Giáo dục theo gương Don Bosco

Nguyên tác: Educhiamo come Don Bosco

Tác giả : Lm. CARLÔ AMBRÔGIÔ SDB

Người dịch : Lm. GB. NGUYỄN VĂN THÊM, SDB

Nhân dịp Kỷ niệm 100 Năm Don Bosco Qua đời (1888-1988)

LỜI GIỚI THIỆU

Các bạn trẻ, những nhà giáo dục tương lai thân mến.

Thế giới nói nhiều về năm 2000. Vào năm 2000, các bạn sẽ là ai, làm gì, ở đâu? Ngay chính các bạn cũng không nắm vững được câu trả lời. Có điều chắc chắn là các bạn sẽ bước vào Tình yêu. Tình yêu sẽ đưa các bạn đến Hồng Ân cao cả: được làm cha, làm mẹ và có những người con giống hình ảnh Thiên Chúa. Các bạn được mời gọi thông hiệp vào mầu nhiệm Tạo dựng của Thiên Chúa qua bí tích Hôn nhân, và như thế các bạn trở thành người cha, người mẹ, những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái mình.

Thánh Gioan Bosco nói: “Nơi mỗi đứa trẻ, con cái các bạn, đều có một vị thánh đang ngủ quên, các bạn phải biết làm sao để đánh thức vị thánh đó dậy”.

Bạn trẻ thân mến,

Hoa trái của tình yêu, hạnh phúc của cha mẹ đó chính là con cái. Làm sao để biết đánh thức vị thánh đang ngủ quên trong các con cái các bạn: đó là tất cả ý nghĩa, mục tiêu, cứu cánh của khoa sư phạm hay nghệ thuật giáo dục vậy.

Tôi xin giới thiệu với các bạn trẻ một số mẩu chuyện ngắn mang tính giáo dục theo phương pháp của Cha Thánh Gioan Bosco, là Cha, Thầy, Bạn của giới trẻ và cũng là Bổn mạng của các bậc cha mẹ, những nhà giáo dục chính yếu và tiên khởi.

Những bài này do Cha Carlô Ambrôgiô viết nhân dịp Kỷ niệm 100 năm Thánh Gioan Bosco qua đời (1888-1988), đã được đăng trên Nguyệt san Salêdiêng trên khắp thế giới dưới tựa đề: GIÁO DỤC THEO GƯƠNG DON BOSCO.

Tôi mong ước những bài này sẽ góp phần giúp các bạn trẻ, cách riêng các cha mẹ trẻ, hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ cao quý nhưng vô cùng khó khăn, là giáo dục con cái mình.

Nguyện xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Phù Hộ các giáo hữu và Thánh Gioan Bosco, ban cho các bạn trẻ và các bậc cha mẹ nhiều ơn lành hồn xác.

Lm. P.M. Nguyễn-Văn-Đệ SDB

Giám Tỉnh Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt-Nam

 

 

 

 

THAY LỜI TỰA

“BÍ QUYẾT CỦA DON BOSCO”

Ngày 31-1-1961, Đức Hồng Y Montini, sau này là Giáo Hoàng Phaolô VI, đã nói với các học sinh Trường Salêdiêng ở Milanô:

“… Các con có hiểu nghĩa hai chữ “giáo dục” không? Theo nguyên ngữ, và theo nghĩa thực của nó, “giáo dục” là “educere” nghĩa là “lôi ra”. Cha Bosco đã trở nên “THẦY GIÁO”, tức một “NGHỆ SĨ” biết lôi ra những điều các con có trong lòng, mà có lẽ chính các con cũng không biết, lôi ra những đức tính cao cả, những năng lực còn đang nằm ngủ, những khả năng ẩn tàng, năng lực đang tiềm ẩn trong lòng các con. Các con là những hạt giống có thể mọc thành cây, trổ hoa, kết trái, làm nên một cuộc sống hoàn hảo.

Don Bosco đã giáo dục các học sinh nên người. Ngài giáo dục các công nhân, những người thợ trẻ, các nhà chuyên môn, các học sinh thành những con người đầy đủ đức tính tự nhiên, cương nghị và can trường, mạnh mẽ và bền bỉ. Ngài đã giáo dục họ thành người, nhưng không phải theo kiểu giáo dục đời, vốn không biết đến bí mật thâm sâu của tâm hồn con người. Có thể nói rằng Ngài đã giáo dục họ thành người theo mẫu gương Chúa Giêsu: với hai giá trị, hai khuôn mặt, hay đúng hơn, hai bản tính. Ngài đã giáo dục thành người và thành kitô hữu, giáo dục thành người trần thế và người thần linh, giáo dục thành người của đất và người của trời, thành con người toàn vẹn.

Chính bí quyết và nghệ thuật này của Don Bosco đã khiến Ngài phấn khởi. Và các thanh thiếu niên đã làm cho Ngài nên điên dại vì say mê và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì công cuộc vĩ đại vô song: công cuộc giáo dục những con người bé nhỏ thành những kiệt tác hoàn hảo, thành những tạo vật như Thiên Chúa muốn: con của đất và con của trời”.

Lời kinh của người tông đồ giới trẻ

Lạy Cha, vâng theo tiếng của Thần Khí Cha, chúng con muốn được nên dấu chỉ và người mang Tình Yêu Cha đến cho các thanh thiếu niên, đặc biệt những em nghèo khổ hơn.

Xin Cha làm cho con tim của mỗi người chúng con phong phú Tình yêu dịu dàng ấy, và giúp chúng con biết khám phá ra Đức Giêsu hiện diện nơi thanh thiếu niên, để chúng con có thể sẵn sàng cống hiến cho chúng thời giờ, tài năng, sức lực và cả cuộc sống chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ quên lãng sứ mạng được trao cho chúng con, nhưng biết giữ mình lạc quan, đầy lòng tín thác vào Cha để chúng con biết chấp nhận những gì là tốt đẹp, đặc biệt những gì làm thanh thiếu niên vui thích để khi loan báo Tin Mừng Đức Giêsu, chúng con được trở nên những người đem niềm vui và có khả năng giáo dục thanh thiếu niên đạt tới sự thánh thiện xây trên niềm vui Kitô giáo.

Xin Cha ban cho chúng con, đang khi chu toàn sứ mạng này vì Vinh Danh Chúa, được tìm thấy con đường nên thánh chắc chắn của mình. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

 

 

 

GIÁO DỤC LÀ CÔNG CUỘC CỦA TÌNH YÊU

CHÚNG TA CÓ THỰC SỰ YÊU THƯƠNG TRẺ EM KHÔNG ?

Hồi đó, ở Ancôna, bao nhiêu người chết vì dịch tả, nhiều trẻ em mất cả cha lẫn mẹ.

Đầu tháng 8 năm 1866, sáu em bụi đời được đưa tới Nguyện xá[1] Tôrinô. Nhưng Don Bosco đi vắng hôm sau mới về. Khi Don Bosco về, chúng nhìn thấy Ngài, nhưng không bỏ mũ chào Ngài. Với nụ cười trìu mến, thánh nhân đặt tay trên đầu chúng và hỏi:

– Các con có khỏe không?

– Không!

– Ủa, tại sao thế, các con?

– Vì bị đàn áp. Chúng con muốn về nhà!

– Bị đàn áp!? Nhưng như thế nào?

– Ở đây không có gì ăn hết. Cái người ta cho ăn thật là tồi…

– Nhưng cháo các con ăn, các học sinh khác cũng ăn, các bề trên[2] cũng dùng và chính cha cũng dùng…

– Cha thích món cháo ấy thì tùy cha, còn chúng con thì…

Khó chịu trước những câu trả lời thô lỗ ấy, nhưng nét mặt Don Bosco không tỏ ra mất bình tĩnh. Ngài bình thản quay sang các trẻ khác đang vây quanh Ngài rất đông.

Còn sáu em kia, sau khi rút được nỗi uất ức, đã nhún vai bỏ đi và rút vào một góc sân.

Sử liệu ghi lại cách thức Don Bosco cảm hóa thanh thiếu niên: “Nhiều lần tôi nhìn thấy những cảnh tượng thật lộn xộn. Nhưng Don Bosco đã thành công trong việc uốn nắn dần dần những con vật hung dữ, luôn miệng chửi thề ấy, thành những con chiên hiền lành, đồng thời làm nổi bật bản chất tốt vốn có nơi tâm hồn mỗi em. Don Bosco không nôn nóng, không xua đuổi. Với lòng nhân từ, Ngài trấn an các tâm hồn. Ngài khám phá, khơi lên cái tốt nơi mỗi em và dẫn đưa tới “Thiên Chúa”. Ngài cũng làm như thế với sáu em kia. Ngài gặp riêng từng em. Với lời lẽ dịu dàng Ngài đã chinh phục được tâm hồn chúng và làm cho chúng cảm thấy chúng được yêu mến. Rồi, Ngài dịu dàng dẫn chúng tới nhà thờ, giải tội cho chúng. Những em ấy đã được hoán cải.

Đây là một bản xét mình. Có một bản năng tự nhiên liên kết chúng ta với con cái; nhưng tình yêu đích thực còn là cái gì cao hơn bản năng. Ta hãy thử xét xem:

* Có phải ta yêu con cái như người ta yêu búp-bê hay yêu đồ chơi? Ta yêu chúng chỉ vì thích ôm hôn hay vuốt ve chúng? Nếu vậy, thật là một lòng yêu mến nghèo nàn. Mỗi đứa trẻ còn là con của Thiên Chúa mà Đức Kitô đã hiến mạng sống trên thập giá cho nó.

* Hay ta yêu mến chúng vì chúng nhân đức, vì chúng xinh đẹp, lễ phép và thông minh? Yêu mến như vậy thì cũng quá tầm thường, dễ đi đến chỗ thiên vị.

* Hay ta yêu mến chúng vì chúng thuộc về ta và ta muốn đào tạo chúng theo sở thích của ta? Nếu thế, ta sẽ thất vọng, vì chúng sẽ sớm tỏ ra độc lập và thoát khỏi ảnh hưởng của ta.

* Hay ta chỉ yêu mến chúng khi thành công trong việc dạy cho chúng biết cách xử sự vừa lòng ta? Đây cũng là một lòng yêu mến thuần nhân loại. Đức Hồng Y Mercier nói: “Hỡi các bậc làm cha mẹ, đừng chiếm chỗ của Thiên Chúa”.

Lòng yêu mến đích thật phải dẫn đến Thiên Chúa. Định nghĩa đúng đắn nhất về Thiên Chúa chính là định nghĩa của thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Bí quyết giáo dục của Don Bosco chính là: “Dùng lòng tốt mà xoa dịu các tâm hồn, khám phá ra cái tốt nơi mỗi em, làm cho nó tỏa sáng và dẫn chúng đến với Thiên Chúa”.

“Trẻ phải được yêu, nhưng không chỉ có thế, mà chúng còn phải nhận ra chúng được yêu… Các bề trên phải yêu thích những gì thanh thiếu niên yêu thích, rồi chúng sẽ thích những gì bề trên thích. Có như thế bề trên mới nhẹ bớt gánh nặng… Ai muốn được yêu, cần phải tỏ ra mình yêu. Ai được yêu mến, sẽ được mọi sự, nhất là nơi thanh thiếu niên. Tín nhiệm là dòng điện lưu hành giữa thanh thiếu niên và bề trên. Thanh thiếu niên sẽ cởi mở, giãi bày những ưu tư, lầm lỗi của mình. Chính nhờ có tình yêu đó mà bề trên chịu đựng mọi lao nhọc, nhàm chán, vô ơn, quấy phá, thiếu sót, cẩu thả của thanh thiếu niên” (Don Bosco).

[1] Nơi Don Bosco tụ tập thanh thiếu niên lại để giáo dục chúng.

[2] Những người cộng tác với Don Bosco trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

GIÁO DỤC THANH THIẾU NIÊN: DỄ HAY KHÓ

Ngày nọ, Don Bosco vào một tiệm hớt tóc ở Tôrinô. Ngài gặp một cậu bé tập nghề và hỏi:

– Con tên gì?

– Dạ, con tên là Carôlô Gastini.

– Cha mẹ con còn sống không?

– Thưa, con chỉ còn mẹ.

– Con bao nhiêu tuổi?

– Thưa, mười một.

– Con đã rước lễ lần đầu chưa?

– Dạ, chưa.

– Con có học giáo lý không?

– Thưa, con đang học.

– Tốt lắm! Bây giờ con cạo râu cho cha.

Ông chủ tiệm la lên:

– Trời ơi! Xin cha đừng mạo hiểm! Thằng này mới học nghề mà! Nó chỉ có thể cạo lông chó thôi!

Don Bosco bình thản đáp:

– Không hề gì! Nếu cậu bé không bắt đầu thực tập, thì sẽ không bao giờ thành nghề được đâu.

– Xin lỗi cha! Nếu cần thực tập, con sẽ cho nó cạo râu người khác, chớ không được cạo râu một linh mục.

– Lạ nhỉ! Thế râu của tôi quí hơn sao? Không có gì phải sợ, bác ạ. Râu của tôi là râu gỗ (Don Bosco dùng tên mình để chơi chữ một cách hóm hỉnh, vì tiếng Piemonte “bosch” có nghĩa là gỗ). Miễn sao nó đừng cắt mũi tôi là được.

Cậu bé học nghề được dịp thực tập. Don Bosco thản nhiên trước sự vụng về của cậu. Song, Ngài nói: “Không tệ lắm! Con sẽ sớm trở thành thợ cạo nổi tiếng!” Sau đó, Ngài còn nói đùa với Gastini và mời cậu đến Nguyện xá vào Chúa nhật tới. Cậu nhận lời mời của Ngài.

Don Bosco trả tiền cho ông chủ và đi ra. Suốt đoạn đường, thỉnh thoảng Ngài đưa tay lên xoa cái mặt đau rát và nóng bỏng của mình, nhưng Ngài hài lòng vì đã chinh phục được cậu bé.

Giữ đúng lời hứa, Chúa nhật sau đó, cậu bé tới Nguyện xá. Don Bosco khích lệ cậu, và giúp cậu vui chơi với các trẻ em khác. Sau khi kết thúc các lễ nghi tôn giáo, Ngài nói thầm vào tai cậu vài lời rồi dẫn tới phòng áo, giúp xét mình và giải tội cho cậu. Carôlô xúc động đến rơi lệ. Don Bosco cũng không cầm nổi nước mắt. Từ ngày ấy Nguyên xá đã trở nên ngôi nhà thứ hai của Carôlô Gastini.

Don Bosco chinh phục các thanh thiếu niên nhờ biết tín nhiệm chúng, rồi lôi kéo tới mình để giáo dục và dẫn chúng đến với Thiên Chúa. Một nhà tâm lý đã viết cách khôi hài:

“Người ta có thể giáo dục trẻ em cách dễ dàng nếu có sự kiên nhẫn… của một nghệ nhân (hay tu sĩ Xitô)[1], sự bình tĩnh của một phi hành gia và ngủ ít”. Nói đúng hơn: “Giáo dục trẻ em là chuyện dễ đối với người biết dành cho chúng lòng tín nhiệm và thực sự yêu thương chúng đến độ hy sinh chính mình”.

* Đâu là ngăn trở lớn nhất đối với mối tương quan tốt giữa nhà giáo dục và trẻ em? Thường đó là vì không có khả năng yêu mến chúng đến độ hy sinh. Cha mẹ thường chỉ biểu lộ lòng yêu thương bằng cách cung cấp cho con cái mọi nhu cầu vật chất, đang khi chúng tìm một cái gì hoàn toàn khác. Chúng mong tìm gặp nơi cha mẹ những người bạn để gởi gắm các nỗi niềm thầm kín, những người hướng đạo chững chạc trước các khó khăn của tuổi đời mới lớn. Cha mẹ phải luôn đi bước trước. Con cái sẽ khó đi bước trước được. Nhà giáo dục cũng thế. Để giáo dục một đứa trẻ, dạy giỏi chưa đủ, mà còn phải yêu thương nó và biết cách biểu lộ lòng yêu thương ấy nữa.

* Thanh thiếu niên thường tỏ ra dửng dưng trước vấn đề tôn giáo. Bởi đâu? Một phần do lứa tuổi, một phần do xã hội chung quanh, và một phần cũng do lỗi của người giáo dục, không biết trình bày tôn giáo đích thực của Tin Mừng. Thanh thiếu niên sẽ tự nhiên từ khước thứ tôn giáo chỉ có luật lệ, cấm đoán và hăm dọa. Đó không phải là thứ tôn giáo của Đức Kitô.

* Đâu là mục tiêu mà cha mẹ và người giáo dục cần giới thiệu cho thanh thiếu niên? Trước hết, cần giúp chúng trở nên người trưởng thành và biết gánh vác trách nhiệm, xác tín được rằng không có Thiên Chúa và đức tin thì đời sống sẽ trở thành một bài toán vô nghiệm và không thể chấp nhận được. Tốt nhất là làm sao hướng dẫn chúng tự khám phá ra những điều ấy. Chẳng hạn khi nói về tình yêu, hãy gợi ý cho chúng khám phá đâu là tình yêu đích thật. Hãy để cho chúng đạt tới những điều được Tin mừng xác nhận và vui hưởng những kết quả ấy.

[1] và cũng có nghĩa bóng: nghệ nhân làm những việc tỉ mỉ cách kiên nhẫn.

HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT QUI LUẬT TIẾNG VANG

Cha Matthêu Rigôni là một linh mục Salêdiêng thuộc thế hệ đầu tiên, qua đời tại bệnh viện Enganêô, gần Estê, trong thế chiến thứ hai. Ngài thường kể: “Một buổi sáng, tôi đang vội vã xuống thang thì gặp cha Bosco. Ngài chặn tôi lại, mỉm cười: “Con không được trốn cha nữa nhé”. Sau đó Ngài cầm tay tôi, nắm chặt như muốn tỏ ý không buông tôi ra nữa. Và âu yếm nói tiếp: “Con chịu ở với Don Bosco suốt đời chứ?” Tôi không sao từ chối được: “Vâng thưa cha, con xin hứa”. Ngài buông tay tôi ra, và từ lúc đó, cái nhìn của Ngài đã xâm chiếm lòng tôi. Rồi Ngài tiếp tục lên cầu thang cách khó nhọc, còn tôi thì chạy đi chơi. Sau này tôi được chứng kiến phép lạ Ngài làm hạt dẻ hóa nhiều; và còn được Ngài dẫn tới Rôma hát lễ trong ngày cung hiến Vương cung Thánh đường Thánh Tâm nữa. Điều đáng nói hơn cả là, tôi không thể nào quên lòng yêu thương Ngài đã biểu lộ cho tôi vào sáng hôm đó trên cầu thang Nguyện xá: cú sét ấy đã liên kết tôi với Don Bosco suốt đời. Kể từ đó tôi không bao giờ ân hận vì đã trở thành tu sĩ Salêdiêng”.

* Tâm hồn trẻ em phải được chinh phục như thế: tỏ cho chúng biết mình thực sự muốn điều tốt cho chúng. Don Bosco nói: “Yêu mến trẻ em thôi chưa đủ, các trẻ em còn cần nhận biết chúng được yêu mến”.

Trẻ em nào cũng muốn được yêu mến. Chúng cần biết cha mẹ đang muốn điều tốt cho chúng. Không gì có thể thay thế cảm nghiệm kỳ diệu ấy. Những đứa trẻ thất vọng vì không được gia đình hoặc các nhà giáo dục yêu mến, cảm thông, sẽ không bao giờ trở nên Kitô hữu hay công dân tốt. Chắc chắn sẽ có một “mặc cảm” nào đó tồn tại trong suốt cuộc đời chúng. Chính vì thế, Thánh Phaolô khuyên Giám mục Titô hãy “dạy các bà mẹ trẻ yêu thương con cái họ” (Tt 2,4).

* Phải lưu ý tới qui luật “tiếng vang”. Một ông giám đốc ngân hàng danh tiếng người Nhật kể lại: khi còn nhỏ, ông được cha mẹ đưa tới vùng rừng núi để nghe tiếng vang. Người cha nói với ông: “Cưng của ba có thấy không, mỗi lời con nói đều được phóng ra và dội lại. Con hãy lưu ý tới qui luật “tiếng vang”. Qui luật “tiếng vang” là một luật phổ quát. Muốn được yêu mến và được biết ơn, con hãy yêu mến và có lòng tri ân trước. Như Chúa Giêsu đã nói: “Các con đong bằng đấu nào, sẽ được đong lại bằn đấu ấy”. Cha mẹ hay nhà giáo dục càng biểu lộ lòng yêu mến đối với con cái, thì khi về già càng nhận được lòng biết ơn của chúng. Trẻ em của hôm nay, ngày mai sẽ là tiếng vang vọng lại của lòng yêu mến và sự quan tâm mà ta đã dành cho chúng.

* Hãy giúp trẻ em nhận ra những điều tốt đẹp chung quanh chúng: hãy dạy chúng nhận biết tình yêu của Cha trên trời đối với từng em trong các biến cố của cuộc sống, ngay cả trong những biến cố đau buồn nhất. Một nhà báo đã viết: “Hồi còn là hướng đạo sinh, anh huynh trưởng của tôi rất say mê khoa học thiên nhiên. Anh dẫn chúng tôi vào rừng, bảo chúng tôi chạy và rồi bắt chúng tôi tả lại những điều đã thấy. Chúng tôi chỉ thấy được độ một phần tư những gì anh thấy. Sau đó, anh lấy tay phác một vòng và nói: “Chúa ở quanh các bạn, nhưng các bạn cứ tưởng Ngài ở xa. Đừng sống như những người hay khép kín, giữ kẽ, nhưng hãy mở mắt và thán phục. Đừng mặc áo mưa khi tắm dưới vòi sen”. Đây là một lời khuyên không được quên: phải giúp trẻ em cởi bỏ cái vỏ sò của bản năng ích kỷ. Chúng phải để mình được ướt sũng khi tắm dưới vòi hoa sen của tình yêu mà Thiên Chúa vẫn tuôn xối xả trên chúng mỗi ngày, từ sáng tới chiều”.

LUÔN HỘ TRỰC TRẺ EM

Ba thiếu niên tách khỏi các bạn, chúng tìm một chổ vắng và ngồi trên một cây gỗ lớn, xa cặp mắt của Don Bosco. Chúng bắt đầu nói những chuyện thiếu lành mạnh. Tuy nhiên, Don Bosco đã đoán được điều chúng toan tính; bất chợt, Ngài lại gần và trìu mến bảo chúng: “Sao các con không đi chơi với các bạn? Tách rời ra, phân tán chúng con ra, chúng con là ba đứa trẻ tốt; kết bè lại, chúng con là ba đứa xấu”. Ba thiếu niên ấy đỏ mặt; chúng mỉm cười dưới cái nhìn âu yếm của Don Bosco và chạy đi chơi.

Đây là bài học giáo dục của Don Bosco: Trẻ em thích tìm chỗ khuất để làm điều không tốt, vì thế cần phải hộ trực các em để nâng đỡ và sửa lỗi cách thích hợp. Cha mẹ sẽ tránh được nhiều vấn đề, nếu họ biết nhận định rằng đứa con của họ chỉ là một đứa trẻ, nhất là ở tuổi thiếu niên; và đứa trẻ thì rất ưa lẩn tránh.

* Một nhà tâm lý danh tiếng đã viết: “Nhân cách của một trẻ em là kết quả của một sự tăng trưởng tiệm tiến. Chúng ngồi trước khi đứng, bập bẹ trước khi nói, nói không trước khi nói có, ích kỷ trước khi vị tha, lệ thuộc vào người khác trước khi biết lệ thuộc chính mình. Tất cả mọi khả năng của chúng đều lệ thuộc vào luật tăng trưởng, nhất là ở tuổi thiếu niên”.

Ngày 31 tháng 1 năm 1862, sau cơm trưa, Don Bosco đi dạo trong hành lang với một vài học sinh. Bỗng Ngài dừng lại, ra dấu gọi thầy Cagliêrô (sau này trở thành Hồng y) đến bên Ngài, rồi tách ra khỏi đám học sinh, Ngài nói nhỏ với thầy:

– Cha linh cảm thấy có ba đứa trẻ đang chơi bài: không biết chúng chơi ở đâu. Con hãy đi tìm ba em đó (và Ngài nêu rõ tên chúng); con sẽ thấy chúng đang chơi bài.

Cagliêrô đi lục soát khắp nơi nhưng không tìm được. Ba học sinh đó chui rúc ở hang hốc nào? Sau cùng thầy gặp được một em và hỏi:

– Em đi đâu nãy giờ? Thầy tìm em mãi!

– Dạ, em ở kia!

– Em làm gì ở đó?

– Thưa, em chơi.

– Với ai?

– Dạ, em chơi với hai đứa bạn.

– Các em chơi bài ăn tiền phải không?

Mặt đứa bé đỏ như gấc; em bối rối, nhưng rồi cũng thú nhận là đã đánh bài.

Thầy Cagliêrô đến nơi đã chỉ, nhưng không tìm thấy hai đứa kia. Chúng thấy thầy lại gần nên đã trốn mất. Sau đó, thầy gặp được chúng, chúng thú nhận là đã chơi bài ăn tiền. Khi nghe Caliêrô báo cáo lại, Don Bosco cho biết là đêm hôm trước, trong giấc mơ, Ngài đã thấy ba học sinh ấy chơi bài.

Đây là một bài giáo dục khác của Don Bosco: Trẻ em phải luôn được nhà giáo dục theo sát và hướng dẫn: tức là hộ trực sống với trẻ em, ở bên cạnh chúng, hướng dẫn, dạy dỗ, nâng đỡ chúng…

* Trước kia, các nhà sư phạm cho rằng con cái là tấm bảng trống, cha mẹ có thể vẽ lên đó điều gì tùy ý. Điều ấy thật sai lầm! Ngày nay người ta bắt đầu hiểu rằng trẻ em tựa như một nhạc cụ được lên dây từ hồi còn nhỏ, và bấy giờ chúng hoặc cha mẹ chúng sẽ tìm cách chơi bản nhạc được sáng tác với nhạc cụ đó.

* Ngay lúc từ sơ sinh, trẻ em không chỉ khác nhau về trọng lượng, vóc dáng, màu da, màu tóc, nhưng còn khác nhau về các phản ứng với môi trường và thế giới chung quanh nữa. Một số thì sinh động, số khác thì rù rờ; một số thì thất vọng, số khác thì bất chấp, và cha mẹ cho dù có nhiều thiện chí đến mấy, cũng không thể làm gì cho chúng được. Nhưng thực ra, họ có thể làm được một điều rất quan trọng và kỳ diệu: đó là theo dõi chúng, tìm cách hiểu chúng, yêu mến chúng và cầu nguyện rồi trao phó chúng cho Thiên Chúa. Don Bosco gọi cách thức này là “hộ trực”[1].

Một nhà giáo dục rất thông thái đã nói: “Đôi khi một đứa con chỉ có thể nên tốt nếu sống với các cha mẹ khác”.

[1] Hộ trực: sống với trẻ, ở bên cạnh chúng, hướng dẫn, dạy dỗ, nâng đỡ chúng.

HIỂU BIẾT TRẺ

Vào một buổi chiều tháng tư êm ả, khi đi dạo với học sinh, Don Bosco đã ôn tồn kể lại một giấc mơ: “Cha thấy một học sinh của Nguyện xá nằm dưới đất, giữa trại lính; chung quanh em có dao quắm, súng lục, cacbin và tay chân bị cắt ra từng miếng. Em đang hấp hối. Cha hỏi: “Tại sao con rơi vào cảnh đáng thương này?” em trả lời: “Cha không thấy những dụng cụ ở chung quanh con sao? Con đã giết người và vài giờ nữa sẽ bị xử tử”. Các thính giả trẻ của Don Bosco ngạc nhiên về những lời đó. Khi kể xong Ngài thêm: Cha biết học sinh đó; Cha chú tâm sửa chữa những khuyết điểm của em đó, thông truyền cho em tâm tình đạo đức và hiền lành, nhưng em có tính khí hung bạo đến độ cha sợ em sẽ chết trong tội ác”.

Đúng như lời tiên báo của Don Bosco, lớn lên học sinh ấy đã gia nhập quân đội, sống không ra gì và bị xử bắn vì đã giết chết sĩ quan chỉ huy. May một điều là anh ta đã chết như một Kitô hữu tốt, vì trước khi bị xử tử, anh ta đã xin xưng tội và rước lễ.

Don Bosco có mắt nhìn xa, Ngài thấy trước, Ngài biết cuộc đời của một số học sinh sẽ kết thúc thế nào. Ngài đoán được tương lai của một vài học sinh. Tắt một lời, Ngài biết học sinh của Ngài.

Biết quan sát trẻ em, hiểu chúng, đoán ra được hướng đi của chúng đó là điều cha mẹ và nhà giáo dục phải nắm vững. Tuổi thiếu niên là một sự bừng tỉnh, là một đà vươn tới, một nỗ lực giải phóng. Điều duy nhất mà đứa trẻ mong muốn là được người hướng đạo đầy lòng yêu thương giúp chúng nhưng không xúc phạm tới chúng.

Cha mẹ và người giáo dục cần phải tránh hai thái độ sau:

  1. Cho rằng các khuyết điểm, nết xấu và lầm lỗi nhỏ của con cái chỉ là nhất thời và không quan trọng. Họ nói: “Đành rằng có khủng hoảng nhưng rồi tự nhiên sẽ qua”. Như thế là đã có tìm hiểu con cái, nhưng không tìm cách dạy dỗ chúng. Đó là một thái độ tiêu cực, ít hữu hiệu và thiếu khôn ngoan, vì trẻ em không thể tự rèn luyện nếu không có sự giúp đỡ và lời khuyên của cha mẹ.
  2. Can thiệp cách tàn nhẫn và không đúng lúc, với sự tức giận, lăng mạ và chửi bới. Trẻ em vốn đã có khuynh hướng che giấu và lẫn tránh để sống tự lập, mà ta lại dùng vũ lực để sửa lỗi và hướng dẫn thì quả là thiếu khôn ngoan. Trẻ em sẽ dùng sự giả vờ và các mánh khóe khác để tự vệ. Thái độ này tệ hơn thái độ trước.

Thái độ đúng là hiểu trẻ em cách toàn diện. Muốn hiểu trẻ em, cần suy nghĩ về con người của mình khi còn nhỏ. Phải kìm giữ cơn tức giận, sự phật ý và bực dọc. Đứa trẻ của bạn cố chấp không chịu vâng lời ư? Hãy phạt em nhưng với sự bình tĩnh và chừng mực. Sự bình tĩnh sẽ giúp bạn lượng định hình phạt cân xứng với lỗi phạm.

Chưa đủ. Nhiều cha mẹ dù rất yêu thương con cái, nhưng vẫn không hiểu chúng. Hiểu chúng không phải chỉ là sửa lỗi cho trẻ em, nhưng còn phải nhận ra được những yếu tố tốt trong mỗi hành vi, kể cả hành vi có lỗi của chúng. Theo định nghĩa, tuổi thiếu niên là tuổi đi tìm sự quân bình và cũng như bất cứ ai khác, em có thể sai lầm. Các em có sai lỗi thật đấy, nhưng thường vì ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh nhiều hơn vì ác ý, khiến cho lầm lỗi của chúng không nặng như chúng ta tưởng. Ngay cả khi cần phải phạt và trong vài trường hợp phải phạt cách nghiêm khắc, vẫn phải tìm hiểu thiếu niên và cứu xét với lòng bao dung. Thiếu niên muốn được hiểu trong cái nhìn ấy. Nếu thấy mình được cha mẹ thực sự thông cảm, đứa trẻ sẽ rất biết ơn cha mẹ.

“Cần phải huấn luyện ý chí của trẻ em, cần phải hướng dẫn và kiên cường ý chí ấy. Muốn vậy, hãy dạy trẻ em biết thường xuyên làm những hành vi tốt, xuất phát từ lòng yêu mến, đó là điều trẻ em dễ dàng chấp nhận nhờ những thôi thúc trong cõi lòng chúng”.

“Lấy cớ phải chế ngự một bản tính ngỗ nghịch, lắm người khăng khăng đòi uốn nắn ý chí bằng những phương thế thô bạo, nhưng như vậy, thay vì rèn luyện, họ đã phá hủy nó” (Don Bosco).

HÃY TỎ CHO TRẺ EM BIẾT BẠN YÊU THƯƠNG CHÚNG

Một ngày kia, đang đi trên một con đường ở Rôma, Don Bosco bị một nhóm trẻ ngỗ nghịch chặn lại. Chúng muốn thử sức vị linh mục.

Không biết linh mục đó là Don Bosco, chúng làm hàng rào cản lối và chế nhạo Ngài.

Don Bosco thản nhiên tiến lại gần chúng. Với một cử chỉ lịch thiệp, Ngài bỏ mũ xuống và nhã nhặn nói: “Xin phép các bạn cho tôi đi qua”.

Đám trẻ ngỗ nghịch ấy lập tức im lặng; chúng ngạc nhiên vì gương mặt hiền lành và tươi cười của Ngài: “Thưa cha, cha cứ việc đi qua”. Chúng biết rằng Don Bosco yêu thương chúng. Pascal nói: “Hiệu quả đầu tiên của lòng yêu mến là khơi dậy một sự kính trọng lớn lao”.

Xưa nay việc giáo dục trẻ em vẫn luôn là một nhiệm vụ đòi hỏi nhiều nỗ lực và phức tạp. Phải làm gì khi muốn thực sự trở nên nhà giáo dục tốt? Đòi hỏi thiết yếu và quan trọng nhất là tình yêu. Trong lời tựa cuốn sách nhỏ dành cho thanh thiếu niên “Il Giovane Provveduto” (Bạn trẻ trong tay Chúa Quan phòng). Don Bosco viết: “Các con thân mến, cha yêu mến tất cả các con với cõi lòng cha; chỉ cần biết các con còn trẻ là đủ để cha yêu mến các con thật nhiều”.

Thứ tình yêu mà trẻ em cần, có thể được tóm gọn trong câu sau: “Hỡi bạn trẻ, tôi muốn điều tốt cho bạn không phải vì bạn đã làm hoặc không làm thế này thế nọ, nhưng chỉ vì chính con người bạn”. Đây là tình yêu vô điều kiện, một thứ tình yêu hành động cho trẻ em mà không sợ phải gánh chịu hậu quả của bất cứ lầm lỗi nào của chúng.

Đây là vài lời khuyên có thể giúp thực hành lòng yêu thương ấy:

* Không chấp nhận những hành vi xấu của trẻ em nhưng luôn luôn chấp nhận chính con người của chúng. Không có gì là mâu thuẫn nếu sau khi khiển trách người con vì em cư xử không tốt, người cha lại ôm hôn em và nói với em rằng ông muốn điều tốt cho em. Ông khiển trách em chỉ vì yêu em: đó là một tư tưởng mà trẻ em sẽ dễ dàng hiểu và chấp nhận.

* Hãy khen trẻ em vì chính con người chúng hơn là điều chúng làm. Thông thường nhà giáo dục khen trẻ em khi chúng làm được một việc xứng đáng. Nhưng, đáng lý trẻ em phải nhận được lời khích lệ và lòng yêu thương nhiều hơn khi chúng không thành đạt mặc dù có thiện chí, hay khi chúng phạm một vài sai lầm không cố ý, mặc dù đã cố gắng làm điều tốt.

* Hãy tỏ cho trẻ em biết rằng bạn muốn điều tốt cho chúng. Yêu trẻ em thôi thì chưa đủ, còn phải làm thế nào để trẻ em biết và nhận ra rằng bạn yêu chúng.

Đây là tư tưởng được Don Bosco thường xuyên nhấn mạnh. Để tỏ cho trẻ em thấy ta muốn điều tốt cho chúng, đôi khi chỉ cần một nụ cười. Có thể đạt được mục đích này bằng những cử chỉ và hành vi nho nhỏ.

Chẳng hạn bạn hãy làm cho trẻ em nhận ra sự hãnh diện của bạn về chúng ngay cả khi không có lý do: đó là cách thực tiễn để cổ vũ và làm cho trẻ em cảm thấy bạn yêu thương chúng. Có lẽ cách tốt đẹp nhất để bộc lộ lòng yêu thương của bạn là khen trẻ em khi chúng làm được một điều tốt. Đó là điều Don Bosco ưa thích: “Các con thân mến, chỉ cần biết các con là thanh thiếu niên, đã đủ để cha yêu mến các con thật nhiều”. Hãy nói đi nói lại cho trẻ em điều đó: đừng bao giờ nhàm chán.

7.

CÁCH GÂY TÌNH BẠN VỚI TRẺ EM

Don Bosco kể cho học sinh một câu chuyện vui dí dỏm, gương mặt của chúng rạng rỡ một nụ cười hạnh phúc.

Ngài kể một câu chuyện đại ý[1]: “Thằng Giang nằm trên sàn nhà, lũ bạn hỏi nó thích loại trái cây nào nhất. Nó im lặng.

– Mày còn thích trái táo nữa không?

Giang nhăn mặt.

– Hay là trái nào?

– Không.

– Trái lê?

– Không.

Và chúng tiếp tục kể ra vô số các thứ trái cây khác. Nhưng Giang điều từ chối với nét mặt nhăn nhó như con khỉ.

– Như vậy mày thích thứ nào nhất?

– Điều quan trọng đối với tao là các thứ trái tao có trong tay. Chứ không phải là những thứ hảo hạng ở môi miệng tụi mày. Rõ chưa! Đồ dốt!

Đây là một trong những cách Don Bosco gây tình bạn với trẻ em.

* Trẻ em có cái nhìn thực tiễn về những điều người lớn nói với chúng, và thích những trò đùa cũng như những câu chuyện vui. Don Bosco biết cách gợi chuyện và đối thoại với trẻ em theo sở thích của chúng, không mơ hồ và cũng không đánh lừa trẻ em. Vì thế, để giúp chúng vui Ngài thường kể những câu chuyện ngắn, dễ hiểu, vui tươi, không cầu kỳ, và cũng không gượng gạo hoặc khó hiểu.

* Một bí quyết khác, Don Bosco sử dụng để chinh phục cõi lòng trẻ em: không làm trẻ em bối rối. Trẻ em như là một con thú hoang mà người ta chỉ có thể đến gần khi nó không cảm thấy bị rình rập. Đừng bao giờ để một em nhỏ giữa những người lớn đang im lặng nghe nó. Trái lại, hãy nói cho nó một điều gì đó. Có thể kể cho nó một câu chuyện ngắn, đừng để nó bối rối vì sự chú ý đầy hăm họa của bạn: một câu chuyện ngắn đủ để làm cho nó tươi cười và cảm thấy an tâm.

* Nếu bạn muốn trẻ em ghét bạn, hãy thử chế nhạo đứa trẻ mà bạn vừa mới biết. Không có gì làm cho chúng xấu hổ hơn khi chúng nhận ra mình không có khả năng đối đáp với bạn một cách khôn khéo, miếng trả miếng, và hơn nữa khi em biết sẽ bị mọi người la rầy vì hỗn láo.

* Sau cuộc đối thoại, nếu trẻ em vẫn giữ thái độ ngộ nhận hay sai lầm, việc giáo dục tốt đòi hỏi nơi người lớn một lối cư xử duy nhất: đó là giữ nét mặt hoàn toàn bình thản. Hãy làm cho trẻ em nhận ra sai lầm mà chúng đã vấp phạm cách vô ý. Còn la mắng chúng là đánh vào đầu chúng: hạ nhục chúng sẽ khiến chúng nổi giận. Làm thế ắt thất bại trong việc giáo dục.

