài tiên báo trước khi nó xẩy ra về cái chết của hầu hết các trẻ em của Nguyện Xá, một cách chính xác về thời điểm và các hoàn cảnh của việc các em trẩy sang thế giới bên kia. Có những lần này hay lần khác, ngài cảnh báo các cậu bé một cách rõ ràng; có khi ngài nêu những vần đầu của cái tên những người sẽ chết. Những lời tiên báo đó, như tôi nhớ lại, đã hoàn toàn xẩy ra như vậy; tôi có thể xác nhận được chúng. Chỉ họa hiếm mới có những luật trừ, nhưng đúng như chúng diễn ra, chúng khẳng định về tinh thần tiên tri của Don Bosco. Chính tôi là linh mục Berto, là nhân chứng mắt thấy tai nghe, viết ra những lời này” (M. B., Cuốn V, tr. 387).
Cảm nghĩ của cha Ceria
Người viết 9 cuốn sách Hồi Sử cuối cùng trong tiểu sử Don Bosco này đã gia nhập Tu Hội 3 năm 8 tháng trước khi Don Bosco qua đời, trong bài Dẫn Nhập cho cuốn XVII, đã phân loại các giấc mơ của Don Bosco thành ba nhóm:
– Những giấc mơ chỉ thuần túy là những giấc mơ như chuyện chúng ta mơ vào những đêm bụng tiêu hóa không tốt: suy nghĩ cho nghiêm chỉnh thì không nên liệt chúng vào trong hạnh sử của Don Bosco. Một số chúng được đem vào trong Bộ Sách Hồi Sử chỉ để giúp chúng ta bao có thể biết được những yếu tố của cuộc đời Don Bosco.
– Các giấc mơ không chỉ là những giấc mơ, mà chính là các thị kiến xẩy ra ngay giữa ban ngày, chẳng hạn giấc mơ tỏ lộ tương lai của Gioan Cagliero.
– Những giấc mơ mơ về ban đêm biểu lộ những chuyện bí mật hay tương lai.
Tuy nhiên cha Ceria nhận xét như sau: Khó mà phân biệt giữa ba loại giấc mơ này. Có lần chúng ta không biết khi nào Don Bosco mơ thấy mình đang ở trong góc phải của chính diện Đền thờ thánh Phêrô, ở lưng chừng giữa theo đường thẳng đứng tính từ tượng thánh Phêrô và Bức khảm ghép mảnh đá “mosaic” ghi lại hình Đức Thánh Cha Pio IX, và Don Bosco chẳng hiểu nổi làm sao ngài lại tới được chỗ đó. Ngài muốn xuống. Ngài gọi, la hét lên, nhưng chẳng ai tới. Sau cùng vì khiếp sợ, ngài giật mình tỉnh dậy. Người ta sẽ nói đó là một giấc mơ do việc tiêu hóa không tốt mà xẩy ra. Thế rồi cha Ceria tiếp tục viết: Nhưng nếu ta nhìn hốc nằm ở chính diện của nhà thờ thánh Phêrô này vào năm 1936, thì sẽ thấy có bức tượng vĩ đại của Don Bosco do nhà điêu khắc Canonica đặt ở vị trí giữa hai bức tương thánh Phêrô và Đức Thánh Cha Pio IX đó. Thế là chúng ta hiểu rõ đây thật sự không phải là giấc mơ được tạo ra bởi sự tiêu hóa không tốt.
[12] Sắc lệnh Công đồng được biên soạn thành một câu duy nhất trong bản gốc. Ở đây chúng ta cắt ra thành bốn câu cho dễ đọc. Những chữ trong ngoặc được thêm vào để diễn rõ ý nghĩa.
[13] Khu cuối cùng của Nam Mỹ nay vẫn chưa có đường xe lửa cho tới năm 2003. Giấc mơ của DonBosco vẫn còn chờ thực hiện.
[14] Thủ đô nước Chile
[15] Vallecrosia là một đô thị ở tỉnh Imperia trong vùng Liguria, tọa lạc khoảng 120 km về phía tây nam của Genoa và khoảng 30 km về phía tây của Imperia. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 7.264 người và diện tích là 3,6 km².
[16] Tại Paris, chính quyền Cách mạng Công Xã theo đường lối cách mạng, dựa trên lực lượng công nhân. Chính quyền này bị đè bẹp bởi quân của đội quân của giới trưởng giả Pháp.
[17] Samperdarena gần bến tàu nơi các nhà truyền giáo xuống tàu đi Nam Mỹ.
Leave a Reply