* Don Bosco dạy rằng thái độ tốt nhất cần có đối với trẻ em là tính tự nhiên, đơn sơ và bộc phát. Điều cần là đừng để trẻ em coi bạn như người xa lạ đối với điều liên quan tới chúng; nhưng như một người bạn tri kỷ chúng dễ dàng kết thân.

[1] Chúng tôi sửa đổi đôi chút cho thích hợp với hoàn cảnh bình dân.

GIÚP TRẺ EM TRONG LỨA TUỔI KHỦNG HOẢNG

Một chiều nọ đang khi cả trăm trẻ em đang say mê chơi đùa trong một cánh đồng ở Tôrinô, bỗng một thiếu nhiên mười lăm tuổi xuất hiện bên cạnh hàng rào. Hình như em muốn vượt rào để nhập bọn với đám trẻ đang chơi nhưng không dám. Em đứng nhìn với vẻ mặt buồn rầu và u uất. Don Bosco thấy em, Ngài tiến lại gần và hỏi em vài câu, nhưng em không trả lời. Don Bosco tưởng em bị câm và đã nghĩ cách nói với em bằng cử chỉ. Ngài thử lần cuối cùng: âu yếm đặt tay trên đầu em và hỏi:

– Con đang ốm phải không?

Với một giọng yếu ớt em trả lời:

– Thưa Cha, con đói!

Don Bosco liền cho người đi lấy bánh mì và vài thứ khác. Khi cậu bé ăn no, Don Bosco trở lại hỏi chuyện, thì ra em là một đứa trẻ bụi đời, làm đồ thắng ngựa, bị ông chủ sa thải vì đã gây lộn. Đêm qua em đã ngủ trên vỉa hè nhà thờ Chính Tòa Tôrinô. Và vài giờ trước đây em định đánh cắp một thứ gì đó để ăn. Nhưng chưa kịp thực hiện mưu đồ thì lại gặp được Don Bosco. Em không chỉ cần bánh vật chất, mà còn cần sự cảm thông. Don Bosco đã hiểu và đã cứu em.

Tuổi mười lăm: tuổi khủng hoảng. Từ mười hai đến mười lăm tuổi, trẻ em phải trải qua một giai đoạn bão táp. Gương mặt đầy những đường nét trẻ thơ hồn nhiên trước đây bắt đầu nhường chỗ cho những nét trang nghiêm, vụng về và mất cân đối.

* Tiếp sau sự hòa hợp của thời thơ ấu là sự vụng về của thời niên thiếu. Người lớn dễ dàng tha thứ những điều thiếu lịch sự của con nít vì chúng dễ thương, nhưng lại tỏ ra rất khó chịu đối với sự ngỗ nghịch của thiếu niên. Đôi khi đứa trẻ ngỗ nghịch gay gắt nói với mẹ nó: “Con không muốn mẹ truyền lệnh cho con như thế”. Nó thường xúc phạm đến bà mẹ và hay nổi cơn bực tức, khiến bà phải phiền lòng suy nghĩ: “Đó là cách con tôi đáp trả tất cả những gì tôi đã làm cho nó. Nó chửi rủa tôi”. Rồi khoảng gần một giờ sau bà mẹ đang chăm chú lau nhà, thì đứa con lại gần dịu dàng lấy tay bịt mắt mẹ và nói: “Mẹ ơi, mẹ có cái gì ăn không: Con đói lắm!” Bà mẹ giận dỗi không đáp. Đứa trẻ khóc và tự tố cáo: “Mẹ ơi, con biết, con xấu lắm”. Nửa giờ sau, vì bà mẹ lại từ chối, nên đứa con lớn tiếng: “Con phải đi khỏi ngôi nhà bất hạnh này”. Và một lần nữa nó đi ra và đóng sầm cửa lại! Quả là một tai họa. Dường như em muốn đạp đổ mọi luật lệ, chống lại mọi người. Cha mẹ và nhà giáo dục biết rõ em: em cứng đầu như đứa trẻ lên ba hay như con lừa, nhưng lại nguy hiểm hơn. Em đã vĩnh biệt thiên đàng của tuổi thơ, nhưng chưa được chuẩn bị để gia nhập vào thế giới của người lớn. Em cảm thấy rất bất an. Một đứa trẻ 14 tuổi đã chán nản thốt lên: “Mọi người khác đều có giá, còn tôi thì chẳng ra gì”.

* Mười lăm tuổi là giai đoạn đứa trẻ hạ bệ mọi thần tượng trước đây của em: em muốn phá đổ mọi khuôn khổ xã hội. Một số phụ huynh đã trốn tránh trách nhiệm đối với các đứa con trong lứa tuổi khủng hoảng ấy và để chúng muốn làm gì thì làm. Còn đứa trẻ thì muốn tách khỏi cha mẹ. Điều ấy đương nhiên làm cho cả hai bên đau khổ. Phần lớn các bà mẹ thường không hiểu rằng đó là lúc đứa trẻ tách khỏi người mẹ, để rồi sau này sẽ yêu mến nhiều hơn, nhưng yêu một cách hoàn toàn khác. Thành ra họ thường thất vọng thốt lên: “Con tôi đã lăng mạ tôi”.

* Đó là ba năm cam go phải trải qua. Ở trường đứa trẻ khó dạy hơn; trong gia đình em thành người xa lạ. Em tỏ ra kiêu căng và hỗn láo. Nhưng khi chiều tới “ông” kiêu ngạo ấy lại sợ chính mình, em cảm thấy yếu đuối không làm chủ được những bản năng và lời nói của mình. Mẹ em cố gắng vỗ về em trước mặt những đứa khác như thường làm, nhưng em thét lên: “Bỏ tay xuống, con không còn muốn nghe mẹ nữa”. Thật đáng giận. Em cần phải bị phạt ngay lập tức. Thế nhưng thật ra điều em đang cần là có một người cha hay một người giáo dục như Don Bosco, biết nói với em bằng sự cảm thông và kính trọng cao độ. Em cần người cha đến ngồi bên cạnh và nói với em: “Con yêu dấu, cha hiểu con, cha biết điều đó. Chính cha cũng đã làm như thế khi ở vào lứa tuổi của con”. Em cần người cha đặt tin tưởng nơi em và biết giữ im lặng khi em im lặng, biết trả lời khi em gợi ý trong thầm lặng, mà không cảm thấy bị xúc phạm chi hết.

* Các trẻ nữ cũng có những năm khủng hoảng ghê gớm của chúng. Cha mẹ phải bình tĩnh trước các thay đổi về tính khí, những cái cười vô nghĩa, những khủng hoảng thần kinh đầy nước mắt. Các em thường hay thích giữ kín “điều bí mật” hoặc tình bạn bất quân bình. Chúng trở nên lười biếng, mơ mộng, nói nhiều, thờ ơ. Nhưng tận thâm tâm chúng cảm thấy nỗi u buồn và kinh hãi. Thái độ ấm ớ như thế chỉ cốt để quên đi nỗi lo sợ. Trong thực tế, chúng rất cần được cảm thông.

Một chiều nọ, Don Bosco âu yếm đặt tay trên đầu một cậu bé 15 tuổi và hỏi: “Con ơi, con làm sao vậy? Hãy nói cho cha nghe: Con ốm có phải không?” Cậu bé ấy đã thoát ra khỏi sự câm lặng của em và trả lời: “Con đói”. Tuổi 15: tuổi khủng hoảng. Trẻ em đói sự cảm thông. “Những em có vẻ như ít muốn được yêu lại cần đến lòng yêu thương nhiều hơn”.

“Hãy để cho trẻ em tự do chạy nhảy, kêu la mặc sức. Thể thao, âm nhạc, kịch nghệ, đi dạo là những phương pháp rất hữu hiệu để giữ kỷ luật, có lợi cho đạo đức và sức khỏe. Chỉ nên lưu ý sao cho các tiết mục liên hoan, những người tham gia và những lời nói không có gì đáng trách”. (Don Bosco)

9.

CÁCH NÓI CHUYỆN VỚI TRẺ EM

Một buổi chiều mùa thu năm 1860, Don Bosco vào tiệm cà-phê ở Consolata, ngồi trong một phòng riêng biệt để có thể thoải mái đọc và trả lời một xấp thư mang theo. Một cậu bé mảnh khảnh đang lo phục vụ khách hàng, tên là Cotella Giampaolo, 13 tuổi, gia đình ở Cavour, tỉnh Tôrinô. Mấy tháng trước, em đã trốn khỏi nhà vì bị cha mẹ liên tục la mắng dữ dội.

Ông chủ tiệm gọi nó:

– Cotella, đem một tách cà-phê cho linh mục ở phòng bên nhé.

– Tôi mà đem cà-phê cho linh mục à?

– Cậu bé đáp lại như thế vì cậu luôn nghe thấy người ta nói xấu các linh mục.

Ông chủ dứt khoát:

– Mày cứ mang đi

Em miễn cưỡng đi:

– Thưa ông linh mục, ông muốn gì nơi tôi?

Don Bosco nhìn thẳng vào em, rồi dịu dàng nói:

– Này em, tôi muốn một tách cà-phê, nhưng với một điều kiện.

– Điều kiện nào?

– Chính em đem lại cho tôi.

Cậu bé liền bị chinh phục bởi cái nhìn của Don Bosco. Em đem cà-phê lại và không thể rời khỏi Ngài. Với lòng tốt, Ngài bắt đầu hỏi em ở đâu, mấy tuổi và lý do tại sao em trốn khỏi nhà. Sau cùng Don Bosco hỏi:

– Em có muốn đến với tôi không?

– Tới đâu?

– Tới Nguyện xá. Còn ở đây không thích hợp cho em.

– Đến đó để làm gì?

– Nếu em muốn, em có thể đi học.

– Nhưng Ngài muốn điều tốt cho tôi chứ?

– Ồ, đúng vậy. Ở đó em có thể vui chơi, cười đùa và giải trí.

– Được, tôi tới. Ngày mai có được không?

– Ngay chiều nay.

Và chiều hôm đó, một buổi chiều đầy sương mù và ẩm ướt, Ngài đưa cậu bé về Valdocco. Em ở lại đấy và hằng được yêu mến.

Đó là nghệ thuật Don Bosco dùng để đến với trẻ em: một nghệ thuật chỉ thực hiện được với sự quan tâm và tình thương. Ta có thể rút ra một vài qui tắc tổng quát về nghệ thuật ấy như sau:

* Hãy nhớ trẻ em không phải là một đồ chơi, hay đồ vật: do đó, cần đối xử với em như một con người.

* Khi trẻ em đang ở với bạn, đừng quên rằng em rất dễ dàng nhận ra những cử chỉ biểu lộ sự quan tâm của bạn đối với em.

* Đừng quên rằng cha mẹ hay người hữu trách là những người có trách nhiệm về thái độ và hành vi bình thường của trẻ, vì chúng đã được trao phó cho họ. Lấy quyền mà chế ngự trẻ em là một sai lầm. Ví dụ: “Tại sao con không nghe điều mẹ dạy, con đang ở nhà của mẹ. Tại sao con cứ làm theo ý riêng?” Đó là những lời dễ gây bất hòa.

* Hãy nói cho trẻ em điều em ưa thích và bằng những từ ngữ dễ hiểu. Cụ thể nếu có những nhận xét về điều em làm, chẳng hạn như viết chữ xấu (hãy giúp em tập trung chú ý vào việc em làm) chớ không phải vào khả năng của em. Một việc làm với thiện chí phải luôn được đánh giá cao; và mỗi khi nhận xét về việc trẻ em làm, phải để em tham dự vào cuộc đối thoại, thay vì bắt buộc em im lặng lắng nghe.

* Ngay cả khi trẻ em có vẻ đang say mê chơi đùa, cũng đừng nghĩ là có thể bàn về em, cho dù bằng tiếng ngoại quốc, vì tưởng rằng em không nhận ra ta đang nói về em. Em sẽ biết! Và tệ hơn: người ta tưởng rằng em hoàn toàn không hiểu những gì ta đang nói về em. Em sẽ hiểu và khi ấy sẽ phản ứng lại bằng cách làm những điều do trí tưởng tượng mãnh liệt bày vẽ cho em. Những tư tưởng được hiểu lờ mờ và những lời nói bị hiểu sai là lý do gây nên những âu lo trầm trọng cho các trẻ em.

* Điều quan trọng là chú ý tới trẻ em. Trẻ em ước ao học được cách sống trong thế giới của người lớn; và chúng chờ đợi được họ giúp đạt tới mục tiêu ấy. Một học sinh 15 tuổi đã viết trong nhật ký: “Con người, một hữu thể huy hoàng được thần linh hóa”.

Đó là lý do tại sao mỗi đứa trẻ phải được yêu mến cách sâu xa và siêu nhiên.

CÁCH PHẠT VÀ THA THỨ

Ở tuổi 12, Luy Lasagna là một đứa trẻ rất sinh động. Những ngày đầu sống với Don Bosco tại Nguyện xá ở Tôrinô, cậu được coi như một sợi chỉ cần phải đem se lại, vì cậu bất kham như một con ngựa tơ; không thể ở yên được. Trước đây, chưa ai dạy dỗ cậu cả, nên cậu rất ghét những ràng buộc của kỷ luật. Don Bosco theo dõi cậu với cặp mắt chăm chú và với lòng kiên nhẫn tột bậc.

Một ngày kia, lúc chập tối, vì quá nhớ nhà, Luy Lasagna trốn khỏi Tôrinô, cậu đi bộ suốt đêm về làng Montemagno. Cha mẹ cậu rất ngạc nhiên, sáng hôm sau liền dẫn cậu trở lại Tôrinô. Don Bosco tươi cười tiếp nhận lại cậu bé; Ngài không nói một lời nào về việc bỏ trốn của cậu, Ngài khích lệ cậu thêm can đảm, cho cậu một cái bánh ngọt. Nét mặt cậu đang hờn dỗi bỗng lóe lên nụ cười đầu tiên. Đó là cách Don Bosco thành công trong việc chinh phục cậu; Ngài đã thấy trước nơi cậu những năng khiếu hiếm có: sinh động, quảng đại, ý chí phi thường, một trái tim đầy lòng thương mến, có khả năng và trí nhớ phong phú. Vào một ngày mùa thu năm 1862, khi đứng giữa đám trẻ, trong đó có cậu Luy, Don Bosco vừa chỉ chung quanh vừa nói thật rõ: “Một người trong các con sẽ là giám mục”. Một lời tiên tri! Về sau, Luy Lasagna, con ngựa bất kham và sinh động ấy, đã trở thành giám mục.

Phạt và tha thứ là vấn đề gai góc. Phạt như thế nào?

* Don Bosco nói: “Đừng lạm dụng các hình phạt. Đối với học sinh hình phạt là bất cứ điều gì ta dùng để phạt: đôi khi chỉ một cái nhìn đã đủ làm trẻ em bật khóc, vì nó cảm thấy không còn ánh mắt cha mẹ âu yếm”. Vì thế, chỉ phạt khi trẻ đáng phạt, nghĩa là khi nó cố ý vi phạm một lệnh truyền đã được ban ra và cắt nghĩa, khi nó phạm một hành vi xấu, và hành động đó đòi hỏi sự sửa chữa. Hình phạt không phải là cách để phản ứng khi uy tín mình bị xúc phạm.

Đây là điển hình của một cuộc đối thoại thảm hại giữa ông bố và đứa con:

– Con phải làm điều này…

Và đứa trẻ cứng đầu:

– Không.

– Ba ra lệnh cho con…

– Không.

– Ba muốn con làm điều đó.

– Không.

– Con phải làm.

– Không.

Quá tức giận, ông bố tát em một cái. Ông được gì? Còn đứa trẻ thì ôm mãi trong lòng một sự oán hờn sâu xa.

* Don Bosco nói: “Hãy điềm tĩnh khi khiển trách hay phạt trẻ em. Không cần phải la mắng”. Ta phạt trẻ em không phải vì em làm ta đau khổ hay làm ta tức giận, cũng không phải vì em chống lại ta, nhưng vì em làm điều xấu. Không nên để trẻ em có cảm tưởng rằng việc sửa lỗi hoặc quở phạt chỉ là do người trên tức giận, hay chỉ là sự trả thù của người trên.

* Don Bosco nói: “Hãy tránh hạ nhục trẻ em”. Đôi khi một sự tiếp đón rất đơn sơ và trìu mến lại có tác dụng hơn, như Don Bosco đã làm với Luy Lasagna khi cha mẹ đưa cậu trở lại Tôrinô sau cuộc bỏ trốn. Điều tốt hơn là chờ đợi cho những cảm xúc đầu tiên nguôi đi và sau đó tiến hành việc chỉ dẫn hay đối thoại thân tình, ngay cả đề nghị một cuộc đi dạo, một việc làm, một trò chơi giúp tâm hồn trẻ em được thư thái.

Đó là cách bậc cha mẹ Kitô giáo tỏ lộ và thông truyền cho con cái tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng vẫn hằng tỏ mình cho mỗi người chúng ta bằng một lòng hay thương xót.

“Với trẻ em, hình phạt là bất cứ điều gì ta dùng để phạt. Với một số học sinh, một cái nhìn lạnh nhạt có hiệu quả hơn cả một cái tát. Khen ngợi một công tác được chu toàn tử tế, trách mắng khi chểnh mảng, như thế đã là hình phạt hay phần thưởng rồi. Không bao giờ được sửa lỗi và phạt nơi công cộng, nhưng ở nơi riêng và xa đồng bạn, trừ những trường hợp rất họa hiếm. Nên nhờ lý trí và tôn giáo để giúp học sinh nhận ra lầm lỗi của mình, nhưng phải hết sức khôn ngoan và kiên nhẫn”. (Don Bosco)

HÌNH PHẠT PHẢI HỢP LÝ

Năm 1884, bốn năm trước khi qua đời, Don Bosco tới Lanzo. Trong một buổi đi dạo, có những học sinh vô kỷ luật bắt được một tổ sáo. Chúng đem về trường, giấu ở một ngăn tủ trong nhà ngủ. Tiếc thay những con sáo nhỏ ấy chết dần. Khi con cuối cùng chết, chúng quyết định đem chôn trong giờ giải trí; chúng cử hành theo các nghi thức an táng trong phụng vụ. Chúng hát những bài thánh ca, rẩy nước thánh, sau cùng là bài điếu văn.

Từ cửa sổ, Don Bosco theo dõi cảnh tượng đó; sau khi chúng trở lại phòng học, Ngài cho gọi em đứng đầu nhóm khó dạy đến. Với vẻ mặt nghiêm nghị, Ngài cho em hiểu em đã làm một điều không tốt: một sự xúc phạm không được phép tái diễn. Em rơi lệ. Lúc ấy Don Bosco đổi giọng: Ngài nói Ngài tha thứ cho em và cho các bạn nữa. Và trước khi để em đi, Ngài đưa cho em một hộp kẹo nhỏ và dặn: “Con cầm lấy đem chia cho các bạn nữa”. Điều này khiến em quá đỗi ngạc nhiên.

Don Bosco dạy: “Đôi khi phải phạt. Thật đáng tiếc! Nhưng hãy hoãn lại bao lâu có thể. Hãy làm cho các hình phạt được hợp lý. Điều cần là làm cho trẻ em biết tiếp nhận các hình phạt đó. Vì thế, hãy làm sao để nói với cõi lòng em. Trước hết đừng hạ nhục trẻ em, vì như thế sẽ làm phát sinh những phản ứng xấu…Không được tức giận, cho dù chính đáng! Không nói lời lạnh lùng hay cứng rắn. Hãy đơn sơ nói với em có lỗi: “Tôi không hài lòng về em”. Làm được điều này đã là thành công chín phần mười rồi.

* Khoa sư phạm ngày nay đề cao những thái độ trên của Don Bosco và nhấn mạnh rằng trẻ em càng quý chuộng ta và ta càng yêu mến chúng thì việc ta không tán thành chúng hoặc tỏ ra bớt tin tưởng, bớt thân thiện, bớt tình bạn đối với chúng đã là một hình phạt đáng sợ và do đó đủ có hiệu quả cần thiết.

* Hình phạt có tính giáo dục nhằm cải hóa người làm điều xấu trở nên tốt hơn, chớ không nhằm bộc lộ những bực dọc và cáu kỉnh. Vì thế nó cần được trẻ em hiểu và tiếp nhận. Không được hạ nhục hoặc ức hiếp đứa trẻ. Khi ra hình phạt ta cũng phải tỏ cho em biết rằng ta lấy làm tiếc và không thích phạt.

* Ngày nay người ta tranh luận xem đánh đập có còn được coi là hình phạt nữa hay không. Có người nại tới việc đánh đập, có người tuyệt đối loại bỏ. Một nhà giáo dục tức là người ngoài gia đình, không bao giờ được quyền đánh đập, vì đánh đập là xúc phạm tới học sinh và như thế là sai lầm.

* Ngay cả cha mẹ hay họ hàng cũng không được đánh đập một cách tàn nhẫn hay gây đau đớn cho trẻ em. Một nhéo tai, một cú tát, đứa trẻ có thể chấp nhận: đó là một luật trừ, nhất là khi thấy cha mẹ em đau khổ vì phải phạt em và sở dĩ phạt em là chỉ vì muốn em nên tốt hơn. Khi nhận ra rằng cha mẹ miễn cưỡng phải dùng những phương thế ấy, đứa trẻ sẽ xúc động và được cảm hóa. Theo tâm lý tự nhiên, trẻ em nên được cư xử khoan dung hơn.

 

 

 

 

LỊCH THIỆP CHIẾM ĐƯỢC CÕI LÒNG

Don Bosco thường nói: “Nhờ lịch thiệp người ta sẽ chiếm được các cõi lòng”. Và Ngài thêm: “Lịch thiệp là bông hoa của đức ái Kitô giáo”.

Để dẫn chứng, Ngài kể lại cho học sinh nghe cuộc gặp gỡ của Ngài với hiệp sĩ Provera ở Monferrato.

Hôm ấy, Don Bosco đi qua vùng này cùng với mấy nhà quý tộc và cha xứ: câu chuyện xoay quanh lòng tốt và kính phục của dân chúng đối với Don Bosco. Thế rồi người ta cũng cho biết có một người hiềm thù với Don Bosco: hiệp sĩ Provera, người giàu có nhất vùng, một người đã nhiều năm không đến nhà thờ. Họ vừa dứt lời, thì tình cờ nhà hiệp sĩ từ xa tiến lại trên cùng một con đường, một người trong nhóm ghé tai Don Bosco nói nhỏ: “Kẻ thù ghét các linh mục đấy”.

Chờ hiệp sĩ tới gần, Don Bosco tiến lại bỏ mũ xuống lịch thiệp chào. Hiệp sĩ ngạc nhiên chào lại. Ông dừng bước, hơi bực mình. Nhưng Don Bosco cứ đưa tay ra và nhà hiệp sĩ đã bắt tay Ngài. Don Bosco lợi dụng ngay cơ hội để mở đầu câu chuyện cách lịch thiệp:

– Thưa Ngài, người ta giới thiệu với tôi Ngài là hiệp sĩ Provera.

– Đúng thế.

_ Thưa Ngài, tên gọi của Ngài là một trong những tên gọi quí trọng và đáng kính nhất ở Tôrinô. Nó làm tôi nhớ tới một linh mục thánh thiện xuất thân từ Provera di Mirabello.

– Ông của tôi cũng xuất thân từ Provera di Mirabello. – Ông hiệp sĩ thích thú đáp lại.

Thích thú vì sự lịch thiệp thanh nhã và chân thành, hiệp sĩ đã mời Don Bosco tới nhà ông, và dọn tiệc trà chiêu đãi Ngài. Tuy đang có nhiều việc cần làm gấp Don Bosco cũng nhận lời ngay. Buổi nói chuyện thật rôm rả, đầy những giai thoại lý thú. Cuối cùng, để cáo biệt nhà hiệp sĩ, Ngài nói:

– Xin Ngài hiệp sĩ chịu khó nghe tôi thêm một chút nữa. Tôi muốn đặt mình dưới sự bảo trợ của Ngài. Ngài rất tốt đối với tôi. Tôi xin nhờ Ngài một việc: Tôi muốn tới xứ này để coi có thể mua một ngôi nhà nhằm mở trường học hay không. Tôi cần đến sự giúp đỡ của Ngài.

– Cha nói thật đấy chứ? – Hiệp sĩ vui vẻ đáp. Tôi rất mừng. Hơn nữa, tôi xin biếu cha ngay. Xin Cha đến thăm ngôi nhà của tôi. Nếu nó có ích, thì tôi xin tặng cha đó.

Don Bosco đã chiếm được một người bạn. Ngài cắt nghĩa cho các học sinh: “Các con thấy không? Lịch thiệp chiếm được cõi lòng”.

Thanh thiếu niên cần được dạy cho biết lịch thiệp đối với người khác. Trẻ em, dù thường có xu hướng cá nhân và ích kỷ, vẫn thích sống tương giao lịch thiệp.

* Nhà tâm lý học Peck cho rằng nơi thanh thiếu niên có ba khuynh hướng chính: một nỗ lực tăng trưởng cái “tôi” thành một nhân vị duy lý, hoàn hảo và chín chắn về tình cảm; một nỗ lực tăng trưởng lương tâm: ý thức về những nguyên tắc luân lý ngày càng mãnh liệt, được nội tâm hóa, ngày càng có khả năng hướng dẫn đời sống: và một khả năng yêu thương ngày càng vào xã hội của người lớn. Phải dạy cho trẻ em biết yêu thương, tức là biết kính trọng người khác, biết hy sinh phục vụ và lịch thiệp.

* Theo Don Bosco, muốn giáo dục kết quả, cần phải có ba điều: “Lòng yêu mến, lý trí và tôn giáo”. Các nhà tâm lý ghi nhận rằng chính người mẹ có ảnh hưởng rất lớn trên sự phát triển tính tình và nhân cách của con cái. Còn người Cha có vai trò không thể thay thế được trong công việc đào tạo cho đứa con một tính khí lành mạnh, và làm chủ các cảm xúc quá độ của chúng. Trẻ em học được sự lịch thiệp, trước hết, nơi cha mẹ, tiếp đến, nơi thầy dạy và nhà giáo dục. Trẻ em làm điều cha mẹ làm, chớ không làm điều cha mẹ nói.

Don Bosco nói: “Lịch thiệp là biểu lộ lòng biết ơn về tất cả những điều tốt mình đã nhận được”.

CHÀO ĐÍCH DANH TRẺ EM

Ngày 31-1-1961, cụ Natale Menzio, một nhà quí tộc đã chín mươi tuổi, một cựu học sinh vui tính của trường Pinerolo, kể lại: “Tôi đã được nói chuyện trực tiếp với Don Bosco hai lần, Ngài thật là kỳ diệu.

Vào một buổi sáng tháng năm, đang lên cầu thang thì tôi gặp Don Bosco. Đó là lần thứ nhất tôi ở trước mặt Ngài. Ngài chằm chằm nhìn tôi, hỏi tên rồi thân mật chào tôi.

Vài tháng sau Ngài đi Rôma. Khi trở về Valdocco, các học sinh long trọng đón mừng Ngài. Don Bosco lên lầu hai, rồi từ ban công Ngài chào tất cả và ném kẹo xuống. Ngày hôm đó tôi ốm phải nằm ở phòng bệnh.

Hôm sau, vừa vào phòng bệnh, Ngài đã nhận ra tôi và hỏi: “Menzio, con bệnh à?” Rồi Ngài thân mật chào tôi.

Vài ngày sau, tôi khỏi bệnh, nhưng lòng vẫn thắc mắc: Don Bosco mới chỉ gặp tôi một lần, mà lại có thể nhớ tên tôi. Ở Valdocco có hơn 600 học sinh và trong những tháng đó Ngài đã gặp hàng ngàn trẻ trong các cuộc hành trình của Ngài.

Tôi quyết định làm sáng tỏ điều này. Thế nên, một sáng nọ, tôi đứng chờ ở cầu thang. Lúc đó, Ngài đi dâng lễ, có cha Rua đi theo. Tôi lại gần Ngài và hỏi: “Thưa cha hôm đó làm thế nào cha có thể nhận ra con?” Thánh nhân mỉm cười rồi Ngài đặt tay trên tôi và nói: “Cha nhận ra con cái của cha ở khắp mọi nơi”.

Cái tinh tế của đức ái là lời chào, nhất là khi người ta có thể nêu được tên gọi trong lời chào. Trong cuốn “Nghệ thuật gây tình bạn”, Ông Dale Garnegie viết: “Bạn hãy nhớ rằng trong toàn thể ngữ vựng, tên gọi của một người là chữ đẹp và quan trọng nhất đối với họ”.

* Giữa con người và tên gọi có một sự đồng nhất huyền nhiệm. Tên gọi gợi lên con người và làm cho người đó cảm thấy mình hiện diện thật sâu xa. Chính vì thế, tên gọi đòi phải được kính trọng như con người. Khi một đứa trẻ nhận thấy thầy giáo hay nhà giáo dục không biết tên của nó, nó sẽ có cảm tưởng mình bị quên lãng. Nếu người ta đọc sai tên nó, nó sẽ bực tức: nhất là khi sự việc đó tái diễn.

* Như vậy phải nói gì về thói đặt tên riêng? Thông thường thói này biểu lộ ý hướng muốn hạ thấp người khác. Đặt tên riêng là vũ khí của người yếu. Họ đặt tên riêng để báo thù một cách bất chính người họ lệ thuộc. Đặt tên riêng cũng là một dấu hiệu của một tâm hồn tầm thường. Càng thuộc tầng lớp xã hội thấp kém, người ta càng ưa đặt tên riêng.

* Việc nhớ tên những người thuộc quyền tạo cho người lãnh đạo, quản đốc và nhà giáo dục một uy tín đặc biệt. Napôlêon đã gây hứng khởi cho binh lính của ông và nhận được nơi họ nhiều hy sinh là nhờ ông đọc được tên gọi của những người ông muốn chúc mừng và khen thưởng. Có truyền thuyết cho rằng ông biết tên từng người trong đoàn quân đông đảo của ông.

* Trẻ em sung sướng khi được gọi đúng tên. Đối với nó tên gọi là điều đẹp nhất. Đừng bao giờ gọi sai tên. Bạn muốn chinh phục trẻ em ư? Hãy làm như Don Bosco đã làm: gọi đích danh trẻ khi chào.

14.

TRẺ EM ĐANG NHÌN TA

Có một học sinh kể về Don Bosco rằng:

Don Bosco đúng là linh hồn của mọi cuộc chơi. Tôi có cảm tưởng Ngài có mặt khắp mọi nơi trong sân chơi. Chỗ nào cần là có Ngài ngay. Chỗ này, tụi nhỏ mới khởi sự cãi vã và đánh nhau thì đã thấy Don Bosco tiến lại, Ngài nhận ra ngay đứa đứng đầu cuộc ẩu đả, và khẽ bảo nó: “Con lại đằng kia chơi với nhóm ở cuối sân: nhóm đó cần một người. Cha thế chỗ của con”. Và Ngài bắt đầu chơi ki, ném bi hay chạy nhảy như một trẻ em giữa bao trẻ em. Rồi chỗ khác có một trẻ em đang gây sự với chúng bạn, Ngài đã vui vẻ gọi ngay em đó lại: “Con chơi thế chỗ của cha một lát; còn cha, cha sẽ thế chỗ của con”. Và cứ thế, những sự thay đổi thật tự nhiên.

Một cựu học sinh có tuổi kể lại: “Thật thích thú khi có Don Bosco ở với chúng tôi. Ngài không đặt nặng vấn đề lứa tuổi, quần áo, phong cách của chúng tôi. Chúng tôi ra sao, Ngài cũng gần gũi được. Tuy nhiên, Ngài lưu tâm hơn tới những đứa mặc quần áo xấu, những em thực sự khốn khổ. Còn với các em nhỏ, Ngài xử sự như một bà mẹ hiền”.

Trẻ em rất yêu mến Don Bosco, coi Ngài như người cha. Ít ai đã được trẻ em yêu mến đến thế. Và đây là bí quyết Ngài căn dặn các cộng sự viên: “Các con muốn được yêu mến ư? Các con hãy yêu mến trước đi”. Trẻ em yêu mến Don Bosco vì chúng thấy Ngài yêu mến chúng. Chúng thấy Ngài đầy lòng tốt với những người yếu đuối và ngu muội, luôn thương xót, ân cần chăm sóc và tận tình hành động cho họ: chúng thấy Ngài khoan dung, không thích trừng phạt, Ngài muốn bỏ qua lầm lỗi và dễ dàng tha thứ; chúng thấy Ngài ân cần chăm sóc các em ốm đau, bệnh tật, Ngài quan tâm tới cha mẹ chúng, tới những nhu cầu và đau khổ, tới những niềm vui và tiến bộ của chúng; chúng tìm thấy nơi Ngài một sự chăm sóc đầy tình mẫu tử, Ngài lo lắng bảo vệ trẻ em khỏi ảnh hưởng của gương mù, như người mẹ bảo vệ đứa bé sơ sinh khỏi sự khắt nghiệt của thời tiết; chúng thấy rõ trí tưởng tượng Ngài luôn bén nhạy, biết tìm cách làm cho cuộc sống thanh thiếu niên được vui tươi, được giáo hóa và tăng trưởng; chúng thấy Ngài đầy lòng hiền dịu, không la mắng; giữa những tình cảnh gay go khó xử nhất vẫn giữ được nụ cười, và biết sửa phạt bằng cái nhìn đánh động lòng người. Tắt một lời, trẻ em nhìn thấy nơi Don Bosco một điều rất bình thường mà rất linh thiêng: TÌNH YÊU. Trẻ em nhìn Don Bosco và cảm thấy mình được Don Bosco nhìn đến.

Từ thái độ trên của Don Bosco, ta có thể suy ra rằng: trẻ em lớn lên, sẽ thành người ra sao tùy nơi cách sống của cha mẹ và những nhà giáo dục, tùy nơi thái độ và cách họ yêu mến, tùy theo họ có biết chấp nhận em cả trong những điều khiến họ khó chịu hay không.

* Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng hình ảnh người cha ảnh hưởng rất sâu đậm trên cái nhìn của đứa con về Thiên Chúa. Nếu đứa trẻ chưa bao giờ được tha thứ, nó sẽ khó hình dung nổi rằng Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương và tha thứ. Có một em bé khi nghe linh mục nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, đã thốt lên: “Con nghĩ làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ mọi lỗi lầm như thế được? Không đời nào đâu! Ngay ba con đó có bao giờ người tha một lầm lỗi nhỏ nào cho con đâu!”. Nếu mang ấn tượng về một người cha đầy sức mạnh và quyền lực, đứa trẻ sẽ dễ dàng hiểu sự siêu việt của Thiên Chúa, nhưng không thể hiểu được sự thân mật gần gũi của Ngài.

* Cha mẹ và nhà giáo dục phải tiên liệu được phản ứng tâm lý của trẻ em. Đôi khi cha mẹ có đức tin sâu xa nhưng con cái lại hết sức ác cảm với tôn giáo. Tại sao? Một trong những nguyên do là vì mỗi chiều Chúa nhật, cứ đến hai giờ là cha mẹ đi họp hoặc đi giúp người hàng xóm; mấy đứa nhỏ lủi thủi ở nhà, ghét cay ghét đắng cái thứ bổn phận tôn giáo đã cướp mất cha mẹ của chúng. Thế đó, người Kitô hữu không những phải làm việc tông đồ và bác ái, nhưng còn phải biết làm sao để không tổn hại đến các bổn phận trong gia đình.

Ở đây không có ý bàn về “ngôn” và “hành” của bậc phụ huynh và nhà giáo dục một cách qui mô và có hệ thống, nhưng chỉ nhằm lưu ý đến chính cách sống của các vị. Chính thái độ và cách sống của cha mẹ tạo nên bầu không khí của gia đình. Bậc cha mẹ phải kiểm điểm lại xem, phải sống thế nào để gia đình trở nên một tổ ấm thật sự, đầy thân mật, cảm thông và mở rộng hướng tới đời sống bên ngoài. Làm sao để gia đình là điểm xuất phát và cũng là nơi người ta thích về đoàn tụ. Để hội nhập vào đời sống của người lớn, trẻ em cần phải được chuẩn bị ở mọi mức độ, nhất là phải thấy được gương sáng nơi cha mẹ và các nhà giáo dục để noi theo, để đồng hóa.

Cần nhớ lời nhắc nhở chí lý của Don Bosco: “Trẻ em đang nhìn vào chúng ta”.

15.

HÃY NÓI NHỎ VÀO TAI CÁC EM

Một lần kia, đang dùng bữa chiều, Don Bosco nghiêm nghị quay qua cha Ruffino nói nhỏ:

– Bên cạnh vòi nước ngoài sân, có hai em cần phải được lưu ý. Xin cha cho người ra bảo chúng về chơi chung với các bạn ngay.

Cha Ruffino nhờ một thầy hộ trực[1]. Thầy đi và trở lại cho biết:

– Thưa cha, không còn em nào ở bên vòi nước. Nhưng con có gặp hai em T.T. đang rời khỏi vòi nước. Con hỏi hai em làm gì ở đó thì chúng đáp: “Chúng con uống nước”.

Sau kinh chiều, cha Ruffino gọi hai em đó lại và hỏi:

– Hồi nãy các con đã làm gì vậy?

– Thưa cha, chúng con không làm gì cả

– Vậy, các con hãy đi với cha: Don Bosco đang chờ các con. Ngài muốn nói với các con một vài điều.

Và cha dẫn chúng tôi tới Don Bosco. Thánh nhân nhìn thẳng vào chúng một lúc lâu, rồi mới nói nhỏ vào tai chúng một lời. Mặt chúng đỏ như gấc; chúng xin lỗi vì những câu chuyện xấu chúng đã nói, rồi hứa với Don Bosco sẽ không tái phạm và sống tốt hơn.

Ở đây bài học Don Bosco dạy ta là: cha mẹ và nhà giáo dục tuyệt đối cần phải theo dõi sự phát triển của trẻ em. Toàn thể khoa sư phạm hệ tại ở chỗ đó.

Trước hết, cha mẹ cần hiểu rằng đã đến lúc sự phát triển của đứa con kéo theo nhiều thay đổi nơi em, họ phải lưu tâm sao cho các thay đổi này đều ở trong nhận thức của mình.

Tuy nhiên, trẻ em lại sợ sự phát triển của em bị ngăn chặn, nên em nghi ngờ mọi hành động của cha mẹ và nhà giáo dục. Vì thế, em càng khó bảo, ta càng không được sửa dạy em ngay tại chỗ; cần phải theo dõi em; nhưng đừng để em nhận ra. Hơn nữa, phải làm sao để được em tín nhiệm thì mới có thể can thiệp trên em được. Do đó, cha mẹ và con cái phải làm sao để có thể nói chuyện hầu cảm thông được với nhau. Don Bosco đã chinh phục được trẻ em cách kỳ diệu. Bí quyết của Ngài là “yêu trẻ em thôi chưa đủ, song còn phải làm cho chúng cảm thấy chúng được yêu mến”.

Không bao giờ bỏ qua một hành vi tốt hay xấu của trẻ em, nhưng phải theo dõi và cứu xét. Một trong những bổn phận của nhà giáo dục là biết khen hay khiển trách, thưởng hay phạt một cách công minh. Chỉ có như thế, các nhận xét, lời khen hay khiển trách mới có hiệu quả, đánh động lòng trẻ và làm cho chúng hoán cải.

Mới đây, một cụ già ở Milano kể lại rằng cụ đã được đánh động bởi câu nói của ông Arturô Toscanini, một nhạc trưởng vĩ đại: trong cuộc gặp gỡ thân hữu, sau khi nói về cha mẹ và gia đình, ông Toscanini đột nhiên hỏi những người hiện diện:

– Các bạn thân mến, nếu có thể ban cho con cái một món quà, các bạn sẽ cho cái gì?

Người trả lời cái này, kẻ trả lời cái kia, nhưng Toscanini làm cho mọi người phải ngạc nhiên khi ông nói:

– Tôi sẽ ban cho con tôi sự hứng khởi và mỗi ngày thủ thỉ một lời khuyên vào tai nó.

[1] Thầy hộ trực: người sống với học sinh, theo sát chúng để hướng dẫn, giáo dục và nâng đỡ.

II.

TẬN DỤNG NHỮNG CÁI THÔNG THƯỜNG

HÃY DẠY TRẺ EM SỐNG VUI

Hồi còn bé, một hôm Gioan Bosco và anh là Giuse đứng ngắm cảnh hoàng hôn; mặt trời rực rỡ giữa nhiều áng mây đỏ chói.

Cả hai cùng reo lên:

– Mẹ ơi, trời đẹp quá!

Mẹ Margherita khẽ bảo:

– Chính Chúa đã làm nên đấy các con ạ! Chúa thật là cao cả!

Rồi đêm xuống. Chúng ngước mắt nhìn sao lấp lánh:

– Mẹ ơi, đẹp quá!

– Chúa đã dựng nên thì hẳn là phải đẹp rồi! Các con coi, trời của chúng ta đẹp như thế, thì Thiên đàng còn đẹp hơn biết chừng nào!

Nhờ được dạy cho biết thán phục Thiên Chúa trong thiên nhiên, cậu bé Gioan Bosco đã sống những năm thật an bình và vui tươi.

Khi còn là một thiếu niên ở Chieri, Gioan Bosco đã lập một “Hội Vui” rất độc đáo: một nhóm bạn hữu có bổn phận sống vui tươi. Hội có một nội qui gồm hai điều rất rõ:

– Thứ nhất: hội viên phải tránh những câu chuyện và hành động không phù hợp với một người Kitô hữu tốt.

– Thứ hai: chu toàn thật chính xác các bổn phận nhà trường và tôn giáo.

Sau này, khi là linh mục, Ngài thường hỏi từng trẻ em:

– Con có muốn là bạn của Don Bosco không?

– Thưa cha, có.

– Thế thì con phải là v + t – x. Con có hiểu v + t – x là gì không?

– Thưa cha, không.

– Vậy, để cha cắt nghĩa cho. Con phải là v, nghĩ là vui tươi; cộng t, nghĩa là cộng tốt; trừ x, nghĩa là trừ xấu.

Don Bosco muốn trẻ em luôn sống trong niềm vui. Niềm vui là bầu khí rất thuận lợi cho tâm hồn trẻ em được phát triển.

* Phải tập cho trẻ em quen ham thích và thán phục thiên nhiên. Ví dụ, dạy chúng chú ý tới ánh sáng và vị trí của các vì sao. Niềm vui là “sự hân hoan, sung sướng, nó mãnh liệt hơn sự cười giỡn”. Niềm vui Kitô hữu vừa sinh động vừa huyền nhiệm sâu xa trong tinh thần tín thác và biết ơn. Nếu ta biết hướng dẫn, rất nhiều điều có thể tạo nên một niềm vui lớn cho các em: một chiếc lá, một bông hoa, một áng mây, một con ruồi bay vi vo trên mặt ao, một con én kêu liên tục.

* Phải tập cho trẻ em biết vui hưởng đời sống gia đình. Khi thấy được người thân yêu mến, trẻ em sẽ cảm nhận được niềm vui nơi cõi lòng chúng; trong một vài dịp, như lễ Giáng sinh hay Phục sinh, hoặc trong vài trường hợp, niềm vui sẽ mãnh liệt hơn bình thường. Tiểu thuyết gia Stevenson đã viết: “Thiếu niềm vui là thiếu tất cả”. Niềm vui có thể được ví như chiếc cày lật đất trong cánh đồng hoang sơ.

* Để trẻ em hưởng được niềm vui, hãy dạy chúng luôn giữ tâm hồn trong ơn sủng. Don Bosco muốn chúng “cộng tốt và trừ xấu”. Chỉ có như thế chúng mới giữ được sự tươi mát cho cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa trong linh hồn sẽ mở rộng cõi lòng chúng để đón nhận niềm vui, ngay cả khi gặp một vài đau khổ. Nhà thiên nhiên học người Anh Jefferies, nghèo và bị tê liệt, nhưng rất giàu về Thiên Chúa. Ngồi trên xe lăn mà ông vẫn reo lên: “Mỗi cây cỏ đều là của riêng tôi, như thể chính tôi đã trồng; tất cả mọi cây cỏ đều thuộc về tôi và tôi yêu mến chúng. Mỗi con chim bay trên trời là của riêng tôi; có gì đẹp hơn đường bay của nó trên bầu trời xanh? Ôi những ngày hạnh phúc, thật hạnh phúc!”

* Hãy dạy cho trẻ em biết dễ dàng liên kết với nhau để có được niềm vui của tình yêu thương nhau, niềm vui của “các thánh cùng thông công”, nghĩa là niềm vui vì được là anh em trong Chúa. Chúa Thánh Thần thiết lập giữa tất cả chúng ta một sự hiệp thông và một sự liên đới. Cần phải dạy cho trẻ em biết rằng nếu liên kết với nhau thì mỗi em sẽ có giá trị hơn khi đứng riêng lẻ. Trẻ em cần phải hòa hợp với chúng bạn để thực sự là mình; cần phải sống trong đức ái huynh đệ để thực sự là con cái Thiên Chúa. Không có người kitô hữu cho riêng mình. Men đích thực của niềm vui là tình yêu huynh đệ, là muốn điều tốt cho nhau.

Don Bosco nói nhỏ và tai của mỗi em: “Con phải là v + y – x. Con có hiểu điều đó có nghĩa là gì không? Đó là vui tươi, cộng tốt, trừ xấu”.

DẠY TRẺ BIẾT LẮNG NGHE

Gần tới tuần chín ngày dọn mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đaminh Saviô gặp Don Bosco:

– Thưa cha, con biết Đức Mẹ sẽ ban nhiều ơn cao cả cho những ai làm tuần chín ngày này thật tốt.

– Còn con, con muốn làm gì cho Ngài trong tuần chín ngày này?

– Thưa cha, con muốn làm thật nhiều: trước hết xưng tội chung về cuộc đời của con; tiếp đến, nghiêm chỉnh thực hành hoa thiêng hằng ngày và chuẩn bị tâm hồn để mỗi sáng có thể rước lễ.

Nói tới đó, Đaminh Saviô im lặng, nhưng Don Bosco nhận thấy cậu muốn tiếp tục cuộc đối thoại, nên Ngài khuyến khích cậu nói tiếp:

– Ngoài ra còn điều gì nữa?

– Thưa cha, còn hai điều.

– Điều gì?

– Thưa cha con muốn quyết liệt tuyên chiến với tội trọng.

– Còn điều thứ hai?

– Con sẽ cầu nguyện với Mẹ Maria rất nhiều để xin Ngài ban cho con được chết còn hơn phạm tội trọng nghịch lại đức trong sạch.

Don Bosco cho biết: “Cuộc đối thoại đó rất dài”. Sở dĩ Saviô muốn nói là vì Don Bosco có nghệ thuật lắng nghe. Đó là một đặc tính nổi bật nhất của Ngài: một khả năng tuyệt diệu biết lắng nghe tất cả, nhất là lắng nghe thanh thiếu niên. Ngoài gương sáng, Don Bosco còn để lại cho các nhà giáo dục những lời chỉ dạy. Trong “Hệ thống giáo dục Dự phòng”. Ngài nói: “Hãy để cho học sinh dễ dàng tự do bày tỏ tư tưởng của chúng… Bề trên hãy để cho chúng nói nhiều, còn mình nên nói ít”.

Biết lắng nghe là một nghệ thuật thủ đắc không thể tự nhiên mà có. Nó đòi hỏi một cuộc tập luyện lâu dài. Đối với trẻ em, thì phải dạy ngay từ nhỏ. Một vài nghiên cứu nghiêm túc cho thấy rằng khi được ngỏ với cử tọa, cuộc nói chuyện bằng lời mất đi 75 phần trăm nội dung. Như vậy, hiệu suất lắng nghe chỉ được 25 phần trăm, và thông thường chúng ta chỉ lắng nghe với một nửa lỗ tai. Ông Zeon, một triết gia Hy Lạp, đã nói rằng con người được ban cho hai lỗ tai và chỉ có một cái miệng, họ cần hiểu rằng lỗ tai phải ưu tiên hơn miệng lưỡi. Cũng phải nhận rằng trong cuộc sống tương giao với người khác, chúng ta buộc lòng phải dành 40% thời gian để lắng nghe và 30% để nói.

* Bạn thường rầy la trẻ em, vì nó không nghe bạn. Nhưng phải dạy cho nó biết lắng nghe đã chứ! Dạy bằng cách làm gương: hãy lắng nghe nó, lắng nghe thường xuyên, lắng nghe luôn luôn. Thấy bạn lắng nghe, trẻ em sẽ nhận ra rằng lắng nghe cũng là một điều ích lợi và thích thú, chớ không phải là một bổn phận nặng nề. Khi lắng nghe, hầu như trẻ em cảm thấy căng thẳng, mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán ngán, vì nó coi đó là một bổn phận bị áp đặt từ bên ngoài. Trước hết từ nhà trường. Nó bị thầy cô nhắc mãi vì không chịu lắng nghe; ba má cũng khiển trách nó không biết lắng nghe, nhưng chẳng ai làm gương cho nó về sự lắng nghe thì làm sao nó thích lắng nghe được.

* Phải dạy cho trẻ em biết lắng nghe cách tích cực, chớ không phải chỉ nghe cách thụ động, dửng dưng (dù là trước mặt nhà giáo dục, người thân, bề trên). Người trên nói thì mình phải chú ý nghe, chứ không trơ trơ như pho tượng, không tiếp nhận tiếng động hay ánh sáng. Cần biết nghe như miếng bọt biển biết thấm nước. Được dìm vào nước là nó hút nước ngay và chỉ cần có thế. Khi nghe, trẻ em cũng phải như vậy.

* Phải luôn thích thú và hứng khởi mà lắng nghe, phải lắng nghe với tâm hồn rộng mở. Kẻ đang định đối phó với những điều người khác nói, kẻ có đầu óc chống đối hoặc muốn tự vệ, cũng như kẻ không được chuẩn bị hoặc bị mất hứng sẽ không lắng nghe được, hoặc sẽ hiểu sai.

Có người đã viết: “Tôi chưa bao giờ gặp một người như Don Bosco. Ngài tỏ ra thích thú lắng nghe người nói chuyện với Ngài. Ngài kiên nhẫn lắng nghe, với lòng bao dung, quảng đại, với sự quan tâm và lòng tốt luôn sinh động”.

Trái lại, nhiều người vợ vẫn than phiền: “Chồng tôi chỉ biết nói, chứ không bao giờ biết nghe”.

HÃY DẠY TRẺ LUÔN THÀNH THẬT VỚI CHÍNH MÌNH

Gioan Bosco là một cậu bé linh hoạt. Một ngày kia, mẹ đi vắng, cậu ở nhà một mình. Cậu muốn lấy một vật trên nóc tủ, nhưng với không tới. Làm thế nào đây? Suy tính, cậu đặt một cái ghế bên cạnh, leo lên, ưỡn người và với tay. Khuỷu tay cậu đụng vào bình dầu, nó rơi xoảng: bình bể và dầu chảy lênh láng. Mẹ sẽ nói gì đây? Tốt hơn là phi tang. Cậu liền nhảy xuống ghế và quét dọn để xóa ngay mọi dấu vết. Không thể được; vết dầu càng lan rộng. Làm sao bây giờ? Cậu bị giằng co trong lương tâm: nói hay không nói? Thành thật với chính mình và với mẹ hay là không?

Gioan đã quyết định: cậu lấy một con dao, ra ngoài, đi qua sân đập lúa, tới hàng rào, chọn một cành cây, chặt xuống, rọc lá và chuốt thành một cái roi.

Khi mẹ về, Gioan chạy ra đón trước:

– Mẹ ơi, mẹ đi đường có bình an không?

– Bình an! Còn con cưng của mẹ có ngoan không?

Cậu đưa cành cây cho mẹ:

– Mẹ nhìn đây thì biết.

– Con làm cái gì vậy?

Một cách thẳng thắn và thành thật, cậu bé đơn sơ đáp:

– Con làm bể cái bình dầu rồi. Có sẵn roi đây, mẹ khỏi đi tìm. Nói xong, cậu cúi đầu đứng lặng. Làm thế nào người ta có thể phạt một trẻ em thành thật như thế? Bà Margherita đã tha thứ cho cậu.

Cậu bé Gioan thành thật với mẹ, nhờ đã biết thành thật với chính mình. Thành thật với chính mình không dễ. Phải làm sao để tập được sự lương thiện và thẳng thắn với chính mình? Một nhà tâm lý khuyên: “Hãy tập cho biết cười giễu chính mình. Bạn có thể cười giễu chính mình và cười thực sự, cách thành thực không? Nếu được như thế, chắc chắn bạn sẽ thành thật được với chính bạn, và không tự lấp liếm điều gì”.

* Nhờ thành thật với chính mình, trẻ em sẽ đối diện với cuộc đời cách cương quyết và sẽ dấn thân đến cùng. Muốn vậy, chúng ta là những nhà giáo dục, phải biết thành thật với chính mình trước đã. Một nhà tâm lý khác khuyên: “Hãy tự hỏi: đâu là biến cố âm hưởng mạnh nhất trên đời tôi? Có phải bệnh tật hay cái chết của người thân? Tiếp đến, hãy tự hỏi: có bao giờ tôi quên nghĩ tới điều có ý nghĩa thực sự cho cuộc đời tôi không? Nếu câu trả lời là không, thì điều chắc chắn là bạn đang sống mà không bao giờ suy nghĩ, bạn qua những ngày sống với cái đầu trống rỗng, và bạn không hoàn toàn thành thật với chính mình. Bạn sợ mình”.

* Thành thật với chính mình không chỉ là một bí quyết để thành công, nhưng còn là một cách sống. Nó được mệnh danh bằng một tên gọi tuyệt vời là “cái Tôi cởi mở”. Tuy nhiên, thành thật với mình không phải là để nản lòng. Sự thành thật đúng nghĩa đòi phải biết cả điều dở lẫn điều hay của mình. Phải biết nhìn nhận khuyết điểm đồng thời cũng phải biết rằng mình có khả năng phục thiện.

* Sự thành thật với chính mình giúp ta chấp nhận con người mình trong những giới hạn và yếu đuối và quan trọng hơn nữa, nó còn giúp ta biết chấp nhận người khác. Người ta trao một lớp học sinh vô kỷ luật và bất trị cho một cô giáo hiền lành và nhút nhát. Trong lớp đó có một học sinh cá biệt tên là Dũng, 14 tuổi, hay trốn tránh các công việc nhà trường. Một chiều nọ, sau giờ lớp, cô giáo giữ nó lại và hỏi tại sao nó hay gây lộn xộn trong lớp. Nó nhìn cô giáo cách bất cần, nhưng rồi đã trả lời: “Vì em thích làm như thế”.

Cô giáo thở dài: “Cô hiểu em. Cô luôn sợ những học sinh như em. Tuy nhiên, cô muốn giúp em. Em có muốn ai làm điều tốt cho em và giúp em nên tốt không?”

Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, đứa học sinh ngỗ nghịch đã kể cho cô những đau khổ, nghèo túng và cô đơn thầm kín của nó. Nó đã bị khuất phục.

Don Bosco thường nói: “Không thành thật và không thẳng thắn với chính mình và với Thiên Chúa, đó là sợi dây thừng của ma quỉ”.

DẠY TRẺ BIẾT KHEN

Ở trường phổ thông tại thành phố Tôrinô, có một cậu bé thông minh, nhưng lười biếng, không chịu học, người cha bận rộn của cậu đã hỏi thăm bạn hữu xem phải xử sự với cậu thế nào, phải gửi ở đâu để khỏi lây nhiễm ảnh hưởng của những trẻ em hư hỏng. Một người bạn đề nghị:

– Tôi biết một linh mục ở Valdocco mới mở một trường học.

– Tên Ngài là gì?

– Don Bosco.

– À, Don Bosco, nhưng trường của Ngài lại dành cho trẻ em nghèo, nó rất thấp so với địa vị xã hội của chúng ta. Chắc chắn con tôi không thích ứng được.

Nghe biết câu chuyện, cậu bé đang đứng đó nói xen vào:

– Thưa cha, tại sao không? Cha cứ gửi con vào đó và sẽ thấy con sống tốt.

Đêm hôm đó, cậy bé mơ thấy: hình như cậu đang ở trong sân chơi với tờ giấy trong tay, còn các em khác thì vỗ tay mừng một linh mục đứng trên ban công của một ngôi nhà; sau đó cậu chạy lên cầu thang để hôn tay Ngài: linh mục ấy tốt quá. Ngài đã khen cậu: “Con là một đứa trẻ tốt”.

Vài tháng sau, cậu vào Nguyện xá của Don Bosco. Hầu như cậu đã quên giấc mơ. Những ngày đầu cậu thật khổ sở khi phải khép mình vào nếp sống của nhà trường, mà Don Bosco thì vắng nhà. Một ngày kia, thầy giáo đưa cho cậu một xấp giấy bảo mang tới một vị bề trên. Khi lên cầu thang, cậu nghe tiếng vỗ tay. Có chuyện gì thế? Cậu chạy vào sân chơi và lòng đầy phấn khởi. Cậu cũng bắt đầu vỗ tay, và kêu lên: “Hoan hô, hoan hô”. Tất cả đều hướng nhìn Don Bosco vừa trở về sau một thời gian xa vắng; Ngài đứng trên ban công và đáp lại lời chào của các em. Cậu bé nhớ lại giấc mơ: sân chơi, đám trẻ, ngôi nhà, linh mục và xấp giấy trong tay. Cậu rùng mình xúc động. Cậu leo lên cầu thang, chạy trên ban công, hôn tay Don Bosco và nhận được một lời khen: “Con là một đứa trẻ ngoan”. Suốt đời, cậu không hề quên lời khen đó.

Đối với tâm hồn trẻ em, lời khen như thể là ánh sáng mặt trời: nếu không nhận được, trẻ em không phát triển và tấn tới. Hãy dạy cho trẻ em của bạn biết khen người khác, nhất là khen các bạn của chúng với những lời khen nồng nhiệt, và tránh nói những lời phê bình lạnh lùng. Có ai biết được vì đâu mà trẻ em hà tiện lời khen! Có lẽ vì chúng thấy ít có người biết đón nhận lời khen cách thoải mái. Chúng thấy rằng người nhận lời khen thường tỏ ra lúng túng và tự vệ; tuy nhiên lời khen làm cho chúng rất hài lòng.

* Hãy dạy trẻ em biết nói tốt về người khác, biết khen một cách gián tiếp! Các lời khen sẽ dễ chịu hơn, nếu chúng được nhận qua trung gian: qua thư từ hay qua người thứ ba chuyển lại. Những phê bình ác ý tới tai người liên hệ rất nhanh; tại sao những lời khen không có được sự mau lẹ như thế?

* Hãy dạy trẻ em biết rằng những người làm công việc đơn điệu, thấp hèn phải được đánh giá cao: chẳng hạn, người phát thư, người lính biên phòng… Hãy dạy trẻ em biết khen không chỉ những công việc dễ chịu và thích thú, nhưng cả những công việc mệt nhọc, bẩn thỉu, chẳng hạn như quét dọn đường phố. Lời khen phải là phần thưởng dành cho người mẹ đầy hy sinh trong gia đình.

* Theo bản năng, khi chăm sóc các em bé, các bà mẹ đều biết rằng một lời khen có giá trị hơn nhiều lời quở trách. Có một bà mẹ nọ, vì mất kiên nhẫn đã la mắng mấy đứa con đang cãi lộn:

– Có im ngay đi không? Các con không thể chơi đùa êm nhẹ một chút sao?

Một trong những đứa con gái lớn liền trả lời:

– Thưa má, chúng con có thể chơi êm nhẹ được chứ, nhưng khi chúng con làm như vậy, thì má đâu có để ý gì.

Lúc ấy bà mẹ mới hiểu rằng lời khen khích lệ trẻ em biết là chừng nào. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng trẻ em có khuynh hướng lặp lại cách vui vẻ các hành vi được tán thưởng.

* Lời nói không mất tiền mua. Một lời khen hầu như chẳng tốn kém gì hay chỉ tốn một chút suy nghĩ, một chút nỗ lực của bác ái: chỉ cần gọi điện để nói một lời thăm hỏi hay năm phút để viết một lá thư thân thiện chất chứa lời khen. Một nhà trí thức lớn đã nói: “Tôi cảm thấy có thể tiếp tục thêm hai tháng nữa chỉ nhờ vào một lời khen hay một câu thăm hỏi”.

* Hãy dạy trẻ em của bạn biết nhận ra những việc tốt, dù lớn hay nhỏ, ở chung quanh chúng và khen các việc đó. Chúng sẽ làm vui lòng nhiều người và sẽ tích lũy được nơi lòng chúng một niềm vui khôn tả.

HÃY DẠY TRẺ CẦU NGUYỆN

Đầu năm 1858, Don Bosco phải thanh toán một món nợ lớn, nhưng lại không có một xu dính túi. Chủ nợ đã chờ từ lâu và bó buộc Don Bosco phải trả vào ngày 20. Trong cơn túng quẫn đó, Don Bosco gọi một số em học sinh của Ngài và bảo:

– Hôm nay cha cần một ơn đặc biệt. Cha ra phố và trong suốt thời gian đó, có người trong các con vào nhà thờ cầu nguyện.

Các em hứa với Ngài. Don Bosco ra đi. Khi đến gần nhà thờ của các linh mục truyền giáo ở đường Arcivescovado, Ngài gặp một người lạ và ông đã lịch thiệp đưa cho Ngài một phong bì trong đó có vài tờ một ngàn lia (lire: đồng tiền Italia, lúc bấy giờ vài ngàn lia là một món tiền lớn). Món quà bất ngờ đã khiến Don Bosco do dự không dám nhận:

– Thưa Ngài, Ngài cho tôi món tiền này với mục đích gì?

Người lạ nhấn mạnh:

– Xin cha nhận lấy và chi dùng cho các học sinh của cha.

Don Bosco từ giã người lạ mà không biết người ấy tên gì.

Và cứ như thế: khi cần một điều nào đó, Don Bosco có thói quen tin cậy vào lời cầu nguyện. Ngài nhận được tất cả. Ngài nói với các trẻ em của Ngài: “Ai cầu nguyện thì sẽ bước đi hiên ngang như ông hoàng”.

Cầu nguyện là gì? Là “Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đang sống trong chúng ta, với Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, dưới tác động của Chúa Thánh Thần”.

* Hãy dạy cho trẻ em hiểu rằng cầu nguyện là qui hướng tâm hồn về Thiên Chúa cách thật sâu xa. Gần giống như thái độ của người mẹ có đứa con ốm. Bà thăm chừng thường xuyên, chăm sóc cho nó từng chút; ngay cả khi sắp xếp nhà cửa, tâm trí bà vẫn không hề rời xa đứa con, nhưng luôn hướng về nó.

* Để dạy trẻ em cầu nguyện, cần dạy chúng nhận biết Chúa Giêsu không phải là một con người đã chết. Ngài là một Ngôi vị sống, là Đấng đang sống cách tuyệt hảo. Để nhận biết Chúa Giêsu, phải hiểu biết và đọc Tin mừng. Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc ly: “Sự sống đời đời là nhận biết Đức Giêsu Kitô”. Một trong những văn hào Liên Xô đã ghi khắc trên bàn làm việc những lời này: “Tôi sợ bị tách khỏi Tin mừng cho dù chỉ trong vài ngày”. Cha Léon de Grandmaison khuyên: “Hãy học hỏi, tìm kiếm, tra cứu, khám phá không ngơi cho các bạn và cho người khác những sự giàu có khôn lường của Đức Giêsu trong Tin mừng. Hãy chăm chú đọc cho đến khi thuộc lòng, hơn nữa, cho đến độ đồng hóa mình và thấm nhập vào Tin mừng”.

* Hãy dạy trẻ em biết tìm giờ thích hợp hằng ngày để cầu nguyện. Có người nói: “Nhưng tôi không có giờ để cầu nguyện”. Thế nào, bạn không có giờ ư? 24 giờ mỗi ngày có thể được chia thành 96 khắc. Và: 32 hoặc 36 khắc dành cho việc ngủ; 36 hoặc 40 khắc dành để làm việc; 4 hoặc 5 khắc dành cho việc đi lại; 6 hoặc 8 khắc cho việc ăn uống. Chỉ cần một khắc dành cho Thiên Chúa trong cầu nguyện để làm cho cả ngày vang dội niềm vui và ánh mặt trời.

* Phải dạy cho trẻ em hiểu rằng việc cầu nguyện cũng giống như cuộc chạy đua. Ai lấy trớn tốt thì chạy tốt. Những giây phút khởi đầu rất quí báu, chẳng hạn những giờ phút đầu tiên của mỗi ngày. Vào lúc khởi đầu, cần phải tránh mọi bận tâm, dẹp bỏ sự huyên náo bởi các tư tưởng phàm tục, giảm bớt công việc.

* Don Bosco cắt nghĩa cho trẻ em biết rằng Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chính Ngài hẹn với chúng ta và chờ chúng ta suốt ngày, cả ở ngoài nhà thờ nữa. Thiên Chúa ở trong chúng ta không phải là một Thiên Chúa câm lặng: Ngài nói. Nhưng để nghe Ngài, cần giữ yên lặng. Cầu nguyện chủ yếu là nghĩ tới Thiên Chúa, nói với Ngài cách dịu dàng, dâng hiến và xin Ngài chúc lành cho tất cả mọi người chúng ta gặp trong ngày.

Don Bosco đã nói với các nhà giáo dục: “Ai xấu hổ khi phải khích lệ người khác sống đạo đức, thì không xứng đáng là nhà giáo dục”. Và hơn nữa: “Dạy trẻ em và làm cho chúng yêu thích việc cầu nguyện, là chúng ta đã chu toàn được một trong những bổn phận quan trọng nhất của mình. Do đó, thời gian chúng ta dành để hướng dẫn thanh thiếu niên cầu nguyện là thời gian được sử dụng tốt nhất; tốt hơn những thời gian chúng ta dành để dạy dỗ chúng và cho chúng giải trí”.

DẠY TRẺ EM LẦN HẠT

Ngày 20.8.1862, mở đầu bài huấn từ tối[1], Don Bosco nói: “Cha đã mơ”. Tất cả học sinh liền lắng tai nghe.

“Hình như cha ở trong nhà anh Giuse của cha với các học sinh. Thình lình một người lạ mặt tới gần, mời cha cùng đi. Cha đi theo tới một đồng cỏ gần sân chơi. Người lạ chỉ cho cha một con rắn dài và lớn đang bò trên cỏ; nó làm người ta phát run vì sợ. Kinh hãi cha lùi lại tìm đường chạy trốn, vì nghĩ rằng nó mà quấn chặt lưng mình, nó sẽ cắn nát mình luôn. Nhưng người lạ trấn an cha: “Đừng sợ, nó sẽ không làm hại được cha đâu”. Sau đó người lạ đi lấy một sợi dây, đưa cho cha và nói: “Xin cha cầm lấy đầu dây này. Con sẽ cầm đầu kia. Chúng ta sẽ giăng sợi dây trên con rắn và đập xuống lưng nó”. Và người lạ lặp lại: “Cha đừng sợ, nó sẽ không làm hại được cha đâu”.

Theo sự chỉ dẫn của người lạ, cha dùng roi dây đánh xuống trên lưng con rắn, con rắn vùng vẫy, ngóc đầu lên để cắn sợi dây, nhưng nó đã bị trói chặt trong cái gút thòng lọng. Người lạ gào to: “Bây giờ xin cha cầm chắc lấy sợi dây”. Rồi, cha buộc con rắn vào giữa gốc cây và con rắn bị siết chặt cứ tiếp tục vùng vẫy và kêu phì phì. Trong khi đó da thịt nó bắn tứ tung dưới những cú đòn; cuối cùng, chỉ còn lại một bộ xương. Sau đó, người lạ tháo sợi dây đem đặt vào trong một cái hộp nhỏ, rồi đóng lại. Các học sinh đứng xung quanh cha. Người lạ mở hộp: sợi dây bỗng đâu đã được cuốn thành hai chữ “AVE MARIA”. Người lạ cắt nghĩa: “Cha thấy không, con rắn tượng trưng cho ma quỉ, sợi dây là biểu tượng của chuỗi Mân côi. Với chuỗi Mân côi người ta có thể đánh bại mọi con rắn của hỏa ngục”.

Trong việc giáo dục trẻ em, Don Bosco luôn đề cao chuỗi Mân côi, vì bốn lý do:

  1. Vì chuỗi Mân côi là một bản tóm của Tin mừng. Việc suy gẫm các mầu nhiệm gợi ra trước mắt những sự kiện và lời nói quan trọng của Chúa Giêsu và Mẹ Maria: các mầu nhiệm vui, thương, mừng.
  2. Vì chuỗi Mân côi là lời kinh làm đẹp lòng Đức Mẹ rất nhiều. Sau này trong nhiều lần hiện ra ở Lộ-đức và Fatima. Đức Mẹ đều mời gọi các em lần hạt. Chuỗi Mân côi là lời kinh rất đơn sơ, dễ dàng, trong sáng, bình dân. Người ta gọi nó là “sách nguyện của các tín hữu”.

Ở Fatima, Lucia đã hỏi Đức Mẹ:

– Thưa Bà, Bà từ đâu đến?

– Ta từ trời đến.

– Bà từ trời đến à? Thế thì một ngày kia, con có được nhìn thấy Bà ở trên trời không?

– Có, con sẽ thấy. Còn Phaxicô? – Lucia vừa hỏi, vừa chỉ đứa em họ.

Đức Mẹ cười với cô bé, rồi trả lời:

– Nó cũng sẽ được lên trời, nhưng trước hết phải lần hạt Mân côi nhiều.

Lucia còn kể: “Đức Mẹ rất sáng chói, sáng hơn tia mặt trời. Trên tay Mẹ có mang tràng hạt”.

  1. Vì chuỗi Mân côi lặp đi lặp lại một số kinh mà không bao giờ gây nhàm chán. Một người mẹ không bao giờ mệt mỏi khi vuốt ve đứa con và nói những lời đầy yêu thương. Sự lặp lại là qui luật của tình yêu. Tình yêu, dù có được biểu lộ lần nào cũng y hệt nhau, thì vẫn không bao giờ đơn điệu. Các học giả nói: “Điều cốt yếu trong ơn gọi làm mẹ là ở bên cạnh con mình cách âu yếm”. “Nếu các con là những đứa con hiếu thảo của Mẹ”. Đức Mẹ nói với các trẻ em trong một giấc mơ được Don Bosco kể lại – “Mẹ sẽ là người Mẹ hay thương xót của các con”. Chúa Giêsu gọi những người thuộc về Ngài là “những người mà cha đã ban cho Con. Họ thuộc về Cha và Cha đã ban họ cho con”. Nhưng từ trên Thập giá, Chúa Giêsu đã ban chúng ta cho Mẹ Ngài: “Thưa Bà, này là con Bà”.
  2. Vì chuỗi Mân côi tuôn đổ tình mẫu tử của Đức Mẹ trên người lần hạt. Tình mẫu tử giúp con cái nhỏ bé lớn lên và phát triển. Những người nuôi dạy trẻ ghi nhận được một hiện tượng lạ lùng này: “Những trẻ em thiếu tình thân mẫu, cho dù có được chăm sóc tử tế đến đâu đi nữa, sẽ chậm phát triển, lớn lên kém vui tươi, thiếu xã hội tính và dễ dàng hư hỏng hơn những em lớn lên dưới sự chăm sóc của người mẹ”.

Don Bosco đã trực giác được điều đó. Vì thế Ngài không bao giờ mệt mỏi khuyến khích trẻ em lần hạt Mân côi.

[1] Huấn từ tối: bài nói chuyện cuối ngày trước khi đi ngủ, có mục đích nhắn nhủ, khuyên dạy…

DẠY TRẺ EM CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI QUÁ CỐ

Ngày 25.6 năm 1867, Don Bosco kể cho trẻ em giấc mơ sau đây:

“Chiều kia, trước khi đi ngủ, cha đang suy nghĩ về việc sau khi chết các linh hồn sẽ tồn tại thế nào, cha ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên một người xuất hiện trên đường, đứng lại gọi: “Xin cha đến coi linh hồn hiện hữu thế nào sau khi chết”.

Nhanh như chớp, người đó và cha đến trước một lâu đài lớn. Qua các hành lang và cầu thang, cha đi từ phòng này sang phòng khác cho đến khi tới một phòng khách rộng lớn. Cha thấy một Giám mục ngồi trên ghế bành, đang tiếp khách. Cha tiến lại gần để chào và nhận ra Ngài: đó là Đức cha… (Don Bosco nêu tên Ngài) đã chết hai năm trước. Diện mạo Ngài rạng rỡ và xinh đẹp.

Cuộc nói chuyện bắt đầu. Đức Giám mục cho cha biết là Ngài đã được cứu rỗi, nhưng chưa được xem thấy Chúa, do đó Ngài cần được người ta cầu nguyện cho. Cha hỏi Ngài:

– Kính thưa Đức cha, Đức cha còn phải chờ bao lâu mới được lên Thiên đàng?

Ngài không trả lời, nhưng đưa cho cha một tờ giấy được trang hoàng bằng những bông hoa xanh, đỏ, tím. Cha không đọc thấy một chữ nào trên đó. Cha ngạc nhiên nhìn vị Giám mục. Ngài bảo:

– Con hãy lật ngược tờ giấy lại.

Cha lật tờ giấy và đọc thấy ở đó con số 2. Đức Giám mục tiếp:

– Con thấy chứ, sự phán xét của Thiên Chúa hoàn toàn khác với sự phán xét của thế gian.

Khi ấy cha xin Ngài vài lời khuyên để nói lại với các trẻ em của cha. Đức Giám mục trả lời:

– Con hãy bảo chúng cứu lấy linh hồn, cái còn lại thì không đáng kể. Và để cứu linh hồn, cần phải sống tốt, vâng phục và trong sạch; phải xưng tội nên và năng rước lễ. Hãy khuyên chúng đừng để mình bị lầm lạc vì những quyến rũ giả trá của thế gian: tất cả là phù vân và cay đắng. Hãy bảo chúng vun trồng đức trong sạch, nhân đức sáng chói trên Thiên đàng. Để vun trồng nhân đức này, phải cầu nguyện, vâng phục, tránh nhàn rỗi và biết xa lánh dịp tội.

Cha chào và vội vã trở về nhà để không quên mất một điều nào trong những lời khuyên tốt lành ấy. Nhưng rồi nhớ là còn phải hỏi vị Giám mục những soi sáng khác, cha quay trở lại. Cha vẫn nhìn thấy Ngài, nhưng trong một tình trạng đáng thương: Ngài chịu khổ và hấp hối. Cha hỏi Ngài:

– Thưa Đức cha, con có thể làm gì để thoa dịu nỗi đau khổ của Đức cha?

– Xin con cầu nguyện và xin người khác cầu nguyện cho cha.

Nói xong, Ngài liền biến mất. Đang khi mọi người vẫn giữ im lặng, Don Bosco thêm: “Khi ấy cha hiểu rất nhiều về luyện ngục mà trước đây cha chưa bao giờ hiểu: đó là cần phải cầu nguyện cho những người quá cố khốn khổ”.

Cầu nguyện cho các người quá cố là một hành vi bác ái kỳ diệu. Cần phải dạy trẻ em nhớ tới người quá cố.

“Họ có ở gần con không?” – Một em bé đã hỏi bà mẹ đang nói về những người thân quá cố.

Bà mẹ trả lời:

– Có, dù họ không nói với chúng ta, dù ta không cảm thấy cách cụ thể lòng họ yêu mến ta, họ vẫn âm thầm ở bên cạnh ta.

* Hãy dạy trẻ em đọc câu: “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ…” khi đi qua nghĩa địa hay gặp đám tang. Khi một người cầu nguyện “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi”, thì trong sự nghỉ ngơi vĩnh cửu ở bên cạnh Thiên Chúa, các linh hồn sẽ đáp lại: “Lạy Chúa, xin ban cho người chúng con yêu mến trong Chúa được nghỉ ngơi đời đời sau những trận chiến của cuộc sống, và xin tỏa chiếu trên họ ánh sáng vĩnh cửu, luồng ánh sáng đã chiếu tỏa trên chúng con”.

* Hãy dạy cho trẻ em hiểu rằng lửa luyện ngục là lửa đi trước niềm vui, đang khi đó lửa hỏa ngục là lửa hình phạt. Tình yêu Thiên Chúa luôn bao bọc chúng ta; còn chúng ta, qua thái độ của mình đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ biến nó thành lửa hay ánh sáng. Thiên Chúa là Sự Sáng, còn các linh hồn là màu sắc xuất từ Quang Phổ rực rỡ ấy.

* Việc dự lễ, xin lễ và rước lễ để cầu nguyện cho các người quá cố sẽ giúp họ rất nhiều. Chỉ có tình yêu mới có thể vừa lấp đầy được khoảng trống trong lòng người ở trần gian nhớ thương người quá cố, vừa xoa dịu được nỗi đau đớn và thu ngắn được thời gian phải thanh luyện của các linh hồn nơi luyện ngục. Do đó, chúng ta phải gia tăng lòng yêu mến đối với người quá cố và các linh hồn trong luyện ngục. Khi dạy trẻ em cầu nguyện cho người quá cố là dạy cho chúng một hình thức tuyệt diệu của đức ái.

HÃY DẠY TRẺ EM YÊU MẾN ĐỨC THÁNH CHA

Chiều ngày 13-5-1887, Don Bosco yết kiến Đức Thánh Cha Lêô XIII, Đức Thánh Cha mỉm cười tiếp ngài, rồi ra dấu bảo Đức cha Della Volpe đem ghế tới cho Don Bosco. Cái ghế được đặt ở một khoảng xa. Đức Thánh Cha kéo lại gần, mời Don Bosco ngồi xuống. Đức Thánh Cha trìu mến cầm lấy tay ngài, siết mạnh và hỏi:

– Don Bosco yêu dấu, cha có khỏe không? Cha có khỏe không?

Ngừng một lát, ngài tiếp:

– Cha bị lạnh phải không?

Ngài lại giường, vén màn lên, lấy một tấm khăn bông và nói:

– Cha có thấy tấm thảm lông chồn trắng này bao giờ chưa? Người ta mới tặng tôi nhân dịp Kim Khánh linh mục của tôi. Tôi muốn cha là người đầu tiên dùng nó.

Và với trọn cả lòng ưu ái, ngài đặt nó trên đầu gối Don Bosco. Rồi ngài trở lại ngồi vào ghế, siết lấy tay Don Bosco và tiếp tục nói chuyện.

Don Bosco, quá xúc động, đáp lại:

– Kính lạy Đức Thánh Cha, con đã già, 72 tuổi rồi. Đây là cuộc hành trình cuối của con. Tất cả mọi việc của con sẽ kết thúc ở đây.

Cuộc gặp gỡ ấy giữa Don Bosco với Đức Thánh Cha được coi như là sự kết thúc tốt đẹp nhất cho cả một cuộc đời đã tiêu hao để giáo dục thanh thiếu niên biết yêu mến Đức Thánh Cha và Hội Thánh.

Khi Đức Piô IX bị lưu đày ở Gaeta, Don Bosco đã gởi tới Đức Thánh Cha một lá thư cảm động cùng với một món quà gom góp bằng những hy sinh của các trẻ em Ngài. Món quà đó đã làm cho Đức Thánh Cha rơi lệ. Thay vì xấu hổ và sợ hãi, Don Bosco thường hãnh diện nói với mọi người: “Tôi đứng về phía Đức Thánh Cha, và cùng với Đức Thánh Cha, tôi muốn là người công giáo tốt cho đến chết”. Lời dạy ấy đã lan sang tất cả các trẻ em.

Đức Cố Hồng Y Augusto Hlond, giáo chủ Balan, một tu sĩ Salêdiêng, đã hấp thụ lời dạy dỗ ấy tới độ khi chết ngài đã nói: “Tôi luôn trung thành với Hội Thánh và luôn vâng phục Đức Thánh Cha, vì tôi nhìn thấy nơi ngài vị đại diện Chúa Kitô ở trần gian”. Và với một giọng yếu ớt cuối cùng, ngài thì thầm với thư ký của ngài là Đức cha Bariariak, bây giờ là Tổng Giám mục Pozman: “Xin cha nói với Đức thánh Cha là tôi luôn trung thành với ngài”.

* Như Don Bosco, ta hãy dạy trẻ em yêu mến Đức Thánh Cha, vì Đức thánh Cha là Đức Kitô hiền lành trên trần. Chống lại những tuyên bố của người ngoại và nhóm tự do đương thời, và hơn hẳn các giáo sư, các giáo sĩ, các nhà báo công giáo với ngôn ngữ cường điệu của họ. Đấng Sáng lập của chúng ta làm cho nhiều người yêu mến Đức thánh Cha. Khi nhớ tới cuộc gặp gỡ riêng với Don Bosco, Đức Piô IX đã quả quyết: “Tôi có thể đọc thấy nơi trái tim của Don Bosco niềm hãnh diện được làm tôi tớ trung thành của Chúa Giêsu, của Hội Thánh và của Đấng đại diện Ngài”.

* Năm 1867, nhân dịp kỷ niệm Mười Tám Thế Kỷ Cuộc Tử Đạo của Thánh Phêrô, Don Bosco cho in lại cuốn “cuộc đời của vị Tông Đồ trưởng”. Trong lời mở đầu, Ngài viết: “Cứ bắt đầu từ Đức Piô IX, lần lượt tính lên, cuối cùng ta gặp thánh Phêrô, và gặp Chúa Giêsu Kitô, và ai cắt đứt sự hiệp nhất này thì bị chìm trong biển bão táp của lầm lạc và sẽ hư mất đời đời”.

* Như Don Bosco, ta hãy dạy trẻ em yêu mến Đức Thánh Cha, vì Đức Thánh Cha là người dẫn đường không thể sai lầm. Con người rất cần một vị hướng đạo vững chắc, bằng không sẽ không tìm được con đường dẫn họ đến với Thiên Chúa. Hội Thánh bất khả ngộ được ban cho ta như người mẹ và người dẫn đường. Hội Thánh tiến đi như chiếc tàu trên biển. Ở buồng lái chiếc tàu này có Đức Thánh Cha; Ngài bất khả ngộ khi dạy về giáo lý cứu rỗi.

Trong một giấc mơ kỳ diệu, Don Bosco nhìn thấy Đức Thánh Cha đứng đầu chiếc tàu là Hội Thánh. Ngài hướng dẫn con tàu giữa những cuộc tấn công của địch thủ. Và đã chiến thắng. Chiếc tàu ấy bỏ neo giữa hai cột đá hoa cương nổi lên rất cao giữa biển. Trên một cột có tượng Mẹ Vô Nhiễm, và ở dưới có dòng chữ Latinh “Auxilium Christianorum” (Phù hộ các giáo hữu). Trên cột kia, cao và to hơn, một Bánh Thánh tỏa sáng, và ở dưới người ta thấy có dòng chữ Latinh “Salus Fidelium” (Ơn cứu rỗi của các tín hữu).

Sự việc ấy cắt nghĩa lý do tại sao Don Bosco hay lặp lại cho các trẻ em và tu sĩ Salêdiêng của Ngài rằng: “Các con hãy yêu mến Đức Giáo hoàng Rôma. Khi các ngài dạy, các con đừng phân biệt thời gian và nơi chốn; khi các ngài ban một lời khuyên, và hơn nữa, khi các ngài biểu lộ một ước muốn, thì đó chính là mệnh lệnh đối với chúng ta”.

HÃY TRUYỀN THÔNG CHO TRẺ NIỀM HỨNG KHỞI

Đức Mẹ thường đến thăm Don Bosco trong các giấc mơ. Và Don Bosco thường kể lại các giấc mơ ấy để các học sinh được hứng khởi. Trong những năm đầu hoạt động tông đồ giới trẻ đầy khó khăn, Ngài không có một ngôi nhà cố định để qui tụ trẻ em, cứ phải di chuyển hết nơi này đến nơi khác. Ngài nói:

“Các con yêu dấu, các con đừng sợ. Một cơ sở rất đẹp đang được chuẩn bị cho các con. Chúng ta sẽ có một nhà thờ đẹp, một tòa nhà lớn, nhiều sân chơi rộng, và vô số trẻ em sẽ đến giải trí, cầu nguyện và làm việc”.

Càng ngày trẻ em càng tin và yêu mến ngài. Nhiều năm sau, khi nhớ lại buổi đầu tốt đẹp và nhiều gian khổ ấy, và khi được hỏi về cách thức thu hút trẻ em, Don Bosco đã trả lời qua những câu nói có thể được hệ thống hóa như sau: niềm vui, hồn nhiên và hứng khởi.

* Platon, một triết gia ngoại giáo đã nói: “Trẻ em phải được sống trong một bầu khí đầy hứng khởi”. Không có điều gì vĩ đại mà không được thực hiện với sự hứng khởi. Sự hứng khởi là một đức tính kỳ diệu: nó thúc đẩy hành động, loại bỏ sự nản lòng và thất đảm, chiến thắng sự lười biếng.

* Sự hứng khởi có tính hay lan tỏa. Trẻ em thấy hứng khởi khi nghe Don Bosco nói về thiên đàng, hay về Đức Mẹ. Ngài nói linh động đến độ sự hứng khởi của ngài lan tỏa sang chúng. Sự hứng khởi là điều kiện để say mê mọi sự và say mê thực sự. Nói cho trẻ em một điều gì đó cách hứng khởi là bạn đang truyền thông cho chúng những tia sáng hứng khởi.

* Để sống trong sự hứng khởi, phải đặt hết tâm hồn và thể xác vào công việc đang làm. Phải trọn vẹn sống trong hiện tại. Theo bản năng, trẻ em sống ngập chìm trong hiện tại của chúng. Khi lớn lên, chúng đánh mất đặt tính ấy: phải dạy chúng lại. Triết gia bi quan Schopenhauer thường nói rằng hầu như tất cả mọi người đều mất hứng khởi chỉ vì họ sống như những “tiều phu”. Khi đi qua một cánh rừng đẹp, họ suy tính: “Cây này sẽ có thể sinh lợi cho tôi bao nhiêu? Nó sẽ cung cấp cho tôi bao nhiêu thước gỗ? Năm qua tôi đã được nhiều, năm nay tôi phải được nhiều hơn”. Họ luôn sống trong quá khứ hay trong tương lai, mà không bao giờ sống trong hiện tại.

* Một nhà giáo dục hiện đại đã nói: “Sự hứng khởi cần được nhen lên liên tục. Nhưng nhen sự hứng khởi của trẻ em bằng cách nào? Bằng đời sống ơn Chúa. Một trẻ em sống trong ơn Chúa thì luôn vui tươi và hứng khởi . Trái lại, một trẻ em không có ơn Chúa thì luôn luôn buồn bã và bất mãn. “Ai sống trong hứng khởi thì sống trong bình minh của vĩnh cửu”.

* Nơi mỗi người chúng ta có nhiều nguồn năng lực phong phú khôn dò, càng tiếp xúc với những nguồn dự trữ huyền diệu ấy, người ta càng cảm thấy dạt dào hứng khởi vì lòng tin tưởng, vì lòng tốt và sức mạnh sáng tạo. Nhưng nếu thình lình dòng năng lực tiếp tế bị gián đoạn, người ta liền rơi vào uể oải, lười biếng, do đó, phải giữ cho dòng hứng khởi được liên tục. Những trẻ em hứng khởi thì linh hoạt, năng động, chịu khó và sắc sảo hơn những em khác. Họa hiếm lắm chúng mới mệt mỏi; hầu như không bao giờ chúng ngã lòng. Đâu là bí quyết? Sự hứng khởi nảy sinh từ tâm hồn sống trong ân sủng.

HÃY DẠY TRẺ EM CÓ TINH THẦN CON THẢO

Năm 1886, Don Bosco nhận được một lá thư của Cha giám đốc chủng viện Monpellier bên Pháp. Ngài nài nỉ Don Bosco tiết lộ bí quyết của khoa sư phạm. Đó là lần thứ hai vị giám đốc ấy đã xin Don Bosco. Lần thứ nhất, Don Bosco đã viết trả lời cho ngài: “Thưa cha, con nhận được mọi điều con muốn nơi học sinh của con, nhờ lòng kính sợ Thiên Chúa được phú vào lòng chúng”. Vị giám đốc ấy viết lại ngay: “Chính lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối ấy, làm thế nào để đưa công việc giáo dục đến chỗ hoàn tất? Xin cha nói cho con biết chìa khóa của hệ thống giáo dục của cha để con có thể sử dụng nhằm mưu ích cho các chủng sinh trẻ của con”.

Gấp lá thư lại, Don Bosco kêu lên: “Hệ thống giáo dục của tôi! Hệ thống giáo dục của tôi! Chính bản thân tôi cũng không biết. Tôi cứ luôn luôn tiến tới như Chúa soi sáng cho tôi và hoàn cảnh đòi hỏi”. Và sau khi ngưng một chút để suy nghĩ, ngài thêm: “Phải yêu mến để được mến yêu”.

* Theo các kết luận của nhiều nhà xã hội học khác nhau, thì thời đại chúng ta đã mất lòng kính trọng; cha mẹ là những nạn nhân đầu tiên của sự thiếu sót này. Người cha sẵn sàng làm “bạn cùng chơi” hơn là làm cha; nhưng rồi, vì mất đi một phần những đặc ân và quyền bính, nên họ lại tách khỏi và xa cách con cái đang khi tưởng rằng không còn những sự xa cách nữa. Thế hệ ngày nay được định nghĩa là “một thế hệ mồ côi”. Thực vậy, thế giới đang biến đổi mau lẹ, nhưng các tương quan nền tảng nối kết con cái với cha mẹ và cha mẹ với con cái lại vượt ra khỏi mọi sự biến đổi. Cách thức có thể biến đổi, nhưng bản chất vẫn nguyên vẹn.

* Tinh thần con thảo hệ tại ở việc kính trọng và lệ thuộc: biết khiêm nhường chấp nhận và ý thức mình lệ thuộc. Thời thơ ấu, trẻ em lệ thuộc hoàn toàn: “sự lệ thuộc ấy giảm dần khi đứa trẻ lớn lên và khi được giáo dục về tự do và trách nhiệm, nhưng không bao giờ mất đi”. Nó được thiêng liêng hóa và trở nên lòng biết ơn.

* Phải dạy trẻ em biết ơn cha mẹ. Con cái không bao giờ được quên đi thời gian mà cha mẹ đã dành hoàn toàn cho chúng, thời gian mà cánh tay mạnh mẽ của người cha là sự nâng đỡ duy nhất cho chúng. Con cái phải luôn biết ơn cha mẹ vì cha mẹ luôn nghĩ về chúng trong tâm tư cũng như trong hành động. Tất cả mọi cha mẹ đều nhất tề nói rằng: “Chúng tôi chỉ làm việc cho con cái chúng tôi”.

* Phải dạy trẻ em biết rằng khi cha mẹ già nua và khi các ngài qua đời em sẽ đảm nhận trọn vẹn địa vị làm con. Địa vị ấy thường đòi hỏi nhiều bổn phận nặng nề. Sự già nua sẽ dần dần phá hủy diện mạo và tinh thần mà một thời chúng ta đã ngưỡng mộ. Bởi thế, người con phải có một sự tinh tế con thảo, biết kìm hãm những cử chỉ nóng giận, lời nói khô khan hay gắt gỏng, những dấu biểu lộ một thần kinh khích động gây tổn thương và đau khổ cho cha mẹ già và làm cho các ngài phải suy nghĩ về sự bất lực và vô dụng cũng như sự hủy hoại thể lý của các ngài. Lúc bấy giờ, bổn phận của người con trở nên anh hùng, và nặng nề đến độ Chúa đã muốn biến nó thành đối tượng của một giới răn đặc biệt: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ”. Cha mẹ già yếu ốm đau quả là một thử thách dài cho người con. Nhưng đó lại là lãnh vực hoạt động dành cho tinh thần con thảo. Người con chăm sóc vị cha già nua, gầy tóp, nhỏ thó; một cách nào đó người con trở thành người cha của cha mình.

* Để dạy cho trẻ em có tinh thần con thảo, người cha phải hướng dẫn, nhưng không được bắt buộc; biết sai bảo, nhưng không có vẻ ra lệnh; biết nhìn nhận sự tự do của con cái trong một bầu khí quyền bính đầy khoan dung. Đặc biệt khi con cái bước vào khủng hoảng tuổi thanh xuân, cha mẹ càng phải biết khéo léo, tôn trọng con, biết thận trọng và nghiêm khắc vừa phải. Sau sự tùng phục của tuổi thiếu nhi, sau những bồng bột hỗn độn và không kiềm chế của tuổi thanh xuân là lòng tin tưởng và biết ơn của người trưởng thành. Từ người cha, con cái đến với Thiên Chúa là “nguồn mọi tình phụ tử trên trời và dưới đất”. Tinh thần con thảo phải được hòa hợp thật tự nhiên với tinh thần tôn giáo. Hệ thống giáo dục của Don Bosco hệ tại ở điều đó.

“Chúng ta hãy gieo hạt, rồi bắt chước người nông dân kiên nhẫn chờ ngày thu hoạch”. (Don Bosco)

HÃY DẠY TRẺ SỐNG ÂN CẦN

Ngày 10-5-1968, cụ Chiuminatti, cựu học sinh cuối cùng của Don Bosco qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Cụ không bao giờ quên được Don Bosco. Tại sao? Vì khi còn nhỏ cụ đã gặp nơi Don Bosco một linh mục ân cần và hiểu biết. Từ ấy cụ luôn biết ơn Don Bosco.

Những ngày đầu được nhận vào trường Valdocco, cậu Chiuminatti lúc nào cũng mang trong tâm hồn một nỗi buồn xâu xé trái tim. Don Bosco vốn có lòng ân cần dịu dàng cao độ, nhìn thấy cậu và chạy vội đến. Lúc ấy đang giờ giải trí, ngài tới bên cậu, hỏi tên, quê quán và gia đình. Bất chợt, ngài hỏi:

– Tại sao con lại buồn sầu như vậy?

Một cách thành thật, cậu bé trả lời ngay, và cậu hiểu rằng chính ngài là con người có thể nâng đỡ tâm hồn cậu và làm cho cậu sống vui suốt ngày:

– Thưa cha, con không quen biết ai cả.

– Vậy, hãy nói cho cha biết, con muốn cha làm gì cho con?

– Xin cha cho con một trái banh.

Hôm sau, Chiuminatti nhận được một trái banh, món quà của Don Bosco. Mọi u sầu tan biến. Cậu tập họp các bạn, thành lập một đội banh, và sau nhiều lần tập luyện, đội bóng của cậu đã có thể chiến thắng đội của bề trên.

Làm sao để có thể giúp được những người đang sống trong hoàn cảnh khó khăn? Phải biết ân cần. Người ta nói: “Ân cần là một thứ thiên tài, một thứ bông hoa: bông hoa của đức ái”.

Hãy nói cho trẻ em biết rằng ai cũng khao khát được người khác quan tâm. Thiếu điều ấy, lắm người cảm thấy đau khổ quá mức. Mỗi người một cách, một lúc nào đó đều có thể thốt lên một tiếng kêu thất vọng: “Tôi cần đến sự quan tâm của bạn”.

Làm thế nào để dạy cho trẻ em đức tính ân cần này? Sự ân cần là một trong những nét chính của sự tôn trọng và bác ái mà chúng ta phải tỏ ra đối với cận nhân. Nó tựa hồ một lời van xin người khác. Ân cần với ai là coi người ấy đáng được để ý tới, đáng được ta dành trọn tấm lòng, dù chỉ trong giây lát. Nó có nghĩa là cảm thông với người bên cạnh và cho họ niềm tự hào vì được hiện hữu. Ai cũng cảm thấy mình có giá trị khi được đối xử cách ân cần.

Muốn dạy trẻ em biết ân cần đối với người khác, phải lưu ý ba điều:

* Hãy dạy trẻ em biết chiến thắng tính ích kỷ. Theo bản năng, trẻ chỉ chú ý đến mình. Cái tôi của mình, tuy rất thèm muốn được chú ý, nhưng cần phải biết từ chối; biết nhường chỗ cho người khác đóng vai chính. Khả năng quên mình vì người khác thường cũng là dấu hiệu của một con người quân bình.

* Hãy dạy trẻ em biết kiên nhẫn. Để ân cần với người khác, cần phải biết chờ đợi. Kiên nhẫn là tình yêu kéo dài. Người thiếu kiên nhẫn không bao giờ chú ý tới người khác, không thể hiểu những khó khăn người khác gặp phải.

* Hãy dạy trẻ em biết biểu lộ một sự quan tâm chân thành. Lưu ý hay giả vờ lưu ý tới người khác là chuyện vô ích, nếu không sẵn sàng chia sẻ đau khổ và vấn đề của họ. Phải biểu lộ một sự quan tâm chân thành đối với người khác; và họ phải nhận thấy điều đó, nếu không, họ sẽ không cảm thấy mình được thông cảm.

Điều kỳ diệu là sự ân cần có phản ứng dây chuyền. Thật vậy, khi rơi vào bất hạnh hay gặp hoàn cảnh khó khăn, nếu một người cảm thấy có ai đó quan tâm tới mình, thì thường người ấy cũng bắt đầu quan tâm đến kẻ khác. Tình yêu phát sinh tình yêu; đó là điều kỳ diệu nhất của sự ân cần. Vì sự ân cần cũng giống thiên tài: “Nó sáng tạo”.

“Đừng tìm cách minh oan về các khuyết điểm của bạn; trước hết, hãy tìm cách sửa chúng”. (Don Bosco)

MỘT BÍ QUYẾT CẦN PHẢI DẠY CHO TRẺ EM

Một chiều nọ, Don Bosco nói với các học sinh:

– Đaminh Saviô chết cách nay hơn mười năm. Nếu bây giờ em trở lại Nguyện xá này, và thấy ít người rước lễ hằng ngày, chắc thế nào em cũng sẽ nói: “Vào thời kỳ của tôi có 150 học sinh, chỉ trừ một số rất ít, còn hầu như tất cả đều rước lễ hằng ngày, và chúng tôi sốt sắng ở nhà thờ”. Còn bây giờ? Các con không mấy sốt sắng ở nhà thờ. Trên 800 học sinh, chỉ có khoảng một trăm em rước lễ hằng ngày. Các con thân mến, can đảm lên: hãy chứng tỏ đức tin của các con.

Nghe những lời ấy, đám học sinh nín thở, lời khiển trách nhẹ nhàng và thấm thía của Don Bosco đã làm chúng buồn, đồng thời cũng khích lệ chúng can đảm sống đời Kitô hữu đầy xác tín sâu xa.

Vài ngày sau, trong huấn từ tối, Don Bosco nói:

– Một trong các con sẽ sớm lên Thiên đàng, có lẽ vào đầu tháng sáu. Chúng ta hãy cầu nguyện cho em…

Đoạn ngài chuyển qua một tư tưởng khác:

– Hiện có hai ngày lễ lớn trên thế giới: một ở Paris và một ở Rôma. Ở Paris là cuộc triển lãm quốc tế, còn ở Rôma là lễ Bách Chu niên kính Thánh Phêrô: cuộc triển lãm giới thiệu những thành tựu mà tài năng con người đã đạt tới; còn lễ Bách Chu niên loan truyền một tôn giáo vĩnh cửu. Những sự vĩ đại nhân loại thật hết sức nhỏ bé so với những điều cao cả thiêng liêng! Chỉ cần một hơi thở cũng đủ làm chúng phải tan biến. Các bạn trẻ thân mến, hãy can đảm lên: hãy hăng hái dấn thân vào con đường thiêng liêng. Đó là con đường đẹp và phong phú nhất.

Don Bosco cống hiến cho các học sinh của ngài những lý tưởng cao và tập cho chúng quen có lòng can đảm của đức tin “chiến thắng thế gian”.

Có hai thứ can đảm: loại thứ nhất thì tự nhiên, đó là sự nổi dậy của những bản năng cần thiết để đối diện với cơn khủng hoảng; loại thứ hai thì bền bỉ và có khả năng chống lại những thất bại liên tục; các võ sĩ gọi đó là “tinh thần thượng võ”. Đó là sức mạnh để trỗi dậy mỗi khi vấp ngã. Thanh thiếu niên có thứ can đảm này khi chúng dấn thân mạo hiểm trong cuộc sống. Những thất bại liên tục là mũi tên chỉ đường hướng tới thành công. Thất bại là mẹ thành công. Khi lầm lỗi và được tha thứ, người ta sẽ tiến được một bước trên con đường thành công hoàn toàn.

Có một người đa cảm thích giải trí bằng việc nuôi bướm. Anh xúc động khi thấy lũ nhộng phải vất vả mới ra được khỏi tổ kén. Do đó, một hôm anh đã lấy tay phá vỡ tổ kén để tù nhân bé xíu có thể chui ra cách dễ dàng. Hậu quả là con bướm ấy không còn khả năng sử dụng đôi cánh nữa. Nhiều cha mẹ cũng đã làm như thế đối với con cái họ: họ miễn chước cho chúng khỏi phải nỗ lực khi đứng trước những khó khăn. Do đó họ làm cho chúng không đủ năng lực để hy sinh.

Mỗi khi trẻ em gặp một khó khăn và vượt thắng được, cánh của nó được kiên cường. Mỗi khi phải quyết định hành động một cách cương quyết, nó lại được tăng thêm lòng can đảm.

Ông Giuse Verdi đã nói: “Thiên tài là một sự tập luyện lâu dài đầy kiên nhẫn”. Ông đã không lầm. Bí quyết thành công trong cuộc đời, một bí qu yết mà Don Bosco thường xuyên ghi khắc nơi học sinh là can đảm, bền tâm trong nỗ lực.

BẠN CÓ CẦU NGUYỆN CHO TRẺ EM CỦA BẠN KHÔNG?

Trời nóng, nóng không chịu nổi. Một học sinh của Don Bosco ở Torinô về thăm bà con tại vùng quê gần thành phố. Xế trưa, quá nóng, nó nằm nghỉ dưới một bóng cây. Nó quan sát vô số côn trùng nhỏ tí đang di động giữa những cọng cỏ, rồi ngủ thiếp đi. Bỗng nó thức giấc vì một tiếng vang rền như tiếng sấm. Nó nhổm dậy. Trời không mưa và không có dấu hiệu gì là sẽ mưa cả. Trong phút chốc, nó chợt nhận ra ma quỉ, trong hình hài của những tên hề múa rối, đang giăng cạm bẫy và dụ dỗ nó phạm tội. Nó hoảng sợ kêu lên:

– Thả tôi ra!

Và nó chạy trốn. Vài giờ sau, nó về đến Nguyện xá, nhưng vẫn không hiểu do đâu mà có tiếng ầm ì kỳ lạ như tiếng sấm đã khiến nó thức dậy.

Sáng hôm ấy, Don Bosco đi vắng. Đến chiều, vừa về tới nhà, ngài liền hỏi em đó ở đâu; ngài có vẻ rất nôn nóng muốn có được ngay câu trả lời. Ngài yêu cầu dẫn em tới. Thấy em rồi, ngài mới an tâm. Sau đó ngài nhìn em với một cái nhìn trong sáng và thấu suốt. Ngài hít một hơi thật sâu rồi nói:

– Cha hài lòng biết bao khi nhìn thấy con! Con khá lắm!

– Thưa cha, cha có biết điều gì đã xảy ra cho con chiều qua không?

– Cha biết tất cả – Don Bosco nói. – Cha biết hết và cha đã cầu nguyện rất nhiều cho con.

Ngài nói lời đó, nhấn mạnh và xác tín đến độ em có thể nhận ra được nguồn gốc của tiếng sấm huyền bí ấy.

Don Bosco nói: “Cần phải luôn tìm đủ giờ để nói với Chúa về từng đứa trẻ mà Chúa đã trao phó cho chúng ta”, nghĩa là để cầu nguyện cho chúng. Đó là cách tốt nhất để hiểu biết và giúp đỡ chúng. Cầu nguyện bao lâu? Mỗi ngày ít là vài giây cho mỗi em.

Thật là điều bi đát, nếu người ta không chịu tìm giờ để cầu nguyện cho con cái, hoặc cho những trẻ em được trao phó cho mình chăm sóc; nếu người ta không chịu nói với Thiên Chúa về chúng, không chịu suy nghĩ để có thể hiểu chúng hơn, kết cục, người ta sẽ làm ngơ trước những vấn đề hệ trọng của chúng.

* Don Bosco viết: “Giáo dục là việc của trái tim, và chỉ mình Thiên Chúa là chủ của trái tim. Chúng ta sẽ không thu lượm được gì nếu Thiên Chúa không dạy chúng ta nghệ thuật giáo dục này và không trao cho chúng ta chìa khóa của nó”.

Với cậu bé gặp nguy hiểm về luân lý trong buổi chiều mùa hè nóng nực ấy, Don Bosco đã nói một lời khôn ngoan và yên ủi, một lời mà cha mẹ và nhà giáo dục phải nói cho con em mình hằng ngày: “Cha đã cầu nguyện nhiều cho con”.

29.

KHÔNG ĐỂ MẤT CƠ HỘI

Ngày 23 tháng 6 năm 1866, vọng lễ thánh Gioan Tẩy giả, Bổn mạng của Don Bosco, cha Lemoyne, giám đốc trường Salêdiêng ở Lanzo Torinese, cùng với một học sinh đến Torinô để chúc mừng Don Bosco. Cha kể lại: “Lúc đó, trời đã xế bóng, gió mát, cây cối lao xao. Tôi lên phòng Don Bosco và ở đó với ngài suốt hai giờ. Trên các cửa sổ của Nguyện xá đèn lung linh sáng trong những chiếc ly màu bằng giấy. Khi ban nhạc trổi lên, Don Bosco và tôi lại gần cửa sổ. Một niềm vui khôn tả xâm chiếm cõi lòng chúng tôi. Don Bosco cười và tôi nói với ngài:

– Thưa cha, chiều nay đẹp quá! Cha có nhớ tới những giấc mơ của ngày xưa không? Đây là những trẻ em và các linh mục mà Đức Mẹ đã hứa cho cha!

– Thiên Chúa thật tốt lành – Don Bosco trả lời.

Hai người đã nói về nhiều chuyện. Trước khi từ giã, Don Bosco xin Cha Lemoyne chờ ngài viết một lá thư cám ơn các học sinh ở Lanzo về những lời chúc mừng của các em. Thánh nhân hiểu rằng đó là một cơ hội rất thuận lợi để chiếm được cõi lòng của các thanh thiếu niên. Ngài đã viết một lá thư tuyệt diệu:

“Các con yêu dấu, các con không thể tưởng tượng được cuộc viếng thăm của cha Lemoyne, giám đốc của các con, cùng với em Chiriglione, đại diện của các con và là bạn của cha, đã mang cho cha một niềm vui lớn đến mức nào. Niềm vui ấy càng tăng lên khi cha đọc những lá thư đầy lòng yêu mến các con đã gởi cho cha từ nhiều lớp khác nhau, do nhiều học sinh, hộ trực viên và thầy giáo. Cha muốn đọc hết tất cả mà không ngừng lại nếu không phải vì những giọt nước mắt đầy xúc động. Cha hy vọng được sớm gặp lại các con và chúng ta sẽ nói cho nhau về nhiều điều quan trọng. Nguyện xin ơn Chúa luôn ở cùng các con và nguyện xin Đức Nữ Trinh trợ giúp tất cả các con tiến bước trên đường về trời. Amen. Với lòng yêu mến tràn đầy người bạn yêu dấu của các con trong Chúa. L.M. Gioan Bosco”.

Don Bosco có cả một nghệ thuật tận dụng các cơ hội, kể cả cơ hội nhỏ bé, để nói với cõi lòng thanh thiếu niên.

Ngài không bỏ lỡ một cơ hội nào mà không gợi ra cuộc đối thoại với học sinh, một cuộc đối thoại bình thản và siêu nhiên.

Cha mẹ phải biết làm như thế với con cái. Nhiều cha mẹ thường lấy cớ là thiếu giờ. Họ lầm. Cuộc đối thoại với con cái là một phương thế giáo dục không thể thiếu được.

Đối với người mẹ, công việc nội trợ có thể là dịp tiếp xúc với đứa con này hay đứa con kia và tạo nên sự tín nhiệm lẫn nhau.

Người cha có thể lợi dụng một cuộc đi dạo đồng quê với một đứa con để khơi dậy sự cảm thông.

Giờ phút cuối cùng của một ngày, giờ phút của “huấn từ tối”, chính là giờ phút để trò chuyện đúng đắn, giờ phút tổng kết cả ngày, là dịp của trò chuyện, tâm sự.

Có một kỹ sư tử trận anh hùng như một sĩ quan của đoàn quân thiện chiến núi Alpes. Trong cuốn sổ nhật ký, ông đã ghi một câu hỏi đáng nhớ: “Tôi có biết dành cho con cái tôi mối ân cần, thời gian, lời nói mà chúng chờ đợi không? Khi viết cho chúng, tôi có biết sinh động hóa, hướng dẫn và soi sáng tâm hồn chúng không?”

Cha mẹ có bổn phận giáo dục con cái Chúa đã trao phó. Gia đình là cộng đoàn Kitô hữu, trong đó cuộc gặp gỡ đầu tiên với Thiên Chúa được thực hiện.

“Khi một đứa con bỏ cha mẹ để vâng theo ơn gọi, Chúa Giêsu Kitô sẽ đến thay chỗ của em trong gia đình”. (Don Bosco)

30.

HÃY DẠY TRẺ EM THAM DỰ THÁNH LỄ

Thứ bảy, 5-6-1841, áp lễ Chúa Ba Ngôi, Don Bosco được thụ phong linh mục tại nhà nguyện Tòa Tổng Giám mục Torinô khi mới 26 tuổi. Hôm sau, Don Bosco cử hành thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Phanxicô Assisi với sự tham dự của cha Giuse Cafasso, giáo sư và linh hướng của ngài, (sau này cũng được phong thánh). Don Bosco muốn thánh lễ đó rất đơn sơ, chỉ có một mình, hết sức sốt sắng để có thể tạ ơn Thiên Chúa đã dẫn ngài tới đích hằng mơ ước khi còn nhỏ. Lúc truyền phép, khi chăm chú cầu nguyện cho mình và cho người thân (như ngài viết trong cuốn Hồi ký), Don Bosco đã xin Chúa ban cho mình ơn biết sử dụng lời nói thật hữu hiệu, như là ơn đầu tiên của các ơn linh mục. Ngài đã viết một cách rất đơn sơ vào lúc cuối đời – “và rồi hình như cha đã được nhận lời”. Từ ngày đó ngài trở nên người truyền bá Nước Chúa cách kỳ diệu, một người nhiệt tình rao giảng Tin Mừng cho các tâm hồn trẻ.

Tới phần nhớ đến người quá cố, vị linh mục trẻ đã dừng lại lâu hơn: ngài tạ ơn và gởi gắm cho Thiên Chúa các vị ân nhân đầu tiên và vĩ đại đã đi vào cõi vĩnh cửu. Don Bosco đã mau lẹ nhớ tới cha Calosso, thầy dạy Latinh đầu tiên, một vị thầy giàu lòng quảng đại đã lo học phí để tránh cho ngài những bước đường cam go.

Hôm sau, Don Bosco cử hành thánh lễ thứ hai tại đền thờ Consolata, “để cám ơn Đức Trinh Nữ về vô số các ơn mà tôi đã nhận được từ Con của Ngài”.

* Từ thánh lễ đầu tiên ấy, Don Bosco nhận được lòng say mê giáo dục thanh thiếu niên bằng Lời Chúa và bí tích Tình yêu. Tin mừng và Thánh lễ là hai bàn tiệc mà hằng ngày Hội Thánh cống hiến cho mỗi tín hữu để giúp họ lớn lên và trưởng thành trong Đức Kitô. Đó là khoa sư phạm thần linh mà Don Bosco luôn luôn thực thi như người tiên phong và ngày nay ngài là vị thầy lừng danh của khoa sư phạm này.

* Không phải dự lễ, có mặt cách thụ động, nhưng còn phải tham dự tích cực, và cách dự lễ tốt đẹp nhất là rước lễ: kết hợp với Hy lễ được sát tế trên bàn thờ. Don Bosco quyết liệt cổ vũ việc dự lễ và rước lễ. Việc xưng tội thường xuyên và tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em xưng tội có mục đích duy nhất là tán trợ việc rước lễ. Don Bosco đã xác tín rằng nền tảng thiêng liêng của toàn thể phương pháp giáo dục của ngài là ơn Chúa.

* Trong Phụng vụ ngày nay, Lời Chúa được công bố và cắt nghĩa bằng ngôn ngữ thường ngày, nhờ đó người ta có thể thực sự tham dự cách toàn diện vào thánh lễ. Từ trời cao, Don Bosco rất vui mừng vì điều đó, và ngài ước mong cha mẹ cũng như nhà giáo dục nhân danh ngài mà dạy ba điều này thật đến nơi đến chốn:

  1. Luôn sống trong ơn Chúa để có thể tham dự cách sâu xa và hữu hiệu nhất nhờ việc rước lễ. Ngày nay lời xác quyết của nhà giáo dục tài ba còn có giá trị hơn ngày xưa: “Năng xưng tội, rước lễ thường xuyên và dự lễ hằng ngày là những cột trụ nâng đỡ tòa nhà giáo dục”.
  2. Nếu được, nên chuẩn bị thánh lễ bằng cách xem trước phần cắt nghĩa vắn tắt và đơn sơ các Bài đọc Kinh thánh. Cũng có thể tìm hiểu Lời Chúa trước bằng cách đối thoại giữa con cái và cha mẹ, hay giữa học sinh và nhà giáo. Don Bosco cũng đã soạn tập san “Letture cattoliche” để hướng dẫn dân chúng và đặc biệt các thanh thiếu niên nuôi dưỡng mình nơi bàn tiệc Lời Chúa sao cho có hiệu quả nhất.
  3. Chăm chú theo dõi việc công bố Lời Chúa và tìm cách áp dụng cho chính mình, chớ không phải cho người khác: đó là một sự rước lễ thiêng liêng thiết thực và hữu hiệu nhất.

 

 

 

 

III.

ĐỂ CHO THẾ GIỚI KHÔNG CÒN CÔ ĐƠN

GIỮA ĐÁM ĐÔNG NGƯỜI

 

31.

HÃY CỨU TRẺ EM KHỎI NHỮNG BĂNG NHÓM XẤU

Vào một buổi chiều tháng tư năm 1847, Don Bosco đi thăm một bệnh nhân và trở về rất muộn. Tới gần khu phố Dora Grossa, nay là đường Garibaldi, ngay tại góc khu Valdocco, ở Torinô, ngài gặp một nhóm trẻ bụi đời. Vừa thấy bóng vị linh mục, lũ trẻ tức khắc văng ra những lời thật lỗ mãng:

– Mấy ông linh mục chỉ là lũ keo kiệt.

– Đểu cáng và khó tính, khó nết.

– Bọn mình thử sức cái ông linh mục này xem sao.

Dường như muốn né tránh, Don Bosco chậm bước lại, nhưng thấy mình ở thế kẹt, ngài điềm tĩnh tiến về phía chúng. Ngài nhoẻn miệng chào khiến bọn chúng ngạc nhiên:

– Chào các bạn thân yêu nhé! Các bạn khỏe cả chứ?

– Chẳng khỏe tí nào, ông ơi. Đứa đầu sỏ đáp.

– Khát bỏ xừ mà chẳng có một xu nào cả. Bao đi. Một xị, một lít càng hay.

– Phải đó, có ngon thì mua cho chúng tôi ít là một chai.

Cả lũ trẻ lao nhao to tiếng:

– Một xị, một xị thôi cũng đủ. Bằng không, ông đừng hòng thoát khỏi nơi này.

Cả bọn liền vây quanh và Don Bosco không còn đi thêm được một bước nào nữa.

Don Bosco điềm tĩnh đáp:

– Ừ, được! Sẵn sàng! Nhưng các bạn đông quá, phải hai lít mới đủ. Nhưng với điều kiện là tôi cùng uống với các bạn.

– Còn phải nói! Tuyệt quá đi chứ! Ông là một linh mục tuyệt vời. Ước gì tất cả các linh mục đều giống như ông.

– Thôi, chúng ta đến quán Alpi nhé!

Thế là Don Bosco kéo bọn chúng đi theo ngài. Sau khi vào quán, ngài gọi hai chai rượu. Khi thấy chúng khá hào hứng và hiền hòa hơn, ngài nói:

– Thế này nhé. Bây giờ các bạn hãy giúp tôi một việc.

– Việc gì? Xin ngài cứ nói. Một chứ hai hay ba cũng cân. Kể từ giờ phút này chúng tôi là bạn của ngài.

– Vậy hả? Nếu quả thật là bạn của tôi, thì xin các bạn đừng chửi thề, nói tục và cũng đừng xúc phạm đến Danh Thánh Chúa như một người trong các bạn đã làm hồi nãy.

Một đứa trong bọn chúng thưa lại:

– Vâng, ngài có lý. Nhưng biết làm sao được. Những lời tục tĩu luôn tự động phát ra từ cửa miệng. Mà thôi, từ nay dứt khoát phải chừa. Chúng tôi sẽ cắn lưỡi để khỏi đèo tục.

Tất cả cùng hứa. Don Bosco liền kết thúc cuộc gặp gỡ:

– Thôi nhé! Các bạn hãy ngoan ngoãn về nhà ngay đi.

– Có nhà đâu mà về! – Một đứa trẻ tủi thân thốt lên.

– Cả tôi nữa, tôi cũng chẳng có nhà cửa gì cả! – Đứa khác cũng nói thêm vào. Tiếp đến, những đứa khác cũng nói y hệt như vậy.

Nhìn thấy mối nguy của bọn trẻ, Don Bosco lập tức đề nghị một phương thức chữa trị:

– Vậy các bạn hãy về nhà của tôi mà ở.

Ngài dẫn chúng về nhà tại Valdocco, nơi mẹ ngài đang nóng lòng mong đợi.

* Thời nào cũng có các băng nhóm thanh thiếu nhiên. Từ 8 tuổi, trẻ em đã có thể rủ nhau kéo bè, kéo lũ họp thành băng nhóm với những tên gọi tùy hứng. Chúng đề ra những mục tiêu mà chúng không bao giờ có thể đạt được, đại ca thay đổi mọi sự hằng ngày tùy hứng. Thế rồi, thường xuyên xảy ra những vụ tranh cãi, đánh lộn giữa băng nhóm này với băng nhóm nọ. Đối với một đứa trẻ, kết thành băng nhóm thường là một giai đoạn bình thường để vượt qua nhu cầu đua đòi của nó.

* Ở lứa tuổi khủng hoảng, các thiếu niên cũng như các thiếu nữ thường họp thành băng, với một loại qui luật mô phỏng theo các hiệp hội của người lớn, nhưng phần chủ yếu là nhằm chống lại những luật lệ của người lớn. Chúng tìm cách gạt bỏ những chỉ tiêu rườm rà để tạo ra một thứ kỷ luật danh dự nào đó. Khi còn bé, đứa trẻ thường “đồng hóa mình” với cha mẹ và đòi phải được sắp xếp mọi việc theo sở thích của mình. Đến tuổi thiếu niên, em thích “hòa mình” vào băng nhóm và vâng lời băng nhóm hơn cha mẹ và thầy cô. Ở trong băng nhóm, em cảm thấy đầy sức mạnh; ra khỏi băng nhóm, em cảm thấy yếu đuối.

* Như vậy, băng nhóm là vấn đề xã hội: trẻ em muốn dùng băng nhóm để tấn công người lớn và dùng rìu tự mở ra một lối đi qua cánh rừng hoang của xã hội đang làm cho em đau khổ và đang hạn chế em. Một nhà phân tâm đã nghiên cứu về nhiều băng nhóm gây nên tội ác. Ông đã khám phá thấy rằng hầu hết các thành viên đều có một nét giống nhau: cha mẹ chúng đã dửng dưng không quan tâm đến chúng; chúng thường là những đứa trẻ thuộc gia đình rạn nứt hay là những đứa mồ côi. Nói chung, chúng là những kẻ bất hạnh trong cuộc sống, rõ ràng chúng đã sớm xung khắc với xã hội và pháp luật.

* Lẫn trong một đám đông, thấy ai cũng giống với mình, đứa trẻ ít thấy mình đáng trách. Thường thường, con đường hư hỏng và phạm pháp bắt đầu với một thử thách về lòng can đảm mà băng nhóm đòi hỏi nơi đứa tập sự. Nó phải tỏ ra mình không nhát gan và bất chấp luật lệ của người lớn. Vì thế, nó có thể đi trêu chọc một anh công an, lái một chiếc xe ăn cắp chạy bạt mạng trên đường phố.

* Phải làm thế nào để giúp được trẻ em trong giai đoạn khủng hoảng của tuổi thiếu niên? Phải làm như Don Bosco đã làm: tìm gặp các em trên đường phố hoặc tại những nơi tối tăm chúng hay tụ họp; chinh phục chúng và làm trung gian cho chúng nơi thế giới của người lớn, một thế giới có vẻ quá thờ ơ đối với chúng; luôn sẵn sàng lắng nghe khi các em tới tâm sự về những mối bận tâm của chúng; đôi khi cũng phải biết rút lui khi các em muốn gặp gỡ riêng giữa chúng với nhau mà thôi; cư xử với chúng cách kính trọng như với những nhân vị đích thật.

* Xã hội ngày nay tốn nhiều giờ vào việc phân tích tâm lý tuổi trẻ đang nổi loạn, nhưng lại ít giúp đỡ chúng. Phải chi họ tiếp tay cho những đứa trẻ đã tách khỏi các băng nhóm. Nếu phải xử phạt, thì đừng bao giờ phạt như một sự trả thù, nhưng phải nhằm huấn luyện và giáo dục. Như Don Bosco, phải “dẫn trẻ em về nhà mình”.

“Bạn xấu là:

1) những người hay nói điều tục tĩu, hoặc làm những điều trái với đức nết na;

2) những người nói xấu tôn giáo;

3) những người xúi bạn xao nhãng bổn phận”. (Don Bosco)

 

32.

CÁC NHÓM BẠN XẤU: LÀM THẾ NÀO ĐÂY?

Vào một buổi sáng, có em trên 12 tuổi đẩy vội cửa bước vào phòng Don Bosco và nói thật quyết liệt: “Xin cha ghi chép ngay”. Don Bosco đã từng biết đứa trẻ đó (một thiên thần nhỏ trong trắng). Vì thế cha lập tức cầm bút viết theo lời em đọc. Cậu bé đã đọc cho cha danh sách nhóm thanh thiếu niên được ma quỉ đưa vào Nguyện xá để làm hại linh hồn các học sinh bằng cách rủ chúng gia nhập các phong trào trẻ của nhóm Tam điểm. Chúng có những thẻ hội viên đặc biệt và có một chương trình hành động chi tiết. Đó là nhóm thứ năm do ma quỉ tổ chức.

Cậu bé trình bày rõ ràng cho Don Bosco tất cả mọi chi tiết trong kế hoạch làm hư hỏng các học sinh. Don Bosco rất nhạy bén trước mối nguy hiểm của những “giọt mật hư hỏng” (như ngài thường gọi), chúng sẽ phá hủy toàn thể số mật tốt. Vì thế, với danh sách trong tay, ngài bắt đầu cuộc điều tra; sau một vài giờ ngài đã nắm được tất cả những đứa trẻ xấu ấy và đuổi chúng khỏi Nguyện xá, vì chúng đang tìm cách làm bạn với những em còn ngây thơ. Tuy nhiên, ngài muốn biết làm thế nào cậu bé 12 tuổi ấy lại có thể khám phá ra lũ trẻ xấu đó. Rất ái ngại nhưng cuối cùng cậu trả lời rằng mấy ngày hôm trước Chúa đã cho cậu thấy tất cả mọi sự như thể trong gương để nói lại cho Don Bosco và vì không nói, nên sáng hôm đó, sau khi rước lễ, cậu bị Chúa Giêsu khiển trách nghiêm khắc.

Để phá vỡ những tình bạn xấu, ngoài những phương thế nhân bản thường dùng. Don Bosco còn đề cao việc năng lãnh nhận các bí tích vốn ngăn cản sự hình thành những tình bạn như thế. Trong các trường hợp này, Thánh Thể tác động như bông hướng dương: phát hiện và xác định vị trí của điều hư hỏng trong tâm hồn.

Cha mẹ và nhà giáo dục thường gặp vấn đề bạn bè xấu nơi con em của họ. Trẻ em không lường trước được chúng đang mạo hiểm như thế nào; chúng trách các nhà giáo dục đã không hiểu chúng và không coi trọng các bạn bè của chúng. Làm thế nào đây?

* Phải tách trẻ ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc, ít là trong một thời gian: việc đi trọ học, đi dạo hay du ngoạn, nhờ người họ hàng hay nơi quen biết bảo trợ, thường là những dịp tốt để phá vỡ được những tình bạn xấu; trong thời gian đi vắng, tình bạn của chúng sẽ phai dần, và thường chấm dứt. Khi không còn tiếp xúc với bạn xấu, trẻ em sẽ suy nghĩ lại và trở nên chín chắn.

* Nếu không thay đổi được gì? Nếu người thiếu niên hay em nhỏ ấy vẫn duy trì những tình bạn có hại đó thì sao? Cần phải chạy đến Thiên Chúa bằng kinh nguyện. Còn về phần nhân loại, cần nhớ một qui luật luôn có giá trị là bằng mọi giá, phải giữ cho được lòng yêu mến và cuộc đối thoại sống động. Cô Lan 19 tuổi, sau nhiều tháng căng thẳng liên tục và xung khắc mãnh liệt với cha mẹ, đã rũ bỏ tất cả và đi sống với một người bạn trai mà cha mẹ không hề ưa thích. Dĩ nhiên là cha mẹ cô cũng có lý. Cô ra đi, không nói một lời với người cha, con người nghiêm khắc và yêu sách, hoàn toàn cứng rắn; với ông cuộc đối thoại đã chấm dứt từ lâu. Nhưng tuần sau, cô trở về nhà vào ngày đã định để gặp người mẹ. Cô đã giúp bà xếp lại quần áo và nói chuyện “to nhỏ” với bà. Tim đèn chưa tắt, bà mẹ tốt lành ấy đã gìn giữ cho nó cháy tiếp: luôn luôn còn có một chút hy vọng.

* Phá vỡ một tình bạn xấu thường rất khó, nếu người ta chưa thay thế được bằng một tình bạn khác. Buộc trẻ em quyết định và cắt thôi chưa đủ, còn phải giúp nó tạo nên những tình bạn mới, đi những con đường mới. Cha mẹ và nhà giáo dục phải khôn khéo hướng dẫn trẻ em tới những môi trường và tình bạn lành thánh. Nhất là trong giai đoạn trẻ em cảm thấy thiếu thốn yêu thương, phải biết lợi dụng mọi dịp để khỏa lấp chỗ trống tình cảm của chúng hầu có thể tỏ cho chúng biết rằng chúng ta muốn điều tốt cho chúng. Nhằm mục đích này, nhà giáo dục cần phải nhạy bén để có thể bắt được những lời kêu cứu xuất phát từ cõi lòng của trẻ em một cách bí nhiệm. Một nhà giáo dục vĩ đại đã nói: “Phải biết nghe tiếng dế kêu giữa những tiếng sấm sét”.

“Trong các tình bạn, phải để cho kinh nghiệm, chứ đừng để cho con tim hướng dẫn ta”. (Don Bosco)

33.

CƠN KHỦNG HOẢNG CHỐNG ĐỐI: LÀM THẾ NÀO?

Don Bosco kể: “Một chiều mùa thu, trên đường từ Sommariva về Torinô, khi tới Carmagnola, cha phải đợi xe lửa hơn một giờ. Khi đồng hồ điểm 7 giờ, trời đầy mây và sương mù bay xuống từng đám làm cho người ta không thể nhìn thấy xa hơn một bước. Những tiếng gào thét của đám trẻ làm cho các hành khách phải điếc tai: “Khoan đã”, “tóm lấy nó”, “chạy đi”, “bắt lấy đứa này”, “thộp cổ thằng kia”. Giữa những tiếng hò hét ấy có một tiếng nổi bật, chế ngự tất cả. Hình như đó là tiếng nói của đứa cầm đầu. Nhân dịp đám trẻ tụ tập chung quanh vị thủ lĩnh của chúng, cha nhảy hai bước vào giữa chúng. Tất cả sợ hãi chạy trốn; chỉ còn một đứa đứng lại; nó tiến tới và cật vấn cha với vẻ thách thức: – Ông là ai mà ngang nhiên xen vào trò chơi của chúng tôi? – Tôi là một người bạn của em. Thế là tình bạn được thiết lập.

Đứa trẻ ương ngạnh và ngổ ngáo ấy là Micae Magone, mồ côi cha. Em sống trên đường phố. Don Bosco tiếp nhận em về Torinô. Em là một đứa trẻ linh động, năng nổ và bướng bỉnh. Don Bosco đã nhờ một em theo sát Magone như thiên thần bản mệnh. Một cách khôn đầy và đầy bác ái, em không để cho cậu bé ương ngạnh kia nhận ra điều ấy, nhưng vẫn không bao giờ rời mắt khỏi cậu; em cùng đi với cậu tới lớp, phòng học, sân chơi; cùng vui chơi và nô đùa với cậu. Nhưng thỉnh thoảng cũng phải nói với cậu: “đừng nói chuyện xấu ấy, đừng nói lời nói đó; đừng kêu danh Chúa bừa bãi như thế”. Micae thường mất kiên nhẫn; nhưng rồi trước lòng tốt của người bạn, cậu đã bị khuất phục và nói: “Anh đã làm rất phải khi khuyên bảo tôi; anh quả thật là người bạn tốt”. Chỉ trong vài tháng, đứa trẻ ngỗ nghịch ấy đã thay đổi và có thể sánh ví được với Đaminh Saviô. Em đã vượt qua được cơn khủng hoảng của tuổi thiếu niên: khủng hoảng chống đối.

* Mỗi đứa trẻ đều gặp khủng hoảng khi bước vào tuổi thiếu niên: cho dù được tiên liệu và được chuẩn bị đến đâu đi nữa, cơn khủng hoảng ấy vẫn có nguy cơ trở nên trầm trọng. Khi còn là con nít, trẻ em rất cởi mở, dễ thương, và đôi khi ngoan ngoãn nữa. Khi lên 8 tới 10 tuổi, bước vào tuổi thiếu nhi, rồi thiếu niên, em trở thành đứa trẻ khó tính khó nết. Tất cả những điều em ưa thích trước kia, giờ đây trở thành đáng ghét; em thường tỏ vẻ chống đối khi tiếp nhận lời khuyên; một việc bé nhỏ cũng đủ là dịp để em phản kháng. Các nhà tâm lý ghi nhận rằng sự chống đối thường dữ dội hơn đối với bậc sinh thành cùng giới hay đối với người thay quyền họ (nhà giáo dục).

* Nên bỏ qua một số thái độ khiêu khích của trẻ em. Xét cho cùng, đó là dấu chỉ cho biết trẻ em đang lần mò tìm chỗ đứng của mình trong xã hội. Em đang đưa những năng lực đầu tiên và non nớt của mình ra thử sức với cha mẹ hay thầy cô mà em coi là người đại diện của quyền bính cha mẹ. Đó là một cách để khẳng định chính mình. Những xung đột sẽ nhờ sự bỏ qua đó mà nguôi dần. Các bậc cha mẹ thường buồn bã than phiền: “Chúng tôi xung khắc nhau trong từng chuyện nhỏ nhặt vớ vẩn, về bất cứ chuyện gì, và có khi chuyện chẳng có gì hết mà vẫn xung khắc. Tôi vừa nói đen, thì con tôi lại bảo trắng. Nếu tôi bảo nó học trước, làm bài sau, thì con tôi lại bắt đầu làm bài trước như để chọc tôi”. “Không một bộ đồ nào tôi mua mà con gái tôi vừa ý; nó nói rằng nó thích miếng vải như thế này, như thế kia, tôi đã mua cho nó và nó liền tỏ ra không hài lòng. Như vậy, nó muốn cái gì mới được chứ?”

* Phải có thái độ nào đối với những em ương ngạnh ấy? Phải để cho chúng “tự biểu lộ”. Để cho con gái tự chọn lấy những quần áo của nó và tìm cách đề cao sở thích của nó, cho dù không hoàn toàn phù hợp với sở thích của chúng ta. Hãy lắng nghe những ước nguyện của chúng, chớ đừng bao giờ triệt để từ chối. Hãy tìm cách khám phá điều mà con em quí vị cho là “thần tượng”. Tóm lại: đôi khi phải để cho trẻ em tự lo liệu ấy, nhưng với một sự trông coi khôn khéo như Don Bosco đã làm với Micae Magone, một đứa trẻ vô tâm vô tính.

* Có những trường hợp phải can thiệp: ví dụ, để duy trì kỷ luật đời sống, để khước từ việc tự do ra ngoài vì có thể nguy hiểm; để đòi hỏi sự thẳng thắn. Muốn xoa dịu sự bất mãn của đứa con, cha mẹ phải tránh dùng quyền bính cách độc đoán. Nếu bị từ chối hay phê bình về mọi sự mà không có lý do, em sẽ có lý để nghĩ rằng người ta không cho em phát triển. Và phản ứng của em rất đáng sợ. Vì thế, “cần kiên nhẫn và cầu nguyện nhiều” Don Bosco thường căn dặn. Tuổi thiếu niên là thời để cho đứa trẻ và cha mẹ cùng đón nhận nhau.

34.

HÃY NÓI THẬT VỚI TRẺ EM

Don Bosco viết trong cuối Hồi ký: “Khi ba tôi qua đời, tôi chưa đầy hai tuổi. Tôi không còn nhớ diện mạo của người. Tôi không biết trong hoàn cảnh tang thương đó tình trạng của tôi ra sao. Tôi chỉ nhớ, và đó là sự kiện đầu tiên trong đời tôi còn nhớ được rằng mẹ tôi đã nói với tôi: “Thế là con không còn ba nữa!”. Tất cả mọi người ra khỏi căn phòng của người quá cố, nhưng tôi nằng nặc xin ở lại. Mẹ tôi bưng ra khỏi phòng một cái rổ trong đó có mấy quả trứng. Người đau khổ gọi tôi: “Gioan, con ơi, hãy lại đây với mẹ”. Tôi đáp: “Nếu ba không đến, con cũng không đi với mẹ”. Mẹ tôi lặp lại: “Tội nghiệp con tôi quá! Con đến đây với mẹ; con không còn ba nữa”. Nói xong, người khóc nức nở, cầm lấy tay tôi và kéo ra ngoài, tôi cũng khóc vì thấy mẹ khóc. Đương nhiên vào tuổi đó, tôi chưa hiểu được sự bất hạnh to lớn của một đứa bé mất cha. Dầu vậy tôi vẫn luôn nhớ những lời này: “Thế là con không còn ba nữa”. Lúc bấy giờ tôi cũng nhớ người ta đã làm gì cho anh Antôn của tôi cũng quằn quại trong đau khổ.

* Mẹ Margherita là một bà mẹ kỳ diệu! Một cách tự nhiên bà thấy cần phải chuẩn bị và giáo dục con bà biết đối phó với những khó khăn và thử thách của cuộc sống. Phải dạy chúng biết rằng trong cuộc sống, chúng sẽ cảm nếm nỗi khổ cũng như niềm vui. Từ thời Ađam và Eva, loài người của mọi thế hệ đều phải chăm sóc kẻ ốm đau và chôn cất người qua đời.

Thông thường cha mẹ và nhà giáo dục chỉ cho trẻ em thấy những khía cạnh đẹp của cuộc sống. Do đó khi một vài em bỏ học bởi nhận ra rằng để học cần phải chịu khó; khi người lớn bỏ việc vì khó khăn và phiền toái: khi vợ chồng đoạn hôn vì khám phá ra rằng tuần trăng mật của thời gian đầu chỉ là tạm bợ, thì hỏi có gì đáng ngạc nhiên? Chúng bị lường gạt; chúng không được chuẩn bị một chút nào để có những năng lực nội tâm thích hợp hầu có thể chống trả những ảo tưởng không thể tránh được.

Xin cống hiến quí vị năm gợi ý được rút ra từ cuộc sống:

* Hãy nói thật với trẻ em. Hãy nói cho chúng biết rằng ngoài niềm vui cũng có đau khổ; ngoài hạnh phúc cũng có nỗi bất hạnh; đừng giấu trẻ điều này; cũng như trong các mùa, mùa thu và mùa đông sẽ luân chuyển với mùa xuân và mùa hè.

* Hãy kịp thời dạy cho trẻ em biết một vài đau khổ của cuộc sống; nhưng đồng thời, cũng hãy cống hiến cho chúng một nền tảng tôn giáo để có thể chịu đựng những đau khổ đó. Ông Manzoni nói: “Chắc chắn sẽ có những đau khổ. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ khuấy đục niềm vui của con cái Ngài, nếu không phải để chuẩn bị cho họ một niềm vui chắc chắn và to lớn hơn”. Tất cả chúng ta, lúc này hay lúc khác, đều phải đau khổ khi có người thân qua đời; vậy mà người ta lại tìm cách che dấu trẻ em thực tại của sự chết. Mẹ Margherita đã không làm như thế với cậu bé Gioan của bà.

* Hãy động viên và nâng đỡ để trẻ em có thể đương đầu với những biến cố khó chịu. Nếu có thể, quí vị hãy là người nâng đỡ chúng nhờ sự cảm thông và lòng thương mến của quí vị; hãy dẫn chúng đến với Chúa để nghỉ ngơi, vì Chúa Giêsu đã phán: “Hỡi tất cả những ai đang đau khổ và mệt nhọc, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho”.

* Không cho phép trẻ em trốn tránh những điều phiền toái và đau khổ. Đối với trẻ em, một điều khó chịu có thể là cuộc gặp gỡ với nha sĩ hay giờ lớp ở trường mà em đã không được chuẩn bị. Trẻ em có khuynh hướng trốn tránh những điều đó, kể cả trốn học. Trong những trường hợp khác, có thể xảy ra những điều nghiêm trọng hơn. Một học sinh đã không đến lớp để tránh điểm xấu. Khi biết được điều đó, bà mẹ nên nói với em: “Làm như vậy không được đâu con. Con phải tới lớp và đừng tìm cách chữa lỗi cho điều con đã làm”. Em đó đã không muốn nói tất cả cho thầy giáo, nhưng bà mẹ phải dẫn em tới trường, đừng để mình bị mềm lòng. Đang khi đi đường, bà có thể cắt nghĩa cho em hiểu rằng, dù đã trốn học, em cũng chưa phải là học sinh xấu và thầy giáo sẽ hiểu em. Khi gặp thầy giáo, bà mẹ cầm lấy vai đứa con mình đang khi em ấp úng xin lỗi và kể lại mọi sự.

* Hãy nói sự thật cho trẻ kể cả khi đó là sự thật phũ phàng. Một ông bố thích tiêu xài và chi tiêu thoải mái cho cô con gái nhỏ của mình. Tới ngày công việc làm ăn bắt đầu thua lỗ, ông vẫn giấu không cho cô biết, mặc dù cô đã đến tuổi để có thể hiểu được. Vì thế cô cứ tiếp tục phung phí tiền bạc. Khi lập gia đình, cô đòi tổ chức một lễ cưới lộng lẫy đến độ ông bố, vì khả năng không cho phép, đã phải vỡ nợ và chết. Nhiều năm sau, cô gái ấy tuyên bố: “Nếu cha tôi đã nói sự thật cho tôi, tôi đã trở nên một đứa con tốt hơn và cũng trở nên một người vợ hiểu biết hơn. Trái lại, khi chồng tôi nói với tôi là phải tiết kiệm, tôi giận dữ và cho đó là một thói xấu. Nếu tôi đã biết được sự thật, tôi đã có thể làm cho cuộc sống nên dễ dàng hơn cho cha tôi và sau đó cho chồng tôi”.

 

 

 

35.

HÃY NÓI VỚI TRẺ EM:

“CHÚNG TA KHÔNG ĐƯỢC PHÉP LÀM ĐIỀU ĐÓ”

Một hôm, Don Bosco đi bách bộ ngoài hành lang Nguyện xá, Ngài thấy một mẩu bánh mì bị vứt bỏ trên khung cửa sổ. Ngài lượm lên và bỏ túi. Sau đó, ngài vào phòng ăn của học sinh: một phòng rất rộng. Ngài thấy có nhiều mẩu bánh vụn vứt bỏ tứ tung. Ngài thu lượm tất cả lại.

Chiều tối, theo thông lệ, ngài ban huấn từ cho học sinh, nguyên văn như sau: “Các con thân mến. Chúa Quan phòng luôn nghĩ tới những nhu cầu của chúng ta và các con không bao giờ phải thiếu thốn điều gì. Nhưng nếu các con phung phí bánh Chúa đã ban như thế, tức là các con đã xúc phạm đến lòng tốt của Ngài. Các con không được phép phung phí bánh. Nếu các con làm như thế, e rằng một ngày kia Chúa sẽ để các con rơi vào cảnh túng thiếu” (người viết Hồi ký thận trọng ghi nhận rằng những lời đó có một cung giọng nghiêm trọng như những tiếng chuông được gõ bằng búa).

Tiếp đến, ngài trích dẫn một ví dụ trong Tin mừng: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Sau khi đã cho đám đông dân chúng ăn no một cách kỳ diệu, Chúa Giêsu đã bảo các tông đồ thu lượm những mẩu bánh vụn để khỏi phí đi. Don Bosco sống thanh đạm và dạy các học sinh của ngài về sự thanh đạm.

* “Chúng ta không được phép làm điều đó”. Trong bất cứ ngôn ngữ nào, đó là một trong những câu rất ý nghĩa. Nó giúp người ta phân biệt những ước muốn vô ích và ích kỷ với những điều thực sự cần thiết và không thể thay thế được. Cha mẹ và nhà giáo dục hãy thường xuyên nói cho con em mình câu đó. Họ hãy tập cho chúng có thói quen tránh phung phí khi được sung túc, không ca thán khi thiếu thốn, túng đói và khi không còn gì cả. Một nhà giáo dục đã nói một câu rất ý nhị: “Tục ngữ có câu: khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”.

* Sự thanh đạm giúp rèn luyện thân thể không kém việc tập thể dục. Nó rèn luyện tâm hồn và tính tình. Một nhà văn đã kể lại một giai thoại kỳ lạ này:

“Tôi biết có một đứa con của bác nông dân nghèo thường cảm thấy rất xấu hổ vì không được sống theo lối sống khá giả như một vài người bạn thuộc gia đình giàu có. Một chiều kia, cậu nghe được câu chuyện trao đổi giữa cha cậu và cha của người bạn thân nhất, một viên chức nhà nước. Ông ấy tìm cách thuyết phục bác nông dân cho đứa con đi nghỉ hè tại một nơi du lịch rất danh tiếng và tốn kém. Và ông ấy đã thêm:

– Anh sẽ thấy, hai đứa con của chúng ta sẽ rất vui thích. Chúng là hai đứa bạn có nhiều hứa hẹn. Bác nông dân trả lời:

– Tôi biết, nhưng chúng tôi không thể cho phép được.

Cả hai đều im lặng. Sau đó viên chức nhà nước bắt tay bác nông dân và nói:

– Anh bạn thân mến, tôi cũng không thể cho phép, nhưng tôi đã chưa bao giờ có can đảm nói ra.

Đứa con bác nông dân kể lại cho tôi rằng từ đó về sau em luôn hãnh diện và tự hào về ông bố của mình. Em đã khóc vì xúc động và nói:

– Lúc ấy ba tôi giống như một người khổng lồ.

Bài học của người cha đã soi sáng cho cậu nhiều tư tưởng và dạy cậu biết kính trọng mình và kính trọng các bạn bè một cách thẳng thắn, không úp mở”.

* Những từ bỏ mà sự thanh đạm đòi hỏi sẽ kiện cường tâm hồn và điều chỉnh những mơ mộng. Chúng là nền tảng cần thiết để giáo dục trẻ em hy sinh và sống vui.

Ngay từ khi còn nhỏ, Don Bosco đã sống một cuộc đời còn hơn thanh đạm: nghèo khó. Mẹ Margherita đã khôn khéo dùng tinh thần hy sinh và từ bỏ. Như vậy, bà đã chuẩn bị cho cậu để sau này có thể đương đầu với những hy sinh và từ bỏ anh hùng mà sứ mệnh Thiên Chúa trao phó đòi hỏi.

“Ai khiêm tốn và dịu hiền, thì luôn được Thiên Chúa và người ta quí mến”. (Don Bosco)

36.

HÃY GIÁO DỤC TRẺ EM BẰNG CÁCH SỐNG VỚI CHÚNG

Don Bosco đã tận dụng mọi cơ hội để sống giữa trẻ em hoặc tham dự các trò chơi ngoài sân hay ngồi trên đồng cỏ, với bảy hay tám vòng trẻ em vây quanh chăm chú nghe ngài nói, như thể những bông hoa hướng về mặt trời. Kinh sĩ Ballesio, một cựu học viên đầu tiên của ngài đã kể: “Tôi còn nhớ hình ảnh ngài ở trong nhà cơm. Đúng, nhà cơm đầy ắp học sinh đang chơi, hát và gào la. Em thì đứng, em thì ngồi trên ghế, trên bàn. Xung quanh Don Bosco lố nhố những mái đầu xanh. Ngài không quên một em nào: với em này, ngài nói một vài lời; với em kia, ngài đặt tay trên đầu; với em nọ, ngài tặng cho một cái nhìn, một nụ cười. Tất cả đều vui. Ngay cả khi dùng bữa, Don Bosco cũng chu toàn sứ mệnh giáo dục của ngài. Đối với ngài, sống với trẻ em là một đam mê bất khả kháng”.

* Để giáo dục trẻ em, cần phải sống với chúng. Một nhà tâm lý học đã viết: “Giáo dục trẻ em là việc rất dễ, nếu người ta có sự kiên nhẫn của tu sĩ dòng Xitô, thần kinh của phi hành gia và ngủ ít”. Người ta đã hỏi ông: “Ông có ý kiến gì về tuổi thanh thiếu niên?” Ông trả lời: “Tuổi thanh thiếu niên là chặng đường rất bình thường của sự phát triển mà mọi người đều phải trải qua, kể cả cha mẹ của đứa trẻ. Để hiểu và giáo dục trẻ em cần phải sống với chúng, hiện diện ở giữa chúng, chúng ở đâu mình cũng ở đó, như Don Bosco”.

Huyền diệu thay sự hiện diện! Để hiến cho bất cứ ai một niềm vui để nâng đỡ họ, không nhất thiết khi nào cũng phải làm hay nói cho họ một điều nào đó. Vả lại, không phải lúc nào chúng ta cũng làm được như thế. Chỉ cần sống với trẻ em, hiện diện với trọn mối thiện cảm và lòng yêu mến, cũng đã đủ. Một đứa bé khóc vì khiếp sợ. Mẹ nó đến. Nụ cười liền thay chỗ cho nước mắt. Tiếc thay, lắm người cả đời không có lấy một kẻ thân quen nào hiện diện: họ giống như người bất toại nằm bên hồ đã nói với Chúa Giêsu: “tôi không có ai đem tôi xuống hồ mỗi khi nước động”.

Phải dạy trẻ em biết hiện diện ít là trong một số dịp đặc biệt, để làm cho người khác vui hay an ủi họ. Những dịp nào?

* Vào những lúc có niềm vui lớn lao, chẳng hạn như khi người thân trở về sau một thời gian dài đi vắng. Sự hiện diện của mình sẽ gia tăng niềm vui.

* Trong những lúc gặp đau khổ. Trẻ em ít khi tự động nghĩ rằng mình phải có mặt trong những lúc ấy hay cũng có khi sự sợ hãi đã giữ em lại. Phải dạy em đến đó.

* Trong những lần đi thăm người ốm phải sống đơn độc. Hãy dạy trẻ em có thói quen đi thăm nhất là các bạn cùng trang lứa với chúng đang đau khổ hay bệnh tật. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh về tầm mức quan trọng của sự hiện diện giữa những người đau khổ. Ngài không chỉ hứa Thiên đàng cho người đã mất, cho người khác một ly nước uống khi họ khát, nhưng còn hứa cho người thăm viếng kẻ cô đơn: “Ta bị tù, ốm đau, và các người đã đến thăm Ta”.

* Để hiểu người khác và để được yêu mến, phương thế đơn giản nhất là hiện diện, là ở bên cạnh họ. Làm như thế là đã để cho một góc chạn trời của tâm hồn chúng ta tỏa sáng.

Don Bosco biết điều đó và chính vì thế ngài không bao giờ mệt mỏi khi sống giữa các học sinh.

37.

HÃY DẠY TRẺ EM SỐNG KHIÊM NHƯỜNG

Công tước Carolô Comestabile thuật lại: “Một ngày kia, khi đi thăm Don Bosco, tôi gặp ngài tại bàn giấy, đang đọc một bản ghi chú trên đó có viết vài tên của học sinh, Don Bosco nói với tôi:

– Đây là mấy đứa học sinh tinh nghịch của tôi. Chúng còn nhiều khuyết điểm lắm.

Tôi chưa am tường phương pháp giáo dục của Don Bosco, hỏi ngài phải phạt những đứa trẻ có lỗi ấy như thế nào. Ngài đáp:

– Không có hình phạt nào cả. Nhưng tôi sẽ làm như thế này. Đứa này chẳng hạn (và ngài chỉ cho tôi một tên): em tinh nghịch nhất, nhưng lại có một tấm lòng tuyệt diệu. Tôi sẽ gặp em vào giờ giải trí và sẽ hỏi thăm sức khỏe em. Chắc chắn em sẽ trả lời là rất tốt. Khi ấy, tôi sẽ nói với em: “Nhưng con có hài lòng về con không?” Em sẽ rất đỗi ngạc nhiên, rồi cúi mặt xuống vì xấu hổ. Tiếp đến, với lòng thương mến, tôi sẽ nhấn mạnh: “Con thân mến, hình như con có một điều nào đó không ổn; làm sao thân xác con khỏe mạnh, nhưng con lại không hài lòng về linh hồn mình? Con đã không xưng tội lâu rồi phải không?” Vài phút sau em đó đến tòa cáo giải và tôi tin chắc rằng em sẽ không bao giờ làm cho tôi phải khổ tâm vì em nữa”.

Công tước Carolô Comestabile cho biết rằng trong những lời đó ông đã khám phá được một bí quyết giáo dục. Don Bosco đã dạy học sinh sống khiêm nhường nhờ bí tích của sự khiêm nhường, tức là phép Cáo giải.

Trẻ em, cũng như tất cả mọi người đều cần phải có sự khiêm nhường. Hành vi khiêm nhường đích thật là hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa và trước mặt tất cả những gì thuộc về Ngài nơi mọi tạo vật. Nghĩa là nhìn nhận sự thấp hèn, nhỏ bé và thiếu thốn của mình và sau khi phạm tội, nhìn nhận sự khốn khổ của mình.

* Phải dạy trẻ em sống khiêm nhường, vì khiêm nhường làm cho cõi lòng và tâm trí được phong phú và rộng mở để có thể hiểu được nhiều điều. Tất cả chúng ta đều bắt đầu từ sự khốn cùng và ngu dốt; cả đến các thiên tài cũng phải học hỏi nơi người khác. Nhạc sĩ Mozart chọn đề tài cho đoạn mở đầu bài Flauto từ bản nhạc của Clementi. Nhạc sĩ Bach rút chất liệu cảm hứng từ bản nhạc của Corelli. Tác phẩm của một người là hoa quả của bao điều có trước họ.

* Trẻ em phải được dạy sống khiêm nhường đối với bất cứ người nào, ngay cả người ngu dốt hoặc vô lễ. Sự khiêm nhường không bao giờ được tỏ lộ cách tốt đẹp như trong thái độ được gọi là “một cái nhìn ưu ái đối với những người ngu dốt”. Mọi người đều luôn có thể gợi lên hay soi sáng một điều hữu ích và tốt lành. Sự khiêm nhường dạy biết đề cao khả năng nhân loại cách phải lẽ, cho dù nó chỉ là một ngọn lửa le lói, yếu ớt.

* Phải dạy trẻ em biết sống khiêm nhường bằng cách mau mắn phục vụ người khác. Khiêm nhường trước hết là phục vụ. Một nhà báo kể lại: “Tôi rất xúc động khi thấy một nhân vật chính trị đáng kính, sau khi dùng tiệc trà với nhiều người ở ngoài sân, đã đi thu dọn những cái ly giấy và tất cả mọi thứ rác rến, rồi cho vào sọt rác. Ông đã làm điều đó một cách hết sức tự nhiên”. Sự khiêm nhường không đi vòng vo dò hỏi phải làm điều nào, nhưng tự ý làm ngay.

* Phải dạy trẻ em biết rằng sống khiêm nhường không có nghĩa là tự ti. Sự khiêm nhường đích thật là luôn khởi sự lại từ đầu, bất chấp mọi vấp ngã và trượt té. Sự khiêm nhường có chức năng giống với chức năng của sống tàu: nó giúp ta giữ được thế vững vàng. Chiếc tàu càng chạy nhanh, càng cần sống tàu thật thăng bằng. Chúng ta cần sự khiêm nhường tỷ lệ với vận tốc của chúng ta.

* Phải dạy trẻ em biết rằng khiêm nhường có nghĩa là “vui mừng vì những thành công của người khác”. Đó là cách thế duy nhất để giải thoát mình khỏi thói ghen tuông vốn có nơi mọi người. Một em trong đội tiếp tục làm bàn, còn chúng ta lại đá ra ngoài, điều ấy có thể làm nổi dậy sự ghen tuông. Sự khiêm nhường điều chỉnh lại bằng cách nhắc ta: “Tại sao bạn không chúc mừng nó?”

* Phải dạy trẻ em biết rằng cuộc đời là một bài học dài về sự khiêm nhường. Khiêm nhường không phải là một nghệ thuật mà người ta có thể làm chủ được trong mười lăm ngày. Để sống khiêm nhường thực, phải có kinh nghiệm; và để có kinh nghiệm, phải có thời gian. Don Bosco đã nói: “Bù lại, ai khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa và mọi người thương mến”.

38.

HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT THA THỨ

Giuse Brosio là một thiếu niên rất yêu mến Don Bosco. Một Chúa Nhật nọ, cậu nhận thấy Don Bosco không có trong sân chơi. Lạ thật! Cậu liền đi tìm ngài ở khắp mọi ngóc ngách trong nhà. Tìm đi, tìm lại nhiều lần, sau cùng cậu tìm thấy ngài ở trong một căn phòng; ngài đang buồn, buồn đến phát khóc. Cậu mau mắn hỏi ngài:

– Thưa cha, có chuyện gì xảy ra vậy?

Don Bosco im lặng, chìm ngập trong đau khổ. Cậu lại hỏi tiếp, bởi muốn biết vì đâu mà ngài phải đau khổ dữ dằn như vậy. Sau cùng, Don Bosco đã nói:

– Một trong các học sinh đã lăng mạ và sỉ nhục cha. Phần cha, cha không chấp nhất điều ấy. Nhưng điều tệ hại là em đang đi trên con đường xấu và ai biết rồi em sẽ kết thúc như thế nào.

Brosio cảm thấy bị xúc phạm. Cậu vung tay với vẻ tức giận và đoan chắc với Don Bosco là cậu sẽ tìm cách trả thù cho ngài. Don Bosco chăm chú nhìn cậu và nói:

– Con muốn trả thù cho cha, phải không? Con có lý; nhưng với một điều kiện: chúng ta sẽ cùng nhau trả thù. Thế nào, con có chịu không?

– Thưa cha, chịu.

– Vậy, con đi với cha.

Ngài liền dẫn cậu tới nhà thờ để cầu nguyện cho đứa học sinh hỗn láo đã xúc phạm tới ngài.

Sau này Brosio nhớ lại: “Tôi tin chắc Don Bosco đã cầu nguyện cho cả tôi nữa, vì trong lúc đó tôi cảm thấy mình trở nên một người khác, tôi dã thật sự thay đổi. Sự tức giận đối với học sinh ấy đã chuyển thành sự tha thứ”.

Don Bosco thường khuyên như sau: “Các con hãy nhớ rằng tha thứ có nghĩa là quên đi mãi mãi”. “Nếu các con muốn nhận được nhiều, nơi học sinh của các con, các con đừng bao giờ tỏ ra giận dỗi đối với bất cứ em nào. Hãy luôn tha thứ”.

Có một cái gì linh thiêng và huyền diệu trong sự tha thứ, vì tha thứ có thể giải hòa điều mà người ta cho là tuyệt đối không thể giải hòa được.

* Sự tha thứ là tột đỉnh của đức ái. Nếu đức ái la một hồng ân, thì sự tha thứ là hồng ân lớn gấp bội. Nó là một hồng ân cứu rỗi. Tâm lý học hiện đại dạy rằng khả năng tha thứ và tiếp nhận sự tha thứ là dấu chỉ một tính khí rất quân bình.

* Thật khó có thể tránh được một ngày mà không có ai làm ta bực mình, chạm đến lòng tự ái của ta, lợi dụng hay lạm dụng ta, tỏ ra khinh dể hay vô ơn đối với ta. Thông thường, những xúc phạm nhỏ bé cũng có thể chịu đựng được; nhưng khi trở nên thường xuyên hoặc nghiêm trọng, chúng có thể gây nên nơi chúng ta một ý muốn mù quáng là lấy điều ác báo trả điều ác. Không biết tha thứ, sự xúc phạm sẽ sinh ra sự xúc phạm và sự trả thù sẽ đưa tới việc tiêu diệt lẫn nhau. Phải chuẩn bị cho trẻ em nắm được những kinh nghiệm cam go ấy của cuộc sống và dạy chúng phải biết tha thứ. Phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần? Chúa Giêsu trả lời: “bảy mươi lần bảy, nghĩa là cho tới vô tận”.

* Tha thứ không chỉ là một hành vi bác ái, mà còn mang lại cho chúng ta hai cái lợi: vừa giúp thứ tha vừa làm cho ta được tha thứ. Vì thế, mỗi người cần tự mình chứng nghiệm một trong những nghịch lý của bản tính nhân loại được Đức Kitô cứu chuộc: đó là chúng ta càng mau mắn tha thứ bao nhiêu thì càng ít được kêu gọi tha thứ bấy nhiêu. Cha Keller, người sáng lập phong trào “Cristofoci” (những người mang Chúa Kitô), đã khuyên: “Hãy tập cho con em của quí vị ngay từ nhỏ đã biết tha thứ cho mỗi sơ xuất không đáng kể. Chúng cũng cần được tha thứ, nhất là từ phía người lớn. Tôi thiết nghĩ rằng khi các bạn trẻ cưới nhau trước bàn thờ, ngoài sự chung thủy và tình yêu, họ còn phải hứa tha thứ cho nhau. Sự tha thứ cho nhau sẽ cứu được rất nhiều đôi vợ chồng và làm cho họ được hạnh phúc.

* Muốn biết tha thứ, trước hết cần phải cầu nguyện. Không có cầu nguyện, người ta sẽ luôn cay đắng nhớ tới những xúc phạm người khác đã gây ra. Sự cầu nguyện sẽ rút hết nọc độc còn sót lại trong tư tưởng. Cha mẹ và nhà giáo phải dạy cho trẻ em bí quyết này. Một nhà giáo dục đã viết: “Bạn muốn trả thù ư? Hãy cầu nguyện cho người đã xúc phạm tới bạn. Chỉ cần đọc một kinh Kính mừng. Nó giống như nhỏ một ít dầu vào nước sôi của cơn nóng giận. Mọi sự sẽ êm dịu ngay”.

Don Bosco đã nói với Giuse Brosio: “Con muốn trả thù cho cha, phải không? Con có lý. Hãy đi với cha!” Và ngài dẫn cậu tới nhà thờ cầu nguyện.

“Tha thứ có nghĩa là quên đi mãi mãi”. (Don Bosco)

39.

HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT CÁM ƠN

Ngày 24-6-1877, lễ thánh Gioan Tẩy giả, toàn thể Nguyên xá Valdocco rộn ràng mừng lễ bổn mạng của Don Bosco. Dự tiệc với Don Bosco có một Giám mục nước Achentina và một kinh sĩ. Vào lúc nâng ly chúc mừng, một em bé mặc trang phục thời Trung cổ ra ngâm mấy vần thơ chúc mừng Don Bosco và vị Giám mục. Mọi người đều vỗ tay. Đang khi em đang cúi chào tất cả mọi hướng, vị kinh sĩ đứng lên, tiến lại gần em và trao cho em một đồng. Em cám ơn vị kinh sĩ, đón nhận đồng tiền, nhảy cò cò tới Don Bosco và trao lại cho Ngài. Vị kinh sĩ nhận xét:

– Cha cho con mà! Đây, một đồng khác. Con hãy giữ lấy.

Em bé nhận lấy và nhảy cò cò mang lại cho Don Bosco.

Vị kinh sĩ ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao con không giữ lại cho con?

– Dạ thưa tất cả chúng con đều chịu ơn Don Bosco – Em thẳng thắn đáp lại – Chúng con phải biết ơn Ngài.

Tên em là Carôlô Gastini. Khi còn bé, em sống bơ vơ một mình, sau đó được Don Bosco nhận và đưa về Nguyện xá, ở đó em sống vui tươi và hạnh phúc. Don Bosco đã dành cho em nhiều tình thương mến và em tự động phải có lòng biết ơn Ngài. Về sau, khi đã trưởng thành, Gastini luôn nhớ câu nói mà Don Bosco thường lặp đi lặp lại như một điệp khúc: “Chúng ta hãy khóc thương kẻ vô ơn, vì họ không được hạnh phúc”.

Chẳng mất mát gì khi nói lời cám ơn. Lòng biết ơn là một trong những cách biểu lộ cao đẹp nhất của tình yêu. Cho nên phải dạy dỗ và vun trồng lòng biết ơn trong tâm hồn của các trẻ nhỏ.

* Cha mẹ và nhà giáo dục phải dạy cho trẻ em biết biểu lộ lòng biết ơn bằng lời nói. Một lời cám ơn được nói lên sẽ làm phát sinh nơi người lãnh nhận và lắng nghe một dấu ấn huyền diệu của niềm vui, hạnh phúc và rộn rã.

* Phải dạy trẻ em nói cám ơn bằng cái nhìn, bằng cử chỉ và nụ cười. Đôi khi một nụ cười cũng đủ để diễn tả lòng biết ơn.

* Cần dạy trẻ em biết tỏ ra mình là người biết ơn qua lời cầu nguyện. Cầu nguyện cho người đã làm điều tốt cho mình là cách đáp trả cách tế nhị nhất. Cầu nguyện giống như đem một gói quà cho Chúa và xin Ngài xác nhận. Hễ Ngài xác nhận là ta nhận được liền.

* Cần dạy trẻ em biết cám ơn qua thư từ. Đôi khi lời không diễn tả hết lòng biết ơn. Vì thế, phải viết thư, một lá thư đơn sơ: nó giúp sưởi ấm lại tâm hồn của người đọc.

* Cần dạy trẻ em biết cám ơn bằng cách biếu quà. Món quà nào cũng được, miễn là được biếu với lòng yêu mến. Một văn sĩ đã viết: “Món quà đẹp nhất dành cho ngày sinh của bà mẹ là để cho bà được nghỉ cả ngày hôm đó. Vì thế, hôm nay ba tôi, các chị em tôi và tôi đã mau mắn làm hết mọi việc trong nhà. Chính chúng tôi dọn bữa, làm tất cả, kể cả rửa chén dĩa. Sau cùng bà mẹ đã nói với chúng tôi: “Cám ơn các con, các con đã không có thể biếu mẹ một món quà nào đẹp hơn món quà các con đã biếu mẹ: một ngày nghỉ”.

* Cần dạy trẻ em biết cảm tạ Thiên Chúa sáng tối. Thiên Chúa là Cha, là Chúa và là Đấng Sáng Tạo. Ông Luy đã viết lời kinh tạ ơn tuyệt diệu này: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con sống trên trần gian giàu đẹp này. Con cảm tạ Chúa vì niềm vui do âm nhạc đem lại, cũng như những niềm vui do con cái, do tư tưởng, do những cuộc trò chuyện với người khác, do cuốn sách con đọc bên lò sưởi hay trên giường khi trời mưa rơi trên mái nhà hay khi tuyết xuống ngoài cửa sổ. Con cảm tạ Chúa vì nụ cười rạng rỡ trên gương mặt, vì một cái đặt tay nhân ái, vì tiếng cười của em bé, vì tiếng chó sủa. Con cảm tạ Chúa vì tất cả những điều đó và vì biết bao điều khác nữa. Nhưng trước hết con cảm tạ Chúa vì mọi người con gặp, vì lòng tốt và sự cảm thông của họ đã vượt thắng sự hận thù, lừa đảo và dối trá”.

Carôlô nhớ rất rõ rằng Don Bosco thường lặp lại: “Chúng ta phải khóc thương những người vô ơn, vì họ không được hạnh phúc”.

HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT QUAN TÂM TỚI NGƯỜI KHÁC

Một hôm, về tới gần Nguyện xá Valdocco, Don Bosco gặp một thanh niên đầu đảng của một băng nhóm khét tiếng. Ngài mỉm cười chào hắn. Hắn rất ngạc nhiên khi thấy Don Bosco quan tâm tới mình. Ngài thật tốt lành và vui tươi. Do đó, hắn cũng chào lại: – Kính chào cha, hắn vừa nói vừa cúi đầu.

Don Bosco đã tỏ ra quan tâm hơn và nói với hắn:

– Cha rất sung sướng khi gặp được con. Con giúp cha một tay nhé.

– Nếu được, con sẵn sàng.

– Đương nhiên. Con đi ăn cơm với cha được không?

– Ăn cơm với Don Bosco ư?

– Phải, tại sao không? Hôm nay chỉ có một mình cha.

– Cha lầm rồi, có lẽ cha đã lầm con với ai đó.

– Cha không lầm đâu. Con là Giorgio chứ còn ai, đúng không?

– Thưa cha, đúng.

– Vậy thì con đến với cha nhé.

– Thôi, phiền cha quá.

– Con đừng khách sáo. Cha đã quyết định; con hãy đến.

– Nhưng con không có can đảm đến, vì quần áo con rách bươm, tay chân bẩn thỉu.

– Không hề gì.

– Nhưng … có lẽ mẹ con đang chờ con ở nhà.

– Cha sẽ cho người đi báo.

Đứng trước áp lực đầy dịu dàng của Don Bosco, gã thanh niên ấy đành phải nhượng bộ. Anh ta đã dùng bữa với Don Bosco. Khi về nhà, anh ta rất phấn khởi: Don Bosco đã thông truyền cho anh ngọn lửa thiêng liêng và đã làm cho anh lây nhiễm lòng tốt của ngài. Anh ta đã thay đổi nếp sống và trở nên một học sinh tốt.

* Mỗi đứa trẻ đều có một khả năng tiềm ẩn kỳ diệu là biết quan tâm đến người khác. Khả năng tiềm ẩn này được phát triển hay không còn tùy ý chí của em. Thế nhưng, ý chí phải được rèn luyện. Nó không luôn tự phát. Triết gia Hy Lạp, Socrate, ám chỉ điều đó khi nói: “Trước khi có thể lay chuyển thế giới, người ta phải lay chuyển chính mình”. Phải dạy trẻ em biết quan tâm tới anh chị em, tới người bên cạnh, tới bổn phận đã được trao cho em.

* Cách tốt nhất để phát triển khả năng quan tâm của trẻ em là để em tự do phát triển điều em cảm nghĩ. Người lớn thường có khuynh hướng ngăn chặn những tình cảm của trẻ em. Họ thường nghiêm khắc bảo em: “Hãy liệu mà làm chủ bản thân. Đừng nông nổi chạy theo xung động”. Thế nhưng, những biểu lộ ấy thường lại là dấu hiệu cho thấy trẻ em biết quan tâm: nếu bị dồn nén liên lỷ, em có thể bị tê liệt hoặc làm chết hẳn khả năng rộng mở với người khác.

* Hãy dạy trẻ em nghệ thuật biết tự hiến cho người khác, nhất là biết gần gũi người đau khổ, và biết tỏ ra quan tâm đặc biệt đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Một phụ huynh kể lại: “Có lần tôi ra bãi biển với con gái tôi. Nước lên. Trời chiều trắng đục êm ả. Sóng biển hết đợt này tới đợt khác dâng dần lên bãi cát khô. Con gái tôi khẽ thốt lên: “Ba ơi, hay quá! Ba có thấy biển đang hôn đất không?”

Đất thì dửng dưng, tuy nhiên nó vẫn chờ đợi. Còn biển thì không, nó cứ tới. Quả là một bài học tuyệt vời! Hãy dạy cho trẻ em biết sống như Chúa Giêsu đã dạy: “Trở nên người bên cạnh của người khác”, mỗi ngày làm vài việc nhỏ bé, không cần ai biết tới, nhưng đầy lòng tốt và tình yêu đối với người bên cạnh hay người mình gặp gỡ. Như thế chẳng tốt đẹp lắm sao?

“Chúa đã đặt chúng ta trong thế gian này vì người khác”. (Don Bosco)

HÃY DẠY TRẺ EM TRỞ NÊN “NGƯỜI BÊN CẠNH” ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC (1)

Don Bosco gặp một cựu học sinh. Ngài hỏi:

– Làm thế nào để tạo cho học sinh của tôi biết sống vui tươi và hồn nhiên?

– Với tình thương.

– Với tình thương à? Vậy … chúng không được yêu thương đủ sao?

– Còn thiếu điều quan trọng nhất.

– Điều nào vậy?

– Yêu thương trẻ em thôi chưa đủ. Các em còn phải biết chúng được ta yêu mến. Nếu chúng được thương mến trong những điều chúng ưa thích, chúng sẽ nhận ra tình thương ngay trong những điều chúng không thích, chẳng hạn kỷ luật, việc học hành và hy sinh. Chúng sẽ làm tất cả những điều đó với lòng hăng say và yêu mến. Cần phải thích điều trẻ em thích và chúng sẽ học biết thích điều các nhà giáo dục thích. Như vậy, việc giáo dục nặng nhọc sẽ nên dễ dàng.

Đây là qui luật hệ trọng: “Nếu nhà giáo dục làm gương trước bằng cách trở nên “người bên cạnh” của học sinh, thì tới lượt chúng, các em sẽ biết trở nên “người bên cạnh” của chúng bạn và của người khác.

Một luật sĩ đã hỏi chúa Giêsu: “Nhưng ai là người bên cạnh của tôi?” Chúa Giêsu đã kể cho ông câu chuyện về một người bất hạnh bị bọn cướp bỏ lại nửa sống nửa chết. “Một tư tế Do Thái có việc ngang qua đó và bỏ đi. Thầy Lêvi cũng thế. Người Sa-ma-ri-ta-nô tới và lại gần người bị nạn. Theo ý ông, ai trong ba người đó đã trở nên người bên cạnh của kẻ đã rơi vào tay bọn cướp?”

Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã đem lại cho từ ngữ “người bên cạnh” một ý nghĩa sinh động mà có lẽ chúng ta đã không suy nghĩ cho đủ. Ai là người bên cạnh của tôi? Ông luật sĩ đã hỏi. Và Chúa Giêsu trả lời ông: “Hãy trở nên người bên cạnh của mọi người”, nghĩa là tới gần họ với tình thương mến; nghĩa là với lòng tốt, nghiêng mình xuống nhìn sự khốn khó và đau khổ của người khác, kể cả người lần đầu tiên đến với mình, thậm chí người thù nghịch với mình, như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu đã làm với người hấp hối ấy. Hãy trở nên người bên cạnh của người khác bằng cách yêu mến họ. Chính bằng cách đó trẻ em sẽ học được bài học.

* Hãy dạy trẻ em trở nên người biết lưu tâm đến tha nhân, biết giúp đỡ họ trong những nhu cầu của họ, không chờ đợi họ van xin; và như Đức Mẹ ở tiệc cưới Cana, có cặp mắt rộng mở và đôi tai chăm chú, không phải để thỏa mãn tính tò mò của mình, nhưng là để nắm bắt những nỗi lo âu của thế giới, để đoán ra được vào lúc nào và bằng cách nào mình có thể nên hữu ích cho người khác mà không so đo, và phục vụ không tính toán.

* Hãy dạy trẻ em biết kính trọng và cảm thông với người bên cạnh cách sâu xa. Tuy nhiên, thái độ nội tâm này cũng chỉ thành chuyện khoa trương và dối trá, nếu đức ái không sinh động, không trổ bông bằng việc phục vụ người bên cạnh và hành động vì lợi ích của anh em. Đức ái là một trạng thái tâm hồn, nhưng là một trạng thái có những bàn tay để phục vụ.

* Có người đã hỏi ông Mark Twain: “Quan tâm đến tha nhân là gì?” Và ông đã trả lời cho họ một cách khá dí dỏm: “Khi lên 16 tuổi, tôi không quan tâm đến cha tôi một chút nào, vì tôi tin rằng cha tôi không biết gì cả. Khi lên 22 tuổi, tôi bắt đầu quan tâm đến cha tôi, và tôi rất ngạc nhiên khám phá ra rằng cha tôi đã học được rất nhiều điều chỉ trong vòng có sáu năm”.

Các con chim mẹ thường đẩy những con chim non ra khỏi tổ. Chúng ta cũng phải đẩy con em chúng ta ra khỏi cái tổ ích kỷ của chúng và khuyến khích chúng trở nên người bên cạnh của tất cả mọi người.

[1] Chữ “người bên cạnh” xuất phát từ Kinh Thánh: “Hãy yêu thương người bên cạnh con như chính mình con”. C hữ này có thể dịch là “người lân cận” hoặc “anh em”. Xin hiểu như vậy cho toàn bài.

HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT HIỂU NGƯỜI KHÁC

Ngày 10-5-1884, Don Bosco đã gởi một lá thư dài cho các tu sĩ Salêdiêng ở Nguyện xá Valdocco, Torinô. Đó là một viên ngọc quí giá, tỏ lộ tấm lòng bao la của Don Bosco. Ngài viết:

“Dù gần hay xa, cha vẫn tưởng nghĩ tới các con. Ước nguyện duy nhất của cha là thấy các con sung sướng ở đời này và đời sau. Các con yêu mến, cha cảm thấy càng xa các con, càng nặng tình luyến nhớ. Không được nhìn thấy các con, không được nghe tiếng các con nói là một nỗi đau khổ mà các con không thể tưởng tượng được.

Sau đó, với giọng văn lưu loát và thanh tao, ngài kể lại một giấc mơ, ngài thấy hai cảnh tượng hiện ra như trên màn ảnh: Nguyện xá vào thời gian đầu, với các học sinh hồi ấy đang chơi trong giờ giải trí; và Nguyện xá của năm 1884, trong đó ngài “không thấy sự linh động và sức sống như trong cảnh trước”. Don Bosco đã hỏi người hướng đạo bí mật đi theo ngài trong giấc mơ:

– Làm sao để các học sinh được sinh động, lấy lại niềm phấn khởi, hoạt bát, vui vẻ và cởi mở của thời xa xưa ấy?

– Phải dùng tình yêu cha ạ!

– Tình yêu à? Thế học sinh của tôi chưa được yêu mến đầy đủ sao?

– Nhưng còn thiếu một điều quan trọng.

– Điều gì thế?

– Yêu mến học sinh mà thôi chưa đủ, còn phải làm thế nào để chúng nhận thấy ta yêu mến chúng. Phải yêu mến học sinh trong chính những điều chúng ưa thích, và chúng sẽ yêu thích những điều mà các người giáo dục yêu thích. Phải thân thiết với học sinh, nhất là trong giờ chơi. Ai muốn được yêu mến, cần phải tỏ ra mình yêu mến. Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ: chính Ngài là Vị Thầy của tình thân thiện. Vì thế, người giáo dục phải trở nên mọi sự cho hết mọi người, sẵn sàng lắng nghe mọi nỗi nghi ngờ hay than vãn của thanh thiếu niên, hiểu chúng, mở to đôi mắt của người cha hiền để chăm sóc tính tình con cái, rộng mở cõi lòng tìm kiếm lợi ích thiêng liêng và vật chất cho hết thảy các thanh thiếu niên Chúa Quan phòng trao phó cho mình.

Hiểu người khác. Đó là qui luật quan trọng mà Don Bosco đã tìm cách vun trồng. Ngày nay, tâm lý học cống hiến cho chúng ta một từ ngữ mới, khó hơn, nhưng có cùng nội dung: đó là “cảm thông”. Cảm thông là khả năng biết coi trọng những tình cảm của người khác, nhưng không làm cho họ bị dao động, đến độ ảnh hưởng tới sự phán đoán của riêng họ. Đó là một trạng thái tâm hồn mà mọi người có thể sở hữu, phát huy và hoàn thiện.

* Hãy dạy cho trẻ em biết coi trọng những tình cảm của người khác. Một học giả đã ghi nhận: “Ta có thể hóa giải được nhiều nguyên nhân gây bực mình, nếu mỗi khi có ai làm điều gì khiến ta phải tức giận, ta biết tự hỏi ngay: “Phản ứng như vậy có đúng không?” Ví dụ: một đứa bé đã la ông bố: “Tôi ghét ông. Tôi muốn ông chết quách đi cho rồi!” Nếu ông bố ấy biết cảm thông, thì sẽ đi sâu vào tình cảm đã gây nên thái độ ấy và hiểu ra đứa bé muốn nói rằng: “Tôi cần đến bố, nhưng bố lại không quan tâm đến tôi. Tôi van xin bố tỏ cho tôi thấy rằng bố muốn điều tốt cho tôi”. Sự cảm thông cũng gần giống như thiện cảm. Thiện cảm thì nói rằng: “Bố chia sẻ với những tâm tình của con”; còn cảm thông lại nói: “Bố hiểu những tâm tình của con”. Sự hiểu biết ấy nâng đỡ rất nhiều cho những người đang gặp khó khăn và đau khổ. Nói cho cùng, thì giống như khi người ta buộc dây vào nhau để leo núi, nếu có người tuột xuống triền dốc, thì những người kia không nhảy xuống để cứu người đó, nhưng sẽ cố gắng đứng vững để có thể kéo người đó lên.

* Hãy dạy trẻ em biết đặt mình vào chỗ của người khác, biết nhìn với cặp mắt của người khác. Chớ không phải cặp mắt của mình. Chẳng hạn, người già thiếu cảm thông vì họ thường coi những sự lạ đời và ngu xuẩn của thanh thiếu niên là thảm họa; thay vì nhớ lại xem mình đã xử sự thế nào khi còn trẻ, họ lại muốn trẻ em xử sự như người trưởng thành. Người ta sẽ sẵn sàng giao mọi sự cho ta, miễn là họ biết ta cảm thông với tâm tình đã gợi lên những lời nói và hành động của họ. Việc hiểu tâm tình của người khác sẽ giúp ta khỏi bị tổn thương trong những tâm tình của ta.

* Hãy dạy trẻ em biết đọc ra được sự cô đơn đè nặng trên người khác. Một sinh viên đại học viết: “Tôi thường có cảm tưởng mình là một con số không, đang lang thang trên đôi chân của mình. Hình như không ai lưu ý đến tôi hay đến cuộc sống của tôi. Xin các bạn vui lòng đối xử với tôi như một con người và làm ơn lưu ý đến tôi một chút”. Hiểu sự cô đơn và tâm tình của người khác là bí quyết làm cho việc giáo dục được hữu hiệu. Một công nhân nhà máy cảm thấy chủ coi mình như là một bánh xe răng trong cỗ máy, tất nhiên sẽ làm việc với năng suất thấp. Trái lại, khi họ cảm thấy chủ thực sự quan tâm tới họ, tới những vấn đề của họ, tới tương lai và những điều kiện sống của gia đình họ, chắc chắn họ sẽ làm việc với năng suất cao.

Muốn học hiểu tâm tình của người khác, cần phải kiên nhẫn lắm. Nhưng có đi sâu vào tâm tư và cõi lòng của người khác, mới thu được một kinh nghiệm quan trọng và hữu ích. Sự cảm thông không gì khác hơn là đức ái, vì đức ái làm cho người khác cảm thấy rằng chúng ta yêu mến họ.

MỘT PHẦN THƯỞNG RẤT THÚ VỊ: LỜI KHEN

Don Bosco nói với một giáo viên mới ra trường: “Nếu thầy muốn, tôi đề nghị cho thầy một phần thưởng rất thú vị đối với học sinh của thầy. Thầy hãy làm thế này nhé. Thỉnh thoảng thầy hãy nói với học sinh tốt: “Thầy hài lòng về em. Thầy sẽ nói cho ba má em biết điều này”. Thầy sẽ thấy hiệu quả mà những lời khen đã làm phát sinh nơi tâm hồn các em”.

Lời khen sẽ khích lệ hành động. Don Bosco cũng đã dùng phương thế này để khuyến khích học sinh của ngài sống tốt. Tuy nhiên, ngài biết cân nhắc lời khen thế nào để giúp các em tin vào những năng lực của chúng mà không khiến chúng phô trương, và đồng thời lưu ý sao để khen cho đúng lúc hầu không vô tình miễn cho học sinh khỏi phải sửa lỗi.

Trong lúc khen cũng như trong lúc sửa lỗi, Don Bosco luôn là người cha nhân từ, nói vào tận đáy lòng của trẻ em. Ngài nói: “Mỗi nhà giáo dục hãy luôn mang nét mặt bình thản và tươi vui; khi sửa lỗi hay khuyên dạy, hãy luôn dùng những lời khích lệ, đừng bao giờ dùng những lời la mắng hay sỉ nhục. Hãy khen, hãy khen những em đáng được khen!”

* Trẻ em rất vui sướng khi được chúc mừng và được khen về thành công, sự vâng phục, việc phục vụ và lòng quảng đại của chúng. Cha mẹ và nhà giáo dục nên tỏ ra khôn khéo trong việc khen con em mình.

* Lời khen là một dấu hiệu của sự nhận thức về mặt thiêng liêng. Nó là dấu chỉ của một tâm hồn tinh tế. Bản thân mình phải tốt để có thể nhận ra điều tốt nơi người khác, để có thể hài lòng về điều đó, để có thể vui mừng vì đã làm cho người ta biết được điều đó, và để có thể chia vui với sự thành công của người khác. Lời khen phát xuất từ một tâm hồn ngay thật, là một quà tặng đẹp nhất. Lời khen làm vui lòng người được khen, nhóm lên một ngọn lửa mới trong tâm hồn họ, tạo nên một bầu khí hưng phấn và vui tươi cho họ.

* Lời khen có giá trị làm cho trẻ em “nở hoa”, giống như người làm vườn đối với cây cối. Lời khen làm cho trẻ em cảm thấy rằng người ta quan tâm đến chúng.

* Trẻ em rất ước ao được khen; chúng muốn người ta nhận ra nỗ lực và sự thành công của chúng. Khen người khác không phải là một sự nịnh hót. Khen là nịnh hót khi lời khen không thành thật. Lời chúc mừng và lời khen xuất phát từ tâm hồn là dấu chỉ của lòng tốt thanh cao.

Một phụ nữ kể lại rằng: “Trong một bữa liên hoan, cô Ê-lê-na, con gái của tôi, đã nhận ra rằng bà chủ nhà ở một mình, xa cách mọi người. Ê-lê-na lại gần bà chủ và nói: “Thưa bà, bữa liên hoan bà dọn hôm nay thật tuyệt vời. Cháu xin cám ơn bà vì đã mời cháu đến dự”. Sau đó bà ấy đã nói với tôi rằng câu nói của con gái tôi đã làm cho bà rất hài lòng và chưa bao giờ bà được vui như thế”.

* Ai mà chẳng hài lòng khi nghe ta kể lại lời người khác khen họ. Đó là một lời chúc mừng được phóng đại, có hiệu quả hơn khi được nói trực tiếp. Một bà mẹ đã tâm sự với đứa con: “Con có biết không? Bà mẹ của bạn học con nói với mẹ rằng con là đứa trẻ có giáo dục. Trước khi ra khỏi nhà họ, con đã vào bếp để chào bà ta. Con đã làm cho bà ta sung sướng suốt ngày”.

* Lời khen là một lời ấm áp và thân thiện để gặp đứa trẻ đang chìm trong tăm tối; là bàn tay chìa ra cho đứa trẻ đang bị lạc lõng.

Don Bosco khuyên như sau: “Hãy cẩn thận, đừng bao giờ khinh chê trẻ em vì một lỗi lầm nào đó của em, nhất là trước mặt em hay trước mặt chúng bạn. Nếu phải sửa lỗi, hãy sửa lỗi riêng một mình em trong nơi kín đáo và với lòng hiền dịu. Hãy khen em biết sửa mình, và khích lệ những em thờ ơ”.

Một nhà tâm lý đã viết: “Khi tôi thấy trong tôi có sự vui thích trong việc ban lời khen, tôi biết rằng sự vui thích đó mạnh hơn nỗ lực tôi phải bỏ ra”.

“Khen khi người ta làm tốt, khiển trách khi họ sai lỗi, đã là phần thưởng hay hình phạt rồi”. (Don Bosco)

TRẺ EM ĂN CẮP: PHẢI ĐỐI XỬ THẾ NÀO?

Ngày 17-12-1859, khi ban huấn từ tối cho các học sinh của Nguyện xá, Don Bosco đã nói: “Mỗi tối, các con nên trả lại tất cả những đồ vật đã lượm được trong ngày, kể cả những đồ vật nhỏ bé, không ai trong các con được giữ lại đồ vật không phải là của mình… Ma quỉ bao giờ cũng xảo quyệt và có thể lừa gạt bất cứ người nào, các con đừng nghe nó, hãy nhớ rằng tật ăn cắp đồ người khác, là một tật xấu nhất trên thế gian này. Nếu một người bị phát giác là kẻ ăn cắp, người ấy sẽ chẳng bao giờ tránh được cái tên gọi xấu xa đó. Bạn bè sẽ nói: “Đó là đứa ăn cắp!” Các bạn cùng quê sẽ lặp lại: “Đồ ăn cắp kìa!” Người ấy sẽ bị mọi người tránh xa. Nhưng, lời đáng run sợ chính là lời của Chúa Thánh Thần: “Những kẻ ăn cắp sẽ không được vào Nước Trời”.

Các con có biết có bao nhiêu đồ vật trong con người không? Một cọng rơm, cũng không có. Về Thiên đàng cũng vậy. Trên Thiên đàng ai lấy một cọng rơm của người khác cũng không được vào. Một người chết mà còn giữ cây kim đã ăn cắp, cũng không được vào Thiên đàng ngay. Một cây kim chẳng đáng là gì, nhưng trong luyện ngục, người ta phải trả giá đắt.

Khi xưng tội ăn cắp, người ta chỉ được khỏi sau khi đã trả lại; đây là nói về những gì có thể trả được và là trường hợp ăn cắp nghiêm trọng. Các con hãy coi chừng, vì nhiều điều nhẹ sẽ dần dần gộp thành điều nặng. Hôm nay hai đồng, ngày mai chiếc cà vạt, sau đó là cuốn tập, cuốn sách: chẳng bao lâu người ta đã phải trả lẽ nghiêm ngặt trước tòa Chúa.

Bởi vậy, nếu chúng ta không muốn mất danh giá trước mặt mọi người, và không muốn bị lương tâm khiển trách nặng nề thì hãy coi chừng, đừng đụng tới vật gì không phải là của mình. Đồ của người khác phải được coi như là lửa. Nếu một tia lửa đến gần ta, ta thường tránh xa nó ngay. Cũng thế, nếu ta thấy bên cạnh ta có một đồ vật không phải của mình, cho dù đó là một cây viết, một bút chì, ta hãy để nó lại đó. Các con cần một đồ vật nào đó chăng? Các con hãy mượn các bạn: họ sẽ vui lòng cho các con mượn. Hơn nữa, còn có các bề trên: các vị sẽ cung cấp cho các con tất cả những gì các con cần” (MB VI,353).

Có thể chia các trẻ em ăn cắp thành ba loại:

* Trẻ em ăn cắp vì có dịp. Trong một trường Salêdiêng nọ, người ta mua một rổ táo và đặt trong tủ bên cạnh một cửa sổ mở toang. Thế là, một giờ sau, tất cả các trái táo đều biến mất. Chị nữ tu trông nom nhà bếp thấy Don Bosco đi bách bộ ngang qua đó, thì đến gặp ngài và nói: “Thưa cha, cha có biết lũ trẻ đã làm gì sáng nay không? Chúng con chuẩn bị những trái táo ngon cho bữa ăn trưa, nhưng lũ trẻ đã ăn cắp hết cả rồi”. Don Bosco điềm tĩnh trả lời: “Không phải lỗi của các em. Đó là lỗi của các con. Các con nhớ đừng bao giờ tạo cơ hội cho trẻ phạm tội: đó là Hệ thống giáo dục dự phòng của chúng ta”.

* Trẻ em ăn cắp vì tính yếu đuối. Có em ăn cắp vì bạn bè lôi cuốn và xúi giục; có em ăn cắp vì không biết chống lại ước muốn chiếm lấy những vật thích và đồ ăn mình thèm. Phận sự của nhà giáo không phải là đánh đập và kết tội em. Phải giúp em ý thức rằng điều em làm đã gây thiệt hại cho người khác. Nếu em đang giao du với những người bạn xấu, phải tìm cách cắt đứt mối quan hệ ấy. Trẻ em phải được giúp đỡ để có thể hoàn trả hay đền bù vật em đã ăn cắp bằng chính nỗ lực của em.

* Trẻ em ăn cắp do bị một sức thúc đẩy không cưỡng lại được, thường là sau một vài giờ hay một vài ngày dằn vặt không tả được. Sự dằn vặt khó tả ấy thường được thay thế bởi nỗi lo sợ sẽ bị bắt quả tang. Trẻ em ăn cắp thuộc loại này thường ăn cắp cùng một thứ đồ vật, nhưng sau đó lại không hề đụng tới. Đó là ăn cắp bệnh hoạn. Sự dằn vặt ấy cho thấy trẻ em ăn cắp để bù trừ hoặc để trả đũa vì đã không được cha mẹ yêu thương. Chẳng hạn, từ ngày mẹ đi làm xa nhà, thằng Du bắt đầu ăn cắp. Con Hoa thì vì bị bà mẹ cấm không cho mời các bạn tới nhà, nên đã lấy trộm tiền để mua kẹo phát ở trường; khi bà mẹ cho phép tiếp các bạn ở nhà, em không còn ăn cắp nữa.

Đối với những trẻ ăn cắp như vậy, cha mẹ và nhà giáo không có cách cư xử nào khác với cách cư xử của Don Bosco. Trên bình diện luân lý, phải giúp chúng có cái nhìn siêu nhiên, dạy chúng ý thức và biết nhìn nhận những sai trái của mình; trên bình diện giáo dục, phải dạy chúng biết gớm ghét sự ăn cắp và nhất là phải tỏ cho chúng thấy ta tín nhiệm, cảm thông và yêu thương chúng như Don Bosco đã làm.

TRẺ EM NÓI DỐI

Một nhà giáo dục đương thời với Don Bosco đã viết: “Ở Torinô trong ngôi nhà số 32, trên đường Cottolengô, có một căn phòng độc nhất vô nhị trên thế giới có thể có được, vì từ căn phòng đó một em bé đã bước ra với niềm vui rạng rỡ trên mặt, mặc dù trước đó em đã bước vào với tâm hồn đầy u sầu và nhục nhã. Đó là căn phòng của Don Bosco. Chính ở đó Don Bosco đã làm vơi nhẹ và chữa lành biết bao vết thương lòng cho các học sinh của ngài, nhất là qua phép Giải tội.

Cha Francesia đã viết: “Vào buổi tối dọn mừng một lễ trọng nọ, chúng tôi cầm nến soi cho Don Bosco về phòng sau khi ngài đã giải tội suốt chín giờ liền. Chính lúc đó, một thiếu niên tới xin xưng tội. Chúng tôi nhìn nhau khó chịu: thật không phải lúc để chất thêm mệt mỏi cho Don Bosco nữa. Tất cả chúng tôi đều thốt lên: “Đừng nài nỉ nữa; mai hãy trở lại”. Nhưng Don Bosco mau mắn đón lấy cây nến từ tay chúng tôi và với nụ cười đầy tình phụ tử, ngài nói với cậu bé ấy: “Con hãy đợi cha trong phòng một chút. Cha sẽ trở lại ngay”.

Don Bosco biết (và ngài thường nhắc lại) rằng chỉ có cách tín nhiệm vào trẻ em và làm cho chúng mở rộng cõi lòng, người ta mới có thể chữa chúng khỏi những khuynh hướng xấu của chúng, nhất là khỏi tật nói dối.

* Một trong những nết xấu nổi bật nơi trẻ em là nói dối. Tật nói dối thường làm cho cha mẹ và nhà giáo dục lo lắng hơn cả là nói dối để lường gạt, nhằm giấu diếm một sự bất chính nào đó. Thông thường, trẻ em muốn che đậy một hành vi xấu hay một lời quở trách của nhà trường; hoặc muốn giấu cha mẹ một điều thô bỉ, một lần trốn học hay một người bạn mà em biết chắc sẽ không được cha mẹ ưng thuận.

Một em bé 13 tuổi đã thú nhận rằng em luôn cảm thấy áy náy mỗi khi giấu cha mẹ một điều xấu ở lớp. Nhưng em không bao giờ có đủ can đảm để thú nhận vì sợ cha mẹ quở trách và phạt. Vì thế em đành chọn giải pháp lừa dối và chờ đợi một dịp nào đó sẽ thú nhận tất cả để chỉ bị khiển trách một lần thôi.

* Trong gia đình, người anh, người chị thường được các em tin tưởng bộc lộ tâm sự và nhờ đó họ có thể giúp đỡ chúng. Trong một số trường hợp linh mục cũng có thể trở nên người tâm phúc và cố vấn. Điều khiến đứa trẻ bị dằn vặt khổ sở là lo lắng một hôm nào đó, không sớm thì muộn em sẽ phải thú nhận về sự ngu xuẩn đã trót phạm. Một điều khác cũng làm cho trẻ em áy náy là phải xưng thú cả tội nói dối của em. Đó là vòng luẩn quẩn đứa trẻ rơi vào và càng ngày càng bị giày vò hơn. Thực ra, trẻ em nói dối vì muốn tránh hình phạt, hoặc vì muốn tránh lời kết tội của cha mẹ hay nhà giáo. Chính hình phạt khiến em không dám nói sự thật. Trẻ em có thói quen nói dối do yếu đuối, vì em không muốn trả giá đắt. Trẻ em lẩn tránh sự thật, trốn khỏi lời kết án của xã hội, theo cách thế của nó. Như đã thấy, công việc của cha giải tội và nhà giáo dục rất cần thiết để giúp trẻ em được vơi nhẹ sự căng thẳng hay đúng hơn “sự thúc đẩy” bên trong khiến em nói dối.

Trẻ em thường nói dối khi rơi vào một hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Cần phải giúp trẻ em tiếp xúc với thực tại. Đó là một công tác cam go, nhưng không thể làm khác được, bởi lẽ khi đứa trẻ vì một lý do nào đó mà từ chối thực tại, thì càng lúc nó sẽ càng chạy trốn và biến mình thành một thế giới bất khả xâm phạm, không chấp nhận một sự dòm ngó từ bên ngoài, với một hệ thống giá trị và một chuẩn mực phán đoán riêng mà bất cứ ai muốn tới gần cũng không sao tới được. Xin nêu một trường hợp điển hình mà trong đó đứa trẻ được giúp tiếp xúc lại với thực tại. Trong một lớp tám, học sinh phải làm một đề luận mô tả những tiếng động trong nhà vào buổi sáng. Một em đã vận dụng trí tưởng để khai triển đề tài. Bà mẹ nhận xét: “Còn nhiều tiếng động khác có thể nghe thấy được vào ban sáng. Con chưa kể hết những tiếng động ấy!” nhưng em nói: “Thưa mẹ, con đã tưởng tượng tất cả”. Sáng hôm sau, bà mẹ mời em cùng lắng nghe với mình. Và đúng vậy, lúc ấy em mới tin rằng có thể nghe được rất nhiều tiếng động. Thực tại vượt quá trí tưởng tượng. Thế rồi, ngày này qua ngày khác, mỗi buổi sáng, em lại reo lên: “Mẹ ơi, mẹ biết không, con nghe được nhiều tiếng động mới rất thích thú”.

Nhờ công việc giáo dục nhân bản và kitô giáo đầy kiên nhẫn đó, ta có thể chữa được tật nói dối của trẻ em và giúp chúng tiếp xúc lại với thực tại, sẵn sàng tiếp nhận một cuộc sống vui tươi và thanh thản.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LUẬT CỦA TIẾN BỘ VÀ LAO ĐỘNG

HÃY HUẤN LUYỆN TRẺ EM BIẾT HY SINH

Chiều này 11 tháng 6 năm 1867, Don Bosco nói với các học sinh như sau: “Hôm nay khởi sự tuần chín ngày kính Đức Maria, Đấng An Ủi kẻ âu lo. Cha đề nghị trong tuần chín ngày này các con sẽ dâng cho Đức Mẹ một bó hoa thiêng như sau: chuyên cần chu toàn bổn phận ở nhà trường và nhất là các việc đạo đức ở nhà thờ. Tận dụng thời giờ. Ngoài ra, cha cũng khuyên tất cả các con làm thêm một vài hy sinh nữa.

Bí quyết Don Bosco dùng để bơm tinh thần hy sinh của ngài cho thanh thiếu niên là gợi lên diện mạo hiền dịu của Đức Mẹ. Nhờ đó mỗi lời mời gọi hy sinh của ngài đều thấm vào cõi lòng học sinh cách hữu hiệu hơn. Nhà giáo dục đầu tiên luôn luôn là bà mẹ.

Don Bosco cũng nhắc tới Đức Mẹ để các học sinh có thể hình dung được những phần thưởng lớn lao Chúa dành cho những ai biết hãm mình và phấn đấu sống trong ơn nghĩa Chúa.

Có lần Don Bosco kể: “Vào một đêm cuối tháng Đức Mẹ, có lẽ vào đêm 29 hoặc 30, cha cứ nghĩ đến các học sinh yêu dấu của cha và tự nhủ: “Mong sao mình mơ thấy một điều hữu ích cho chúng”. Và rồi cha ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên cha thấy mình ở trong một vùng đất kỳ diệu, trên một cánh đồng xanh tươi, đầy mọi thứ cây cỏ thơm ngát và chi chít những hoa xinh đẹp, có nhiều lùm cây tươi tốt và suối nước trong. Ở đó cha thấy một số trẻ em rất đông, tất cả đều vui tươi và thanh thản. Chúng đang kết các đóa hoa thành một tấm áo choàng rất rộng. Cha hỏi người hướng dẫn:

– Đám trẻ kia là ai vậy?

Anh trả lời:

– Thưa cha, đó là những em sống trong ơn nghĩa Chúa.

A! có thể nói rằng cha chưa bao giờ thấy những con người và sự vật xinh đẹp lộng lẫy như thế; và cũng chưa bao giờ cha có thể tưởng tượng được một sự huy hoàng đến thế.

Lúc ấy cha nói với người hướng dẫn:

– Anh làm ơn cho biết tôi phải nói với trẻ em điều gì?

– Xin cha hãy ghi khắc nơi chúng điều này: nếu chúng biết được đức trong sạch, nhân đức của Mẹ Maria rất quí báu và xinh đẹp đối với Thiên Chúa như thế nào, hẳn chúng sẽ sẵn sàng hy sinh mọi sự để bảo toàn nhân đức ấy. Hãy bảo chúng cố gắng thực hành nhân đức rực rỡ này”.

Đây là bài học rất hữu ích. Các nhà xã hội học đã phát biểu cách đầy lo âu rằng trong xã hội hiện đại, con người ngày nay, nhất là các thanh thiếu niên đã quên đi bài học về hy sinh.

Một đứa trẻ bị bắt quả tang đang ăn cắp tiền trong ví của bà mẹ; nó liền bịa ra một lời nói dối để khỏi bị khiển trách. Còn bà mẹ đáng thương lại biện hộ: “Đó không phải là một cử chỉ mất dạy, tất cả các trẻ em thường ăn cắp như con chim ác là”. Khi em không muốn làm công việc ở nhà, ông bố liền làm thay: sự giúp đỡ ấy thật là một lừa dối tai hại. Nhiều năm sau, lớn lên, em trở thành phó giám đốc một ngân hàng. Trong địa vị đầy trách nhiệm ấy, em đã đầu tư nhiều vụ thua lỗ, rồi đã ngụy tạo những bảng cân đối thu chi. Kết cuộc, em đã chuốc lấy tù tội và làm hại nhiều đồng nghiệp. Mẹ em thú nhận: “Con tôi đã bắt đầu sống gian sảo ngay từ nhỏ, khi em ăn cắp tiền của tôi. Bố em và tôi đã nuông chiều những sự ươn lười của em. Chúng tôi chưa bao giờ đòi hỏi em bất cứ một hy sinh nào, vì thế chúng tôi đã làm hại em”.

Nhắm mắt làm ngơ trước những sai sót thì dễ, nhưng rồi mỗi sơ suất sẽ góp phần vào một tác động nhào luyện ngấm ngầm biến điều tốt nơi ta thành điều xấu.

Thật phước đức nếu lúc nào cũng có được những hy sinh để gợi cho trẻ em thi hành trên bình diện thể lý, tâm lý và thiêng liêng. Đó là mối khích lệ lớn: nó giống như một hớp nước làm dịu bớt cơn khát tự nhiên là muốn tự vượt lên và cải thiện.

Don Bosco đã nói: “Hãy làm đôi việc hy sinh”. “Cuộc chiến đấu để đứng vững không được phép ngừng nghỉ”.

“Làm việc là vũ khí hữu hiệu chống lại mỏi kẻ thù của linh hồn. Các con thân mến, cha không khuyên các con hãm mình và giữ kỷ luật, nhưng khuyên làm việc, làm việc, làm việc”. (Don Bosco)

HÃY DẠY TRẺ EM CHỐNG LẠI TÍNH ƯU SẦU

Có lẽ không có một vị thánh nào trong Hội thánh thích sự vui tươi náo nhiệt của trẻ em hơn Don Bosco. Đaminh Saviô nên thánh ở tuổi mười lăm, vì đã sớm hiểu rõ điều đó khi cậu thốt lên câu nói lịch sử này: “Ở đây, với Don Bosco, chúng tôi coi sự nên thánh hệ tại việc sống vui tươi”.

Ngày 31 tháng 1 năm 1886, Don Bosco nói với đám trẻ tụ họp chung quanh ngài như sau: “Cách đây mấy năm, cha đã mơ thấy một thánh lễ cộng đoàn, cha đi lại giữa các thanh thiếu niên đang thích nghe lời cha nói. Nhưng có một em quay lưng lại phía cha. Cha bảo em quay mặt lại: em liền quay lại với diện mạo ưu sầu khủng khiếp. Chỉ được một lát, em lại quay lưng về phía cha. Vài ngày sau, cha thấy một đứa trẻ giống với đứa cha đã mơ thấy: em đang ở giữa các con.

Tất cả liền tò mò hỏi ngài:

– Thưa cha, ai vậy?

Don Bosco đáp:

– Không nên chỉ em ấy cho các con, vả lại cha chưa biết cắt nghĩa giấc mơ đó như thế nào. Tuy nhiên cha còn nhớ rằng trong giấc mơ em cầm một bó hoa.

Đang khi đám trẻ rời khỏi Don Bosco, một em đến hỏi xem đứa trẻ với bó hoa ấy có làm cho ngài lo lắng không. Don Bosco trả lời:

– Cha rất lo lắng!

Bỗng dưng ngài tóm lấy em Calzini và nói nhỏ vào tai em vài lời. Đứa trẻ vốn hay trốn Don Bosco đã tái mặt khi nghe những lời ấy; sau đó em đáp lại:

– Thưa cha, vâng!

Bóng tối ưu sầu bao trùm gương mặt em đã biến mất. Em trở lại chơi bình thản và vui vẻ. Nhiều năm sau, khi đã lớn, Calzini viết: “Tôi không hề quên được sự bình thản của Don Bosco và những lời ưu ái của ngài. Don Bosco đã làm cho tôi bỏ được lỗi lầm tôi hay mắc phải và xua tan chứng ưu sầu do những sa ngã luân lý liên tục gây nên. Tôi đã lấy lại can đảm và tin tưởng”.

* Các nhà tâm lý học ghi nhận rằng chứng ưu sầu và sự chán nản có thể xâm chiếm cõi lòng người ta với một nhịp độ đều đặn đáng kinh ngạc. Có người thì cứ khoảng mười lăm ngày một lần; có người khoảng hai tháng. Mức trung bình cho thanh thiếu niên và người lớn là khoảng năm tuần một lần. Đối với thiếu nữ và các bà, chu kỳ thường xuyên hơn, đồng thời còn có sự dễ tức bực và suy nhược.

Sau một cuộc điều tra rộng rãi nơi các sinh viên đại học, một nhà nghiên cứu ghi nhận rằng tính ưu sầu và suy nhược thường xảy ra vào nửa giờ đầu và nửa giờ cuối của mỗi ngày, mãnh liệt hơn vào ngày thứ hai trong tuần và đạt tới điểm báo động trong ba tháng đầu năm.

* Don Bosco nói rằng sự nhàn rỗi là vùng đất thuận lợi nhất để cây nấm đen ưu sầu phát triển. Do đó, ngài khuyên trẻ em tham dự các trò chơi với chúng bạn, hoặc làm bất cứ việc gì còn hơn gieo mình vào chứng ưu sầu. Ngài xác quyết: “Giải trí giúp tâm trí xua tan ưu sầu”.

Một danh nhân đã khuyên các thanh thiếu niên: “Hãy tránh sự cô đơn và nhàn rỗi. Nếu các bạn nhàn rỗi, thì đừng ở cô đơn; nếu các bạn cô đơn, thì đừng ở nhàn rỗi”.

Tính ưu sầu giống như màng nhện, thường xâm chiếm những nơi tối tăm và bẩn thỉu của tâm hồn chúng ta.

* Đối với Don Bosco, khí giới kỳ diệu để chống lại chứng ưu sầu là sống trong ơn nghĩa Chúa. Đó là điều mà Đaminh Saviô, học sinh ưu tú của Don Bosco, đã nói: “Chúng tôi coi sự nên thánh hệ tại việc sống vui tươi”.

* Cũng có những phương thế hữu hiệu khác để chiến thắng sự suy nhược: đi dạo hay cắm trại, đọc một cuốn sách hoặc chơi thể thao, nghe âm nhạc và nhất là làm một vài việc hữu ích cho người khác.

Ý muốn làm cho người khác vui, ngay cả khi không thể chia sẻ niềm vui của họ, là phương thuốc tốt chữa trị chứng ưu sầu: gọi điện thoại hay viết thư cho người cô độc, gởi một cuốn sách hay một món quà cho người đang ốm, mang bánh kẹo tới cho đứa bé mà bạn muốn điều tốt cho nó. Không có niềm vui nào to lớn hơn niềm vui làm cho người khác vui và hạnh phúc.

“Cha không mong đợi thanh thiếu niên điều gì khác hơn là chúng sống tốt và luôn vui vẻ. Như vậy, các con hãy sống vui vẻ mặc sức, miễn là không phạm tội”. (Don Bosco)

DÙNG GIỜ RẢNH THẾ NÀO?

Hồi mười tuổi, Gioan Bosco đã xin mẹ cho phép đi dự hội chợ tại những làng cách Becchi không xa lắm. Cậu muốn học các xảo thuật của những người làm xiếc. Tất cả mọi người đều đi dự những hội chợ ấy: vì nhu cầu, vì thói quen, vì ngày lễ.

Bà Margherita hiểu rõ con bà. Bà biết cậu bồng bột, đầu óc cậu luôn nghĩ ra một vài tư tưởng mới, ấp ủ ước muốn học hỏi và hiểu biết thật nhiều. Bà đã không từ chối cậu, nhưng vặn hỏi cậu:

– Này Gioan của mẹ, mẹ không có tiền, nên con không được xin tiền mẹ đấy nhé!

– Mẹ khỏi lo, con sẽ tự liệu lấy.

Giữa quảng trường, những tay múa rối, những người làm ảo thuật, những kẻ bán thuốc rong, những chàng làm xiếc gây cho dân chúng biết bao kinh ngạc. Họ há hốc miệng nhìn. Để được đứng ở hàng đầu, cậu Gioan đã phải mua một vé đặc biệt: mỗi vé hai đồng. Cậu quan sát những ngón tay đang di động của tay múa rối, những bước họ nhảy, cách họ giữ thăng bằng. Khi về nhà, cậu bắt chước làm những điều mình đã thấy. Nếu thất bại, cậu bắt đầu lại.

Cạnh làng Becchi, có một đồng cỏ: một triền dốc có nhiều cây trái. Một chỗ lý tưởng cho cuộc biểu diễn.

Một Chúa nhật nọ, dân chúng tụ tập tại đồng cỏ ấy và vây quanh cậu bé Gioan; cậu trải trên cỏ một tấm thảm cho những bước nhảy, đặt trên bàn nhỏ một cái bị chứa những điều kỳ diệu, buộc sợi dây giữa hai cây to để đi trên không. Dân chúng quí mến cậu bé tóc quăn đón cậu có giọng nói rõ ràng và có biệt tài thu hút mọi người. Hồi mười tuổi, cậu đã tổ chức cho dân chúng những cuộc giải trí nhằm tôn vinh Thiên Chúa: cậu bé Gioan đã sớm học được cách sử dụng thời giờ rảnh rỗi. Sau này, khi là linh mục, Gioan thường nhắc cho các học sinh: “Chớ gì ma quỉ không khi nào bắt gặp các con ở nhà. Hãy nhớ rằng kỳ nghỉ là mùa gặt của ma quỉ”.

Dùng giờ rảnh thế nào? Don Bosco khuyên như sau:

* Hãy luôn tìm việc để làm và bắt đầu làm ngay. Xét theo tâm lý, điều này rất đúng. Nếu bắt đầu ngay, người ta sẽ dễ dàng vượt thắng những trở ngại đầu tiên. Cảm nghĩ sẽ thành công trong việc ấy lúc đầu đang mãnh liệt sẽ làm cho mình thỏa mãn đến độ có thể đương đầu với các khó khăn trước mắt. Cứ lặp đi lặp lại, cách hành động này sẽ trở thành tự nhiên, dễ dàng.

* Hãy hứng khởi trong việc đang làm. Kẻ nào hứng khởi về việc mình đang làm thì không có gì phải sợ. Mọi chuyện đều trở thành cơ hội tốt đẹp đối với người yêu thích điều mình đang làm. Sự hứng khởi là một đức tính kỳ diệu: nó chiến thắng tính uể oải, khử trừ sự chán nản, khuyến khích hành động. Hơn nữa, nó cũng hay lây: thấy một người hứng khởi, nhiều người sẽ được thúc đẩy bắt chước theo.

* Hãy tìm cách làm một điều gì đó bạn ưa thích. Chúng tôi xin nói rõ: hãy tìm cho bạn một “hobby” (sở thích). Chẳng hạn sở thích sưu tầm tem, sưu tầm bươm bướm, thám hiểm một khu rừng hay một bãi biển bí mật. Ông Leonard da Vinci thường dừng lại để vẽ một cây hoa, một cọng cỏ hoặc cẩn thận tách lấy một khoảnh đất với những cỏ cây tiêu biểu như một khu rừng thu nhỏ và đem về nhà vẽ một cách say mê.

Nhiều nhà nghiên cứu có uy tín về giờ rảnh đã lập được danh sách những điều nên làm hay không nên làm trong giờ rảnh. Thông thường, họ đặt vào hàng thứ yếu những công việc giải trí như câu cá, xem truyền hình, xem thể thao; trái lại, họ khuyên nên tham dự những khóa nghiên cứu, dấn mình vào việc học một ngoại ngữ hay đọc một cuốn sách tốt. Có lẽ Don Bosco đã có lý nhất khi ngài khuyên các học sinh của ngài trở nên hữu ích cho người khác trong kỳ nghỉ. Ngài đã nói với một em: “Con không thể tưởng tượng được mình sẽ hạnh phúc biết chừng nào khi giúp được một người bên cạnh mình”. Các hướng đạo sinh biết rõ kỹ thuật này: vì thế, họ đã quyết định làm mỗi ngày một việc tốt. Tốt hơn hết là làm việc đó không tìm một ích lợi nào cho bản thân mình. Chúa Giêsu đã phán: “Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ thưởng công cho ngươi”.

“Một giờ kiếm được vào ban sáng là một kho tàng cho ban chiều. Mỗi một phút là một kho tàng quí báu; nó có giá trị vô cùng, nó có giá trị như chính Thiên Chúa”. (Don Bosco)

ĐỪNG NGĂN CẢN TRẺ EM CHƠI

Don Bosco thường lặp lại câu nói độc đáo của thánh Philíp Nêri, với một vài sửa đổi: “Các con cứ chơi, cứ chạy nhảy, cứ vui đùa thỏa thích, miễn là đừng phạm tội”. Don Bosco đã từng là linh hồn của các cuộc chơi trên sân nhiều năm. Ngài chơi với các học sinh. Một niên sử gia đã mô tả trong nhật ký của ông cảnh tượng sau đây: “Năm 1868, Don Bosco đã 53 tuổi. Khi còn trẻ ngài là một lực sĩ; giờ đây ngài đã bước vào tuổi già, đã tàn tạ cơ thể, nhưng vẫn trẻ trung nơi tâm hồn. Nên dù ở tuổi 53, ngài vẫn chấp nhận một cuộc chạy đua với các học sinh. Ngài làm thế để gây hứng khởi cho các cuộc chơi. Ngài không được liệt kê trong danh sách vì chân ngài đang sưng và nhức nhối. Dù vậy, ngài vẫn xếp hàng vào vạch xuất phát. Khi hiệu báo, ngài liền lao chạy. Chỉ chạy một vài bước, ngài đã bỏ lại đàng sau hàng trăm em”. Niên sử gia ấy đã thêm: “Mặc dù nhiều em chạy nhanh kinh khủng”.

Don Bosco biết rõ giá trị giáo dục của trò chơi. Đối với trẻ em, trò chơi trở nên nguồn mạch của niềm vui và bình an.

* Ngăn cản trẻ em chơi là ngăn cản nó sống. Đối với trẻ em, trò chơi không phải để cho qua thì giờ hay để nô đùa vô nghĩa. Khi chơi, trẻ em bộc lộ mình, xây dựng mình, xây dựng thế giới riêng; khi chơi, em vượt thắng tính nhút nhát tự nhiên của mình, ý thức về những năng lực ẩn tàng nơi mình; khi chơi, nó giải thoát mình khỏi tinh thần gây cấn, đánh tan sự cô độc.

* Những đứa trẻ không chơi được là những đứa trẻ bệnh hoạn. Những đứa trẻ không được tự do chơi sẽ dễ dàng trở thành những người lớn nóng nảy và tự ti. Mọi hình thức hạn chế trong khi chơi đều đáng ghét đối với trẻ em. Don Bosco không hài lòng về sự tự do thông thường khi chơi, ngài đòi phải dành cho một sự “tự do rộng rãi”. Ngài chỉ đặt một giới hạn, đó là tội lỗi, vì nó làm tổn thương sự tự do. Nên ghi nhận câu châm ngôn của ngài: “Một ngày chơi đùa mà để lại những ray rứt trong tâm hồn và lo sợ bị Thiên Chúa phán xét thì không gọi được là giải trí”.

* Các nhà tâm lý học tiết lộ: “Khi còn trẻ, ai càng được chơi nhiều và chơi cách đúng đắn, thì sau này trong cuộc sống, sẽ càng tỏ ra mình là người hơn. “Chơi nhiều” và “chơi cách đúng đắn” có nghĩa là gì? “Chơi nhiều” có nghĩa là cần nhiều giờ để chơi, chẳng hạn, một em bé bình thường, trước khi đến tuổi đi học, cần phải chơi mỗi ngày ít là tám tiếng đồng hồ. Còn “chơi cách đúng đắn” có nghĩa là để cho nó tự do lựa chọn trò chơi nào nó ưa thích nhất, trong cách thức nó ưa thích nhất; hơn nữa, cổ vũ nó, chớ không ngăn cản. Không được xâm phạm sự tự do của trẻ em, nhưng phải trông coi khung cảnh và bạn bè cùng chơi. Thiếu kiểm soát về bạn bè là nguyên nhân thường xuyên gây nên những hậu quả tiêu cực của biết bao trò giải trí. Don Bosco luôn chủ trương sự tự do rộng rãi trong khi chơi, nhưng lại mạnh mẽ quả quyết: “Đừng cho phép chơi những trò có hại cho sức khỏe và luân lý của học sinh”.

* Biết bao cha mẹ hoảng sợ khi thấy lúc chơi con cái họ tự do như ngựa đứt cương! Trong trường hợp này, lắm người đã tiên báo cho trẻ em một tương lai đen tối. Họ than phiền: con chơi nhiều quá. Chơi không bao giờ quá nhiều, nếu được tổ chức tốt. Các nhà giáo dục và tâm lý học nhấn mạnh rằng chơi đùa có âm hưởng rất lớn đến sức khỏe thể lý: nhờ chơi mà có được và giữ được sức khỏe, hơn là nhờ trí khôn và ý chí. Trong thực tế, các nhà giáo dục và cha mẹ phải tìm xem điều gì đang làm một số trẻ em bận tâm, khiến chúng tỏ ra ngần ngại, khép kín và ưu sầu. Trái lại, sự vui vẻ huyên náo của những trẻ em chạy nhảy, tranh đua trong bầu khí tự do và lành mạnh ở giữa cánh đồng và ngoài trời, thật tốt đẹp biết bao. Ông Faber nói: “Niềm vui của con người là niềm vui được Đấng Tạo Hóa quí trọng hơn hết, vì nó là một chứng cớ cho thấy chúng ta hài lòng về Ngài”. Nụ cười của trẻ em là âm nhạc của Thiên Chúa.

* Nếu cấm trẻ chơi, điều gì sẽ xảy ra? Trẻ em sẽ trốn tránh và lén lút đi chơi một mình. Nhưng nó làm điều đó với một cảm thức tội lỗi. Và như vậy là bạn đã đầu độc linh hồn nó. Trẻ em cần được để cho những năng lực dồi dào đang thôi thúc trong nó được giải tỏa nhờ cuộc chơi. Nó cần được tập luyện mình, biết đánh giá mình, và so sánh mình với các bạn. Một nhà giáo dục vĩ đại đã không lầm khi nói rằng: “Chính nhờ chơi mà trẻ em gia nhập làm phần tử của xã hội”.

Lời mời gọi của Don Bosco khôn ngoan biết bao: “Các con hãy chơi, hãy chạy nhảy, hãy giải trí thỏa thích, miễn là đừng phạm tội”.

HÃY LÀM CHO TRẺ EM VÂNG LỜI BẠN NGAY CẢ

TRƯỚC MÁY TRUYỀN HÌNH

Vào tháng 4 năm 1883, tại Saint Thomas de Villeneuve, ở Paris, đám đông dân chúng tụ tập lại để gặp Don Bosco. Thình lình hai em bé len lỏi vào giữa đám đông đang vây quanh ngài dày đặc như một bức tường, không thể xuyên qua được. Với mưu mẹo, chúng lách vào, và với một lô những trò nhào lộn nhỏ mà chỉ trẻ em mới làm được, chúng đến trước mặt ngài.

Qua ánh mắt, người ta đọc thấy niềm vui của chúng. Chúng nhìn Don Bosco và mỗi đứa đưa nắm lấy tay ngài. Don Bosco cũng nhìn chúng mỉm cười; ngài nói với chúng đôi lời âu yếm và tiếp tục lắng nghe người lớn đang lần lượt đến gặp ngài. Còn hai đứa trẻ vẫn luôn nắm chặt tay ngài, chúng không bỏ ra và sung sướng được đứng bên ngài. Cứ thế cho đến khi cha mẹ chúng đến kéo chúng đi, Don Bosco không hề tỏ ra khó chịu: ngài biết làm cho mình được yêu mến cách tự nhiên.

Để làm cho mình được yêu mến, Don Bosco có một ơn đặc biệt: ơn lân quang. Ngài tỏa ra lòng thương mến, ngài thu hút các trẻ em nhờ lòng tốt của ngài. Sau đó, ngài đòi hỏi một điều gì đó, trẻ em sẽ mau mắn nghe lời ngài ngay.

* Ngày nay, cha mẹ thường nói rằng con cái họ không còn vâng lời họ nữa, nhất là khi bảo chúng ngưng xem truyền hình. Đó là vấn đề đáng lo ngại. Nhưng cũng phải tự hỏi: họ có lo làm cho mình được yêu mến để có thể được vâng lời cách hết sức dễ dàng, khi đòi hỏi con cái họ một hy sinh nào đó, nhất là trước màn ảnh nhỏ không?

* Cho tới nay, các bác sĩ vẫn chưa xác nhận được việc lạm dụng truyền hình có gây tổn hại nào cho cơ thể hay không, nhưng bù lại họ đã ghi nhận được những rối loạn thần kinh, chẳng hạn như mắt chớp, giấc ngủ dằn vặt và lo âu, nóng nảy, v.v.

Các bác sĩ của nhà trường phàn nàn về tình trạng phạm lỗi thường xuyên của những học sinh dán mắt vào truyền hình. Khi cha mẹ đặt chúng trước màn ảnh truyền hình ngay từ nhỏ để chúng giết thời giờ và để khỏi phải trông nom chúng, chúng sẽ sớm mắc phải chứng đam mê đặc biệt: không thể nào rời khỏi máy truyền hình được nữa, chúng bị dán chặt vào đó hệt như cha mẹ chúng vẫn làm khi họ chán chường và thụ động.

* Lời khuyên số một là: không nên để các cháu nhỏ ở không trước màn ảnh nhỏ; và không bao giờ để các cháu nhỏ chưa đến tuổi đi học ở một mình trước màn ảnh ấy.

* Có những cha mẹ, triệt để cấm những đứa con nhỏ của họ xem truyền hình và coi đó là một nguyên tắc, một mệnh lệnh không thể sửa đổi, đang khi đó họ lại có đặc quyền ngồi nhiều giờ trước máy truyền hình. Làm như thế là không biết giáo dục và gây phương hại cho sự hòa thuận trong gia đình một cách không thể cứu vãn được.

Trong một nước lớn nọ có 20.000 thanh thiếu niên được hỏi họ nghĩ gì về thái độ của cha mẹ đối với màn ảnh nhỏ. Đại đa số phải đau khổ vì sự đam mê của người lớn đối với truyền hình. Đây là một câu trả lời: “Kể từ khi chúng tôi có máy truyền hình, chúng tôi không còn có một nếp sống gia đình nữa. Cha mẹ không còn một phút dành cho chúng tôi. Cái gì cũng phải làm vội vàng để khỏi mất một chút nào của chương trình. Phải ăn lẹ và chúng tôi không có quyền hỏi cha mẹ một câu hỏi nhỏ nào nữa”.

* Đương nhiên cha mẹ phải lượng định việc giải trí, và trong một vài trường hợp, phải khước từ. Những đứa con yêu thương cha mẹ, sẽ hiểu sự khước từ và cũng có thể tự mình khước từ không xem một chương trình mà nó được cho biết tại sao cha mẹ lại cấm. Tất cả đều lệ thuộc vào mức độ của tình thương mà cha mẹ có đối với con cái mình: chỉ có thế họ mới làm cho mình được vâng lời.

Don Bosco thường lặp lại: “Trước hết phải làm cho mình được thương mến, rồi sẽ rất dễ dàng làm cho mình được vâng lời”.

DẠY TRẺ EM BIẾT ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG LÚC KHÓ KHĂN

Trong một giấc mơ, Don Bosco thấy mình ở giữa các học sinh trong sân Nguyện xá Valdocco, ở Torinô. Thình lình một quái vật tiến đến: nó giống một con sư tử có cái đầu hung dữ và miệng há hốc. Đám trẻ sợ hãi chạy trốn: ẩn nấp ở đâu? Don Bosco khuyên chúng chạy tới tượng Đức Mẹ. Phút chốc, tượng Đức Mẹ tỏa chiếu ánh sáng và lên tiếng nói thật dịu dàng và đầy tình mẫu tử: “Các con đừng sợ. Hãy vững tin. Đây chỉ là một thử thách Con Chí Thánh của Mẹ muốn dành cho các con”.

Bỗng nghe có ai hô to bằng tiếng Latinh:

– Chúng ta hãy đứng dậy. Hãy hướng lòng lên Thiên Chúa!

Theo lời mời gọi đó, Don Bosco khuyên các học sinh cầu nguyện hết sức sốt sắng; tất cả đều quì gối trước tượng Đức Mẹ đang mỉm cười và đầy lòng thương mến. Sau đó, chính giọng nói ấy ra lệnh:

– Hãy đứng dậy!

Vừa khi đứng dậy, Don Bosco và các học sinh cảm thấy được một sức mạnh siêu nhiên nâng lên khỏi đất. Đang khi Don Bosco và lũ trẻ lơ lửng trên không, con sư tử nhảy chồm lên, theo sau là một đàn thú dữ đang cố gắng nhảy bổ vào đám trẻ để tấn công. Đúng lúc ấy, Đức Mẹ hát những lời của Thánh Phaolô: “Hãy mang lấy khiên thuẫn của đức tin”. Đó là một bài hát du dương làm cho ngây ngất. Mỗi đứa trẻ được trao cho một cái thuẫn lóng lánh tỏa chiếu ánh sáng rạng ngời của Đức Nữ Trinh. Trung tâm của cái thuẫn bằng thép, được đính nhiều viên kim cương, còn mép thì bằng vàng ròng. Khiên thuẫn biểu trưng cho đức tin. Nhờ được trang bị bằng cái khiên đó, đám trẻ bắt đầu tấn công con sư tử và các thú dữ. Chúng không sợ hãi nữa. Chúng can đảm chiến đấu. Lúc ấy, với giọng nói vui vẻ, đượm tình mẫu tử, Đức Mẹ bảo: “Đây là thắng lợi của kẻ chiến thắng thế gian: đức tin của các con”. Vừa nghe những lời đó, các thú dữ khiếp sợ chạy trốn mau lẹ. Bấy giờ đám trẻ vô cùng vui sướng, chúng được bao trùm trong ánh sáng rạng rỡ của Đức Nữ Trinh đang mỉm cười hài lòng: chúng đã chiến thắng!

Kết luận về giấc mơ ấy, Don Bosco khuyến cáo: “Vì thế, cha khuyên các con hãy làm cho đức tin của mình được hồi sinh”.

Kể từ ngày sinh ra cho tới khi chết, chúng ta thay đổi liên tục. Thông thường, đó là một bước nhảy tới kỳ diệu; và cũng thật thường tình, đó là một bước thụt lùi thảm hại. Vì thế, chúng ta liên tục gặp khó khăn và khủng hoảng. Đặc biệt các thanh thiếu niên gặp phải nhiều hơn những người khác. Làm thế nào để họ vượt qua được? Người ta ghi nhận rằng những khủng hoảng ấy bên ngoài có vẻ giống nhau; nhưng đối với người này, đó là sự suy sụp; còn đối với người khác, lại là cơ hội để khơi dậy những năng lực đang tiềm ẩn. Đây là vài lời khuyên:

* Những người vượt qua khủng hoảng cách tốt đẹp là những người biết nhìn thẳng vào nó và can đảm đương đầu: nghĩa là họ cố gắng giải quyết. Họ tìm hiểu cẩn thận và biết tự chuẩn bị.

* Phải dạy cho trẻ em biết không hổ thẹn khi bày tỏ những lo âu và sợ hãi của chúng. Che giấu những điều nghiêm trọng là một sự đầu hàng, một sự trốn tránh dẫn đến sụp đổ.

* Phải dạy cho trẻ em biết nghỉ ngơi khi mệt mỏi, sức chịu đựng suy yếu, và sau khi đã nghỉ ngơi, chúng biết cố gắng trở lại chiến đấu và vượt thắng các khó khăn.

* Việc xin Chúa trợ giúp trong những lúc khó khăn nhất bằng kinh nguyện là dấu chỉ sự trưởng thành. Quay về Chúa có nghĩa là trở nên vững mạnh và chắc chắn trong Chúa.

Thánh Phêrô đã viết cho các Kitô hữu tiên khởi: “Thù địch của anh em là ma quỉ, như sư tử gầm thét, đang rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Các Kitô hữu là những lữ khách và ngoại kiều trên thế gian này, họ phải có cái nhìn hướng về sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Họ phải được cắm neo cách thiêng liêng ở nơi chúa đang khi bão táp dữ dội. Chính đức tin sẽ ban cho họ sức mạnh để chống cự và đứng vững, ngay cả khi họ phải trải qua đêm tối mà không còn một tia sáng trần thế nào để định hướng.

“Nếu các con cầu nguyện, thì từ hai hạt mà các con đã gieo xuống, sẽ nảy sinh bốn bông lúa. Ai cầu nguyện, thì sẽ bước đi hiên ngang như ông hoàng”. (Don Bosco)

DẠY TRẺ EM TẬP NHỮNG THÓI QUEN TỐT

Năm 1861, Don Bosco giảng tĩnh tâm cho các chủng sinh ở Bergamo. Nhiều năm sau, cha Scaini, dòng Tên, đã kể: “Trong số các chủng sinh ấy, có cả tôi nữa. Tôi còn nhớ rằng trong một bài giảng Don Bosco đã nói, đại ý: “Đã có lần, cha xin Đức Mẹ một ơn là có được hàng ngàn trẻ em lên Thiên đàng với cha (có lẽ ngài đã nói con số hàng vạn, nhưng tôi không nhớ rõ); Đức Mẹ đã nhận lời và hứa với cha điều đó. Như vậy, các con đã thuộc về con số đó, cha rất sung sướng vì được ghi danh các con, nhưng với một điều kiện: các con phải có thói quen mỗi ngày đọc một kinh Kính mừng trong suốt cuộc đời của các con”.

Tôi không biết các bạn khác thế nào, nhưng từ ngày ấy tôi bắt đầu tập thói quen đọc kinh Kính mừng ấy. Nhiều năm trôi qua. Một ngày nọ, khi ở Torinô, tôi đến thăm Don Bosco và hỏi ngài: “Xin cha vui lòng cho con biết về nỗi thao thức con hằng ấp ủ trong lòng. Cha có nhớ khi cha đến chủng viện Bergamo để giảng tĩnh tâm cho chúng con không?” “Cha có nhớ cha đã nói với chúng con về một thói quen không?”, và tôi lặp lại những lời của ngài. “Có, cha nhớ”. “Thưa cha, con đã tập thói quen đó và con vẫn luôn duy trì, con luôn đọc kinh Kính mừng ấy. Nhưng cha nói là hàng ngàn học sinh; từ nay về sau, con sẽ ở ngoài số học sinh ấy, do đó con sợ mình không còn thuộc về con số may mắn đó nữa”. Don Bosco mỉm cười, và sau đó trả lời cho tôi một cách chắc rằng: “Con hãy tiếp tục thói quen tốt đó, con hãy tiếp tục đọc kinh Kính mừng ấy và chúng ta sẽ cùng nhau ở trên Thiên đàng”.

Công tước Wellington, người đã đánh bại Napoléon ở Waterloo, vào chính năm Don Bosco sinh ra, đã nói: “Quí vị hỏi tôi rằng thói quen có phải là một bản tính thứ hai không? Tôi xin nói thêm: thói quen là bản tính gấp mười lần”.

Thói quen là tay lái của chiếc xe xã hội, là yếu tố bảo tồn quí báu nhất. Để dạy cho trẻ em có những thói quen tốt, phải khuyên dạy chúng bốn điểm căn bản này:

* Trẻ em phải bắt đầu tập thói quen tốt bằng cách hết sức nhiệt tình, với sức bật ban đầu giống như người chạy trăm mét. Sức bật này sẽ làm cho em xuất phát đúng lúc và thúc giục em mãnh liệt đến độ em sẽ không bị cám dỗ bỏ cuộc sớm; đàng khác, sẽ làm cho em có thể thành công. Mỗi ngày thắng được sự tái phạm, thì có khả năng là sẽ không bao giờ em để điều ấy xảy ra nữa.

* Phải dạy cho trẻ em không được nhượng bộ trước bất cứ một sự miễm chước nào, ít là bao lâu thói quen mới chưa đâm rễ vững chắc trong cuộc đời em. Mỗi lần vi phạm là một lần để cho cuộn chỉ ta đang cuộn thật cẩn thận bị rơi xuống đất: cuộn chỉ mở ra bao nhiêu vòng, thì ta sẽ phải cuốn lại bấy nhiêu. Nếu một người nào đó muốn bắt đầu một sáng kiến can đảm, mà lại nghi ngờ về những năng lực của mình, họ hãy đi tìm lời khuyên nơi ông Goethe, một thi sĩ Đức vĩ đại. Họ sẽ nghe thấy ông trả lời: “À, bạn chỉ có việc thổi vào bàn tay của bạn”. Nếu mỗi ngày lại thay đổi một quyết định thì chẳng khác nào một người phải nhảy qua miệng hố, nhưng mỗi lần tới miệng hố lại dừng chân và trở lui để bắt đầu lại.

* Phải dạy cho trẻ em biết lợi dụng dịp đầu tiên để thực hành quyết định đã chọn. Như vậy, có thiện chí thôi không đủ: phải hành động ngay, cho tới khi máy nổ. Theo ngạn ngữ thì hỏa ngục được lát bằng những thiện chí.

* Phải dạy cho trẻ em biết gìn giữ sức mạnh ý chí của mình được toàn vẹn nhờ tự ý thực hành một vài hy sinh nhỏ hay sự từ bỏ hằng ngày. Như vậy, hãy dạy cho trẻ em biết sống anh hùng cách triệt để trong những việc nhỏ không cần thiết. Hãy khuyên bảo trẻ em mỗi ngày làm một việc nào đó chỉ vì nó không thích làm, để ngày mai, trong giờ thử thách hay khen thưởng, nó được mạnh mẽ và chuẩn bị để đương đầu. Sự hãm mình này có thể được coi như một sự bảo hiểm cho ngôi nhà của mình. Số tiền mà người ta phải trả có vẻ không đem lại một lợi ích trực tiếp nào và có lẽ sẽ không bao giờ thu lợi gì. Nhưng, nếu hỏa hoạn bộc phát thực sự, số tiền bảo hiểm sẽ cứu khỏi thảm họa. Điều tương tự như thế cũng xảy ra cho người biết hằng ngày kiên trì tập thói quen tập trung chú ý, ý chí cương quyết, từ khước những điều không cần thiết.

Nếu chúng ta biết được chúng ta chịu ảnh hưởng các thói quen đến mức độ nào, chúng ta sẽ cố gắng tập những thói quen đó tốt hơn.

Don Bosco đã có lý khi nói: “Con hãy tiếp tục thói quen tốt đó và chúng ta sẽ cùng nhau ở trên Thiên đàng”.

 

 

 

BỐN THIẾU NIÊN NGỖ NGHỊCH ĐƯỢC CHINH PHỤC

Một buổi sáng nọ, Don Bosco lững thững đi qua một khu đất ở ngoại ô Torinô. Thình lình bốn khuôn mặt hắc ám nhảy tới trước ngài. Chúng chặn đường ngài cách thô lỗ.

– Thưa ngài, giữa chúng tôi đang có một vấn đề. Chúng tôi muốn ngài phân xử cho chúng tôi.

Ghê thật! Don Bosco hết sức giữ mình để khỏi hỏi chúng xem chúng xung khắc với nhau về chuyện gì. Ngài nói với chúng bằng một thái độ bình tĩnh và hiền hòa:

– Này các bạn, để có thể hiểu rõ vấn đề của các bạn, chúng ta hãy cùng nhau đi uống cà phê ở công trường San Carôlô. Tôi sẽ bao.

Bốn cậu thiếu niên đều chấp nhận. Thế là Don Bosco và chúng tới thành phố. Dọc đường, chúng nói chuyện với Don Bosco. Bất ngờ, thánh nhân hỏi:

– Ồ, nhà thờ! Tại sao chúng ta lại không vào nhỉ? Một kinh Kính mừng sẽ không làm hại ai cả!

– Nhưng rồi cha lại bắt chúng tôi lần hết một chuỗi mất! Tới khi nào mới xong?

– Không đâu, chỉ một kinh Kính mừng thôi. Sau đó, tôi sẽ bao cà phê.

Bốn đứa ngỗ nghịch chịu khuất phục; một cách miễn cưỡng, chúng im lặng đi theo vị linh mục xa lạ. Chúng đọc kinh Kính mừng, rồi đi uống cà phê. Don Bosco khơi mào câu chuyện. Trong vài phút, ngài đã nhìn thấy đáy lòng của những linh hồn đáng thương đó. Don Bosco đề nghị:

– Thế nào, tất cả các bạn cùng đi ăn một chút tại nhà mẹ tôi được không? Người nấu khéo lắm.

Thật là trúng số. Đã được uống cà phê, lại còn thêm một bữa tiệc nhỏ, cứ y như là giấc mơ! Thế là chúng tới Valdocco. Don Bosco đã chinh phục được chúng. Lúc ấy, ngài mới quăng lưới và nói:

– Các bạn thân mến, nếu cái chết thình lình đến với các bạn, các bạn sẽ ra trình diện trước mặt Chúa trong tình trạng nào?

Bốn đứa đều bối rối, không nói được một lời nào. Cú đánh đã trúng ngay tim. Chính đây mới là điều Don Bosco nhắm tới. Năm phút sau, ngài giải tội cho chúng, trừ một đứa. Nhưng tất cả sau này vẫn trở lại thăm ngài.

* Trong hoạt động giáo dục của mình, Don Bosco đã chinh phục các linh hồn như thế: ngài đặt trọng tâm vào đời sống bí tích. Ngài đã khuyên nhủ các linh mục của ngài: “Nếu các con phải nói hai lời trong một bài giảng, thì phải nói một lời về bí tích Cáo giải. Mục tiêu thứ nhất trong sứ mệnh giáo dục của chúng ta là dẫn trẻ em vào ơn nghĩa Chúa và giữ gìn các em được ở mãi trong ơn nghĩa ấy. Nếu lương tâm các em không được ổn, mọi nỗ lực giáo dục khác của ta đều vô ích… Hỡi tội lỗi và chứng ưu sầu, hãy cút khỏi nhà ta”.

* Ngài còn nói: “Nếu một trẻ em tự ý đến cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể, dù chỉ một lát thôi, các con hãy tin chắc rằng em sẽ không có hạnh kiểm xấu”.

* Don Bosco được biết đến như một vị thánh hoạt động. Tuy vậy, mặc dù bị chìm ngập trong vô số các nhu cầu xâu xé thân xác và tinh thần, ngài vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh tột bậc, một sự nghỉ ngơi tuyệt đối nơi Thiên Chúa; do đó, đời sống nội tâm của ngài rất mãnh liệt và tỏa sáng. Bí quyết thành công trong việc giáo dục của ngài hoàn toàn nằm ở đây: cầu nguyện, xưng tội, rước lễ và yêu mến Đức Mẹ. Đó là một công thức rất đơn sơ, nhưng mang lại một hiệu quả kỳ diệu nơi tâm hồn các thanh thiếu niên.

SÁCH BÁO, TẠP CHÍ: ĐỌC HAY KHÔNG?

Một hôm, ông Carolô Tomatis gặp Don Bosco đang cầm trong tay một xấp giấy. Đó là bản thảo của cuốn sách mới “Lịch sử Hội Thánh”. Ông Tomatis tò mò hỏi Don Bosco:

– Thưa cha, cha làm thế nào khi phải bàn tới những điểm khó nói, các mặt tiêu cực của một nhân vật cũng là anh hùng dân tộc?

– Ở chỗ nào có thể nói tốt được, thì tôi nói – Don Bosco trả lời – Còn chỗ nào phải nói xấu, thì tôi im lặng.

– Như vậy, chúng ta sẽ đặt sự thật ở đâu? – Ông Tomatis tiếp tục hỏi.

Don Bosco đã đáp lại một cách tuyệt vời:

– Tôi không viết cho những người khôn ngoan và thông thái. Tôi viết cho dân chúng và cho thanh thiếu niên.

Điều ấy cắt nghĩa tại sao Don Bosco đã hiến mình thành người truyền bá không mỏi mệt những cuốn sách bình dân. Ngài nói: “Một cuốn sách tốt đi vào tận những ngôi nhà mà linh mục không thể tới được. Nó tự giới thiệu mà không xấu hổ; bị xao lãng, nó không lo lắng; được đọc, nó điềm tĩnh dạy sự thật. Khi tới giờ cô đơn hay buồn phiền hoặc cần giải trí, cuốn sách sẽ mở ra những trang giấy của mình và những cuộc hoán cải kỳ diệu của thánh Augustinô và Inhaxiô lại được tái diễn”.

Ngày nay trong tay các thanh thiếu niên, ngoài sách vở, còn có đủ mọi loại tạp chí. Chúng ta có thể liệt kê hàng chục, hàng trăm loại; và mỗi loại được phát hành hàng tuần, hàng tháng hay hàng quí, từ vài ngàn đến vài chục ngàn.

Vì thế, cần phải có cặp mắt luôn mở rộng để theo dõi những tạp chí mà con em chúng ta đang đọc.

Ngoài việc giáo dục tổng quát, chúng ta còn phải dạy dỗ và hướng dẫn chúng chọn sách báo và tạp chí để đọc.

* Tuyệt đối không bao giờ đặt vào tay trẻ em những “tạp chí đen”, đầy dẫy những tội ác và những điều kinh tởm hoặc những câu chuyện tình nhuốm mùi bạo lực và dâm ô thô bỉ. Hậu quả của các tạp chí đen nơi tâm hồn trẻ em thường rất tai hại. Muốn cho nhân cách đang phôi thai được phát triển hài hòa, các em cần có một cái nhìn thanh thản và tốt lành về thế giới, thế nhưng cái nhìn của chúng lại bị nhận chìm trong vũng lầy tội ác và sự trơ trẽn; sự tôn trọng thân xác là đền thờ của Chúa Thánh Thần lại bị vùi dập dưới những cú đấm của sự tục hóa.

* Trẻ em thích đọc các sách viết về những cuộc phiêu lưu phi thường, về các con vật nhỏ bé, về những người khởi xướng cuộc phiêu lưu, chẳng hạn như những người lái xe đua rất nhanh, những phi hành gia bay vào không gian giữa các hành tinh, và những con người nhân hậu. Thông thường, việc đọc các loại sách báo ấy là một cuộc tiêu khiển vô hại.

* Trong số các tạp chí, trẻ em thích những tạp chí có nhiều chất khôi hài hơn. Sự khôi hài là một cách cắt nghĩa thuộc thời đại chúng ta. Chẳng hạn như những tạp chí kể về những điệp viên quốc tế, máy bay lên thẳng, những nhà bác học lạ kỳ, bà phù thủy bay với con người chổi. Tất cả những câu chuyện tưởng tượng và khôi hài đều có thể dẫn trẻ em vào cuộc sống.

* Thật sai lầm nếu người ta vơ đũa cả nắm đổ lỗi cho tất cả các tạp chí và nói rằng chúng làm hại trẻ em. Trẻ em không chấp nhận sự kết án triệt để và độc đoán ấy. Hỡi các bậc cha mẹ và nhà giáo, chính quí vị phải đọc trước. Nhờ đó quí vị sẽ biết được tạp chí nào có thể cống hiến những điều có giá trị quan trọng cho con em mình. Chính quí vị phải hướng dẫn con em mình trong việc đọc sách báo. Quí vị sẽ làm được một việc tốt đẹp nhất, nếu trong lãnh vực này, quí vị trở nên những em nhỏ với những em nhỏ, thiếu niên với những thiếu niên để giáo dục chúng ngăn cấm những sách báo, tạp chí có hại. Và với sở thích lành mạnh của mình, quí vị hãy hướng dẫn con em trong việc chọn lựa sách báo, tạp chí. Cha mẹ phải biết cùng đọc với con cái, cũng như cùng chơi, cùng xem bóng đá, cùng đi tham quan.

KHI TRẺ EM ĐI LÀM

Những ngày đầu tháng 6 năm 1847, vào buổi hoàng hôn, bầu trời thành phố Torinô đỏ rực. Một hôm, sau khi giúp việc mục vụ tại nhà thờ Thánh Phanxicô Assisi, Don Bosco trở về Valdocco, nơi cư trú nghèo nàn của ngài. Khi tới đường San Massimo, ngài trông thấy một cậu thiếu niên nghèo đang gục đầu vào một thân cây bên lề đường, khóc sụt sùi, Don Bosco tiến lại gần, ân cần hỏi cậu:

– Có gì thế, con? Tại sao con khóc?

Cậu thiếu niên càng khóc nức nở hơn; sau đó cậu nghẹn ngào trả lời:

– Thưa cha, con bị mọi người bỏ rơi. Ba con chết trước khi con có thể thấy được người. Mẹ con thương con lắm, nhưng mới qua đời hôm qua và hôm nay người ta đã chôn cất người.

Nói tới đây, cậu càng khóc nức nở hơn nữa, không thể nín được. Don Bosco để cho cậu khóc hầu vơi đi phần nào sự đau khổ. Sau đó ngài âu yếm đặt tay trên vai cậu và hỏi:

– Tối qua con đã ngủ ở đâu?

– Ở nhà. Nhưng hôm nay, ông chủ đã lấy đi tất cả mọi đồ đạc trong nhà rồi, vì mẹ con chưa trả tiền thuê nhà. Quan tài vừa ra khỏi nhà thì người ta khóa cửa lại. Con không còn ai cả…

– Vậy, con tính làm gì và đi đâu bây giờ?

– Con chẳng biết nữa…

– Con có muốn đến với cha không? Cha sẽ làm mọi sự để giúp con.

– Ước gì con được đến với cha. Nhưng cha có nhận con không?

– Chắc chắn rồi. Cha muốn hai cha con mình luôn là bạn của nhau.

Ngài nắm chặt bàn tay cậu bé an ủi và trấn an. Ngài dắt cậu về nhà, nơi mẹ Margherita, mẹ ngài đang đợi.

Vừa vào nhà, Don Bosco nói với mẹ:

– Thưa mẹ, con có một đứa trẻ thứ hai. Thiên Chúa đã gởi em đến cho chúng ta. Xin mẹ chăm sóc em và dọn cho em một cái giường.

Hôm sau, Don Bosco lo tìm cho cậu một chỗ làm việc thích hợp. Cậu thông minh, linh động và có học vấn tạm đủ. Don Bosco tìm được cho cậu một việc làm. Ngài nói cho cậu biết môi trường làm việc:

– Thế nào, con có thích kinh doanh không?

– Thưa cha, còn gì bằng.

Cậu cảm thấy thoải mái. Cậu thành công và chiếm được một địa vị vinh dự.

* Tìm được một việc làm chính đáng cho thanh thiếu niên luôn luôn là một vấn đề. Một sự chọn lựa sai lầm có thể làm hư hỏng nó suốt đời. Xưa kia, người ta có thể nói rằng con nối nghiệp cha. Ngày nay, nhiều trẻ em không biết nghề của cha mình. Nếu người ta hỏi một em: “Ba em làm gì?”. “Đại biểu”. “Đúng, nhưng làm gì mới được chứ?” “A, suốt ngày ổng chạy xe lòng vòng ngoài đường và ban chiều, khi về nhà, ổng nằm trên ghế bành, đọc báo và đi ngủ”. Học trò, sinh viên yêu cầu nhà trường dạy cho chúng nhiều hơn về nghề nghiệp phải chọn.

* Khám phá trẻ em có khuynh hướng về nghề nào và nên được phân bổ vào công việc gì, không phải là chuyện dễ. Dù đã 18 hay 19 tuổi, các em thường vẫn lưỡng lự không biết nên chọn nghề gì. Chúng không biết phải theo đường nào. Gia đình ép về một phía và các em không có can đảm để phản đối. Hầu hết những em được phỏng vấn sau ba năm học nghề, đều nói chúng hối tiếc vì đã chọn nghề đó, chúng thích nghề khác hơn.

* Tại sao cha mẹ không tìm cách nhận biết năng khiếu của con cái bằng những bảng trắc nghiệm mà nhiều xí nghiệp và công ty vẫn thường dùng. Đáng lẽ cha mẹ phải dùng những bảng trắc nghiệm ấy để thăm dò những năng khiếu của con cái, thế nhưng họ lại thường phó mặc cho chúng tự chọn lấy nghề. Chúng chỉ biết dựa vào một thông báo kinh tế hay quảng cáo, sự tăng tiền công hay lương bổng, hoặc một lợi ích xã hội nào đó mà chọn lấy nghề cho mình, mặc dù trái với ý muốn, và rồi nghề nghiệp đó sẽ giày vò chúng suốt đời.

* Tuy nhiên, điều khổ tâm hơn, điều mà cha mẹ phải quan tâm nhiều hơn, đó là sự kiện con cái họ, vừa mới được đưa vào thế giới lao động, đã phải tiếp xúc ngay với những môi trường bê tha hay lỏng lẻo về phương diện luân lý. Các thanh thiếu niên phải chịu đựng những thứ đó sẽ mắc một chứng bệnh tâm lý khó chữa. Vết thương sẽ tồn tại lâu dài. Khi đi làm việc, thanh thiếu niên phải hằng ngày hứng chịu những câu chuyện vô luân. Một đứa trẻ đã phải nói (và chứng từ của nó được hàng ngàn đứa trẻ khác xác nhận): “Tôi chán ngán những câu chuyện ở trong xưởng của tôi”. Một đứa khác: “Khi một đứa trẻ phải học nghề giữa đám đàn ông và đàn bà làm việc chung với nhau, thì thật khủng khiếp. Các bà tỏ ra ăn nói thô lỗ hơn đàn ông”. Cha mẹ phải biết tất cả những điều ấy. Họ phải lo tìm cho con cái họ một chỗ làm việc thích hợp, trong một bầu khí lành mạnh về luân lý. Đó là điều mà Don Bosco đã làm. Trước khi trao phó đứa trẻ cho ông chủ, ngài đích thân đi tìm hiểu. Bằng không, trẻ em sẽ bị rơi vào những hoàn cảnh khủng khiếp. Các vết sẹo sẽ không thể tan biến được.

 

 

 

CHÚ Ý TỚI NHỮNG KHỦNG HOẢNG Ở TRƯỜNG HỌC

Chiều 15 tháng 4 năm 1885, tại Marseille, Don Bosco dùng bữa với một luật sư danh tiếng của thành phố. Đó là luật sư Michel, vừa mới trở về sau một cuộc hành trình dài qua nhiều nước trên thế giới. Trong cuộc nói chuyện hai người đã bàn về vấn đề tinh thần ngoại giáo nơi các trường học của một số nước trước đây là Kitô giáo thực thụ. Don Bosco ngồi nghe; thình lình ngài nêu lên một câu hỏi:

– Thưa luật sư, theo ngài thì đâu là nguyên nhân của sự sai lầm như thế?

Ông luật sư đưa ra hết lời cắt nghĩa này tới lời cắt nghĩa khác; nhưng không một lời cắt nghĩa nào có sức thuyết phục hoàn toàn. Một lúc sau, Don Bosco mới nói thêm vào:

– Không đâu, thưa luật sư. Tình trạng tệ hại ấy chỉ có một nguyên nhân thôi: đó là do người ta đưa việc giáo dục ngoại giáo vào các trường học. Nếu được dạy toàn các tác phẩm cổ điển ngoại giáo, nếu theo phương pháp ngoại giáo, thì trường học sẽ không bao giờ tạo nên được những Kitô hữu đích thực. Tôi đã chiến đấu suốt đời để chống lại việc giáo dục mất phẩm chất ấy, vì nó làm hư hỏng tinh thần và tâm hồn của trẻ em; lý tưởng của tôi luôn luôn là cải tổ trường học dựa trên nền tảng kitô giáo một cách rõ ràng. Giờ đây tôi đã già, sức khỏe tôi đang đi xuống, tôi sẽ chết với nỗi đau đớn này là mình không được người ta hiểu cho đủ.

Những ai nghe ngài, sẽ nhận thấy trong giọng nói của Don Bosco có một âm sắc “dịu dàng và tự hào”. Người chép sử về ngài nhấn mạnh: Don Bosco muốn rằng trường học phải như một đền thánh nhỏ và một gia đình.

* Trường học có thể quyết định số phận của trẻ em, trong điều tốt cũng như trong điều xấu. Nếu người ta không nhớ rằng trường học phải như một đền thánh nhỏ và một gia đình, thời gian đi học sẽ trở nên một chuỗi những khủng hoảng. Trẻ em muốn học vì tình yêu. Chúng mang lại cho thầy cô những thành quả học tập của chúng như là quà tặng. Những nghiên cứu của các nhà tâm lý cho thấy rằng giữa những thành quả học tập và mối tương giao tình cảm rõ ràng có một sự liên hệ mật thiết. Có phải điều ấy chỉ xảy ra cho các học sinh? Tại Mỹ, người ta đã thí nghiệm tại một trường học để tìm xem máy chữ nào mang lại hiệu suất cao nhất. Trong suốt hai năm, những người đánh máy chữ giỏi nhất bắt tay vào việc với những máy chữ khá nhất. Những khác biệt thật đáng chú ý. Nhưng một ngày kia người ta đổi người trưởng nhóm; hậu quả là tất cả mọi kết quả đều đảo lộn. Hiệu suất của nhóm liền tăng ngay và mức độ tổng quát chấm dứt để duy trì cái mức mà trước đây chưa một người đánh máy giỏi nào đã đạt được với cái máy khá nhất. Người ta quyết định sẽ định kỳ đổi trưởng nhóm. Với người trưởng văn phòng khó tính, hiệu suất sẽ thấp. Các lời quở trách và cảnh cáo vẫn không hiệu quả. Với một người điềm tĩnh và thân tình, biết luôn mau mắn khích lệ, trình độ cao và bầu khí an lành, người đánh máy sẽ làm việc vui vẻ và chỉ cảm thấy mệt vào lúc cuối ngày.

* Trẻ em gặp phải số phận hẩm hiu, sẽ khó hòa mình vào nếp sống nhà trường không có chút gì là gia đình và kitô giáo. Câu nói danh tiếng: “Không học cho nhà trường, mà học cho cuộc sống” có thể gây ấn tượng nơi các sinh viên đại học, nhưng vẫn khó hiểu đối với các học sinh trung học. Điều người lớn gọi là “cuộc sống” không có ý nghĩa gì đối với trẻ em. Trẻ em học vì nhà trường, vì thầy cô, vì làm vừa lòng cha mẹ, và vì tự ái, nhưng chắc chắn không vì một mục tiêu xa và đang phai dần như cuộc sống vậy.

* Phần lớn những khó khăn và khủng hoảng học đường phát xuất từ những đòi hỏi quá đáng và các tham vọng của cha mẹ: con tôi phải đứng nhất. Tại một bệnh viện nhi đồng, người ta đã đưa đến một em gái mười tuổi. Bà mẹ muốn nó phải được chữa bệnh, vì ở nhà trường, từ hạng nhất nó đã tụt xuống hạng ba. Vì bị khích động, bà mẹ đã nói với thầy giáo trước mặt đứa bé: “Cuối năm nay, nếu con tôi thi trượt, có lẽ tôi sẽ chết vì đau khổ. Tôi chấp nhận con tôi có thể xấu xí, nhưng không bao giờ chấp nhận nó ngu dốt”. Người ta có thể tưởng tượng điều gì đã xảy ra nơi một đứa trẻ khi nghe được những câu nói thuộc loại ấy. Những dấu hiệu báo động của em bé đó là: nhức đầu trong các giờ lớp, đau lưng, đau thận. Các bác sĩ nói về bệnh nhức đầu và nôn mữa học đường.

Thế nhưng, cội rễ của tất cả các thứ đó là do thiếu tình thương. Don Bosco hay nhắc đi nhắc lại: “Hãy làm cho mình được yêu mến”. “Trường học phải như một đền thánh nhỏ và một gia đình Kitô giáo”.

CHÍN BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG Ở TRƯỜNG HỌC

Vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1864, trong chín bài “huấn từ tối”, Don Bosco đã dạy cho học sinh chín bí quyết thành công ở nhà trường. Ngài ghi khắc vào tâm hồn chúng trước khi đi ngủ bằng những nét bút vô hình. Ngài luôn bắt đầu bằng một câu chuyện hay; đến kết thúc mới nêu các bí quyết. Ngài chúc chúng “ngủ ngon” và chúng đáp lại “cám ơn cha”. Chúng hớn hở nhìn ngài không ngớt đang khi ngài âu yếm nhìn chúng.

Phương thế thứ nhất: để học tốt là lòng kính sợ Chúa. Sự khôn ngoan của loài người đến từ sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế, tại sao các con lại muốn vượt qua những khó khăn học đường mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa? Và rồi, làm sao các con có thể vui thú trong việc học được khi mà tâm hồn các con bị dằn vặt bởi những đam mê?

Phương thế thứ hai: là không bao giờ để mất một chút thời giờ nào cả. Các con hãy kìm hãm trí tưởng tượng.

Phương thế thứ ba: tập cho có thói quen không nhảy từ trang này sang trang khác, từ môn này sang môn khác.

Phương thế thứ tư: ăn uống đúng giờ. Kẻ đi học với bụng quá no lập tức sẽ cảm thấy khó chịu, ươn lười, nặng đầu.

Phương thế thứ năm: năng lui tới các bạn chăm chỉ và chuyên cần.

Phương thế thứ sáu: chơi, nhưng có tổ chức và điều độ. Nhờ giải trí các con sẽ lấy được những năng lực mới để học tốt hơn.

Phương thế thứ bảy: cương quyết vượt qua những khó khăn gặp phải trong khi học. Đừng nản lòng, đừng bỏ học nửa chừng.

Phương thế thứ tám: chỉ lo đến những gì liên quan tới việc học.

Bây giờ, cha nói cho các con phương thế thứ chín: luôn chạy đến với Đức Mẹ bằng kinh nguyện. Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn ngoan và là Mẹ của chúng ta. Trước khi bắt đầu học, đừng bao giờ quên đọc một kinh Kính mừng kính Đức Mẹ.

* Don Bosco dựa vào một quan niệm hoàn bị về nhà trường: trẻ em phải được sống ở trường như nơi nối dài cuộc sống gia đình. Giống như trong gia đình, tình thương cũng phải ngự trị nơi học đường. Bằng không, thật tai hại.

* Nhiều cha mẹ hành động một cách hết sức vô lý khi dựa vào thành quả tốt đẹp mà con cái họ thỉnh thoảng đạt được để nói với nó: “Lần trước con được điểm rất tốt. Tại sao bây giờ lại không được? Con có lười biếng không? Cha mẹ buộc phải cảnh cáo con đấy”. Cậu học sinh, trước kia đứng nhất lớp, nay bị cha mẹ ép phải học thêm bốn tiếng vào buổi chiều thay vì hai tiếng như trước đây: họ sợ em mất vị trí đầu lớp. Em tiếp tục làm bài rất khá trong một thời gian, nhưng sau đó, em phản kháng. Em bắt đầu nói dối cha mẹ. Cuối năm em thi rớt. Cha mẹ buồn rầu. Đứa trẻ lại bị kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Mỗi lần bị điểm xấu, nó liền bị nhốt trong phòng khóa cửa. Một phương pháp thật phi lý. Chính tình yêu điều khiển tất cả, chớ không phải hiệu quả.

* Cha mẹ phải nhớ rằng đứa trẻ tới trường không chỉ có nhiệm vụ học; nó còn phải gia nhập vào xã hội (và đây là điều khó nhất). Khi 6 tuổi, phần lớn các trẻ em hầu như chưa hiểu gì về đứa bạn ngồi cùng bàn; ở trong cộng đoàn học đường, chúng sống như những cá thể riêng biệt. Khi 8 hoặc 9 tuổi, chúng bắt đầu họp thành nhóm liên kết với nhau để chống lại thầy cô. Thời kỳ lập nhóm bắt đầu: bên trong các nhóm ấy, một qui luật được thiết lập cách âm thầm. Qui luật đó giống với qui luật trong chuồng gà: nó ấn định mỗi nhóm viên phải biết cho và nhận như những con gà mổ lông nhau. Đây là lúc mà đứa trẻ, nếu muốn thành đạt trong việc học, phải cần đến chín phương thế Don Bosco đã đề nghị: bằng không, sẽ thất bại.

* Trong thời kỳ niên thiếu, một vài cá tính tiêu biểu bắt đầu được phát hiện:

– có em gương mẫu, không bao giờ mất trật tự, được thầy cô khen, nhưng không được các bạn ưa;

– có em khôi hài, hay làm cho mọi người cười, thường chọc thầy cô và gieo rắc sự mất trật tự; nói chung, đó là em đi tìm các lời khen, sự chú ý, làm cho mình được yêu mến; có lẽ ở nhà, em ít được thương yêu;

– có em lanh lẹ, bị mọi người ghen ghét; đứng đầu trong thể thao, hay đánh những đứa xấu, nhưng cũng dễ trở nên cứng cỏi;

– có em hay quấy rầy, không bao giờ hết “quậy” vì em muốn biết tất cả mọi sự;

– có em vô hại, là bạn của mọi người; em cần được khích lệ vì em dễ dàng sinh ra lười biếng;

– và có em hay lường gạt, không ai chơi đùa với em, em bị bỏ rơi và là nạn nhân của tất cả.

Tất cả những em ấy đều cần đến tình thương, nếu người ta muốn chúng thành công ở nhà trường.

HÃY DẠY TRẺ EM SỐNG TRONG SẠCH

Một hôm Don Bosco mơ một giấc mơ lạ lùng: ngài thấy các học sinh ngài đang ở trên một cánh đồng mênh mông. Thình lình một trận lụt kinh khủng tràn ngập cả cánh đồng. Tất cả các học sinh đều chạy trốn vào một nhà máy xay, ngôi nhà duy nhất giữa cánh đồng. Nhưng nước vẫn tiếp tục dâng lên tới lầu cuối cùng. Đám trẻ kinh hãi, co rúm người lại. Bỗng một cái bè lớn xuất hiện với nhiều giỏ bánh; các học sinh phải khó khăn lắm mới leo được lên bè; một phần tư các em bị chìm không lên kịp. Don Bosco phó thác tất cả cho Đức Mẹ “Sao Biển”. Đang khi chèo bè đi, họ lại gặp những nguy hiểm khác: số nạn nhân trên bè bớt đi; một số nhảy xuống thám hiểm một hòn đảo nhỏ, một số khác rớt xuống nước, một số khác nữa mạo hiểm trên những chiếc bè giả và bị chết chìm. Sau một đêm kinh hoàng, họ đi vào một eo biển. Cách đó không xa, có một lò lửa khổng lồ phun lên những ngọn lửa rất cao: trong các ngọn lửa ấy có những phần thân thể con người quay cuồng. Phía trên lò lửa, có một yết thị khắc trên tấm gang: “Giới răn thứ sáu và thứ bảy dẫn tới chỗ này”. Nhiều học sinh bị chìm vẫn còn sống, chúng trốn ở một chỗ cao. Don Bosco đi xuống, và khi thấy chúng ở trong tình trạng ấy, ngài liền chỉ cho chúng một dòng suối nước có chất sắt. Phần lớn nghe theo lời ngài tới giải khát tại dòng suối ấy; nước suối chữa chúng lành khỏi mọi đau đớn, bệnh tật. Đó là nước hằng sống chảy từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu. Chúng cùng lên bè với Don Bosco và hát lớn tiếng bài ca ngợi Đức Mẹ. Đột nhiên cơn bão dịu đi; một cầu vồng ngũ sắc xuất hiện. Các học sinh cập bến tại một bãi biển tuyệt vời giữa những vườn nho của Nhà Vua, và dẫn tới một lâu đài của Đại Vương. Một người hầu mặc bộ đồ xinh đẹp đón tiếp chúng và dẫn chúng đi thăm tất cả những sự kỳ diệu huyền ảo của lâu đài. Trong nhà thờ hiện lên một tượng Đức Mẹ rực rỡ. Thình lình tượng đó chuyển động: mắt, tay, môi đều cử động. Trải rộng áo choàng để che chở và kêu lớn tiếng: “Nếu các con là những đứa con tôn sùng Mẹ, Mẹ sẽ là người mẹ thương xót các con”.

* Trong vấn đề trong sạch, Don Bosco hướng thẳng tới bình diện siêu nhiên. Trong một giấc mơ quan trọng khác, Don Bosco đã hỏi ma quỉ xem điều gì ngăn cản và làm hại nó nhiều nhất. Ma quỉ đã trả lời rằng có hai điều: thứ nhất là lòng tôn sùng Đức Mẹ; thứ hai là năng lãnh nhận các bí tích giải tội và rước lễ. Rồi ma quỉ tiết lộ cho ngài: “Điều mà tôi sợ hơn hết là tuân giữ những điều dốc lòng khi xưng tội”.

* Trong một nghiên cứu khoa học, tạp chí “Edu-cateurs” của Paris đăng một bài dài về việc giáo dục đức trong sạch. Bài đó nêu bật bình diện thần linh của tình yêu theo ý Thiên Chúa khi tạo dựng, và nhấn mạnh trên ba yếu tố cần thiết cho mỗi việc giáo dục luân lý đích thực:

  1. tiệm tiến hiểu biết chân lý:
  2. giáo dục trẻ em về sự tự chủ;
  3. ơn thánh Chúa.

* Don Bosco cũng nhấn mạnh nhiều về việc tránh xa các dịp nguy hiểm. Trong thế giới hiện đại này, một thế giới đã được triết gia Bergson định nghĩa là “khích dâm”, người ta thấy có những người bất quân bình, những kẻ bị ám ảnh, những người nhụt chí, và một điều ít ai nghĩ tới là càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên là nạn nhân của bạn bè xấu hoặc của người lớn bạo dâm.

Người mẹ phải biết nói thật tự nhiên với đứa con nhỏ của mình: “Nếu con gặp một người bạn xấu nết, nếu có người muốn chơi với con một cách thô lỗ, nếu hắn tìm cách làm hại con, con hãy lánh xa nó ngay và đến nói với mẹ”.

Kinh nghiệm cho thấy ít là 60 phần trăm trẻ em đã bị thứ nguy hiểm và cám dỗ ấy đả thương, thế mà cha mẹ chúng không bao giờ nghĩ tới, cho dù chỉ là nghĩ tới xa xa.

Một đứa trẻ được dặn dò sẽ can đảm hơn và sẽ dễ dàng báo cho cha mẹ biết trường hợp nguy hiểm nó gặp phải.

“Để giữ gìn sức khỏe và sống lâu, cần phải:

  1. Có một lương tâm an lành, nghĩa là ngủ yên ban tối, không lo sợ bị trầm luân đời đời;
  2. Ăn uống thanh đạm;
  3. Sống hoạt động;
  4. Có bạn tốt và tránh những bạn xấu”. (Don Bosco)

 

Vài nét Tiểu sử của

THÁNH GIOAN BOSCO

Gioan Bosco sinh ngày 16-8-1815, tại xóm Becchi, làng Castelnuovo d’Asti (nay là Castelnuovo Don Bosco), tỉnh Torinô; thuộc gia đình nghèo và mồ côi cha khi mới lên hai.

Mẹ Gioan là Bà Margherita. Bà đã sớm dạy con biết lao động ngoài đồng áng và nhất là biết nhìn thấy Thiên Chúa qua những hiện tượng thiên nhiên.

Khi lên 9, Gioan đã có một giấc mơ đầy tính tiên tri: nhờ sự hướng dẫn và trợ giúp của Mẹ Maria, ngài sẽ giáo dục thanh thiếu niên hư hỏng thành người tốt, có ích cho xã hội và Giáo hội.

Mẹ Margherita đã phải rất khổ cực và vất vả để Gioan có thể đi học và theo đuổi ơn gọi linh mục

Gioan chịu chức linh mục ngày 5-6-1841. Cha linh hướng của ngài là cha Giuse Cafasso đã căn dặn: “Cha hãy rảo khắp thành phố và để ý nhìn chung quanh”. Nhờ đó vị linh mục trẻ đã nhận ra sự cùng khổ của người nghèo, nhất là của thanh thiếu niên.

Hình ảnh về nhà tù đã gây cho Gioan một ấn tượng sâu xa và khiến ngài phải suy nghĩ. Bởi thế, sau khi đi thăm nhà tù, ngài đã quyết định: “Tôi cần làm một việc gì đó để thanh thiếu niên khỏi phải vào tù”.

Thời bấy giờ, một số linh mục thường chờ đợi thanh thiếu niên tới nhà thờ hay phòng thánh để dạy giáo lý. Cần phải có những hình thức tông đồ mới: việc tông đồ lưu động, nơi các nhà hàng, nơi cửa tiệm, nơi xưởng thợ, nơi công viên… Nhiều linh mục đã thử nghiệm.

Vào ngày 8-12-1841, đứa trẻ đầu tiên đến với Don Bosco là cậu Bartôlômêô Garelli d’Asti. Ba ngày sau, 9 em khác cùng đến với cậu. Ba tháng sau, 25 em. Rồi vào mùa hè 1842, 80 em. Thế là Nguyện xá đã bắt đầu.

Nhưng một số em không biết tìm đâu ra chỗ ngủ, ngoại trừ những nơi công cộng. Don Bosco đã nhận ra công việc cấp bách và quan trọng là lo chỗ ngủ cho những em đó.

Vị ân nhân đầu tiên của Don Bosco không phải là bà Bá tước, nhưng chính là bà mẹ của ngài, một người nhà quê 59 tuổi, nghèo và mù chữ, nhưng đạo đức, đã lên Tôrinô với ngài để lo việc bếp núc và giặt giũ.

Giữa những em sống với Don Bosco, có một số đã bày tỏ nguyện vọng “được trở nên như ngài”. Tu hội Salêdiêng được thành hình, với tên gọi là Tu hội Thánh Phanxicô Salê.

Mùa thu năm 1853, xưởng thợ đầu tiên được thành lập. Chính Don Bosco đứng ra dạy nghề cho các em.

Ngày 26-1-1854, Tu hội Salêdiêng chính thức được thành lập.

Ngày 30-11-1860, “đứa trẻ đầu tiên của Don Bosco”, Micae Rua trở thành linh mục. Vào cuối đời, Don Bosco có thể nói rằng: gần ba ngàn linh mục đã xuất thân từ những con cái của mình.

Tháng 3-1864, Don Bosco đặt viên đá đầu tiên cho Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ tại Valdocco. Tám năm sau, ngài khởi sự một “Đền Thờ” khác kính Đức Mẹ: Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ.

Tháng 11-1875, những vị truyền giáo Salêdiêng tiên khởi lên đường đi Nam Mỹ. Cùng năm ấy, các “Cộng Tác Viên”, Dòng Ba Salêdiêng, ra đời.

Trước khi qua đời, Don Bosco đã nói với các Cộng tác viên: “Không có lòng bác ái của các con, cha không làm được việc gì cả; nhờ lòng bác ái của các con, chúng tôi đã lau khô biết bao nước mắt và đã cứu được biết bao linh hồn”.

Nhưng công trình vĩ đại mà Don Bosco để lại cho Giáo Hội là “HỆ THỐNG GIÁO DỤC DỰ PHÒNG”. Bí quyết của Hệ thống này là “Sống với thanh thiếu niên”, nhờ đó nhà trường được biến thành “gia đình”. Toàn thể Hệ thống này có thể được tóm lại trong ba chữ: lý-trí, tôn-giáo và lòng-thương-mến. Khi người ta không dọa nạt, nhưng trò chuyện; khi Thiên Chúa là “Chủ Nhà”; khi người ta không sợ hãi, nhưng muốn điều tốt, gia đình sẽ nảy sinh.

Don Bosco qua đời sáng sớm ngày 31-1-1888. Với các tu sĩ Salêdiêng đang đứng chung quanh, ngài đã nói những lời sau đây: “Các con hãy muốn điều tốt cho nhau như là anh em. Hãy làm điều tốt cho mọi người, nhưng không làm điều xấu cho ai cả… Hãy nói với các thanh thiếu niên điều này: Cha chờ đợi tất cả trên Thiên Đàng”.

MỤC LỤC

Lời giới thiệu

Thay lời tựa

Lời kinh của người tông đồ giới trẻ

  1. GIÁO DỤC LÀ CÔNG CUỘC CỦA TÌNH YÊU
  2. Chúng ta có thực sự yêu thương trẻ em không
  3. Giáo dục thanh thiếu niên: dễ hay khó
  4. Hãy dạy trẻ em biết luật tiếng vang
  5. Luôn theo sát và nâng đỡ trẻ em
  6. Hiểu biết trẻ
  7. Hãy tỏ cho trẻ em biết bạn yêu thương chúng
  8. Cách gây tình bạn với trẻ em
  9. Giúp trẻ em trong lứa tuổi khủng hoảng
  10. Cách nói chuyện với trẻ em
  11. Cách phạt và tha thứ
  12. Hình phạt phải hợp lý
  13. Lịch thiệp chiếm được cõi lòng
  14. Chào đích danh trẻ em
  15. Trẻ em đang nhìn ta
  16. Hãy nói nhỏ vào tai các em
  1. TẬN DỤNG NHỮNG CÁI THÔNG THƯỜNG
  2. Hãy dạy trẻ em sống vui
  3. Hãy dạy trẻ biết lắng nghe
  4. Hãy dạy trẻ luôn thành thật với chính mình
  5. Hãy dạy trẻ biết khen
  6. Hãy dạy trẻ cầu nguyện
  7. Dạy trẻ em lần hạt
  8. Dạy trẻ em cầu nguyện cho người quá cố
  9. Hãy dạy trẻ em yêu mến Đức Thánh Cha
  10. Hãy truyền thông cho trẻ niềm hứng khởi
  11. Hãy dạy trẻ em có tinh thần con thảo
  12. Hãy dạy trẻ sống ân cần
  13. Một bí quyết cần phải dạy cho trẻ em
  14. Bạn có cầu nguyện cho trẻ em của bạn không?
  15. Không để mất cơ hội
  16. Hãy dạy trẻ em tham dự Thánh Lễ

III. ĐỂ CHO THẾ GIỚI KHÔNG CÒN CÔ ĐƠN GIỮA ĐÁM ĐÔNG NGƯỜI

  1. Hãy cứu trẻ em khỏi những băng nhóm xấu
  2. Các nhóm bạn xấu: làm thế nào đây?
  3. Cơn khủng hoảng chống đối: làm thế nào đây?
  4. Hãy nói thật với trẻ em
  5. Hãy nói với trẻ em: “Không được phép làm điều đó”
  6. Hãy giáo dục trẻ em bằng cách sống với chúng
  7. Hãy dạy trẻ em sống khiêm nhường
  8. Hãy dạy trẻ em biết tha thứ
  9. Hãy dạy trẻ em biết cám ơn
  10. Hãy dạy trẻ em biết quan tâm tới người khác
  11. Hãy dạy trẻ em trở nên “người bên cạnh” đối với người khác
  12. Hãy dạy trẻ em biết hiểu người khác
  13. Một phần thưởng rất thú vị: lời khen
  14. Trẻ em ăn cắp: phải đối xử thế nào?
  15. Trẻ em nói dối
  16. LUẬT CỦA TIẾN BỘ VÀ LAO ĐỘNG
  17. Hãy huấn luyện trẻ em biết hy sinh
  18. Hãy dạy trẻ em chống lại tính ưu sầu
  19. Dùng giờ rảnh thế nào?
  20. Đừng ngăn cản trẻ em chơi
  21. Hãy làm cho trẻ em vâng lời bạn ngay cả trước máy truyền hình
  22. Dạy trẻ em biết đương đầu với những lúc khó khăn
  23. Dạy trẻ em tập những thói quen tốt
  24. Bốn thiếu niên ngỗ nghịch được chinh phục
  25. Sách báo, tạp chí: đọc hay không?
  26. Khi trẻ em đi làm
  27. Chú ý tới những cơn khủng hoảng ở trường học
  28. Chín bí quyết thành công ở trường học
  29. Hãy dạy trẻ em sống trong sạch

Vài nét Tiểu sử của Don Bosco

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *